Thung catong dong hang thuốc lá caraven giá bao nhiêu năm 2024

0% found this document useful (0 votes)

94 views

974 pages

Original Title

DANH MUC XBP GUI SO THONG TIN TRUYEN THONG LAM DONG-DA LAT

Copyright

© © All Rights Reserved

Available Formats

XLSX, PDF, TXT or read online from Scribd

Share this document

Did you find this document useful?

0% found this document useful (0 votes)

94 views974 pages

Danh Muc XBP Gui So Thong Tin Truyen Thong Lam Dong-Da Lat

Jump to Page

You are on page 1of 974

Reward Your Curiosity

Everything you want to read.

Anytime. Anywhere. Any device.

No Commitment. Cancel anytime.

Thung catong dong hang thuốc lá caraven giá bao nhiêu năm 2024

Tôi về nhà, không khí vắng hoe. Tôi gọi thằng Đỏ, Ba Thu đều không thấy. Tôi cởi súng vất lên bàn mắc võng nằm bẹp dí, không buồn cục cựa nữa. Tôi đâu có trách nhiệm gì trong cái chết của Hai Giả nhưng tôi vẫn thấy ân hận trong lòng. Sao lúc Năm Lê quyết định cho Hai Giả đi Thủ Đức tôi không có ý kiến gì hết? Đại khái như đưa ổng ra các tiểu đoàn bộ binh hiện đang cần đơn vị pháo trợ chiến, hoặc cùng lắm trả về U80 cho ông Tư Khanh. Một trong hai trường hợp này khả dĩ cứu ổng khỏi cái chết quá ư nhanh chóng, bất ngờ.

Tôi cũng đâu có ý tranh giành chức vụ trưởng ban H6 này. Đây là một chiếc xe bò bể nát chớ đâu phải một chiếc Volga mới. . . mà ham. Hơn nữa từ xưa tới nay sở trường của tôi là huấn luyện sĩ quan pháo binh chớ không phải chỉ huy đơn vị pháo. Chỉ huy pháo như cái H6 này là sa lầy chớ có gì khác!

Ở trên ác quá. Giết một đại úy pháo binh bằng tay địch. Nói cho công bình, Năm Lê không có ý định đưa Hai Giả đi xuống vùng xôi đậu đó. Sĩ quan pháo binh đi xuống đó làm cái gì?Năm Lê là nhà quân sự thiên về kỹ thuật hiện đại chứ không thích cái gì cũng nhân dân chủ nghĩa. Du kích thì xài hầm chông lựu đạn súng trường, còn sứ dụng cối 81 thì không được nhưng cái gì cũng do Chính ủy quyết định mà ông Tư Trường là bí thư khu ủy kiêm chính ủy quân khu thì chỉ là lãnh tụ công đoàn, một phát súng ngắn cũng chưa từng bắn.

Quyết định thi hành kỹ luật và đưa Hai Giả đi Thủ Đức là do Tư Trường ký. Thì cũng như quyết định mở cuộc tổng tấn công Mậu Thân vậy. Cứ ra lệnh còn hậu quả thì kẻ ra lệnh đâu có gánh chịu mà lo. Hai Giả chết vì sự ngu xuẩn của một tên đạo đức giả. Trời phạt nên sau này hắn đạp mìn tan thây

Tôi buông cả hồn lẩn xác vào một vũng mông lung, mong khi thức dậy, cái khối buồn tan đi ít nhiều.

o O o

Vừa chợp mắt thì nghe tiếng léo nhéo ở miệng hầm. Tôi biết là Mười ẵm bé Hoàn đến với lý do là con nhỏ nó đòi đi, em dỗ nó không được. Từ sau hôm ấy thỉnh thoảng Mười lại bế con tới ở chơi một lúc rồi để con bé ở lại với tôi, nàng ra về để có lý do trở lại rước con mà gặp tôi lần nữa. Mười ra vào dễ dàng vì nhân viên của tôi cũng thông cảm với cái anh chàng thủ trưởng của họ ba mươi bốn tuổi đầu lội khắp từ Bắc chí Nam mà vẫn chân không.

Mười thả con xuống đất và bảo.

– Ba con kìa.

Mười nói câu đó với tất cả tình cảm. Còn tôi thì dường như đã gần thành bố đứa nhỏ trong tình cảm rồi. Mười bảo con:

– Con ở đây ba dạy cho học nghe ! Bữa hôm qua con mới vẽ được có một chữ thôi.

Mười nhìn tôi âu yếm.

– Anh dạy cho con nữa đi.

Nàng vừa ra miệng hầm thì quay lại.

– À, em quên ! Anh đừng đi đâu, có người muốn gặp anh. Kìa Hoàn, hôn ba đi con ?

– Ai đó? Thôi đi tôi mệt lắm, để cho tôi nghỉ.

– Anh ở đó rồi biết.

Tôi tìm tập vở và lấy bút nguyên tử cho Hoàn. Tôi dạy nó hai tiếng Việt Nam theo bài nhạc Bình dân học vụ của Lưu Hữu Phước:

– Vơ- iệt Việt Nờ- am nam, Việt Nam là nước của tôi. A à ó ò í tờ vui quá!

Con bé nhìn miệng tôi và hát theo tôi. Con bé xinh xắn và trắng tươi giống hệt mẹ. Giá vợ con tôi là Mười và Hoàn thì đẹp biết mấy. Những mảnh mộng đời tưởng sắp trở thành sự thực lại cứ trôi đi đâu đâu Sao tôi không dám quyết định đi cho rồi ? Tôi giữ mãi tình tôi với Thu Hà không phải vì Thu Hà hơn tất cả mọi người con gái tôi gặp sau này. Kẻ được cái này người thiếu cái kia, không ai hơn ai hoàn toàn, nhưng Thu Hà có một điều mà không nàng nào có được. Đó là bàn chân của nàng dính đất cát của xứ sở tôi và mùi hương tóc nàng thoang thoảng gió mang hồn dòng sông Tân Bửu. Yêu Thu Hà, tôi có cả quê hương tôi trong nàng. Chúng tôi sẽ nói với nhau suốt đời về những tên chợ tên sông tên làng tên ấp mà hai đứa cùng biết hoặc đã cùng đến với nhau thuở nhỏ. Một nhà văn Pháp đã viết một câu quá sức đơn giản nhưng vô cùng sâu sắc:

“Người nông dân không xa quê hương của họ được vì tiếng chim kêu ở đầu rào. “

Tôi lội một ngàn cây số Trường Sơn có phải để giải phóng miền Nam hay để gặp lại mẹ cha và mảnh đất Nam kỳ yêu quí? Không thể nào thống kê được bằng tỷ số bao nhiêu phần trăm cái này bao nhiêu phần trăm cái kia, chỉ biết rằng có những anh chàng sĩ quan đi nửa đường bỗng được lệnh đi xuống khu sáu, đã chống lệnh và đi tuốt về Nam. Bây giờ tôi sẽ làm gì với cái H6 xộc xệch này trước thằng Đồng Dù và thằng Trung Hòa sừng sỏ như vậy? Mười tám khẩu DKZ khiêng bằng tay, di chuyển bằng chân người chọi với cà nông 155-175 và trực thăng đủ loại. Thân xác con người đứng bên nòng pháo chỉ là hạt bụi mà thôi.

Tôi hỏi bé Hoàn:

– Ban đêm có cà nông thụt con sợ không?

– Mới đầu khóc giờ hết rồi.

– Con nghe nổ mà không sợ à?

– Con ở trong hầm đâu có sao.

– Ban ngày con chơi ở đâu?

– Ở trong nhà. Lâu lâu má mới cho ra sân. Má dặn hễ nghe cụp cụp thì phải lủi vô hầm.

– Cụp cụp là gì?

– Cụp cụp gần là pháo Đồng Dù, cụp cụp xa là pháo Trung Hòa.

– Trong sân có bị trái pháo nào không?

– Trong sân chưa có, chỉ có sau nhà và ngoài vườn chết ba cây quít.

Tôi viết mười chữ Việt Nam bằng bút chì rồi bảo nó đồ lại.

– Con học thuộc bài này ba phóng bài khác cho con. Con học mau thuộc thì ba thưởng kẹo.

– Má biểu con ở trong này với ba.

– Ba bận công việc lắm. Con phải ở với má. Để má ở một mình có pháo thụt má sợ.

