Vì sao sự phát triển của các hình thái kinh tế -- xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên

Câu hỏi: Hình thái kinh tế – xã hội là gì? Vì sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên?

Đáp án:

1. Phạm trù Hình thái kinh tế – xã hội

Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, triết học Mác – Lênin đã nghiên cứu xã hội như một kết cấu vật chất đặc biệt, phức tạp, liên kết các yếu tố nội tại thành một hệ thống chỉnh thể và không ngừng vận động, phát triển. Đó chính là

Hình thái kinh tế – xã hội. Vậy, Hình thái kinh tế – xã hội là gì?

Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử  nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

Hình thái kinh tế – xã hội  là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, bao gồm: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.

Khi nghiên cứu một hình thái kinh tế – xã hội cụ thể, C.Mác bắt đầu từ việc đi sâu phân tích mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất [quan hệ sản xuất], xem nó là quan hệ cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội khác. Nó là “bộ xương” của xã hội, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt sự khác nhau giữa các hình thái kinh tế – xã hội.

Song, quan hệ sản xuất lại được hình thành một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà nó chỉ phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, lực lượng sản xuất [quan hệ giữa con người với tự nhiên] quyết định cả sự vận động và phát triển của hình thái kinh tế – xã hội

Trong hình thái kinh tế – xã hội còn có bộ phận thứ ba, đó là kiến trúc thượng tầng [các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, tôn giáo, nghệ thuật… cùng với những thể chế tương ứng] được xây dựng trên sự tổng hợp những quan hệ sản xuất [cơ sở hạ tầng] của xã hội ấy. Kiến trúc thượng tầng tuy do cơ sở hạ tầng quy định, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.

Ngoài ra, trong cấu trúc của hình thái kinh tế – xã hội còn có quan hệ gia đình, dân tộc và quan hệ giai cấp [trong xã hội có giai cấp] và các quan hệ xã hội khác… Các yếu tố ấy của hình thái kinh tế – xã hội tác động qua lại lẫn nhau theo những quy luật khách quan vốn có của nó. Trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thương tầng, quy luật đấu tranh giai cấp [trong xã hội có giai cấp] và các quy luật kinh tế – xã hội khác.

2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên

Với kết luận“Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên”[1]. C.Mác đã tìm thấy động lực phát triển của lịch sử không phải do một lực lượng siêu tự nhiên nào, mà chính là thông qua hoạt động của con người dưới sự tác động của các quy luật khách quan. Do đó, cần phải hiểu kết luận này từ hai khía cạnh khác nhau:

Thứ nhất, kết luận ấy của C.Mác là biểu hiện tập trung nhất của quan niệm duy vật về lịch sử và được xuất phát từ một sự thật hiển nhiên là: “Trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học v.v.”[2]. Từ sự thật hiển nhiên ấy, cho phép chúng ta khẳng định rằng, lịch sử phát triển của xã hội loài người thực chất là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất. Để thoả mãn nhu cầu trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, loài người phải tiến hành sản xuất ra của cải vật chất.

Sản xuất vật chất lại luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, sự phát triển đó bao giờ cũng bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động – cái mà con người thường xuyên sáng tạo, cải tiến và phát triển qua các trình độ khác nhau. Do đó, nó kéo theo sự biế đổi, thay thế lẫn nhau của các quan hệ sản xuất và hình thành các phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Phương thức sản xuất thay đổi kéo theo toàn bộ trật tự xã hội thay đổi, đó chính là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội. Theo quy luật phát triển, hình thái kinh tế – xã hội tiến bộ hơn, cao hơn sẽ ra đời thay thế hình thái kinh tế – xã hội cũ đã tỏ ra lỗi thời và lạc hậu. Như vậy, sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử là một quá trình phát triển từ thấp đến cao theo quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.

