Vì sao nhật nhiều đồi núi
29/10/2020 1,754 Câu hỏi Đáp án và lời giải Đáp án và lời giải đáp án đúng: B Lãnh thổ nước ta được hình thành rất sớm, bị bào mòn lâu dài do tác động của ngoại lực (gió, sông,…) sau đó lại được nâng lên của các kì vận động tạo núi nên địa hình nước ta có rất nhiều đồi núi nhưng lại chủ yếu là đồi núi thấp. Nguyễn Hưng (Tổng hợp)
TPO - Theo thống kê, lượng mưa đo được ở những vùng có mật độ rừng núi che phủ lớn gấp mấy lần ở những nơi không có rừng núi. Với lượng mưa trung bình 11.873mm/năm- một ngôi làng ở Ấn Độ được được mệnh danh là khu vực ẩm ướt nhất thế giới.
Theo thống kê, lượng mưa đo được ở những vùng có mật độ rừng núi che phủ lớn gấp mấy lần ở những nơi không có rừng núi. Lượng mưa nhiều hay ít được quyết định bởi lượng hơi nước trong không khí. Hàm lượng hơi nước phân bố ở các vùng đều khác nhau, ở miền Nam - Trung Quốc, hơi nước trong không khí nhiều hơn Bắc Bộ rất nhiều, miền Đông nhiều hơn miền Tây. Vì vậy, lượng mưa trong năm ở những nơi này cũng nhiều hơn. Những vùng rừng núi có lượng mưa nhiều hơn những nơi ít rừng cũng có cùng nguyên nhân, đó là do rừng giống như một máy bơm khổng lồ, nhờ cây cối, nó không ngừng bơm một lượng lớn nước từ dưới đất đưa lên trời. Có người đã tính toán được rằng, một hecta rừng mỗi năm có thể làm bốc hơi nước khoảng 300.000 lít nước, vì vậy những vùng có nhiều rừng núi lại có lượng mưa nhiều như thế. Một câu hỏi đặt ra: Một lượng nước nhiều như thế "bị" hút lên bầu trời, vì sao vùng rừng này không bị thiếu nước? Lớp đất dưới rừng cây luôn luôn có nước, đồng thời khi mưa nhiều, vùng rừng này có thể nhanh chóng bổ sung lại lượng nước đã bị bốc hơi. Cứ không ngừng tuần hoàn như vậy, cây cối trong rừng mới có thể phát triển tươi rốt rậm rạp.
Mưa đóng vai trò quan trọng trong chu trình thủy học trong đó nước từ các đại dương (và các khu vực khác có chứa nước) bay hơi, ngưng tụ lại thành các đám mây trong tầng đối lưu của khí quyển do gặp lạnh, khi các đám mây đủ nặng, nước sẽ bị rơi trở lại Trái Đất, tạo thành mưa, sau đó nước có thể ngấm xuống đất hay theo các con sông chảy ra biển để lại tiếp tục lặp lại chu trình vận chuyển. Các giọt mưa rơi thông thường được vẽ trong các tranh hoạt họa như là "giọt nước mắt", tròn ở phần đáy và nhỏ, nhọn ở phần đỉnh, nhưng điều này không đúng (chỉ có các giọt nước nhỏ ra từ một nguồn nào đó mới có dạng như vậy ở thời điểm hình thành ra giọt nước). Các giọt mưa nhỏ là có dạng gần như hình cầu. Các giọt lớn hơn thì bị bẹt dần đi, giống như bánh hamburger (một loại bánh mì dẹp như bánh bao); còn các giọt rất lớn thì có hình dạng giống như cái dù. Trung bình thì giọt mưa có kích thước từ 1 mm đến 2 mm theo đường kính. Những giọt mưa lớn nhất trên Trái Đất đã được ghi lại ở Brasil và quần đảo Marshall năm 2004 - một số giọt có kích thước tới 10 mm. Kích thước lớn được giải thích là sự ngưng tụ trong các hạt khói lớn hay bởi sự va chạm giữa các giọt mưa trong một khu vực nhỏ với lượng rất lớn nước lỏng. Nói chung, nước mưa có độ pH nhỏ hơn 6 một chút, đơn giản là do nó hấp thụ điôxít cacbon trong khí quyển, nó bị điện ly một phần trong nước, tạo ra axít cacbonic. Ở một số sa mạc, các luồng không khí vận chuyển cả cacbonat canxi lên không trung, do đó nước mưa ở đây có thể là có pH bằng hoặc cao hơn 7. Các trận mưa có pH thấp hơn 5,6 thì được coi là mưa axít. Lượng mưa tại một khu vực nào đó được đo bằng các máy đo lượng mưa đặt tại một số điểm ngẫu nhiên, xa khu vực có thể ảnh hưởng đến độ chính xác của phép đo. Nó là độ cao lượng nước thu được sau cơn mưa trên một bề mặt phẳng, không bị nhà cửa hay cây cối bao phủ hay che lấp và có thể được tính bằng mm. Meghalaya- nơi “ẩm ướt nhất thế giới” Meghalaya là một bang tại Đông Bắc Ấn Độ, với diện tích 22.429km2, khoảng 70% diện tích bang là rừng che phủ. Với lượng mưa trung bình là 11.873mm/năm, nơi đây được mệnh danh là khu vực ẩm ướt nhất thế giới. Meghalaya cũng là nơi sinh sống của khoảng 3 triệu người, chủ yếu là người dân tộc Khasi (khoảng 1,2 triệu người), người Garos và người Jaintia. Họ đã sinh sống ở đây từ 2.300 năm nay, theo chế độ mẫu hệ. Vì thế nên người Meghalaya còn được gọi là “bộ tộc mẫu hệ”. Nguyên nhân của những trận mưa lớn tại đây là do dòng không khí ẩm từ vùng đồng bằng ngập nước của Bangladesh di chuyển về phía Bắc. Khi những đám mây đi qua những ngọn đồi dốc cao của Meghalaya, nhiệt độ giảm làm nước ngưng tụ, gây mưa liên tục.