Con bé nghênh mặt:

– Má lớn rồi mà sợ gì? Con còn hổng sợ nữa ?

Tội nghiệp ! Con nít coi chiến tranh như một trò vui vẻ .

Vừa đến đó thì Mười trở lại với một người đàn bà ẵm con. Đứa bé rất bụ bẫm còn mẹ nó thì cũng đẹp xấp xỉ với Mười nhưng gương mặt có vẻ đôi chút thành thị. Mười chỉ tôi và nói:

– Anh Hai đó. Nói gì thì nói đi!

Tôi ngồi dậy, hỏi Mười:

– Ai vậy em ?

– Chị Út ở gần nhà em. Chỉ muốn em dẫn chỉ tới chỉ có chuyện cần thưa với anh. Đó, thưa gì thưa đi chị Út!

Mười cười hí hí rồi lui ra. Đến mé hầm còn quay lại.

– Hoàn, con ở học với ba nghe !

– Có chuyện gì vậy…

Tôi chưa kịp nói hết câu thì Út đã cướp lời:

– Kêu em bằng em đi anh Hai.

– Ừ được, có chuyện gì vậy út? Bộ lính của anh đào mì hay bẻ dừa gì nhà em hả?

– Đâu có chuyện đó anh Hai. Em có một việc muốn thưa với anh Hai.

– Em cứ nói đi.

Út ngồi lặng thinh, thỉnh thoảng ngó sang bé Hoàn ì ạch đẩy cây bút trên mặt giấy. Út nói dèm:

– Phải con em lớn em cũng gởi nó cho anh dạy.

Tôi nghĩ thầm: nàng này chắc cũng có chồng đi Bình Giả Phước Long không về được Mười giới thiệu đến xin con nơi ông Thiên Lôi chớ gì. Khổ thật. Đàn bà con gái từ R xuống tới Củ Chi đều ham con. Họ sợ không có con trước khi chết. Từ Huỳnh Mai đến bà khu ủy, từ cô xã đội phó đến Chia, Ua rồi Mười. Và bây giờ lại đến nàng này. Chiến tranh do bọn đầu bò Hà Nội gây ra đã biến miền Nam này thành một Tây Lương Nữ Quốc tân thời, mà Củ Chi có lẽ là tiêu biểu.

Út ngần ngại một hồi rồi nói sang chuyện gia đình, nhà cửa. Nàng khoe:

– Em có đứa em gái đi văn công R.

– Làm gì ?

– Nó là đội viên của ông đờn cò Phạm Sang. Lần đó có một ông nhạc sĩ xuống đây công tác, nghe nó ca vọng cổ hay nên bắt nó về R luôn. Nó hơi rỗ hoa mè, nhưng dặm mặt rồi lên sân khấu nó ăn đèn lắm không thấy rỗ đâu.

– Cô em tên gì ?

– Ở nhà nó tên Mót, má em đặt em là Út, đến chừng có nó đặt là Út Mót, nhưng lên văn công R nó đổi ra là Thiên Lý thiên lót gì đó. Anh ở trên không nghe cái tên đó à anh Hai?

– Có xem văn công nhưng không để ý.

– Nó ngộ hơn em nhiều. Phải anh gặp nó coi !

Tôi lại nghĩ thầm: chắc cô này muốn tôi làm em rể đây chắc. Bỗng nhiên nàng nói:

– Chồng em…

Nàng òa lên khóc.

– Chồng em đi dân công hả?

– Ảnh trốn ở nhà.

– Rồi sao?

– Nhưng cô Hai Xót bảo: nếu anh không đi dân công thì em phải đi đấu tranh chánh trị. Không ai được quyền ở nhà cả vợ lẫn chồng như vậy.

Út vừa chùi nước mắt bằng tay áo vừa tức tưởi nói.

– Ở ngoài quốc gia người ta đâu có làm như vậy. Nếu đi lính thì vợ con có lương. Nếu chết thì có tiền tử tuất. Em không phải phân bì so đo nhưng chồng em ở nhà thì cũng đi đào hầm chớ có ở không đâu. Có mấy công ruộng bên An Thành lúa chín rồi mà không đi gặt được.

Tôi hơi nóng, quát.

– Rồi em muốn gì, nói quách nghe coi !

– Để em thưa hết anh nghe. Cô Hai Xót bảo không có con nhỏ mà không đi đấu tranh thì cổ nguých ngang. Cổ bảo đẻ cho lung rồi lớp bồng lớp dắt không có đấu tranh gì được hết. Ba sắp nhỏ không dám chống mà cứ trốn. Cổ bảo ông ấp đội truy bắt để đưa đi dân công. Em biết đi ngoài miệt đó, mười người không về người nào. Ông ấp đội được lịnh cổ càng làm lung. Bề ngoài thì làm vậy nhưng bề trong thì em biết hễ ba sắp nhỏ đi khỏi nhà là ông tè vè đến. Ba sắp nhỏ hiện còn ở đây mà ông còn be be nữa là !

– Ông ấp đội nào kỳ cục vậy?

– Ông Tám Lù đù con bà má Hai chớ ai.

– Thì cô báo với ông Ba Xây chớ cô nói với tôi làm gì .

Nàng làm thinh, chỉ thút thít khóc. Giống y như tình trạng nông thôn miền Bắc từ khi có cái vụ đi Giải Phóng miền Nam. Dân thường thuộc giống đực từ mười tám đến bốn mươi lăm tuổi trở xuống bị đẩy vô Trường Sơn. Ở nhà mấy ông chi ủy, xã ủy đảng ủy, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm hợp tác xã tha hồ giúp đỡ đồng chí mình. Những tên già dơ mang thẻ đảng vừa ve vãn vừa o ép cả nữ thanh. Kết quả vô cùng rực rỡ là thai nhi được sản xuất càng đông để dùng vào việc tẩm bổ cho đám lưu manh mang cái tên rất đẹp: Ban Chấp hành trung ương đảng.

Ở miền Nam này cũng y như vậy. Không có tên chi ủy, bí thư nào từ tỉnh đến quận mà không phạm tội dâm ô với nữ cán bộ hoặc vợ đồng chí mình. Phạm rồi thì đổi công tác và được đề bạt cao hơn. Một tên ấp đội mà đã biết giở ngón đó rồi thì thử hỏi tỉnh ủy quyền hạn mênh mông vô tận còn làm tới những gì nữa. Bà khu ủy viên chủ tịch quận Tân Biên trên Tây Ninh đã thủ thỉ mét với tôi:

– Mấy ông khu ủy viên ông nào cũng mò tôi cả.

Riêng ở Củ Chi này càng rõ ràng hơn. Ngài thiếu tướng Tư lệnh học tập ông đại tướng bần cố nông, cũng quơ dì Ba của cô xã đội phó mà tôi được ông cậu Tám xác nhận thêm lần nữa ở bữa tiệc nhà Sáu Phấn vừa rồi. Bọn cộng sản là một lũ bất lương và chính chúng đã đào tạo một bầy bất lương mang áo đạo đức. Chúng nó vừa hà hiếp vừa bóc lột dân còn quá cha hội tề trước kia nữa.

Út quệt nước mắt, mếu máo:

– Em muốn anh cứu chồng em!

Tôi nổi nóng quát:

– Cứu cách nào? Nói đi cứ vòng che hoài vậy?

– Anh làm ơn thu ba sắp nhỏ vô cơ quan dùm em.

Tôi cười ngất:

– Chỉ có vậy mà cứ loanh quanh.

– Dạ em sợ anh rầy.

– Chú út đâu rồi?

– Dạ ở đằng nhà chờ em xin anh.

Tôi đứng dậy bước ra hầm, quát:

– Đỏ đâu. Mày chạy lại nhà thằng ấp đội, kêu nó lại đây. Táo cần chút việc gấp!

Út hoảng hốt đứng dậy, run lặp cặp, miệng méo xệch khóc không ra tiếng. Hồi lâu mới nói được.

– Anh Hai kêu ông bắt chồng em hả anh Hai. Tội nghiệp con em rồi nó sẽ như con Hoàn anh Hai ơi.

– Cô ngồi .xuống đó đi, đừng đi đâu.

