Tại sao các chỉ số GDP không phản ánh đúng sự phát triển của quốc gia

Vì sao GDP được hầu hết các quốc gia lựa chọn làm chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế?

08/10/2021 - 02:21 PM
Cỡ chữ

1. Tổng sản phẩm trong nước [GDP]

Tổng sản phẩm trong nước [Gross Domestic Product – GDP] là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp đánh giá kết quả hoạt động sản xuất trong phạm vi lãnh thổ kinh tế của một quốc gia. GDP là chỉ tiêu kinh tế quan trọng, được các nhà quản lý, các nhà kinh tế, nhà đầu tư cũng như các chuyên viên phân tích thị trường theo dõi rất chặt chẽ vì đó là chỉ tiêu phản ánh tổng giá trị của tất cả sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng được tạo ra của một nền kinh tế trong khoảng thời gian cụ thể. GDP được tính theo lãnh thổ kinh tế, biểu thị kết quả sản xuất do các đơn vị thường trú tạo ra trong lãnh thổ kinh tế của một quốc gia, được tính và công bố theo quý, 6 tháng, 9 tháng, năm và phân tổ theo nhiều căn cứ khác nhau.

Nội dung của GDP được xét dưới các góc độ khác nhau, từ đó đưa tới ba phương pháp để tính chỉ tiêu kinh tế tổng hợp này. Cụ thể:

Theo góc độ sử dụng cuối cùng, GDP là tổng cầu của nền kinh tế gồm tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư, tiêu dùng cuối cùng của Nhà nước, tích luỹ tài sản [tài sản cố định, tài sản lưu động và tài sản quý hiếm], chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ.

GDP

=

Tiêu dùng cuối cùng

+

Tích lũytài sản

+

Chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ

Theo góc độ thu nhập, GDP bằng tổng thu nhập tạo nên từ các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất như lao động, vốn, đất đai, máy móc. Theo đó, GDP gồm 4 yếu tố: thu nhập của người lao động từ sản xuất [bằng tiền và hiện vật quy ra tiền], thuế sản xuất [đã giảm trừ phần trợ cấp cho sản xuất], khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất và thặng dư sản xuất hoặc thu nhập hỗn hợp.

GDP

=

thu nhập của người lao động từ sản xuất

+

thuế sản xuất

+

khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất

+

thặng dư sản xuất hoặc thu nhập hỗn hợp

Theo góc độ sản xuất, GDP là tổng giá trị tăng thêm theo giá cơ bản của các ngành kinh tế và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm:

GDP

=

Tổng giá trị tăng thêm theo giá cơ bản
của tất cả các ngành

+

Thuế sản phẩm

-

Trợ cấp sản phẩm

Với nội hàm của chỉ tiêu GDP, các nhà hoạch định chính sách và ngân hàng nhà nước có thể đánh giá thực trạng nền kinh tế đang dư thừa hay thiếu hụt, liệu có cần thúc đẩy hay kiềm chế, có các mối đe dọa như suy thoái hoặc lạm phát tràn lan không, từ đó kịp thời thực hiện các biện pháp cần thiết cho nền kinh tế quốc dân. Các nhà đầu tư chú ý đến GDP vì một tỷ lệ phần trăm thay đổi đáng kể trong GDP - tăng hoặc giảm - có thể có tác động đáng kể đến thị trường nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Ngoài ra, có thể dựa vào diễn biến của GDP để phân tích tác động của các biến số như chính sách tiền tệ và tài khóa, thuế, chi tiêu của chính phủ, các cú sốc kinh tế,... đến nền kinh tế làm cơ sở đưa ra các quyết định quản lý hiệu quả.

Tóm lại, tầm quan trọng của chỉ tiêu GDP là không thể phủ nhận. Samuelson và Nordhaus [1948] đã dùng hình ảnh ví khả năng của GDP trong việc cung cấp một bức tranh tổng thể về tình trạng của nền kinh tế như là khả năng của một vệ tinh trong không gian có thể khảo sát thời tiết trên toàn bộ lục địa.

2. Tổng thu nhập quốc gia [GNI]

Tiếp cận theo hướng thu nhập thực tế, chỉ tiêu tổng thu nhập quốc gia [Gross National Income - GNI] phản ánh kết quả thu nhập lần đầu được tạo ra từ các yếu tố sở hữu của một quốc gia tham gia vào hoạt động sản xuất trên lãnh thổ quốc gia đó hay ở nước ngoài trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Nói cách khác, GNI là tổng thu nhập người lao động và chủ thế kinh tế NDH1[1]của quốc gia đó nhận được bất kể họ ở trong nước hay nước ngoài trừ đi phần thu nhập người lao động và thương nhân nước ngoài hoạt động tại quốc gia đó. Chỉ tiêu này được sử dụng bổ sung cho GDP để đo lường và theo dõi sự giàu có của một nền kinh tế, một quốc gia theo thời gian.

Tổng thu nhập quốc gia là chỉ tiêu cân đối của tài khoản phân phối thu nhập lần đầu. Do vậy, để tính chỉ tiêu này cần phải lập các tài khoản sản xuất và tài khoản hình thành thu nhập hoặc phải xuất phát từ chỉ tiêu GDP và các chỉ tiêu có liên quan. Công thức tính như sau:

GNI

=

GDP

-

Thuế[trừ trợcấp]sản xuất và nhậpkhẩu của đơn vị khôngthường trú [2]

+

Chênh lệch giữa thunhậpcủangười lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về và thu nhập của người nước ngoài ở Việt Nam gửi ra

+

Chênh lệch giữa thunhập sởhữunhậnđược từ nước ngoài với thu nhập sở hữu trả cho nước ngoàiNDH3 [3]

Đối với nhiều quốc gia, chỉ có sự khác biệt nhỏ giữa GDP và GNI, nghĩa là thu nhập sở hữu thuần không đáng kể, không có hoặc có ít sự chênh lệch giữa thu nhập người lao động nhận được và các khoản thanh toán của quốc gia đó cho nước ngoài. Ngược lại, GNI có xu hướng cao hơn GDP khi quốc gia nhận được nhiều thu nhập sở hữu từ đầu tư và thu nhập người lao động làm việc ở nước ngoài. Trong trường hợp nước ngoài có quyền kiểm soát lớn đối với sản lượng quốc gia và thu nhập sở hữu nhận được không đáng kể, GNI sẽ thấp hơn GDP.