Thứ hai, động lực thúc đẩy các hình thái kinh tế – xã hội phát triển lại nằm ngay trong lòng xã hội. Đó chính là các mâu thuẫn xã hội, mà trước hết là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, mâu thuẫn giữa các giai cấp [trong xã hội có giai cấp]… Chính sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế – xã hội thay thế nhau là con đường phát triển chung của lịch sử xã hội loài người. Song, con đường phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc còn chịu sự chi phối của những điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hoá, về điều kiện quốc tế và thời đại v.v… Do đó, lịch sử phát triển của xã hội loài người là thông qua các hình thái kinh tế – xã hội từ thấp đến cao. Tuy nhiên, cũng có những quốc gia, dân tộc có thể bỏ qua một, vài hình thái kinh tế- xã hội nào đó. Việc bỏ qua ấy cũng phải được diễn ra theo một quá trình lịch sử – tự nhiên tuyệt đối không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của quốc gia, dân tộc ấy.

Như vậy, nếu chúng ta quy các quan hệ xã hội vào các quan hệ sản xuất, rồi đem quy các quan hệ sản xuất vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thì sẽ thấy được sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội như là một quá trình lịch sử – tự nhiên.

3. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế – xã hội

Với học thuyết hình thái kinh tế – xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tạo ra một cuộc cách mạng thật sự  trong triết học, đã “tống cổ chủ nghĩa duy tâm ra khỏi hầm trú ẩn cuối cùng của nó, đó là lĩnh vực xã hội” và đưa đến cho khoa học xã hội một phương pháp nghiên cứu thật sự khoa học. Cho đến nay học thuyết  ấy vẫn còn tràn đầy sức sống và vẫn giữ được những giá trị đích thực của nó:

Thứ nhất, chính học thuyết ấy đã khẳng định: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Do đó, khi nghiên cứu, giải thích các hiện tượng xã hội chúng ta không được xuất phát từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người mà phải xuất phát từ quá trình sản xuất của xã hội, từ phương thức sản xuất.

Thứ hai, học thuyết ấy cũng đã chỉ ra xã hội là một kết cấu vật chất đặc biệt, một cơ thể sống sinh động và hoàn chỉnh, bao gồm các mặt, các yếu tố, các mối quan hệ thống nhất với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các mối quan hệ xã hội khác, đồng thời nó còn là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử một cách khoa học nhất, đúng đắn nhất.

Thứ ba, học thuyết ấy còn chỉ ra: sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự  nhiên, nghĩa là nó diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan của con người. Vì vậy, muốn nhận thức và cải tạo xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động và phát triển của xã hội.

Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế – xã hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử đều do tác động của quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. Marx viết “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.

Các mặt cơ bản hợp thành một hình thái kinh tế – xã hội: lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tách rời nhau, mà liên hệ biện chứng với nhau hình thành nên những quy luật phổ biến của xã hội. Do tác động của quy luật khách quan đó, mà các hình thái kinh tế – xã hội vận động và phát triển thay thế nhau từ thấp lên cao trong lịch sử như một quá trình lịch sử tự nhiên không phụ thuộc và ý trí, nguyện vọng chủ quan của con người.

Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất, một mặt của phương thức sản xuất, là yếu tố bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển lên của xã hội qui định khuynh hướng phát triển từ thấp. Quan hệ sản xuất là mặt thứ hai của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử. Những quan hệ sản xuất lỗi thời được xoá bỏ và được thay thế bằng những kiểu quan hệ sản xuất mới cao hơn và hình thái kinh tế – xã hội mới cao hơn ra đời. Như vậy, sự xuất hiện, sự phát triển của hình thái kinh tế – xã hội, sự chuyển biến từ hình thái đó lên hình thái cao hơn được giải thích trước hết bằng sự tác động của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật đó là khuynh hướng tự tìm đường cho mình trong sự phát triển thay thế các hình thái kinh tế – xã hội. Nghiên cứu con đường tổng quát của sự phát triển lịch sử được quy định bởi quy luật chung của sự vận động của nền sản xuất vật chất chúng ta nhìn thấy logic của lịch sử thế giới.