Tôi bỏ ra ngoài kiếm nước uống giằn cơn giận. Dân chúng sống giữa bom đạn chết như nháy mắt lại còn bị quấy nhiễu như thế này bảo sao họ không ra ấp chiến lược. Một khi đã ra được ngoài đó, chẳng có ai còn trở về.

Chập sau ngài ấp đội đến. Tôi bảo ngay mấy chuyện rồi cho về . Xong, tôi vào hầm bảo Út:

– Em về bảo chồng em mai đến công tác.

– Dạ!

Nàng ngơ ngác như không hiểu. Tôi nhắc lại:

– Kể từ hôm nay, chồng em là nhân viên cơ quan H6 của anh. . .

Nàng sụp lạy tôi. Tôi bảo:

– Đứng dậy.

Nàng đứng dậy nhưng đè đầu đứa bé trên tay bảo:

– Lạy cậu Hai đi con. Cậu Hai cứu ba con đó.

– Thôi lạy lục gì ! Anh sẽ giao cho nó làm trưởng tổ tự túc của cơ quan. Đi chài, đi trồng rau cải, đi tìm ruộng cấy lúa cho cơ quan. Hằng đêm được ở nhà, đi làm không phải đến cơ quan chỉ cuối tuần mới sinh hoạt với anh em và báo cáo công tác với cậu quản lý.

Út Vẫn còn như mơ, lắp bắp:

– Anh nói thiệt hả anh Hai.

– Tôi là thủ trướng một cơ quan, tôi có đủ quyền hạn thu nhận người.

– Ba sắp nhỏ không phải làm lý lịch hả anh Hai?

– Không cần. Tới giờ này mà vợ chồng còn ở đây là đủ chứng minh rồi. Mấy ông ban tổ chức đào bới gốc rể từ đời ông cố ông sơ của người ta, nhưng chính mấy ông đó lại khai láo lý lịch của mình. Ngoài ra người khác khai láo mấy ổng cũng biết đâu mà mò. Khai lý lịch là một hình thức nói láo hoặc lừa bịp.

– Em sợ cơ quan không nhận vì bà cô em có chồng đại úy Sài gòn.

– Đại tướng anh cũng thu được.

Út cười như nắng hé sau trận bão. Nàng ngượng ngùng thủ thỉ với giọng thân mật:

Anh Hai à ! Nhờ anh mà… ba sắp nhỏ khỏi đi Phước Long.

– Nhờ chồng em mà cơ quan có tôm cá ăn.

Út tỏ vẻ e thẹn, ngập ngừng:

– Em muốn trả ơn anh chút được không?

Tôi hơi ngạc nhiên nhìn nàng và tự hỏi: trả ơn? Cách gì? Giọng nàng run run mất tự nhiên:

– Con Mười nó nói . . . anh cho. . . cho nó một đứa . . .

Tôi bật trả như máy.

– Không! không! Cô Mười khác, em khác! Đừng tưởng anh chụp giựt bốc hốt như mấy người kia.

Út khựng lại nhưng nét mặt càng tươi bùng lên, nàng nói:

– Anh quả thật là một người nhơn đức. Em xin lỗi anh.

– Đứt họng hả?

Tôi nghĩ thầm: em mà chưn trơn thì anh Hai để một quả là đi đứt chớ đức gì.

– Không phải chuyện đó đâu. Em muốn kêu con Mót trên R về…

Chương 54 Hầm cá trê của ông Quận đội trưởng Tám Giò.

Một bữa thằng Đỏ dắt về văn phòng của tôi một ông khách đẹp trai đáo để. Đó lại là một thằng học trò khác của tôi. Học xong nó về làm đại đội trưởng trợ chiến Trung đoàn 3 Sư đoàn 330 đóng ở vùng Quán Giắt chợ Neo Thanh Hóa. Nó tên là Hai Khởi hiện làm Tham mưu trưởng quân đội Củ Chi. Hai Khởi chào tôi và nói ngay:

– Nghe thầy về đệ tử tới thăm và kiếm chút ưu điểm. Ở trong quân đội khô khan lắm, chắc ngoài này có chất tươi nên ra kiếm chút đỉnh chấm mút.

Tôi vui vẻ đáp:

– Ở đây nhiều lắm, nhưng cậu định bỏ mẹ hỉm ngoài Quán Giắt sao?

(Khởi bằng tuổi tôi nhưng hắn tự coi như em tôi.) Hai Khởi xua tay:

– Vụ đó thầy đừng có khui ra chết thằng học trò cưng của thầy đó.

– Có mối mai gì chưa?

– Có rồi, nhưng không biết cái ổ này có chủ không?

– Ổ nào?

Tôi móc gói Ruby bỏ ra bàn. Hai Khởi rút lấy một điếu đốt hút như điên, rồi gật gù :

– Thầy lúc nào cũng tà tà . Tôi toàn xài thứ ung muỗi mà không đủ đốt nữa… Cái ổ này có một con thôi. Con mẹ đã lắm! Không thua con gái thành đâu. Da như trứng gà bóc, cần cổ ngon hơn cổ gà luộc đó thầy, tôi đến nhà hai ba lần. Thấy con gái một con mà nhất nước miếng ừng ực.

– Rồi bỏ cái ổ ở Thanh Hóa cho ai?

– Mình tưởng ở ngoài rục xương luôn đâu có ngày về nước nên mới nhắm mắt cấy su hào. Chẳng dè mới nứt mọng lại bị xách đầu về Nam. Về trong này thấy cây nhà lá vườn hơ hớ tức muốn hộc gạch, nhưng lỡ tay trót đã cấy rồi, còn biết làm sao bây giờ? Thầy còn ô-rin chắc thầy không chịu đâu nhưng với tôi thì vừa chạng, không chèo ách chút nào! Con nhỏ em vợ Sáu Phấn thầy biết không?

Tôi biết ngay cô Mười, má bé Hoàn, nhưng làm như không quen:

– Ông ta sợ gả em vợ nghèo ba năm nên còn làm kỳ đà đó.

– Tôi còn mục tiêu thứ hai chớ thầy. Con bé này mình dây don đon, coi khó lắm, mới mười tám cái xuân lòng đang làm quân trang đóng ngoài Đồng Lớn.

– Đã đo góc kẹp TTC (ký hiệu pháo binh) chưa?

– Đo đạc gì nữa. Đã để cho mấy phát ngòi tức thì rồi. Dám có lửa lắm. Không phải như thằng Phạm Cần con cụ Phạm Thiều đâu. Tôi phập phồng bỏ mẹ . Nó mà đổ bể ra thì tôi dám bị đày đi Thủ Đức như Hai Giả lắm. Xuống đó sớm chầy cũng phủi chân lên bàn thờ.

Tôi vờ không biết tình hình dưới đó:

– Bộ ở dưới căng lắm hả?

– Ở đó không có B52, pháo như ở đây nhưng tụi Phượng Hoàng đi nghều như trấu. Bao nhiêu hầm hố tụi nó biết hết ráo. Nó chờ chuột cống nó mới khui, chuột lắt nó để cho bò lên bò xuống, tưởng là an toàn. Đến phiên chuột cống xuống là nó móc họng ngay. ông Hai Giả với thằng Ba Thanh trợ lý xuống dưới đó cũng lâu rồi, thầy có tin gì chưa?

– A… chưa ! Cậu có ý kiến gì về chương trình pháo binh nhân dân không?

Tôi lướt sang vấn đề khác. ..

– Tôi có nghe ông Tám Giò nói, nhưng không biết đầu cua tai nheo ra làm sao.

– Thì giao cối 8 1 cho du kích xử dụng chớ sao nữa .

– Ối chao ! các ông bà đó mà bắn cối thì giặc chưa trầy da mình đã phèo ruột. Bữa nay tôi đến thỉnh thầy lại đó gặp ổng chút: Đáng lẽ ổng phải đến bái thầy mới phải, nhưng riêng tôi muốn mời thầy đến để nhậu chơi một bữa cho thoả tình mong nhớ lâu nay.

Tôi cười:

– Ông tha-mu bữa nay nói cái giọng gì giống Sầu Vương Biên Ải vậy. Đi thì đi chớ tôi đâu có ngại gặp ai. Tôi còn đi đào hầm, vác gạo, đi leo cây canh địch với Năm Cội, Bảy Nê nữa kia mà . Chính tôi đưa ra chương trình pháo binh nhân dân để đi sát với thôn ấp chớ ai.