Như vậy, điểm mạnh của GNI là thước đo kinh tế ghi nhận tất cả khoản thuần thu nhập đi vào nền kinh tế quốc dân, không tính đến phạm vi lãnh thổ kinh tế của thu nhập đó. Nói cách khác, đó là thuần thu nhập thực tế từ sản xuất và sở hữu tài sản của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định [thường là 1 năm]. Do đó, đây cũng là một chỉ tiêu hữu ích hỗ trợ các nhà nghiên cứu, hoạch định xây dựng được bức tranh toàn cảnh hơn về hoạt động kinh tế.

3. Vai trò của GDP và GNI trong đánh giá tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia
Hai chỉ tiêu kinh tế tổng hợp là Tổng sản phẩm trong nước [GDP] và Tổng thu nhập quốc gia [GNI] đều có vai trò quan trọng trong đánh giá hoạt động của một nền kinh tế hay một quốc gia. Tuy nhiên, nội hàm và cách tiếp cận của GDP và GNI không giống nhau, dẫn đến vai trò của từng chỉ tiêu trong đánh giá tăng trưởng kinh tế cũng khác nhau. Bảng 1 nêu rõ sự khác biệt cơ bản giữa hai chỉ tiêu này.
Bảng 1. So sánh giữa Tổng sản phẩm trong nước và Tổng thu nhập quốc gia

Chỉ tiêu
Đặc điểm

Tổng sản phẩm trong nước [GDP]

Tổng thu nhập quốc gia
[GNI]

Cách tiếp cận

Giá trị tăng thêm từ sản xuất trong nước

Thu nhập từ sản xuất và sở hữu tài sản

Nội dung phản ánh

Kết quả hoạt động sản xuất

Kết quả phân phối thu nhập lần đầu

Phạm vi tính

Trong lãnh thổ kinh tế,
không quan tâm quyền sở hữu

Trong và ngoài lãnh thổ kinh tế,
thuộc quyền sở hữu của quốc gia

Công thức tính

03 phương pháp theo các cách tiếp cận sản xuất, phân phối thu nhập và sử dụng cuối cùng

GDP + chênh lệch thu chi thu nhập sở hữu và thu nhập người lao động với nước ngoài

Kỳ đánh giá

3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng

12 tháng

Phân tổ

Theo ngành kinh tế, loại hình kinh tế, mục đích sử dụng, tỉnh/thành phố

Theo khu vực thể chế [hiện nay Việt Nam chưa thực hiện]

Tác dụng

Phản ánh quy mô nền kinh tế, sức mạnh kinh tế của quốc gia

Phản ánh sự giàu có, tiềm lực kinh tế của công dân quốc gia

Như vậy, GDP và GNI là hai thước đo hoạt động kinh tế với đối tượng đo lường không giống nhau. Nếu như GDP đánh giá khả năng sản xuất của một nền kinh tế hay tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia, đo lường quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thì GNI là thu nhập thực tế do người lao động và các chủ thể kinh tế thuộc sở hữu quốc gia tạo ra và nhận được, không phân biệt vị trí của họ là ở trong hay ngoài nước. Từ đó, vai trò của từng chỉ tiêu trong đánh giá tăng trưởng kinh tế cũng khác nhau. GDP giúp chúng ta thấy được quy mô, sức khỏe nền kinh tế của một quốc gia trong khi GNI thể hiện tiềm lực kinh tế của quốc gia đó.

4. Vấn đề lựa chọn chỉ tiêu GDP để đánh giá tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô sản xuất mà một nền kinh tế tạo ra theo thời gian. Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra được định hướng, chính sách phát triển trong giai đoạn kế tiếp. Như phân tích ở trên, do GDP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, được sử dụng như một chỉ báo về sức khỏe chung của nền kinh tế, chỉ tiêu này được hầu hết quốc gia trên thế giới sử dụng trong đánh giá tăng trưởng kinh tế. Sở dĩ như vậy là do:

Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế dựa vào chỉ tiêu GDP giúp các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và phân tích thị trường đưa ra quyết định phù hợp với thực trạng nền kinh tế. GDP tăng là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang hoạt động tốt, các doanh nghiệp tự tin đầu tư nhiều hơn. Đây là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Ngược lại, khi tăng trưởng GDP rất thấp hoặc nền kinh tế đi vào suy thoái, điều ngược lại sẽ xảy ra: người lao động có thể bị thôi việc, trả lương thấp hơn và các doanh nghiệp không có ý định muốn đầu tư mở rộng thêm.

Thứ hai, việc sử dụng GDP trong đo lường tăng trưởng kinh tế rất hữu ích cho các ngân hàng trung ương khi xác định các chỉ tiêu nợ công, nợ chính phủ, bội chi ngân sách... so với GDP, từ đó có những điều chỉnh phù hợp chính sách tài khóa và tiền tệ. Đó còn là cơ sở để tính các chỉ tiêu cân đối khác trong nền kinh tế như tổng tích lũy tài sản trong GDP, tiêu dùng cuối cùng trong GDP, tổng vốn đầu tư xã hội so với GDP, tỷ lệ xuất nhập khẩu so với GDP,... Nhờ việc tiếp cận từ hoạt động sản xuất và đo lường kết quả sản xuất của nền kinh tế, GDP được sử dụng trong tính toán các cân đối lớn của nền kinh tế, phản ánh rõ ràng đặc điểm, tính chất tăng trưởng của một quốc gia.

Thứ ba, cách tính và tiếp cận GDP cho phép họ đánh giá cơ cấu cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và nhóm ngành kinh tế. GDP được tính và phân tổ theo ngành kinh tế, theo khu vực kinh tế và theo tỉnh/thành phố [GRDP] trong khi GNI do tính thêm phần thu nhập sở hữu thuần, không thể thực hiện phân tổ theo ngành kinh tế và theo tỉnh, thành phố mà chỉ phân tổ theo khu vực thể chế. Để trở thành cơ sở lập kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế quốc gia, chỉ tiêu GDP giúp phản ánh rõ ràng hơn thực trạng sản xuất của nền kinh tế, của từng ngành kinh tế, từ đó các Chính phủ sẽ có định hướng tập trung phát triển khu vực kinh tế, vùng kinh tế quan tâm. Hơn nữa, do chỉ phụ thuộc vào các hoạt động sản xuất trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia, các Chính phủ dễ dàng và thuận lợi hơn trong thu thập dữ liệu công bố chỉ tiêu GDP theo một số kỳ nhất định trong năm. Trong khi đó, để xác định được GNI cần phải thu thập số liệu của thương nhân và người lao động ở nước ngoài cũng như bóc tách thu nhập của thương nhân và người lao động nước ngoài làm việc tại quốc gia – việc làm đòi hỏi nhiều thời gian và công sức.