Để chống chọi lại với những trận mưa dai dẳng, người dân ở đây chế tạo ra một loại “áo mưa” có tên là Knups với hình dạng như chiếc thuyền được làm từ tre và lá chuối. Với chiếc “áo mưa” độc đáo này, họ vẫn có thể đứng làm việc bình thường bằng cả 2 tay và hình dáng của Knups cũng giúp họ không bị ướt bởi những cơn mưa kèm theo giông lớn.Trong 2 tháng đỉnh điểm của mùa mưa là tháng 6 và tháng 7, lượng nước trút xuống ngôi làng này đo được khoảng 7.000mm. Với địa hình đồi núi gập ghềnh, sạt lở đất là điều không tránh khỏi ở Meghalaya. Để giữ cho đường thông thoáng vào mùa mưa, chính quyền nơi đây đã thuê người dân với mức lương 2,5USD/ngày (khoảng 50.000 VND) cho đến khi mùa mưa kết thúc vào khoảng tháng 10.Những cây cầu ở Meghalaya vô cùng đặc biệt. Thay vì được xây bằng bê-tông như những nơi khác, người dân nơi đây lại sử dụng chính những rễ cây, cây gỗ "sống" để bắc cầu qua suối. Các rễ cây đa, cây cao su… được họ bện lại thành búi. Qua hàng thế kỷ, những rễ cây này lớn lên và khỏe hơn, tạo ra những cây cầu vô cùng chắc chắn. Những cây cầu “sống” dài tới 30m và có thể chịu được tải trọng của 50 người.Để làm những cây cầu này, đầu tiên người dân sẽ sử dụng tre làm khung. Sau đó, họ bện các rễ phụ của cây cao su lên, các rễ cây này sẽ tự phát triển theo khung tre đó. Một thời gian sau, khung tre mục nát nhưng các rễ cây cao su thì vẫn tiếp tục phát triển. Theo người dân ở đây, trong khoảng từ 7-8 năm, họ sẽ có một cây cầu chịu được sức nặng của một người. Không chỉ những chiếc cầu, người dân ở đây còn dùng rễ cây để làm ra những công trình khác ví dụ như những bậc thang để đi lên những đoạn đường dốc. "Thiên tai" là cụm từ khi nhắc đến đã gây nhiều lo lắng cho bất cứ ai và là câu chuyện không của riêng một đất nước nào. Thế nhưng, khi nói về sóng thần và núi lửa, ắt hẳn đa phần suy nghĩ của mọi người đều gọi tên Nhật Bản. Vậy tại sao xứ sở mặt trời mọc lại gắn liền với hình ảnh này trong quan niệm của đa số? Đâu là cái nhìn cận cảnh cho câu chuyện này và sau cùng, người ta tìm kiếm được điều gì qua mối quan hệ giữa con người Nhật Bản đối với thiên nhiên? Đầu tiên nói về vị trí địa lí, Nhật Bản là một quốc gia đặc biệt vì 4 mặt đều giáp biển, nằm trên vành đai núi lửa Thái Bình Dương, một khu vực có hình dạng giống như vành móng ngựa và thường xảy ra các hiện tượng hoạt động địa chất (như xô, húc, tách dãn,…). Cộng với việc tọa lạc ngay điểm nối của ba vùng kiến tạo địa chấn đã khiến Nhật Bản thường xuyên hứng chịu các cơn động đất cũng như hoạt động của núi lửa. Các trận động đất này có sức tàn phá từ nhỏ đến lớn, và cũng chính là nguyên nhân hàng đầu gây nên những đợt sóng thần kinh hoàng. Với cấu tạo địa chất không ổn định như thế, Nhật Bản đã là quốc gia sinh ra với điều kiện tự nhiên không thuận lợi. Đảo núi lửa Sakurajima. (Ảnh: Volcano Discovery) Bên cạnh trận Đại địa chấn tang thương xảy ra vào năm 2011, từ xa xưa, lịch sử Nhật Bản đã có những mất mát về người và của do thiên tai để lại. 1) Thảm họa núi lửa AsamaAsama là ngọn núi lửa hoạt động mạnh mẽ nhất trên hòn đảo chính của Nhật Bản (Honshu). Tọa lạc tại ranh giới của 2 tỉnh Gunma và Nagano cách Tokyo khoảng 