Trụ hồng cầu là gì

XÉT NGHIỆM TẾ BÀO NƯỚC TIẾU

[Phương pháp thủ công]

[Urine cells test by manual method]

NGUYÊN LÝ

Bình thường nước tiểu chỉ có một số tế bào biểu mô và cặn theo biểu hiện sinh lý của cơ thể. Khi có dấu hiệu bệnh lý ở hệ tiết niệu sẽ có biểu hiện có nhiều tế bào hoặc tinh thể trong nước tiểu. Xét nghiệm tế bào trong nước tiểu theo phương pháp thủ công là xác định định tính các tế bào hoặc cặn, tinh thể có trong nước tiểu. Xét nghiệm này góp phần quan trọng trong công tác chẩn đoán, theo dõi và điều trị bệnh.

CHỈ ĐỊNH

Xét nghiệm cơ bản.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Không có chống chỉ định.

CHUẨN BỊ

Người thực hiện

01 Kỹ thuật viên hoặc Cử nhân kỹ thuật y có kiến thức chuyên khoa.

Phương tiện - Hóa chất

Dụng cụ

Kính hiển vi quang học;

Khay hạt đậu;

Lam kính khô sạch;

Pipette Pasteur;

Gạc hút;

Giá cắm ống nước tiểu.

Hóa chất

Không có.

Bệnh phẩm

Là mẫu nước tiểu được gửi đến phòng xét nghiệm từ bệnh phòng hoặc lấy trực tiếp tại nơi khám bệnh.

Bệnh phẩm phải đạt yêu cầu:

Phù hợp thông tin của giấy xét nghiệm và ống nghiệm.

Không có dị vật khác trong ống nghiệm.

Bệnh phẩm nước tiểu mới bài tiết thường trong và có mầu vàng nhạt do có sắc tố urobilin, để lắng một thời gian sẽ có mầu vẩn đục do tế bào thượng bì và chất nhầy muxin tạo nên, ngoài ra còn do một số cặn uric, urat, phosphat.,. hoặc do protein, do mủ, hoặc mầu đỏ do lẫn máu, mầu nâu do đái nhiều urobilin, mầu vàng xẫm khi có nhiều bilirubil.

Phiếu xét nghiệm

CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH

Để lắng 1−2 giờ kể từ khi nhận bệnh phẩm từ bệnh phòng. Trường hợp bệnh phẩm mới lấy, cần làm xét nghiệm ngay → đảo đều bệnh phẩm bằng Pipette paster →hút 5ml vào ống nghiệm sạch → ly tâm 2000 vòng/phút x 10 phút.

Đổ phần trên [thao tác đổ dứt khoát], hút một giọt cặn, nhỏ lên phiến kính [hoặc lắc kỹ phần cặn → đổ trực tiếp từ ống nghiệm vào lam kính và kéo dài miệng ống nghiệm tạo thành tiêu bản nước dịch] và di đều lên lam kính → chờ 1−2 phút cho bệnh phẩm ổn định → đặt lên kính hiển vi đọc bằng vật kính x10.

Kiểm tra tối thiểu 10 vi trường theo đường rích rắc để đánh giá trung cho cả cặn và tế bào.

NHẬN ĐỊNH KẾT QUẢ

1.Tế bào

Hồng cầu:

Ít: dưới 5 hc / vi trường

[+]: 5 - 10 hc/ vi trường

[++]: 10 - 20 hc /vi trường

[+++]: trên 20 hc /vi trường

Bạch cầu:

Ít: dưới 10 bc / vi trường [+]: 10 - 20 bc/ vi trường

[++]: trên 20 bc/ vi trường

[+++]: trên 50 bc/ vi trường

Tinh trùng: đánh giá định tính dựa trên mật độ tinh trùng có trong nước tiểu từ mức độ rải rác, [+] → [++++] và dày đặc.

Tế bào biểu mô niệu đạo: Tế bào to hình đa diện, nhân rõ.

Tế bào biểu mô bàng quang: Tế bào to hình vợt, nhân rõ.

Tế bào biểu mô thận: Tế bào to trung bình, hình bầu dục, nhân tròn rõ.

Trụ niệu:

Cấu tạo bởi chất nhày, tế bào của máu khi qua ống thận, đọng lại và mang khuôn của ống thận. Dựa vào thành phần cấu tạo người ta chia 2 loại trụ:

Trụ không có tế bào gồm

Trụ trong: Còn gọi là trụ thấu quang, hình dài, bờ nhẵn, trong suốt. nước tiểu bình thường thải ra 3000 trụ trong vòng 12 giờ, trụ này tăng khi lao động nặng, sốt, sau gây mê bằng ether; gặp nhiều có thể nghĩ do viêm thận.

Trụ sáp [trụ keo]: Ngắn và to hơn trụ trong, óng ánh do chiết quang nhiều, màu xám, thường có vết nứt; người ta cho rằng do nằm lâu trong ống thận nên bị khô và tạo thành trụ sáp.

Trụ xơ: Màu vàng nhạt, trông như có nhiều sợi ghép lại và kéo dài, thường gặp trong viêm thận cấp.