Như vậy, tuy còn một số hạn chế nhất định trong nội dung phản ánh, GDP vẫn là chỉ tiêu quan trọng mà các Chính phủ lựa chọn để đánh giá và so sánh tăng trưởng của các quốc gia trên thế giới. Từ đó, các quốc gia sẽ có các chính sách phát triển kinh tế phù hợp, các doanh nghiệp cũng có cơ sở để ra quyết định đầu tư, mở rộng hoặc thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh.

TS. Nguyễn Minh Thu
Khoa Thống kê, Đại học Kinh tế quốc dân

__________________________________

[1]Thu nhập tạo ra trong nền kinh tế ko chỉ có khối dn mà còn cả các đơn vị sự nghiệp, hộ cá thể, htx, cqhc… gọi chung là chủ thể kinh tế

[2]Đơn vị không thường trú là đơn vị không có trụ sở, không có địa điểm sản xuất hoặc nhà cửa trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia, không tiến hành các hoạt động sản xuất và giao dịch kinh tế với thời gian lâu dài [thường trên một năm].

[3]Công thức theo SNA 2008 [2.143]. Công thức trên theo Sách của VN bị thiếu phần Thuế


Về trang trước Gửi email In trang

GDP được sử dụng để phản ánh quy mô và sự phát triển của nền kinh tế

Thủ tướng Chính phủ vừa có văn bản trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội về việc có cần bổ sung thêm chỉ tiêu đánh giá, đặc biệt là chỉ tiêu GNI “tổng thu nhập quốc dân” ngoài 12 chỉ tiêu kinh tế - xã hội hiện hành không.

Ảnh minh họa

Trước đó, đại biểu Quốc hội Hoàng Quang Hàm, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Thọ có chất vấn: Nhiều ý kiến cho rằng GDP phản ánh được kích cỡ, quy mô của nền kinh tế nhưng không phản ánh được tính hài hòa của sự phát triển, không phản ánh hết những hiệu ứng tiêu cực của tăng trưởng, không chuẩn xác trong đánh giá mức sống, không phản ánh được sự phân chia lợi ích trong phạm vi đất nước... Đặc biệt ở Việt Nam kim ngạch xuất nhập khẩu gấp khoảng 2 lần GDP nhưng người hưởng lợi đa số là doanh nghiệp FDI vì chiếm khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu. Nên GDP phản ánh không sát thực lực nền kinh tế và thu nhập của người dân. Việc đánh giá kết quả và hoạch định chính sách rất cần đầy đủ thông tin nên nhiều ý kiến đề nghị bổ sung thêm các chỉ tiêu đánh giá, đặc biệt là chỉ tiêu GNI “tổng thu nhập quốc dân”.

Về nội dung trên, Thủ tướng Chính phủ cho rằng: Tổng thu nhập quốc gia [GNI] là chỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập của quốc gia từ kết quả sản xuất trong lãnh thổ kinh tế và thu nhập từ các yếu tố sản xuất. Đây là chỉ tiêu kết quả của quá trình phân phối thu nhập lần đầu giữa các đơn vị thường trú và không thường trú của quốc gia.

GNI được đo lường bằng GDP trừ đi tổng thu nhập lần đầu phải trả, cộng với tổng thu nhập lần đầu nhận được. Nói cách khác GNI bằng GDP trừ đi thu nhập của người lao động nước ngoài làm việc ở Việt Nam trên 1 năm, cộng với thu nhập của người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài trên 1 năm, trừ đi thu nhập từ các yếu tố sản xuất phải trả cho các đơn vị không thường trú, cộng với thu nhập từ các yếu tố sản xuất nhận được từ các đơn vị không thường trú.

Thu nhập từ các yếu tố sản xuất [còn gọi là thu nhập sở hữu] là thu nhập từ lợi tức giữa đơn vị thể chế trong nước và nước ngoài do cung cấp tài sản tài chính và tài sản hữu hình không do sản xuất ra. Thu nhập sở hữu được phân thành hai nhóm: Thu nhập từ đầu tư và thu nhập từ cho thuê tài sản. Thu nhập từ đầu tư bao gồm lãi tiền gửi, cổ tức, lợi nhuận, lợi tức thu nhập tái đầu tư của đầu tư trực tiếp nước ngoài… Thu nhập từ cho thuê tài sản bao gồm tiền thuê tài nguyên, đất đai, vùng trời, vùng biển, vùng phủ sóng…

Xét về phạm vi, chỉ tiêu GDP và chỉ tiêu GNI không hoàn toàn giống nhau. Sự khác biệt giữa GNI và GDP là chênh lệch giữa thu nhập sở hữu nhận được và thu nhập sở hữu phải trả giữa đơn vị thể chế thường trú và không thường trú. Bản chất của sự khác biệt giữa GDP và GNI là chỉ tiêu GDP đánh giá sản lượng cuối cùng [hoặc thu nhập từ sản xuất] được tạo ra trong nền kinh tế, còn chỉ tiêu GNI đánh giá tổng thu nhập lần đầu nhận được của toàn bộ nền kinh tế.

Chênh lệch giữa GNI với GDP của Việt Nam thường thấp hơn 10%, và có xu hướng tăng dần trong những năm gần đây, do đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng lớn. Tính đến năm 2018, cơ cấu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 20,28% GDP. Việt Nam ngày càng thu hút được lực lượng lao động nước ngoài với chất lượng cao, trong khi lao động của Việt Nam ra nước ngoài vẫn chủ yếu lao động phổ thông. Do đó, chênh lệch về chi trả cho lao động nước ngoài và thu nhập sở hữu của Việt Nam ngày càng lớn, nếu năm 2005 chỉ là 1,84% GDP, thì đến năm 2010 là 3,8% GDP và sơ bộ năm 2018 là 7% GDP.