– Thầy là người đẹp thiệt!

– Thôi đừng có kêu bằng thầy bà nữa. ông Tư Khanh vô đây cũng còn kêu tôi như ở ngoài trường. Người ta không hiểu nói tôi làm phách.

Hai Khởi móc xắc-cốt lấy ra hai tấm bản đồ . Thấy vẽ khá , có tỷ lệ đàng hoàng không phải bản đồ trong sách Giáo Khoa thư Đồng Ấu, tôi bảo.

– Cái Đồng Dù nó rộng 1200 mẫu, chu vi ít nhất 11 cây số gần ba cây số mỗi cạnh. Mình phải bắn 1000 trái pháo nó mới nhúc nhích, ông hiểu chứ. Nhưng với sức trả hỏa của nó, thì mình chỉ bắn được hai quả là phải chôn súng hoặc vác chạy. Ở đây, vấn đề pháo kích không khó khăn. Cái khó là rút lui. Huỳnh Thanh Đồng đánh xong sân bay Biên Hòa tới nay chưa về đến căn cứ.. Do đó tôi phải đi làm anh hùng thay cho nó lãnh huân chương ở R, ông biết chứ?

– Biết gì đâu?

– Không biết thì không cần biết làm gì. Chỉ nên biết cái vụ mất hết mấy cây DKZ và một tiểu đội pháo trầm thây sông Bé .Tôi vừa nói vừa xếp bản đồ Đồng Dù và giờ bản đồ Trung Hòa ra. Hai Khởi trỏ tay vào mấy nơi và nói:

– Mình chỉ cần nả mấy quả vào sân bay và bãi pháo. Sân bay thì phải nhắm đúng lúc nó đổ quân xuống hoặc xúc quân đi. Còn các trại lính thì tụi nó có hầm bê tông cốt sắt, Pháo mình nả trúng nóc cũng chỉ làm nó ù tai thôi chớ ăn thua gì Nói thật với anh, làm việc với mấy ông bần cố nông này bực mình làm. Tôi cũng bần cố nhưng tôi có được huấn luyện chuyên môn nên cũng nắm được chức năng của binh chũng Pháo còn mấy chả bù trất, nhưng mấy chả lại quyết định mọi vấn đề. Ông Một Sơn (ông thứ mười một nên dân gọi ông Một tên Sơn, còn Một Sơn đội trưởng liên lạc là một mắt), bí thư quận ủy kiêm chánh trị viện quận đội là anh vợ ông Tám Giò. Hai anh em nắm hết mọi quyền hành, nhiều khi làm những cái trẹo bảng họng mà tôi nói không nghe.

Hai Khởi hạ giọng tiếp:

– Một Sơn là anh thợ thiến heo. (Tôi trừng mắt) Thiệt đấy mà. Hồi trước Đồng Khởi y giấu đút ông Huỳnh Tấn Phát hay Trần Bạch Đằng gì đó nên được đề bạt lên làm xã ủy, rồi mấy ông quận ủy bị bắt hết, ổng lên thay. Dân các xã hãy còn kêu ông là ông Một Thiến cơ mà. Còn ông Tám giò thứ trình độ cũng như ổng. Chính ổng giao cho ông Tám làm quận đội trưởng. ông này hiện nay lặn kỷ lắm. Khó ai gặp được. Tôi đã đưa chương trình huấn luyện pháo binh nhân dân của anh cho ổng xem. Ổng muốn đích thân anh đến trình bày cho ổng nghe. Xong rồi ổng mới cấp tiền cấp gạo và gởi giấy triệu tập. Trong tình thế này mà tập trung cả một lô du kích, rủi nó càn lủi đi đâu, tản lỗ mô? Các xã Phú Hòa Đông, Nhuận Đức, An Nhơn Tây, Trung Lập, Phước Thành, Phước Hiệp thuộc vùng đất cao và có địa hình xử dụng pháo, nếu được cấp pháo, du kích sẽ làm ăn được lắm.

– Ông Năm Lê bảo sẽ cho các xã quận Bến Cát sang dự. Ông có muốn vô gặp ông Thần Núi không?

Hai Khởi lắc:

– Gặp làm gì! Ai ló đầu vô hầm Đờ Cát của ông cũng bị ổng xạc cho rát mặt. Tôi đâu có dại gì mà vô đó. Tôi đâu phải là kẻ dưới trướng của ổng.

Hai Khởi có lánh ngang bướng. Quát nạt lính tráng và cự nự với cấp trên là chuyện thường tình của anh ta. Thấy Hai Khởi còn giữ tình xưa nghĩa cũ và có tinh thần xốc tới, nên tôi bảo hắn đưa đi một vòng để khảo sát địa hình. Hai đứa đạp xe tà tà . Đường đất lởm chởm như da thằng cùi.

Hai Khởi nói:

– Tụi bê-ka vô đông lắm rồi. Anh biết không?

– Tôi gặp ở Xóm Mới và gần trường Trung Sơ.

– Bây giờ chúng nó đổ xuống tới đây rồi. Từ bên Thanh An sang, từ Sóc Lào xuống. ăn ở bừa bãi. Đốn cây nhóm bếp suốt ngày đêm ì xèo không tả nổi. Bến Dược mọc thêm quán xá có tiệm hủ tiếu, tiệm sửa đồng hồ nữa. Quán bà Sáu Tiệm hốt bạc.

– Có gặp thầy trò ông đại úy Hốt ở trển không?

– Đóng đô ở đó muôn năm chớ đi đâu. Bà Sáu Tiệm bịt răng cả hàm vàng nghĩnh. Bộ anh cũng có đụt mưa ở dưới mái quán trọ bên đường của bả nữa à?

– Hồi ở R mới xuống tôi có ghé đó uống trà.

– Chỉ uống trà thôi.

– Và suýt làm em nuôi của bả.

– Thằng Tư Thêu vợ đẻ , đang đi phép. Gặp tôi, nó kêu trời quá sá. Nó bảo là ở ngoài Bắc chăn bò nông trường Lam Sơn, về trong này đánh xe bò Hậu cần R. Huề vốn. Chuyện chiến đấu tôi không có ngại. Sống chết lẽ thường. Da ngựa hay da dê bọc thây thì cũng thế thôi, chết rồi thì biết cái con bà gì nữa. Nhưng ớn nhất là sợ trật quan điểm nhân dân.

– Mò con gái người ta sao sợ trật?

Hai Khởi cười nhe hàm răng bàn nạo Bến Tre :

– Vụ đó cũng có , nhưng không quan trọng bằng dân phản đối Tôi có nghe, đó là vấn đề nan giải.

– Để chơi Đồng Dù, địa thế tốt ở Bào Cạp và Phú Mỹ. Hai điểm này cách nhau non cây số. Pháo xong điểm này mình chạy sang điểm kia để tránh phản pháo. Còn chơi Trung Hòa thì điểm tốt nhất là Gò Nổi nhưng ông Ba Tâm, xã đội trưởng An Nhơn không cho đặt pháo. Ổng bảo dân phản kháng kịch liệt. Mình bắn một trái nó trả lại một ngàn trái. Kỳ rồi, chọc cứt không nên lỗ mà chết cả chục người dân và mấy chục trâu bò.

– Rồi làm sao?

– Ổng bảo có bắn thì đem lên lô 6 sở cao su mà đặt súng. Nhưng trên đó mình 1ại không có hầm hố và địa đạo để phòng khi đổ chụp. Ở Tầm Lanh Bàu Sỏi cũng tốt nhưng rất xa, sợ bắn đạn rơi trúng dân. Bữa nào tôi dẫn anh đi khảo sát, chớ tôi làm lơ mơ vô xóm, dân dám phản cổ cò kéo chém lắm.

Tôi bật cười

– Làm như hồi mình đi công tác thuế nông nghiệp ở miền Tây Nam bộ. Vì thu nặng quá, có ông nông dân xách phản cổ cò ra quăng trước sân và hét: “Thằng nào giỏi bước qua cái phản đó rồi vô tới bồ lúa của tôi!”

Có mấy tốp lính đi qua. Hai Khởi hất hàm bảo:

– Anh coi lính nhà mình đã không? Toàn đầu chải tém đít vịt và quần ống túm như cao bồi Sài gòn. Lại còn bày đặt quàng chiếc khăn xéo trên vai như lính Trâu Điên Sài gòn.