145km, ngọn núi cao 2.568 mét so với mực nước biển này là một biểu tượng sừng sững trên thị trấn nghỉ mát của Karuizawa. Năm 1783, núi lửa Asama phun trào gây thiệt hại trên diện rộng cùng đám cháy lớn, giết chết 1.500 người và phá hủy một khu vực rộng lớn của Nhật. Sự kiện kinh hoàng này đã gây ra nạn đói quốc gia kéo dài 4 – 5 năm. Núi lửa Asama trên đảo Honshu. (Ảnh: ei.u-tokyo.ac.jp) Nhắc đến những câu chuyện hằn sâu trong kí ức về thiên tai, không thể không kể đến thảm họa núi lửa Unzen. Lần cuối “địa ngục” Unzen xảy ra đã gần ba thập kỉ trước nhưng vẫn để lại nhiều dư âm về sau. Năm 1972, một trong nhiều vòng dung nham núi Unzen đổ sụp, gây ra siêu sóng thần dẫn đến cái chết của hơn 14.000 người. Chưa chấm dứt nỗi đau ở đó, năm 1991, đau thương tiếp diễn khi vụ phun trào lớn từ Fugendake cũng ngay tại Uzen tạo ra luồng mạt vụn núi lửa khiến 43 người thiệt mạng, trong đó có 3 nhà nghiên cứu núi lửa đang công tác tại đây. 3) Đại địa chấn Đông Bắc Nhật BảnVào ngày 11/3/2011, định mệnh đã đánh dấu một thảm họa kép nơi đất nước mặt trời mọc khi trận động đất mạnh đến 9 độ richter gây nên đợt sóng thần lan dọc khắp bờ biển Thái Bình Dương của Nhật Bản. Chỉ trong vòng một giờ, các cơn động đất đi kèm dư chấn đã khiến các thị trấn dọc bờ biển Nhật Bản bị những đợt sóng khổng lồ san phẳng toàn bộ. Những ngọn sóng cao đến 4 - 5m liên tiếp ập lên nhà cửa và những cánh đồng. Thậm chí tại thành phố Miyako thuộc tỉnh Iwate, ước tính sóng thần cao đến 40m. Thảm họa này để lại những con số khủng khiếp: 15.884 người thiệt mạng, 6.148 người bị thương, 2.633 người mất tích cùng 127.290 ngôi nhà bị tàn phá. Chưa dừng lại ở đó, thảm họa này còn gây nên chuỗi sự cố liên tiếp tại Nhà máy Điện hạt nhân Fukushima số 1 và 2, đồng thời nhiều nhà máy điện hạt nhân khác phải ngừng hoạt động. 4) Thảm họa núi lửa OntakeXuôi dòng thời gian đến trưa ngày 27/9/2014, ngọn núi lửa Ontake cao 3.067 mét nằm ở quận Nagano đột ngột "thức giấc" khiến người dân sinh sống xung quanh và hàng trăm người đang đi bộ trên núi không kịp đề phòng. Đây được xem là thảm họa núi lửa tồi tệ nhất Nhật Bản trong 90 năm trở lại. Cho đến tận ngày tiếp theo, từng cột tro bụi và khí sulfur khổng lồ vẫn tiếp tục bốc ra từ miệng núi lửa, gây cản trở cho việc cứu hộ. Thảm họa này khiến gần 50 người thiệt mạng cùng nhiều người khác bị thương. Chính quyền phải huy động 1.000 binh sĩ, cảnh sát và lính cứu hỏa, điều động trực thăng hỗ trợ tìm kiếm nạn nhân. Núi lửa Ontake đột ngột thức giấc. (Ảnh: eos.org) Nếu nhìn xuyên suốt lịch sử, các sự kiện này chỉ là năm trong số vô vàn thảm họa thiên nhiên mà Nhật Bản gánh chịu, tuy nhiên cũng phần nào giúp hình dung được mức độ đau thương to lớn mà người dân xứ sở hoa anh đào đã trải qua. Người Nhật làm cách nào để có thể sống cùng thiên tai?