Tổng sản phẩm trong nước là chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng giúp Đảng, Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương đánh giá tình hình xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đề ra giải pháp nâng cao đời sống nhân dân. GDP được hầu hết các quốc gia sử dụng để phản ánh quy mô và sự phát triển của nền kinh tế.

Tổng sản phẩm trong nước được sử dụng làm căn cứ để tính toán các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác như: Tổng thu nhập quốc gia; Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người; Tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước; Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư [Hệ số ICOR]; Tỷ lệ thu ngân sách nhà nước so với GDP; Tỷ lệ thuế trừ trợ cấp sản phẩm so với GDP; Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước so với GDP; Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP; Tỷ lệ dư nợ công so với GDP…

GNI được tính hàng năm và có độ trễ vì phải thu thập thông tin về thu nhập sở hữu, không sử dụng trong đánh giá tình hình, đề ra các giải pháp điều hành kinh tế hàng quý. GNI chỉ được tính toán theo phạm vi toàn nền kinh tế, không phân tổ được theo khu vực kinh tế và ngành kinh tế. Do đó, không cần bổ sung GNI vào các chỉ tiêu kinh tế - xã hội hiện hành để trình Quốc hội thông qua hàng năm./.

TTCT - Chỉ số GDP đang ngày càng bộc lộ nhiều khiếm khuyết khi không phản ảnh được thành công kinh tế và sự thịnh vượng của một quốc gia. Cái gì là tốt hơn và đang được thúc đẩy để thay thế GDP?

Theo đuổi sự tăng trưởng GDP nhanh hơn, nhiều hơn liên tục có thể gây ra nhiều hệ lụy cho nền kinh tế và phúc lợi thật sự cho người dân -hedgeye.com

Tại Diễn đàn kinh tế thế giới [WEF] ở Davos tháng 1-2016, Joseph Stiglitz, chủ nhân Nobel kinh tế năm 2001, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tìm một thước đo mới nhằm đánh giá thành tựu của các quốc gia bởi “các chỉ số cho ta biết cần phải làm gì và nếu chúng ta đo không đúng chỗ, chúng ta sẽ hành động sai”.

Một bài viết trên trang web của WEF ngày 17-4 đã ví GDP [gross domestic product, tổng sản phẩm nội địa] như chiếc đồng hồ tốc độ của xe hơi. Nhìn vào đó, ta biết nền kinh tế một quốc gia đang tăng trưởng nhanh hay chậm, đúng như chức năng của chiếc côngtơmet.

Nhưng cũng như đồng hồ tốc độ không cho ta biết liệu xe có sắp hết xăng hay động cơ có đang quá nóng hay không, GDP không cho ta thấy những vấn đề tồn tại của nền kinh tế. Quan trọng hơn, chiếc côngtơmet không hề cho thấy ta có đang đi đúng hướng không.

“Hãy tưởng tượng bạn nói với tài xế: này chúng ta đi sai đường rồi và anh ta đáp lại: vậy chúng ta phải đi nhanh hơn. Nghe có vẻ ngu ngốc nhưng với GDP, chuyện cũng y như vậy” - tác giả bình luận. Khi tăng trưởng GDP chậm lại, các chính phủ trên thế giới ngay lập tức nghĩ tới việc đẩy cho nó tăng cao hơn, thay vì tìm hiểu xem có vấn đề gì với nền kinh tế và liệu họ có đang đi sai đường.

Thước đo đã cũ

Trong số cuối tháng 4-2016, báo The Economist lý giải chi tiết hơn vì sao GDP ngày càng là “một công cụ tồi để đo sự thịnh vượng” và thậm chí cho rằng chỉ số này “không còn là thước đo tin cậy của nền sản xuất”.

Bản chất của việc tính GDP là cộng dồn tất cả những thứ được sản xuất ra của một nền kinh tế trong một thời điểm nhất định. Thuở sơ khai, khi các nền kinh tế phần lớn chỉ bao gồm các nông trại, dây chuyền sản xuất và thị trường đại chúng, việc tính toán như thế đã là rất khó khăn.

Đo lường GDP trong thời hiện đại càng khó hơn bởi ngành dịch vụ, chứ không phải sản xuất, đang chiếm lĩnh nền kinh tế và người ta không còn chú trọng vào việc tạo ra nhiều sản phẩm hơn, thay vào đó là mang đến trải nghiệm tốt hơn cho người dùng.

Nhưng vấn đề không chỉ ở khó khăn trong việc tính toán. Theo The Economist, GDP có thể trở thành chỉ dấu sai lệch cho các nhà hoạch định chính sách bởi nó không đo lường hết bản chất của nền kinh tế hiện đại, vốn đã thay đổi rất nhiều nhờ vào những tiến bộ của công nghệ. GDP là khái niệm từ những năm 1930 và đã thật sự lỗi thời ngày nay.

Trong nền kinh tế hiện đại, người ta không còn nghỉ ở khách sạn mỗi chuyến du lịch, công tác, mà ở nhà riêng được chia sẻ qua dịch vụ Airbnb, không còn đi taxi hay xe cá nhân mà dùng Uber và không mua máy tính mới mà chỉ cần nâng cấp hệ điều hành. Phải tính toán lại tất cả những điều đó như thế nào?

Theo thông lệ, những gì không có giá trị thì không được tính vào GDP. Vậy các giá trị do Facebook và YouTube sẽ được đo thế nào khi các nền tảng kỹ thuật số này mang đến những tiện ích, giải trí cho hàng tỉ người mà người dùng không phải trả tiền [đúng là họ vẫn mang lại giá trị cho Facebook qua các hợp đồng quảng cáo, nhưng làm sao để đo đếm sự chuyển đổi giá trị đó]?

Nhạc số là một ví dụ khác. Dù lượng người nghe nhiều hơn trước gấp bội, doanh thu của ngành công nghiệp âm nhạc đã giảm 1/3 so với thời đỉnh cao, nhưng điều đó có đồng nghĩa với việc giá trị của ngành đã giảm 1/3? Chúng ta đang làm mọi thứ trên Internet từ đọc báo đến mua vé máy bay, tất cả hoạt động này đều “vô hình” với cách tính GDP truyền thống.