Thực tế lịch sử loài người đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế xã hội, C.Mác đã vận dụng học thuyết đó vào phân tích xã hội tư bản, vạch rõ các quy luật vận động, phát triển của xã hội và đã đi đến dự báo sự ra đời cùa hình thái kinh tế xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Vạch ra con đường tổng quát của lịch sử, điều đó có nghĩa là giải thích được rõ ràng sự phát triển xã hội trong mỗi thời điểm của quá trình lịch sử. Lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, có hàng loạt những yếu tố làm cho quá trình lịch sử đa dạng và thường xuyên biến đổi, không thể xem xét quá trình lịch sử như một đường thẳng.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhân tố quyết định quá trình lịch sử, xét đến cùng là nền sản xuất đời sống thực hiện. Nhưng nhân tố kinh tế không phải là nhân tố duy nhất quyết định các nhân tố khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều có ảnh hưởng đến quá trình lịch sử. Nếu không tính đến sự tác động lẫn nhau của các nhân tố đó thì không thấy hàng loạt những sự ngẫu nhiên mà tính tất yếu kinh tế xuyên qua để tự vạch ra đường đi cho mình. Vì vậy để hiểu lịch sử cụ thể thì cần thiết phải tính đến tất cả các nhân tố bản chất có tham gia trong quá trình tác động lẫn nhau đó.
Có nhiều nguyên nhân làm cho quá trình chung của lịch sử thế giới có tính đa dạng, điều kiện của môi trường địa lý có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển xã hội. Đặc biệt ở buổi ban đầu của sự phát triển xã hội, thì điều kiện của môi trường địa lý là một trong những nguyên nhân quy định quá trình không đồng đều của lịch sử thế giới, có dân tộc đi lên, có dân tộc trí tuệ lạc hậu. Cũng không thể không tính đến sự tác động của những yếu tố như Nhà nước, tính độc đáo của nền văn hoá của truyền thống của hệ tư tưởng và tâm lý xã hội vv… đối với tiến trình lịch sử.

Điều quan trọng trong lịch sử là sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra dưới những hình thức rất khác nhau từ chiến tránh và cướp đoạt đến việc trao đổi hàng hoá và giao lưu văn hoá. Nó có thể được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, khao học – kỹ thuật đến hệ tư tưởng. Trong điều kiện của thời đại ngày nay, có những nước phát triển kỹ thuật rất nhanh chóng, nhờ nắm vững và sử dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật của các nước khác. Ảnh hưởng của ý thức đã có một ý nghĩa lớn lao trong lịch sử. Không thể hiểu được tính độc đáo của các riêng biệt nếu không tính đến sự phát triển không đồng đều của sự phát triển lịch sử thế giới một dân tộc này tiến lên phía trước, một số dân tộc khác lại ngừng trệ, một số nước do hàng loạt những nguyên nhân cụ thể lại bỏ qua một hình thái kinh tế- xã hội nào đó. Điều đó chứng tỏ là sự kế tục thay thế các hình thái kinh tế – xã hội không giống nhau ở tất cả các dân tộc.

Tuy nhiên, trong toàn bộ tính đa dạng của lịch sử của các dân tộc khác nhau thì trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể vẫn có khuynh hướng chủ đọ nhất định của sự phát triển xã hội. Để xác định đặc trưng của giai đoạn này hay giai đoạn khác của lịch sử thế giới phù hợp với khuynh hướng lịch sử chủ đạo đó là khái niệm thời đại lịch sử.


Các từ khóa trọng tâm hoặc các thuật ngữ liên quan đến bài viết trên:
  • 5 hinh thai cua xa hoi loai nguoi
  • nguyen nhan dan den su thay doi hinh thai kinh te
  • nguyên nhân quá trình phát triển của các hình thái kinh tế xã hội theo quan điểm duy vật
  • phân tích sự ra đời của các hình thái kinh tế xã hội
  • vì sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên
  • ,

    Video liên quan

    Chủ Đề