Ở một đất nước luôn phải hứng chịu thiên tai và sống cùng những cảnh báo thảm họa là điều quen thuộc như vậy, hẳn nhiều người thắc mắc vì sao người Nhật không rời bỏ nơi này để tìm kiếm một vùng đất khác. Có thể tóm gọn lại ở 2 ý sau đây: Mảnh đất này là quê cha đất tổNgười Nhật xác định trong tư tưởng chấp nhận đối mặt với thiên nhiên quê hương xứ sở. Thậm chí người dân dùng thái độ tích cực và lạc quan với nghịch cảnh. Sakurajima, một trong những ngọn núi lửa có tần suất hoạt động nhiều nhất Nhật Bản, vô số lần nổi cơn thịnh nộ gây nhiều bất ổn. Khoảng 680.000 dân cư xung quanh đây phải sống chung với tro bụi và đất đá, đồng thời di tản bất cứ lúc nào báo động núi lửa vang lên. Tuy vậy khi được hỏi, đa số người dân đều trả lời họ thấy bình thường và đã quen thuộc với cuộc sống này. Bằng chứng đến từ nếp sinh hoạt hằng ngày như lán tị nạn sẵn sàng ở khắp nơi, trẻ em đội mũ bảo hiểm tránh đất đá khi ra ngoài, nhà cửa thiết kế nhiều rãnh để dễ dàng dọn dẹp,… và cả cách người dân tận dụng bụi than từ núi lửa thành thức quà thiên nhiên. Biết được bụi từ ngọn núi lửa Sakurajima góp phần tạo nên thổ nhưỡng cho vùng đất lân cận, đặc biệt lí tưởng cho lĩnh vực trồng trọt, họ đã ra sức phát triển ưu thế này. Kết quả là giống củ cải lớn nhất thế giới Sakurajima Daikon với vị ngọt đậm đà đặc trưng có xuất xứ từ chính nơi đây như một món quà của đất trời dành cho người dân. Sakurajima Daikon - củ cải lớn nhất thế giới. (Ảnh: Visit Kyushu) Có thể nhận định, bao nhiêu năm tháng không thiên thời địa lợi cũng là bấy nhiêu thời gian tôi luyện cho mỗi người Nhật một ý thức rõ ràng đi cùng tinh thần bền bỉ, tự cường cao, thể hiện ở hành vi nhất quán từ chính quyền đến người dân. Chính phủ Nhật Bản luôn là đầu tàu khẩn trương nhanh chóng đưa ra các báo động chính xác và kịp thời nhằm giảm thiểu tối đa hậu quả. Bên cạnh đó, quyết liệt triển khai nhiều biện pháp sơ tán khẩn cấp trước thảm họa, cứu trợ người dân và hỗ trợ lẫn khắc phục sau thiên tai. Trẻ em được dạy ứng phó với thiên tai. (Ảnh: Japantimes) Thế giới không ít lần từ bàng hoàng thương xót chuyển sang khâm phục thái độ và hành xử của người Nhật trong thảm họa. Vốn dĩ người dân đã được giáo dục về cách chuẩn bị và đối phó hiệu quả nhất khi thiên tai xảy ra thông qua các lớp tuyên truyền và cả trường học từ khi còn nhỏ tuổi. Các cơ sở vật chất và phòng bị luôn sẵn sàng ngay tại nhà. Mỗi gia đình đều có balo đầy đủ vật dụng, lán tránh nạn được bố trí rải rác khắp nơi và tập trung ở những vùng trọng điểm… Tham khảo thêm Công viên phòng chống thiên tai Tokyo Rinkai. Hình ảnh của người dân sau trận thảm họa kép 2011. (Ảnh: Standord University) Vậy nên dù là hứng chịu thiên tai kinh hoàng bậc nhất như vậy, nhưng vẫn không xảy ra cảnh hỗn loạn nào. Ghi nhận tại các điểm công cộng hậu thảm họa, người dân nơi đây kiên nhẫn và trật tự xếp hàng chờ đến lượt gọi điện thoại công cộng, mua nhu yếu phẩm, nhận hàng cứu trợ… Giữa nghịch cảnh là vậy, những câu chuyện giúp đỡ nhau đầy tình người giàu hi sinh cũng không hề thiếu, như 50 người công nhận tình nguyện ở lại cứu nhà máy Fukushima số 1 sau thảm họa kép năm 2011 đã lay động nhiều trái tim. Tựa những mầm sống vẫn không ngừng vươn lên trên nền đất khô cằn, người Nhật vẫn vững vàng, kỉ luật và giữ được niềm tin tiến về phía trước. Đó cũng là điều đọng lại sâu sắc trong tâm trí mọi người, về tinh thần của một dân tộc, như biểu tượng cho sức mạnh và quyết tâm bất khuất của con người trước bất lợi từ thiên nhiên vĩ đại. kilala.vn Tags:
|