Thương mại điện tử bùng nổ, giá trị giao dịch cực lớn nhưng cũng không làm tăng GDP, trái lại còn sụt giảm vì doanh thu của các cửa hàng “off-line” giảm sút.

The Economist còn cho rằng ngay cả chỉ xét riêng vai trò là chỉ số đo lường giá trị sản xuất, GDP giờ cũng đã là một “di tích lịch sử” bởi nó ra đời trong thời kỳ mà ngành sản xuất vật chất và công nghiệp chiếm ưu thế áp đảo ở các nền kinh tế lớn.

Những năm 1950, ngành chế tạo chiếm hơn 1/3 GDP của Anh. Tỉ trọng này ngày nay chỉ là 1/10 và ở một số nước, dịch vụ chiếm đến 80% quy mô nền kinh tế. GDP gần như bó tay trong việc xác định giá trị của các dịch vụ vô hình.

Làm thế nào để tính giá trị một bữa ăn khi có quá nhiều yếu tố cần xét đến: tài nghệ đầu bếp, không gian nhà hàng, tốc độ phục vụ...? Tương tự, ta dễ dàng thống kê có bao nhiêu ca mổ được thực hiện, nhưng phải mất hàng chục năm mới biết được giá trị của chúng thông qua tuổi thọ của người được mổ.

Mặt khác, theo thông lệ, GDP chỉ tính đến các sản phẩm được mua và bán, tức có yếu tố chi trả. Vì thế các sản phẩm không trải qua quá trình bán - mua sẽ không được xét đến ngay cả khi chúng cũng có giá trị rất cao, dẫn đến sự phản ánh không đầy đủ về nền kinh tế.

Ví dụ nếu ta thuê hàng xóm sang sửa giúp mái nhà, ta đã góp phần làm tăng GDP của đất nước. Nhưng nếu ta tự mình làm lấy việc này thì chẳng có đóng góp nào cả.

GDP cao có đồng nghĩa thịnh vượng?

Khái niệm GDP hiện đại xuất phát từ các nghiên cứu nhằm ước lượng quy mô nền kinh tế Mỹ được Simon Kuznets, nhà kinh tế học người Mỹ gốc Nga, thực hiện theo yêu cầu của Quốc hội Mỹ năm 1932.

Tuy vậy, theo trang Quartz, chính Kuznets đã thừa nhận “sự thịnh vượng của một quốc gia hoàn toàn không thể suy ra từ tổng thu nhập của quốc gia đó”. Tại Davos 2016, Erik Brynjolfsson, giáo sư Học viện Công nghệ Massachusetts [MIT], nhắc lại quan điểm đó và giải thích thêm: “GDP đo những thứ chúng ta mua - bán và hoàn toàn có khả năng GDP sẽ đi ngược với sự thịnh vượng”.

Brynjolfsson cho rằng khái niệm kinh doanh ngày nay khác hẳn với thời trước, vì thế “cần phải định nghĩa lại cách chúng ta đo lường nền kinh tế”. Còn Diane Coyle, tác giả chuyên nghiên cứu về GDP, cho rằng dù dùng cho mục đích gì đi nữa, GDP vẫn là một phương tiện để đo lường sản xuất chứ không phải sự thịnh vượng.

Điều này không phải khó lý giải vì khái niệm GDP ra đời trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, vực dậy sản xuất là mục tiêu hàng đầu và người ta ít chú ý đến các vấn đề như ô nhiễm môi trường hay nâng cao chất lượng cuộc sống. Các nhà môi trường vì thế cũng quan ngại vì với GDP, của cải xã hội có được từ tàn phá môi trường, tận diệt thiên nhiên vẫn được tính như thường.

Như vậy GDP không chỉ không hoàn thành nhiệm vụ như một chỉ số kinh tế vĩ mô, mà còn không phản ánh được sự thịnh vượng của một quốc gia như người ta vẫn nghĩ. Nhưng câu hỏi đặt ra là nếu có thể thì sẽ thay thế nó bằng công cụ nào để đo được quy mô sản xuất lẫn sự thịnh vượng của xã hội?

Hãy đo hạnh phúc

Nhiều năm qua, giới kinh tế gia và các nhà làm chính sách đã liên tục tìm kiếm những thước đo mới khả dĩ thay thế GDP và “chỉ số hạnh phúc” nổi lên như một ứng viên tiềm năng.

Hồi tháng 3-2016, Liên Hiệp Quốc công bố Báo cáo hạnh phúc thế giới lần 4, xếp hạng 156 quốc gia dựa trên phản hồi của công dân về mức độ hài lòng với chất lượng cuộc sống [Việt Nam đứng hạng 96].

Báo cáo này đưa ra nhiều phát hiện lý thú: dân Bắc Âu hạnh phúc nhất; người Ấn Độ, dù chứng kiến GDP tăng trưởng liên tục, có chỉ số hạnh phúc giảm sâu so với năm 2006; “nhà giàu” Qatar lại kém hạnh phúc hơn “nhà nghèo” Costa Rica... Với nhiều nhà kinh tế và hoạch định chính sách, những phát hiện này không chỉ là để “đọc cho vui”. Chúng thật sự cho thấy những lỗ hổng trong việc đo lường thành công kinh tế thông qua GDP.

Báo cáo này cũng liệt kê các yếu tố định lượng được ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc của người dân thế giới. Theo đó, 75% sự khác biệt về hạnh phúc giữa các nước có thể quy vào những yếu tố thu nhập bình quân đầu người, số năm sống khỏe mạnh, lòng tin vào chính phủ lẫn doanh nghiệp và mức độ tự do khi đưa ra quyết định trong đời.

Richard Easterlin, nhà kinh tế học thuộc Đại học Nam California và là người tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu phúc lợi, cho rằng các chính sách nên được hoạch định với chỉ số hạnh phúc là mục tiêu thay vì GDP.

“Câu sáo ngữ “Tiền không phải là tất cả” đúng trong trường hợp này. Nếu hạnh phúc thay thế GDP trở thành chỉ số chính trong việc đo lường phúc lợi xã hội, các chính sách công có lẽ sẽ thay đổi theo hướng trở nên ý nghĩa hơn với đời sống con người” - Quartz dẫn một bài viết chưa công bố của Easterlin.