Một người đàn bà đi qua tay dắt đứa bé gái chợt thấy tôi, kêu lên:

– Anh Hai, đi đâu vậy? Ba kìa Hoàn!

Tôi đáp rồi đạp thẳng.

– Đi công việc! Hoàn về học nghe!

– Đó, cô nường đó. Em vợ Sáu Phấn, tôi nói vôi anh hồi nãy. Coi có thua dân thành đô không? Anh có quen à ?

– Thì cô ta cũng nháng qua nháng lại cơ quan vài lẩn.

– Nháng gì mà con nhỏ kêu bằng ba?

– Thì con nít nó thấy mình thương nó, nó kêu vậy thôi.

– Kiểu này tui hết có sương mờ rơi, mơ huyền mờ rồi! – Bỗng nhiên, Hai Khởi chửi đồng -Địt bố. Nhìn con người ta nhớ con mình. Thằng cu tôi nay cũng cỡ đó ! Hồi nhỏ tới lớn đéo có biết miếng sửa Ba Vì vô miệng. Toàn xơi khoai lang tán nhuyễn. Ở đây bom đạn thế này mà con nít cũng bụ bẩm. Mình vô đây còng lưng giải phóng, giải phóng để phát phiếu mua khoai lang ấy à ! Cái gì cũng ưu việt. Ưu việt, liệt gân.

Tôi bảo:

– Cậu thấy mấy đứa bé ở văn phòng tôi đang tập đánh máy không?

– Ờ đám gà giò đó nuôi thúc chừng sáu tháng hay một năm là xé phay gọn.

– Tụi nó khôn lắm. Nó đầu quân vô cơ quan học đánh máy để khi rành rồi ra Đồng Dù làm sở Mỹ, lương sáu bảy trăm một ngày. Tôi tìm hiểu kỹ, tụi nó mới thú thiệt. Đau khổ chưa ông tha-mu ?

Tôi quay trở lại việc mở lớp pháo binh:

– Ngày khai mạc mình cố gắng làm cho long trọng một chút!

– Vô gặp ông quận ngố kỳ này anh nên lấy danh nghĩa phòng tham mưu quân khu cho ông ngán nghe! Ông này bù trất như tôi nói hồi nãy, lại co thủ, sợ khó, nguyên tắc máy móc. Chuyện gì ổng cũng không tin là mình làm được cả nên hay bẻ tới vặn lui mệt lắm. Anh cứ đẩy cây thoa mỡ bò thằng chả.

– Đẩy cũng tùy chuyện chớ !

– Thằng chả tối ngày chỉ ở dưới hầm, không dám ló lên mặt đất. Nếu có đi đâu thì ổng chạy chớ không dám đi xé. Ổng có bộ giò quấc trứ danh cho nên ai cũng gọi là Tám Giò thay vì Tám Chân là tên cúng cơm của ổng. Thằng gạc-đờ-co của ông ghét ổng lắm vì nó chạy theo mệt ứ hơi. Hồi năm ngoái thằng nhỏ chở ổng qua ngã ba Bàu Lách bị đầm già cão đùng một phát ngay chóc. Thằng nhỏ chết ngay, còn ổng mặt mũi nám đen. Chết hụt kỳ đó ổng sợ đầm già hơn cả B52. Anh biết ổng sợ cái gì kế đó không?

– Sợ gì?

– Sợ cán bộ khu và cán bộ R.

– Sao kỳ vậy?

– Vì mấy ông nội này xuống gặp ổng là hỏi hầm trước nhất Có lần ổng phát cáu quát họ trước mặt tôi: “Hầm đâu mà sẵn vậy. Tía tôi cũng không đào kịp. Có đi xuống đây kỳ sau nhớ mang theo mà xài.”

Hai Khởi lại bảo.

– Tôi nói chuyện anh nghe, anh chỉ dùng một lỗ tai thôi, còn lỗ bên kia lắng nghe đầm già. Nó phục kích im lìm trong mây. Chờ mình đi tới, nó xé mây nhào xuống phóng rốc kết, mười phát không phải một. Hì hì… để tôi nói tiếp về ông thợ thiến heo. Ông này chuyên môn bị mấy bà bành đeo.

– Có bà Hai Xót không?

– Làm sao khỏi miệng chằn nuốt. Ổng có hầm ở Bàu Lách, Bàu Trăn, Xóm Bưng, Gót Chàng và luôn luôn di động vì ở hầm cũ sợ biệt kích ném lựu đạn. Hiện ông ta bị bác Tám ở đường số 7 hăm thiến bằng dao xắt chuối. Vì ổng tò dè con gái người ta, hiện cũng là dũng sĩ.

– Là con nhỏ nào?

– Tư Bé .

– À tôi biết rồi! Hồi mới tới đây cô bé liên lạc có dắt tôi ghé nhà ông Tám xin dừa nạo uống.

– Con bé mình cọp xương voi đó mà ! Cô ta bị rủ ngủ chung một hầm sao đó. Rồi đổ bể tới tai ông già . Ổng không cho cô đi bắn sẻ nữa . Đó là chuyện tôi nghe đám con Út Nhỡ rủ rỉ kể lại chớ tôi nào biết gì. .

– Nói vậy ông tham miêu cũng đã niên nạc với các nàng dũng sĩ rồi à ?

– Mấy nàng đó đều nằm ở dưới quyền điều động của tha-mu tui mà ! Chuyện ông nào thả con be he, ông nào R trên R dưới tụi nó đều khai với tôi hết.

– Còn mấy ban chỉ huy xã đội?

– Hễ xã đội thì càng nằm dưới nữa! 1

– Ông có quen ban chỉ huy xã đội Phú Mỹ Hưng không?.

– Có cô xã đội phó coi đặng lắm. Nhưng rất khó dượt. Cô ta khoe có ông anh tập kết mới về mần chức gì lớn lắm. ..Hỏi tên gì, cô ta còn giữ kín. Tôi điều tra kỹ mà không có anh nào hết, sợ e anh nối ruột hè hè… Cái trò anh nuôi, chị nuôi, tía nuôi đó nhiều màn hiếp dẩn lắm thầy Hai ơi! Cô xã đội phó này sắp được đề bạt lên xã đội trưởng thay cho thằng Năm Thuận đang thụt lùi về vườn câu tôm bán gởi ra tiếp tế cho vợ ở ngoài Phú An. Cô ta không nhận mà lại muốn vọt qua Thanh An ở với bà già. Nghe nói bả hứa gả cô ta cho ai đó

– Ở đâu?

– Không biết. Nhưng mấy lần họp quân đội, cô ta đứng lên phát biểu ý kiến mặt quạu đeo không phải như mấy lần trước. Hay là có cái bị của anh Hai gởi về mà còn chưa nhờ ông Tư Chuyền mổ xẻ?

Tôi giật mình, nhưng lặng thinh không dám hỏi tới, sợ lộ tông tích. Cái vụ nàng bắt xác tôi vừa rồi sau khi đụng độ với nàng Ua tại quán cô Chia, dám gieo mầm sống mới lắm. Tôi đâm ra hối hận vì quá dễ bị các nàng điều khiển.

Hai Khởi cười khan một mình, rồi nói:

– Thời buổi này làm bác sĩ coi bộ khỏe anh ạ .

– Làm bác sĩ như Tám Lê bên Bưng Còng chữa cho thương binh không kịp bị rượt chạy cong đuôi sướng gì!

– Sướng cái khoản khác kia. Như lão Tư Chuyền chủ nhiệm quân y của hậu cần mình, chỉ là bác sĩ nhảy rào không có pa-tăng nhưng nó có một bầy nhền nhện bủa vây. Ngủ võng hai tầng. Đêm nay ngủ hầm này, đêm mai ngủ hầm kia, tay chân tha hồ táy máy. Thằng chả tuyên bố hầu như công khai với mấy đứa cứu thương: “Đứa nào ngủ với tao, tao dạy môn y tá sớm sớm” Ngủ có nghĩa là gì anh hiểu không?

– Ngủ có nghĩa là ngủ chớ còn nghĩa gì nữa?

– Hắc hắc hắc…

Đang đạp ngon trớn bỗng thấy có tấm bảng gỗ thô cặm giữa đường mang hình hai khúc xương tréo qua chiếc đầu lâu vẽ bằng vôi trắng, tôi rà xe chậm lại, nhưng Hai Khởi lách qua và vọt tới.