Trụ mỡ: Do bào tương tế bào thoái hóa, hoặc do mỡ trong máu bài tiết ra tạo thành; các hạt mỡ hiện rõ trên thân trụ, thường gặp trong thận nhiễm mỡ.

Trụ có tế bào

Thường gặp trong viêm cầu thận.

Trụ hạt: Giống như trụ trong nhưng trên mặt có những hạt to nhỏ bám lên, do các tế bào hoặc các hạt cholesterol của các tế bào thoái hóa tạo thành, thường gặp trong viêm thận cấp.

Trụ biểu mô: Còn gọi là trụ liên bào gồm những tế bào ở ống thận tạo thành.

Trụ mủ hay trụ bạch cầu: Do bạch cầu hạt thoái hóa tạo thành, thường đứt thành đoạn ngắn.

Trụ hồng cầu còn gọi là trụ máu: Do hồng cầu kết tụ, bờ trụ thường lởm chởm không đều.

Trụ vi khuẩn [ít gặp]: Do vi khuẩn tạo nên.

khi đọc bằng vật kính x 10, trụ được đánh giá như sau:

[−]: không có trụ

[+]: 1 trụ / 100 vi trường

[++]: 1 trụ / 1 vi trường

[+++]: 10 trụ / 1 vi trường

[++++]: 100 trụ / 1 vi trường

Cặn tinh thể

Đánh giá định tính dựa trên sự có mặt các loại cặn, tinh thể có trong bệnh phẩm, từ rải rác, [+] → [++++] và dày đặc, thường gặp các loại sau:

Sulfatcalci: hình kim dài, hoa thị, không màu.

Oxalatcalci: hình phong bì , bánh qui, kích thước 10 - 20 µm, hình củ lạc khoảng 50 µm, rất chiết quang.

Cacbonatcalci: hình cầu, tan trong acid.

Cặn phosphat: hình chữ nhật, lá dương xỉ, hình sao. kích thước 30 - 150 µm, không màu, chiết quang.

Aciduric: hình thoi, mũi giáo, hoa thị cánh nhọn, hình ngôi sao, màu vàng hay nâu đỏ.

Amoniurat: hình cầu gai, xương rồng, hình bó kim, kích thước 20 µm, màu vàng, chiết quang.

Phosphattricalci: hạt nhỏ, không có hình thù nhất định, tan trong acid.

Sunfadiazin: hình bó mạ, hình chổi.

Sunfathiazon: hình lục lăng.

Sunfa pyridin: hình lá đu đủ.

Cholesterol: là những bản mỏng, không màu trong suốt, chồng lên nhau.

Phosphatdicalci: hình tam giác, góc nhọn, chụm thành hình hoa thị. Có thể tham khảo, đối chiếu với các hình ảnh dưới đây để kết luận khi thực hiện xét nghiệm:

NHỮNG SAI SÓT VÀ XỬ TRÍ

Trong xét nghiệm này, ngoài các tiêu chí nhận định kết quả của các loại tế bào thì việc nhận định kết quả các loại cặn, tinh thể có mặt trên các vi trường quan sát cũng rất quan trọng. Vì vậy, kinh nghiệm của người làm kỹ thuật góp phần tích cực đến kết quả xét nghiệm. Các ảnh hưởng không tốt tới kết quả xét nghiệm được ghi nhận thường gặp ở các trường hợp:

Bệnh phẩm để quá lâu mới mang tới phòng xét nghiệm [>3 giờ] và khi đó thường có biểu hiện nhiễm khuẩn.

Sự trung thực của người lấy mẫu [có thể lẫn nước hoặc nguyên nước khi không muốn đi tiểu].

Kỹ năng, kinh nghiệm của nhân viên thực hiện xét nghiệm.

PGS.TS. Hà Hoàng Kiệm, BV 103

Chú thích: a trụ hyalin, b trụ hồng cầu, c trụ tế bào [chứa tb ống thận], d trụ hạt, e trụ sáp, f trụ mỡ.

              Trong thực hành lâm sàng, xét nghiệm cặn nước tiểu là một xét nghiệm thường quy. Trong xét nghiệm này trụ hình niệu là một dấu hiệu quan trọng giúp cho chẩn đoán. Nhưng rất nhiều bạn sinh viên còn hiểu mơ hồ về các loại trụ trong nước nước tiểu và ý nghĩa của nó. Vì vậy chúng tôi viết bài này hy vọng cung cấp được các thông tin cần thiết.

1. Trụ hình niệu là gì?

               Nó là một thể có hình trụ nhìn thấy khi soi tươi nước tiểu dưới kính hiển vi quang học. Có nhiều loại trụ tùy theo thành phần có trong thể hình trụ đó:

+ Trụ trong: hay còn gọi là trụ hyalin, là thể hình trụ trong như thạch, không có thành phần hữu hình gắn trong đó.

+ Trụ hạt: thể hình trụ thấy có nhiều chấm đen như hạt vừng bên trong trụ, đó là nhân hoặc mảnh nhân các tế bào ống thận thoái hóa.