Nếu chỉ số hạnh phúc là thước đo mới để nhìn vào một quốc gia, khó thể không nhắc đến Bhutan. Từ năm 1972, vương quốc này đã sử dụng chỉ số “tổng hạnh phúc quốc gia” [Gross National Happiness] để định hình các mục tiêu phát triển, chứ không dựa trên sự tăng trưởng của cải vật chất. Kể từ đó, đặc biệt trong một thập niên qua, hàng chục quốc gia khác cũng đã xây dựng hệ thống chỉ số hạnh phúc riêng.

Tuy nhiên dù có nhiều ưu điểm, con đường để “chỉ số hạnh phúc” thay thế GDP vẫn còn nhiều khúc khuỷu. Hạnh phúc tất nhiên là mơ hồ hơn, trong khi với GDP mọi thứ rõ ràng hơn qua các con số thống kê.

Coyle nói với Quartz rằng bà không tin chỉ số hạnh phúc có thể hữu ích trong việc hoạch định chính sách. Coyle thừa nhận GDP không hoàn hảo nhưng nó nên được thay bằng một chỉ số khác, giải quyết các vấn đề như bất bình đẳng hay hủy hoại môi trường chứ không phải chỉ số hạnh phúc.

Giải pháp để giảm thiểu tính chủ quan, theo Carol Graham - một học giả chuyên cố vấn cho các chính phủ trong việc xây dựng những công cụ đo lường hạnh phúc thuộc Viện Brookings [Mỹ], là cần vận dụng tâm lý học trong việc đặt câu hỏi khảo sát. Ví dụ những người cực nghèo sẽ trả lời các câu hỏi về hạnh phúc của họ với độ lạc quan cao.

“Họ sẽ nhấn mạnh tôi còn sống, tôi có gia đình và bè bạn, thế là tôi hạnh phúc. Nếu chỉ nhìn vào đó, ta sẽ bỏ lỡ sự khốn cùng trong cuộc sống của họ” - Graham giải thích. Chuyên gia này cho rằng các câu hỏi về khó khăn vật chất và cơ hội trong đời sống cần được đặt theo dạng yêu cầu người được hỏi trả lời theo thang mức độ, từ tệ nhất đến tốt nhất. Đây cũng là cách mà Liên Hiệp Quốc đã làm trong khảo sát của họ.

Tuy nhiên, Graham cũng như nhiều người ủng hộ đo lường hạnh phúc, không đồng tình với việc xóa bỏ hoàn toàn GDP. Graham cho rằng “hạnh phúc” chỉ nên xem như phần bổ sung vào một “bức tranh” được tạo nên bởi nhiều chỉ số đo lường khác nhau. “Các tiêu chí dựa trên thu nhập truyền thống cho ta biết điều này và chỉ số hạnh phúc lại cho ta biết nhiều điều khác. Là một nhà hoạch định chính sách, bạn cần cân bằng chúng” - bà Graham nói với Quartz.■

Quỹ kinh tế học mới [New Economics Foundation], một tổ chức về kinh tế học uy tín ở Anh, cũng đề xuất năm thước đo cho sự phát triển của một quốc gia: việc làm tốt [không chỉ có việc làm mà lương phải đủ sống]; phúc lợi [mức độ hài lòng về cuộc sống, thu nhập, nhà cửa, quan hệ xã hội]; môi trường [khí thải carbon, ảnh hưởng biến đổi khí hậu]; sự bình đẳng [về thu nhập] và sức khỏe [phòng bệnh hơn chữa bệnh].

Đánh giá lại GDP phản ánh sát thực hơn nền kinh tế

[ĐCSVN] – Đó chính là khẳng định được nêu ra tại họp báo công bố số liệu đánh giá lại quy mô GDP giai đoạn 2010-2017. Họp báo do Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức, ngày 13/12, tại Hà Nội.

Tại họp báo, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm cũng khẳng định: Tổng sản phẩm trong nước [GDP] là chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng, bên cạnh việc phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh quy mô và tốc độ phát triển của nền kinh tế, GDP còn dùng để biên soạn các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác có liên quan, phản ánh chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế và tính toán các chỉ tiêu đòn bẩy như tỷ lệ huy động thuế vào ngân sách so với GDP, bội chi ngân sách so với GDP... Những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô này giúp Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đề ra các chính sách, giải pháp phát triển đất nước. Vì vậy, Tổng cục Thống kê có trách nhiệm phải rà soát, đánh giá lại theo phương pháp và thông lệ quốc tế nhằm phản ánh sát thực hơn quy mô GDP của nền kinh tế.

Họp báo diễn ra tại trụ sở Tổng cục Thống kê, Hà Nội [Ảnh: HNV].

Đánh giá lại quy mô GDP là việc làm định kỳ, theo thông lệ quốc tế

Trong quá trình biên soạn chỉ tiêu GDP ở bất cứ quốc gia nào luôn có những vấn đề phát sinh cần phải rà soát, đánh giá lại cả trong ngắn hạn và trong dài hạn. Cơ quan Thống kê Liên hợp quốc đưa ra ba vòng đánh giá lại số liệu GDP nhằm xử lý những bất cập nảy sinh trong quá trình biên soạn số liệu. Ba vòng đánh giá lại được thực hiện một phần hay toàn bộ phụ thuộc vào khả năng thực hiện của cơ quan Thống kê và thực tiễn tổ chức, quản lý hoạt động kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.

Mặc dù nguồn thông tin thống kê dùng để biên soạn chỉ tiêu GDP của Việt Nam ngày càng được cải thiện, đáp ứng yêu cầu tốt hơn nhưng vẫn chưa đầy đủ để đánh giá sát thực quy mô của nền kinh tế. Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế ngoài nhà nước chưa được phản ánh kịp thời và đầy đủ trong dữ liệu của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan. Trong điều tra thống kê - nguồn thông tin chủ yếu và quan trọng của cơ quan Thống kê, điều tra mẫu hàng năm phản ánh được xu hướng phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực nhưng chưa phản ánh đầy đủ, toàn diện về quy mô giá trị tăng thêm của các ngành kinh tế và quy mô GDP toàn bộ nền kinh tế. Phương pháp thu thập thông tin thống kê truyền thống và những hạn chế, bất cập trong chia sẻ thông tin từ hồ sơ hành chính giữa các bộ, ngành và cơ quan quản lý các cấp dẫn đến số liệu thống kê chưa phản ánh kịp thời sự thay đổi về quy mô và tình hình kinh tế - xã hội hàng năm. Do đó, theo thông lệ thống kê quốc tế, khi có nguồn thông tin đầy đủ, toàn diện từ các cuộc Tổng điều tra, từ hồ sơ hành chính, các cơ quan Thống kê quốc gia sẽ thực hiện đánh giá lại quy mô GDP.