– Chẳng có mẹ gì đâu. Tôi đã dặn tụi du kích rồi. Cái này chỉ hù người lạ thôi.

Vừa qua khỏi cái đầu lâu thì gặp một ông bận quần xà lỏn áo lột da ếch phơi tấm lưng trần vàng cháy, một bên lủng lẳng khẩu K54, một bên toòng teng chiếc bi đông Trung Quốc tróc sơn gần hết, tay cầm cây roi quất quất như thầy pháp đuổi tà, còn một ông đi chống nạng, chân phải cà lĩa chấm phẩy. Hai Khởi bấm chuông leng leng. ông cầm roi quay lại. Hai Khởi giơ tay:

– Chào chú Ba .

Tôi thấy một bộ râu bó hàm, một cặp mắt trắng dã sâu hóm, Hai Khởi vừa đạp vừa hỏi:

– Còn đầy ba xi đế không chú Ba?

Người đàn ông quay lại nhìn, không kịp đáp thì Hai Khởi đã vọt khỏi.

– Anh biết hai thầy trò ông đó là ai không? Đó là ông Ba Râu và Tư Còi. Ông Ba Râu hiện giờ là thủ kho của quận. Trong kháng chiến chín năm ổng làm liên lạc bên Bến Cát, Long Nguyên, Thanh Tuyền. Ổng cầm roi quất quất như vậy đó là thói quen từ thời đó tới giờ không bỏ được.

– Tại sao vậy?

– Là vì đi đêm sợ rắn bò cạp cắn, phải cầm roi xua trước. Ổng chỉ giải khát bằng ba xi đế. Còn ông kia là tiểu đội trưởng của tiểu đoàn Ba Râu. Hai thầy trò đánh trận Bàu Lách đều bị thương. Ông thầy thì bị lủng ruột mất sức chiến đấu, còn thằng đệ tử thì bay cái bánh chè . Bây giờ cả hai làm thủ kho. Lính gặp ổng phát gạo thì kể như no cưởng. Ổng dồn nứt ruột tượng rồi bảo cởi quần dài ra buộc túm ổông đong cho đầy luôn. Ổng bảo: “ăn no đánh mạnh nghe các con! ” Thằng Tư Còi ra trận cầm cái kèn xe hơi bóp bí bo bí bo thay cho kèn xung phong. Bây giờ nó vẫn còn đeo cái kèn trong lưng thỉnh thoảng buồn tình, đang giữa trưa, nó rút ra bóp inh ỏi chó sủa và người ta chửi om: “Đồ cái thằng không bánh chè ! Vô đây tao nhồi bột đắp cho!”

Hai Khởi đạp loanh quanh vô đường ngang tắt ngoài ngoèo tôi không nhớ nổi, thì đến một cái ngõ rắp chà tre theo kiểu chỗ Năm Lê. Hắn xuống xe lôi vẹt nhánh chà qua một bên rồi bảo tôi:

– Đi đại qua, tụi nó không có gài lựu đạn đâu! Chỉ khi nào báo động tụi nó mới gài.

Đây là một vạt đất chạy dài theo bờ Rạch Sơn Từ Bến Mương đi vào. Dọc bờ rạch là bậc đất cao nhà nào cũng trồng tre gai để bao bọc miếng vườn của mình. Bên trong là khoai mì, chuối mít, mảng cầu, vú sữa. Nhờ nước rạch tưới miên man nên cây vườn xanh tươi, xóm làng rất trù phú. Chiến tranh mới đến ở ven rìa nhưng chưa thường xuyên như ở Bàu Chứa, An Nhơn hay Hố Bò .

Hai đứa dắt xe đạp đi dọc theo bờ tre gai một quảng ngắn thì thấy một làn khói mỏng bay lên từ một mái lá đứng thu hình dưới một tàng vú sữa. Hai Khởi rỉ tai tôi:

– Đây là ổ của ông quận đội. Con nhỏ nấu bếp coi khá đứa lắm, nhưng ăn nói càn ngang không kể lớn nhỏ. Không biết ông quận có tặng cho viên kẹo đầu tà nào chưa?

Hai Khởi kêu vọng vào nhà:

– Bảy Phấn có đó không, ra anh Hai biểu chút coi!

Một cô gái lùn lùn mặt tròn cầm nhọn, nước da trắng, bước ra, quát trả:

– Ai mà lớn lịnh vậy hả ?

– Có ổng trong hang không? Ổng biểu tôi mời khách đến mà có chuẩn bị đồ cầm tay chưa?

– Có chuẩn bị cho khách chớ không có cho chú đó, chú Hai.

– Chú Hai thì chú Hai sao còn chú đó ? – Hai Khởi quay sang tôi nói nhỏ – Nó kêu bằng chú để chặn họng mình thấy chưa.

– Ừ thôi không chú đó thì chú đọ . Nói theo mấy ông Bắc mới vô, chữ gì cũng bỏ dấu nặng.

– Cái con nhỏ này!

Bảy Phấn ưỡn ngực như khoe mình không nhỏ.

– Người ta vầy mà kêu con nhỏ.

– Từ rày bây đừng kêu tao bằng chú nữa nghe. Kêu vậy tao hết món ăn! – Mấy ổng ở ngoải về ông nào cũng muốn sụt chức hết á ! Mấy ông đầu bạc phếu cũng bắt con người ta kêu bằng anh. Mập béo gì dữ vậy?

Hai Khởi đứng xe qua một bên rồi quay lại hỏi cô bé :

– Như ông này bây kêu bằng gì?

– Ơ…- Bảy Phấn ú ớ không biết đáp ra sao.

– Bằng anh hay bằng chú, nói tao nghe coi! Có muốn…làm quen, tao giới thiệu cho. Ổng về thay ông Hai Giả đó nghen bây. Thôi để tao vô chầu ổng sớm sớm!

Nói xong Hai Khởi dắt tôi xịt qua bụi tre gai rất lớn ở mé hiên nhà, nơi mở ra một miệng hang ăn xéo vô dưới gốc tre. Tôi theo Hai Khởi đi hết mấy bậc đất mòn lẳn. Hắn quay lại dặn:

– Thầy coi chừng! Khom khom xuống để rể tre nó cào rụng tóc.

Bên trong hang tối om om. Tôi có cảm giác đi vô hang Chùa Trầm, hang núi ông Tịnh, hay Thạch Động ở Hà Tiên, nhưng tinh thần không sảng khoái chút nào vì ở đây đã nghe ngực hơi nặng nặng. Ông này xây ổ khôn thiệt. Ông ta lợi dụng thiên nhiên. Cái bụi tre có thể làm giảm sức lướt của trái pháo hoặc làm cho nó nổ bên trên trước khi khoan vào lòng đất. Khác hẳn với hầm Đờ Cát của Năm Lê xây trong nhà. Một tấm ni lông giăng ngang làm trần nhà (đúng ra là nóc hầm) để chặn nước mưa len theo rễ tre rơi xuống hầm. Tôi phải đi lom khom như con thuyền vô trạo của Hồ Xuân Hương vậy. Tôi biết ngay chủ cái hầm này là một ông nông dân ngay. Vì trí thức không biết cái trò chơi này. Trên một chiếc băng tựa vào vách đất, một người mặc áo bà ba đen, chân dựng lên cao ngang mép tai đang húi hoáy viết dưới ngọn đèn đầu bốc khói xám xịt. Trên mặt bàn là một xấp pơ-luya hình như mới lấy ra từ bàn máy chữ.

– Có thầy Hai tới nè anh Tám.

Người đàn ông bỏ chân xuống, ngưng viết, ngó tôi:

– Ông trưởng ban H6 mới đây hả?

– Dạ, tôi đưa ổng đến gặp anh để bàn thêm chi tiết về việc chiêu sinh cho lớp pháo binh nhân dân.

Tôi bước tới đưa tay theo phép xã giao thông thường, nhưng ông quận vẫn ngồi ngó tôi lom lom. Hai Khởi nhắc:

– Ảnh đưa tay cho anh bắt cà anh Tám!

– -Vậy hả?

Tám Giò cũng vẫn ngồi, đưa bàn tay xòe ra đủ mấy ngón rộng như những cọng quạt nan lùi xùi không còn giấy rồi nói:

– Vậy hả ! Tôi nghe bảo ổng là thầy của ông Hai Giả mà sao còn trẻ vậy?