+ Trụ mỡ: bên trong trụ thấy có nhiều giọt lipid.

+ Trụ bạch cầu: bên trong trụ thấy có nhiều bạch cầu đa nhân, có thể có cả bạch cầu đa nhân thoái hóa.

+ Trụ hồng cầu: bên trong trụ thấy có nhiều hồng cầu biến dạng, méo mó.

+ Trụ hạt màu nâu bẩn: là trụ hạt nhưng có màu nâu bẩn do hemoglobin trong hồng cầu bị phá hủy và các chất hoại tử từ ống thận gây ra.

2. Trụ hình thành như thế nào?

               Bình thường tế bào ở nhánh lên phần dày của quai Helle tiết ra một loại glucoprotein gọi là protein Tamm-Horsfall hay uromodulin. Protein Tamm-Horsfall có trọng lượng phân tử 68 kDa, được tiết ra khoảng 150mg/ngày và nó là thành phần chính trong protein có trong nước tiểu người bình thường. Khi thận [ống-kẽ thận hoặc cầu thận] bị viêm kích thích làm tế bào ống thận nhánh lên tăng tiết protein Tamm-Horsfall, khi nồng độ của nó tăng lên nhiều cùng với điều kiện pH nước tiểu thích hợp các phân tử protein Tamm-Horsfall chùng hợp thành các phân tử lớn rồi bị đông đặc và đúc khuân trong ống lượn xa hoặc ống góp đó là các thể hình trụ. Nếu lẫn trong dòng nước tiểu của ống thận có các thành phần hữu hình thì các thành phần này cũng bị bị đúc khuân cùng protein Tamm-Horsfall chẳng hạn hồng cầu lọt từ cầu thận xuống sẽ tạo thành trụ hồng cầu, bạch cầu do viêm ống-kẽ thận tạo thành trụ bạch cầu… nếu không có thành phần hữu hình thì là trụ trong [trụ hyalin]. Khi trụ bong khỏi thành ống thận và trôi xuống bể thận theo nước tiểu ra ngoài thì ta quan sát thấy trong nước tiểu.

3. Ý nghĩa lâm sàng của trụ hình niệu

+ Số lượng trụ nhiều hay ít trong nước tiểu không có giá trị chẩn đoán bệnh nặng hay nhẹ, vì khi rất nhiều trụ được hình thành gây bít tắc ống thận là lúc bệnh đang tiến triển, nhưng nó chưa bong khỏi ống thận thì nước tiểu rất ít trụ, nhưng khi bệnh lui tế bào ống thận hồi phục, trụ bong ra và trôi theo nước tiểu với số lượng nhiều lại là lúc bệnh nhẹ. Vì vậy số lượng trụ trong nước tiểu nhiều hay ít không có giá trị lâm sàng.

+ Loại trụ có ý nghĩa định hướng chẩn đoán nguyên nhân bệnh:

- Trụ trong [trụ hyalin] ít ý nghĩa, có thể phản ánh thận có vấn đề, cần kết hợp với triệu chứng lâm sàng.

- Trụ hạt thường gặp trong viêm cầu thận mạn, nhưng không đặc hiệu.

- Trụ bạch cầu thường gặp trong viêm thận-bể thận mạn, rất có giá trị vì chỉ có viêm ống-kẽ thận thì mới tăng bạch cầu đào thải trong ống thận, còn nếu chỉ nhiễm khuẩn bể thận thì bạch cầu không thể có trong trụ, vì trụ hình thành ở ống thận.

- Trụ hồng cầu rất có giá trị chẩn đoán bệnh lý là ở cầu thận, giá trị của trụ hồng cầu tương đương với soi nước tiểu thấy nhiều hồng cầu biến dạng, nói lên hồng cầu lọt ra nước tiểu là từ cầu thận không phải từ đường tiết niệu.

- Trụ hạt màu nâu bẩn thường gặp trong suy thận cấp do ống thận bị hoại tử, chất hoại tử và hemoglobin thoái hóa trộn vào trụ gây ra màu nâu bẩn.

- Trụ mỡ hay gặp trong hội chứng thận hư vì hội chứng thận hư cầu thận để lọt nhiều lipid chủ yếu là cholesterol.

+ Kích thước của trụ: nếu trên 2/3 số lượng trụ [bất kỳ loại trụ gì] có kích thước lớn [đường kính lớn hơn 2 lần đường kính của một bạch cầu đa nhân] thì rất có giá trị chẩn đoán đây là suy thận mạn mà không phải suy thận cấp, vì khi suy thận mạn những nephron còn chức năng sẽ tăng kích thước và tăng hoạt động chức năng để bù cho các nephron bị xơ hóa, làm ống thận to ra, khuân to thì sản phẩm đúc từ khuân đó sẽ to. Ngược lại khi suy thận cấp, tế bào ống thận bị hoại tử, phù nề làm lòng ống hẹp, trụ sẽ không thể to được và thường có màu nâu bẩn do lẫn các chất hoại tử của ống thận.

CHIA SẺ BÀI VIẾT

Video liên quan

Chủ Đề