Biểu số liệu Quy mô tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành [Nguồn: TCTK]

Cũng theo ông Lâm, đây là thời điểm phù hợp để đánh giá lại quy mô GDP vì Thống kê Việt Nam đang từng bước chuyển đổi từ Hệ thống tài khoản quốc gia [SNA] 1993 sang SNA 2008 theo khuyến nghị của cơ quan Thống kê Liên hợp quốc; cập nhật Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam 2018, Hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam 2018. Đồng thời,Tổng cục Thống kê đã hoàn thành và công bố kết quả của hai cuộc Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011 và năm 2016, Tổng điều tra kinh tế năm 2012 và năm 2017. Qua việc tăng cường công tác phối hợp, chia sẻ thông tin giữa Tổng cục Thống kê và các bộ, ngành, đến nay Tổng cục Thống kê đã trực tiếp ký Quy chế phối hợp với nhiều Bộ, ngành, trong đó thực hiện chia sẻ thông tin với Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan thông qua ứng dụng công nghệ thông tin, từ đó cập nhật đầy đủ và chi tiết hơn thông tin doanh nghiệp và các đơn vị sản xuất trên phạm vi cả nước. Trong bối cảnh Việt Nam đang xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, việc đánh giá lại quy mô GDP vào thời điểm này theo đúng thông lệ quốc tế và có ý nghĩa quan trọng, làm căn cứ đưa ra những định hướng đúng cho phát triển đất nước trong 10 năm tới và cụ thể hóa cho giai đoạn 5 năm 2021-2025.

Báo cáo về kết quả triển khai rà soát, đánh giá lại GDP lần này của Tổng cục Thống kê nêu rõ: Thực hiện đánh giá lại quy mô GDP chỉ xem xét, rà soát các hoạt động kinh tế thuộc phạm vi sản xuất theo quy định của Việt Nam, không đề cập tới các hoạt động kinh tế ngầm và kinh tế bất hợp pháp.

Thông tin thống kê sử dụng để đánh giá lại quy mô GDP của Việt Nam chủ yếu dựa vào Tổng điều tra và hồ sơ hành chính của các Bộ, ngành địa phương. Trong giai đoạn 2010-2017, Tổng cục Thống kê thực hiện Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011 và năm 2016, Tổng điều tra kinh tế năm 2012 và năm 2017. Đồng thời, công tác chia sẻ thông tin giữa Tổng cục Thống kê với các Bộ, ngành ngày càng tốt hơn đã giúp thu thập được thông tin từ nguồn dữ liệu hành chính của các Bộ, ngành.

Quy mô GDP đánh giá lại theo giá hiện hành tăng bình quân 25,4% giai đoạn 2010-2017

Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô theo đánh giá lại GDP [Ảnh: TCTK

Cũng tại họp báo, Tổng cục trưởng Nguyễn Bích Lâm cho biết, quy mô GDP đánh giá lại của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành tăng bình quân 25,4%/năm giai đoạn 2010-2017, tương ứng tăng 935 nghìn tỷ đồng/năm, trong đó năm 2011 có tỷ lệ tăng cao nhất với 27,3% và năm 2015 có tỷ lệ tăng thấp nhất là 23,8% .

Chia sẻ tại họp báo, ông Kamal Malhotra, Điều phối viên của Liên hợp quốc tại Việt Nam cho rằng, Tổng cục Thống kê đánh giá lại quy mô GDP hoàn toàn phù hợp với thông lệ thống kê quốc tế. Tổng cục Thống kê đã tiến hành rất nhiều cuộc điều tra về các hoạt động kinh tế, hộ gia đình để đảm bảo nắm bắt được kết quả các hoạt động, đặc biệt là các hoạt động mới xuất hiện, các hoạt động sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ và thực hiện rà soát trong đợt điều chỉnh lần này.

Ông Kamal Malhotra nhấn mạnh, trong quá trình biên soạn GDP, ngoài những nguyên nhân chủ quan trong hoạt động thống kê dẫn đến phạm vi tính toán chưa đầy đủ còn có những nguyên nhân như: sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước chưa chặt chẽ và thống nhất; ý thức hợp tác của các đối tượng cung cấp thông tin còn kém; sự thay đổi và biến động nhanh về hoạt động của các tổ chức kinh tế của khu vực trong nước…

Sau khi đánh giá lại quy mô GDP, số liệu thống kê của Việt Nam sẽ tốt hơn, cung cấp một bức tranh tổng thể sát thực hơn, rõ ràng hơn về những gì đang diễn ra trong nền kinh tế và trở thành thông tin đầu vào hữu ích cho Chính phủ, các nhà đầu tư và người dùng tin.

Ông Jonathan Pincus, cố vấn kinh tế cao cấp của UNDP nhấn mạnh, điều đặc biệt quan trọng giúp người dùng tin hiểu được lý do của việc đánh giá lại quy mô GDP là công việc bình thường cần làm trong biên soạn tài khoản quốc gia và Tổng cục Thống kê cần có kế hoạch cho việc đánh giá lại quy mô GDP, trong đó việc sửa đổi, điều chỉnh phải minh bạch và có thời hạn cụ thể để người sử dụng thông tin biết.

Có thể thấy, kinh tế Việt Nam từ năm 2010 đến nay có nhiều chuyển biến, cơ cấu kinh tế chuyển dịch khá nhanh cùng với sự phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và tốc độ.

Mục đích sử dụng kết quả đánh giá lại quy mô GDP: [1] Đánh giá đúng bức tranh, năng lực của nền kinh tế, đánh giá hiệu quả các chính sách kinh tế; [2] Dùng để xây dựng các mục tiêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2021-2025; [3] Không dùng để đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 và các kỳ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015 và giai đoạn 2016-2020./.