Hai Khởi nói:

– Trẻ nhưng hồi đánh chìm mấy chiếc xà lan gạo của Tây ở bến Dòng Sỏi và đánh đồn Bến Súc năm 47 đã có mặt ổng trong Vệ Quốc đoàn rồi đó.

– Vậy à ? – Tám Giò ngạc nhiên – Lúc đó thầy Hai ở đơn vi nào?

– Tôi làm ở văn phòng anh Ba Tô Ký và anh Ba Xu.

– Dữ vậy sao? Lúc đó tôi còn chăn trâu ở Tầm Đinh, đâu có biết Việt Minh là gì.

Hai Khởi chêm thêm:

– Ổng vô đảng hồi mười bảy tuổi đó anh Tám!

Tám Giò lúc bấy giờ mới đứng dậy sốt sắng.

– Trời đất quỷ thần. Hơn tôi cả chục tuổi đảng ! Mời ngồi. Ngồi! Ta bàn công chuyện.

Tôi ngồi xuống chiếc băng gỗ đối diện với Tám Giò . Mắt tôi đã quen với bóng tối nên bắt đầu nhìn rõ mọi vật bên trong. Cái hầm quả thật sơ sài. Không có gì hết ngoài cái bàn tròn thuộc loại xếp của người Tàu và hai chiếc băng gỗ chân chôn. Nhờ có rễ tre chăn chịt nên đất mới không rơi xuống đầu cũng không sụp cho nên không có một cây nạn chống đỡ nóc hầm. Nhiều mảng ni-lông rách để lòi rể tre non tua tủa trắng như những chòm râu bạc. Phía trước mặt tôi có hai cái ngách, mỗi cái rộng đủ một người chui. Bên phải có một cái bùng binh khác. Từ đó vọng ra tiếng lắc cắc của máy đánh chữ xen lẫn tiếng người. Có cả tiếng con gái eo éo đùa cợt. Tám Giò ngó qua bùng binh bảo:

– Bên đó có đứa nào qua đây tao biểu chút. À, Hồng hả ! Kêu con Phấn pha ba ly cà phê sữa đem lên đây lẹ lẹ. Rồi đem bình trà với ba cái ly bầu.

Cô bé dạ một tiếng rồi chui qua cái ngách con biến mất như chú chuột. Phía bên trong có một cái ngách nhỏ hơn, muốn vô phải bò chớ không đi khom được. Tôi đoán chắc là đường Huê Dung ăn thông ra sinh đạo. Mấy ông chúa hầm đều thủ sẵn cái lối thoát cuối cùng đó cả. Chỉ có tôi là còn lêu bêu chưa lo nổi thôi. Không ai sống ở Củ Chi vào thời đổ chụp không lỏi ngày nào này mà lè phè cà khịa như tôi. Lo đi xin súng về trang bị cho cán bộ, lo may quần áo cho liên lạc viên, lo mua chài lưới tự túc, lo làm bố của con đàn bà góa, lo giải quyết đời sống cho nhân dân, lo chuyện thiên hạ sự còn sự của mình thì lại không lo: cả cái hầm ếch cũng chưa có Nếu có đổ chụp thì chỉ có một cách là chạy cà còng như nai trên R.

Tôi móc bọc thuốc rê trong túi ra để trên bàn rút một miếng quấn hút. rồi mời Tám Giò . Tám Giò làm một điếu và nói chữa ngượng vì không có gì mời khách để khách phải mời mình.

– Hút thử thuốc ông Thầy coi tới không? (Tự nhiên ông quận lại kêu tôi bằng thầy.) Tụi nó mua cho tôi tàng thuốc phèn bập muốn trớt mỏ.

Chợt thấy mấy khúc cao su lót dưới đất. tôi hỏi:

– Anh Tám lót nền bằng mấy cây này làm gì đi cho trợt chân?

Tám Giò trỏ lên nóc hầm:

– Cái lỗ thông hơi kia kìa, nước mưa tuôn xuống chèm nhẹp. Phải đào một cái lỗ cho nước rút xuống đó rồi lấy thùng múc đem đổ trên kia.

– Trời mưa mấy anh làm sao ngủ ?

– Căng ni-lông như ngủ ngoài rừng, còn ban ngày thì chỉ che cái bàn làm việc.

– Vậy ngủ ngoài rừng còn khỏe hơn.

– Nhưng ngủ dưới này ít sợ pháo ăn.

(Tội nghiệp! sợ rồi cũng không khỏi. Sau này Tám Giò bị pháo phang đứt cổ, cái đầu văng đi đâu không tìm được. Cơ quan chỉ chôn có khúc mình.)

Tám Giò tiếp:

– Sỡ dĩ tôi cho đốn cây cao su lót sàn là vì không còn ván, vách hoặc cánh cửa, cột kèo gì hết, nhà cửa ở đây tôi ra lệnh hạ hết rồi. Làm như không còn ai ở đây nữa. Như vậy trực thăng đầm già không để ý nữa. Nó thấy còn một nóc nhà là nó kêu pháo bắn hoặc nó phóng rốc kết chịu không thấu thầy ơi!

– Nếu nó càn bộ anh làm sao?

– Nếu Đồng Dù cho xe tăng tới suối Cây Điệp, thì ở đây mình phải gài lựu đạn, rồi chui.

– Còn cái miệng hầm tô hô nó thấy làm sao?

– Mình gài lựu đạn giáp vòng khu vườn này gài cùng khắp lối đi. Tụi Mỹ rất nhát, bắn pháo, bỏ bom thì ghê lắm nhưng đi bộ lại sợ. Hễ thấy máu là co vòi ngay. – Tám Giò đi vào chuyên đề pháo – Thầy rành pháo, vậy coi cái nóc hầm tôi chịu nổi cỡ pháo nào?

Tôi ngó quanh rồi đáp:

– Cái bụi tre này hay lắm. Nhưng nếu pháo nhểu trúng, có thể 105 trở xuống thì còn chịu được chớ 155, 175 thì tôi không chắc đâu. Còn bom cũng vậy. Bom nó có ngòi nổ nhanh, ngòi nổ chậm. Loại nổ chậm thì vùi sâu mười thước rồi mới nổ phá. Riêng bom đìa thì khỏi nói rồi!

Tám Giò ngồi điếng ngắt, tỏ vẻ không hài lòng. Một hồi lâu mới nói:

– Bề gáy nắp hầm này giỏi lắm một thước. Cái bụi tre đâu có nghĩa gì.

– Cò ỉa miệng chai anh Tám à ! Mình sống ở Củ Chi này như cá lọt kẽ đăng. Nếu nó nhểu ngay thì không có gì chịu nổi. Tụi lính trong Trung Hòa toàn ở hầm xi-măng. Nhưng mình đâu có pháo 120 ly để chơi nó. Tụi Lai Khê, Đồng Dù toàn dùng 155-175 không hè.

– Ừ, nó nổ mình ngồi trong hầm, đất rung nghe ớn quá đi!

Một cô một cậu đem cà phê và trà tới. Tám Giò nói với Hai Khởi:

– Uống cà phê mà hút thuốc rê chết bộ quá, đồng chí bảo sắp nhỏ kiếm một gói đãi khách.

Một tiếng nhỏng nhẽo vọng sang:

– Cháu còn dự trù hai gói Ruby đây chú Tám!

– Ừ được đem đây ! Nhưng để dành cho tao đãi khách. Tụi bây chớ có hút. – Quay sang tôi, Tám Giò phân trần – Tôi bảo chúng nó hút thuốc là phạm chánh sách kinh tế, nhưng tụi nó xài sang hơn tôi. Do cái thuyết hiện sinh hiện siếc gì đó ở Sài gòn ăn ruồng vào đây. Rồi đám thanh niên thanh nữ đi làm ở Đồng Dù- đem về lây ra nữa. Mỗi ngày công năm trăm đồng, nó toàn hút thuốc thơm và uống la ve hộp. Làm đi thầy Hai, làm cho trơn cổ rồi mình tính chuyện cưa vài cây đầu vuông.

Hai Khởi hỏi.

– Anh Tám định đãi khách món gì đó anh Tám?