Song Minh

Mục lục

Phóng viên [PV]:Thưa ông, tại sao Việt Nam cần phải đánh giá lại quy mô GDP giai đoạn 2010-2017 trong thời điểm này?

Ông Nguyễn Bích Lâm:GDP là chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng. Vì vậy, việc đánh giá đúng quy mô và tốc độ tăng chỉ tiêu GDP của toàn bộ nền kinh tế và GRDP của địa phương có ý nghĩa rất quan trọng, bảo đảm tính đầy đủ về quy mô và so sánh quốc tế.

Theo tôi, việc đánh giá lại quy mô GDP là nhiệm vụ cần thiết và lúc này là đúng thời điểm. Trong bối cảnh Việt Nam đang xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội [KT-XH] 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2021-2025, việc đánh giá lại quy mô GDP vào thời điểm này giúp đưa ra những định hướng đúng cho phát triển đất nước trong 10 năm tới và cụ thể hóa cho giai đoạn 5 năm 2021-2025.

Nói thêm rằng, đánh giá lại quy mô GDP là nhiệm vụ thường xuyên và định kỳ của bất kỳ một cơ quan thống kê quốc gia nào trên thế giới. Trong quá trình biên soạn chỉ tiêu GDP, ở bất cứ quốc gia nào cũng luôn có những vấn đề phát sinh cần rà soát, cập nhật bổ sung, đánh giá lại cả trong ngắn hạn và dài hạn. Hầu hết các quốc gia có năng lực thống kê tốt đều tiến hành rà soát, đánh giá lại quy mô GDP thường xuyên và định kỳ. Từ 2010 đến nay, Mỹ, Trung Quốc, Canada, Đức, Nga, Italy, Croatia, Indonesia... đã tiến hành điều chỉnh, công bố lại quy mô GDP và các chỉ tiêu vĩ mô khác có liên quan. Việt Nam không phải là ngoại lệ.

PV:Năm 2013, Việt Nam cũng đánh giá lại quy mô GDP. Vậy lần đánh giá này có khác gì so với 6 năm trước, thưa ông?

Ông Nguyễn Bích Lâm:Trước đó, năm 2013, TCTK đánh giá lại quy mô GDP giai đoạn 2008-2012, khi đó GDP tăng khoảng 9%. Đợt đánh giá cách đây 6 năm chỉ tập trung một số ngành, như: Ngân hàng, tài chính, bảo hiểm và kinh doanh bất động sản. Trong lần thu thập thông tin này sẽ đánh giá lại toàn bộ nền kinh tế, "quét" thông tin ở tất cả các ngành, các lĩnh vực, các hoạt động kinh tế thuộc phạm vi sản xuất theo quy định của Việt Nam. Do đó, chưa đề cập tới các hoạt động kinh tế ngầm và kinh tế bất hợp pháp.

PV:Theo ông, kết quả đánh giá lại quy mô GDP sẽ tác động đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế như thế nào?

Ông Nguyễn Bích Lâm:Kết quả đánh giá lại quy mô GDP sẽ có tác động đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Cụ thể, tạo ra mức tăng đáng kể trong tổng giá trị GDP và GDP bình quân đầu người, từ đó tác động đến định hướng phát triển KT-XH trong các giai đoạn tiếp theo.Sự gia tăng GDP bình quân đầu người có thể dẫn đến sự thay đổi trong mô hình tiêu dùng hộ gia đình do ước tính mức sống cao hơn hoặc đạt nhanh hơn đến mức quốc gia có thu nhập trung bình cao. Tuy nhiên, việc đánh giá lại quy mô GDP sẽ không tác động đến mục tiêu tăng trưởng GDP trong kế hoạch và chiến lược phát triển KT-XH do tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các năm có sự thay đổi rất nhỏ.

Bên cạnh đó, đánh giá lại quy mô GDP sẽ nhận thấy làm thay đổi cơ cấu GDP: Tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; giảm tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản. Quy mô GDP và GDP bình quân đầu người tăng lên có thể làm tăng đóng góp của Việt Nam cho các tổ chức quốc tế mà hiện nay Việt Nam đang là thành viên.Ngoài ra, đánh giá lại GDP sẽ làm thay đổi nhiều chỉ tiêu tài chính/tài khóa: Tỷ lệ thu ngân sách nhà nước so với GDP; tỷ lệ thuế so với GDP; tỷ lệ chi ngân sách nhà nước so với GDP; tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP; tỷ lệ nợ công, nợ chính phủ và nợ nước ngoài so với GDP.

PV:Có ý kiến cho rằng, khi quy mô GDP tăng thì sẽ mở rộng dư địa cho chi tiêu và vay của Chính phủ. Vậy quan điểm của ông như thế nào?

Ông Nguyễn Bích Lâm:Tôi khẳng định việc đánh giá lại quy mô GDP là một yêu cầu khách quan, tự thân của Việt Nam và hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Mục đích quan trọng nhất là đánh giá xác thực, đầy đủ nhất về quy mô GDP, năng lực của nền kinh tế, nâng cao vị thế kinh tế của đất nước trong khu vực và trên thế giới. Đây là thông tin đầu vào phục vụ việc nghiên cứu, so sánh, điều hành, ra quyết định của cấp quản lý vĩ mô...

Đúng là việc đánh giá lại quy mô GDP sẽ làm thay đổi hàng loạt những chỉ số vĩ mô quan trọng khác, như: Bội chi, nợ công… Sự thay đổi có thể cho thấy khả năng mở rộng dư địa cho thu ngân sách và thuế cũng như chi tiêu và vay của Chính phủ. Tuy nhiên, khả năng tác động là thấp, vì thực tế thu ngân sách và thuế được quy định bởi các văn bản pháp luật. Nhiệm vụ của ngành thống kê là phản ánh chính xác quy mô của nền kinh tế, không nhằm tăng GDP để mở rộng dư địa vay nợ của Chính phủ hay chi tiêu thêm ngân sách. Theo đó, dãy số về tăng trưởng GDP mới sẽ được dùng để phục vụ việc xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế 2021-2025 và chiến lược phát triển kinh tế 2021-2030.

PV:Trân trọng cảm ơn ông!

VŨ DUNG[thực hiện]

Video liên quan

Chủ Đề