– Có hủ mắm cá con tụi con Phấn vừa trộn đu đủ. Tôi biểu tụi nó đi mua thịt ba rọi về luộc xắc mỏng mình đi kèm với chuối khế rau thơm rồi đưa cay an iếc được không?

– Vậy thì đả tỉ rồi anh Tám. Pháo bắn nằm vỗ bụng chơi, không có ngán chút nào!

– Ý, miệng ăn mắm ăn muối đừng nói vậy đồng chí!

Tôi vừa nhắm nháp cà phê vừa giải thích đại khái môn pháo binh là linh hồn của chiến trường cho ông quận đội trưởng nghe. Nghe xong ông chắt lưỡi hít hà:

– Vậy mà xưa nay tôi tưởng pháo chỉ để dành bắn phá sơ sơ rồi rút chạy.

– Nếu ta muốn bộ binh chiếm trận địa mà không có pháo ủng hộ thì số hi sinh sẽ cao lắm. Có những chiến trường ác liệt, Tư lịnh chiến trường yêu cầu mỗi thước vuông là một quả pháo đó anh Tám ạ.

– Trời đất, dữ vậy sao thầy?

– Bắn đến nổi không một hòn đất nào còn nguyên thì xe tăng, cơ giới mới đi lên, rồi bộ binh mới đi sau cùng, chỉ còn tỉa những tên ngoắc ngoải sống sót thôi.

Tám Giò trố mắt ra nhìn rồi vỗ đánh bốp vào bắp vế đen mun của y mà kêu lên:

– Nghe đả quá ! – rồi gải đầu tóc bùi xùi – nhìn lại mình chỉ có mấy cây CKC và súng ngựa trời, chông ba lá ! Tội nghiệp ba thằng Năm Cội, Năm Đầu Ban và Sáu Mã Tử giờ này ở đó đào cưa bom lép để chế địa lôi đánh xe tăng. Hổng biết cái xưởng của nó đã sản xuất được mấy trái?

Tôi thì tôi tội nghiệp cho đồng chí quận đội trường của tôi. Chỉ huy một quận chống với cái Đồng Dù Mỹ hiện đại nhất thế giới mà chỉ có ba cây súng trường ! Đảng là loại lãnh đạo gà mờ, phản khoa học nên bất chấp khoa học, đưa xương máu nhân dân ra làm vật thí nghiệm cho vũ khí Liên Xô . Dân Nam kỳ chết nhiều thì càng bớt đi cái mầm mống chống đảng. Càng tốt! Nhất là trong những cái thây ma kia, không có cái nào là con cháu của bộ chính trị hay của bộ trưởng thì thôi. Một lũ dân ngu mê tín Trung ương như một bầy trâu bị đốt đuôi cứ đâm đầu húc càn rồi cuối cùng ngã quỵ vì ngọn lửa của Trung ương buộc ở đít mình. Tám Giò là một trong bầy trâu ngây thơ đó. Tôi và Hai Khởi nữa.

Tôi đã dạy ở trường pháo miền Bắc, về Nam tôi dạy trường pháo binh R. Hai cái trường này khác nhau rất xa. Ở miền Bắc, học sinh có trình độ để thu nhận bài học. Thời đó ba cái lập trường giai cấp đã phai nhạt đi rồi. Vấn đề văn hóa được chú ý hơn. Không có học viên pháo binh với trình độ lớp hai lớp ba. Nhưng vào trường R thì ông bà bần cố loạn xà ngầu. Cũng may là trường chưa mãn khóa đã đóng cửa non vì B52. Bây giờ tôi lại phải dạy du kích bắn mục tiêu che khuất và bắn ứng dụng. Bắn ứng dụng là một lối bắn du kích phá cả qui luật của pháo binh. Nhưng lối bắn này được đề ra do nhu cầu chiến trường miền Nam và bố đẻ của nó là ông Trung tướng Tàu từng tham gia Vạn Lý Trường Chinh. Có các bộ bắn đứng nằm quì ngồi ôm nòng súng mà bắn. Tôi đã đích thân dẫn bọn thằng Tôn Sứt ra bắn thử ở nền đồn Bổ Túc cũ trên R. Phương pháp này rất nguy hiểm cho pháo thủ và không bảo đảm kết quả, nhưng đói ăn vụng túng làm càn là thế đó. Năm ăn năm thua, nhưng hãy anh dũng tiến lên!

Bạn là con nhà pháo hoặc chỉ là người thường, hãy tưởng tượng một khẩu cối 81 ty phải bắn cầu vòng, mà ở đây pháo thủ phải ôm nòng pháo bắn thẳng vào đồn hoặc vào nơi cụm quân thì khác biệt với thường lệ như thế nào?

Tôi thuyết cho Tám Giò nghe toàn những triển vọng, còn những khó khăn thì tôi không nói tới cho nên Tám Giò rất thích. Nghe xong y xòe bàn tay ra đập đập trên mặt bàn làm ly cốc nhảy tưng tưng và nói:

– Kỳ này phải đè đầu tụi Trung Hòa và Đồng Dù xuống mới được. Để nó vầy hoài thì mình không có lú lên mặt đất nổi. Hà hà … Tôi sẽ dẫn ông thầy vô Đồng Chà Dơ hoặc Bàu Đưng tập cho du kích bắn thử vài phát. Ở trong đó còn cái nền lô cốt và cái lò vôi. Mình lấy đó làm mục tiêu xạ kích.. Lúc này tụi Trung Hòa ỷ có Mỹ vô Đồng Dù, nên dám thọc vô Gò Nổi, Ràng, Lào Táo, Trung Hưng nằm lại đêm, buổi sáng mình đi lơn tơn ra, nó chĩa súng bắn êm rơ. Còn dưới Phú Hòa Đông nếu tụi Đồng Dù vô Cây Sộp hoặc Phú Hiệp tôi sẽ cho du kích nã vài phát cho nó co vòi lại.

Ông quận đội hớn hở ra mặt, đưa tay vỗ vai tôi thật mạnh để kết thúc câu nói:

– Vậy mà lâu nay ông Hai Giả không chịu nhúc nhích chút nào!

Hai Khởi hớt:

– Vấn đề bắn ứng dụng này chi có thầy Hai mới biết thôi! Trước khi về Nam ổng chỉ huy một khẩu đội pháo bắn cho các ông Liên Xô và Trung Quốc xem đấy. Ổng để ba phát sập ba cái lô cốt. Ổng bắn luôn ba phát nữa cháy luôn ba cái xe tăng chạy trên đường.

Tám Giò nhảy dựng lên.

– Úy trời xe tăng ở đâu vậy?

– Xe tăng giả do xe môlôtôva kẻo chạy trên đường và lô-cốt giả mình dựng lên ấy mà anh Tám.

Tám Giò ngồi ngớ ra, điếu thuốc trên môi run bần bật. Tôi thấy tội nghiệp ông quận đội trưởng lần nữa. Ổng đâu có kiến thức quân sự tí nào. Cứ việc kên mình lên hứng bom pháo cho vui lòng trung ương thôi. TôI nhìn ông ta mà có cảm tưởng đó là cô bán sữa với chiếc bình sữa trong thơ ngụ ngôn của La Fontaine. Chỉ có điều là cô bán sữa Tám Giò không có chỗ nhảy cỡn lên để làm rơi chiếc bình vỡ tung thôi!

Kết thúc thắng lợi 500% buổi thuyết trình pháo là bữa nhậu mắm cá con trộn địa đủ kèm thịt ba rọi luộc.Ông quận đội này chê rượu aniếc uống ngọt quá , mất mùi, nên bảo lấy món đặc sản đãi tôi.

Ông trỏ chai rượu Bảy Phấn vừa đem lên đặt trên bàn, hỏi tôi:

– Ông thầy còn nhớ rượu này không?

– Hồi ở miền Tây tôi có nếm qua thứ này.

– Đây là mít nghệ, nướng rồi bỏ vô rượu. Uống có mùi thơm của mít và không mất chất cay của rượu, không như aniếc của Sài gòn ngọt như chè, uống không ghé.

Hai Khởi là loại người giống Trần Bá Xài ở miền Tây và Hoàng Thọ ở miền Đông. Chỉ khác chỗ là Khởi mặc quần áo chớ không ở trần và phá mấy bà Bành như Hoàng Thọ và không có em vợ để gả cho tôi như Trần Bá Xài. Hai Khởi sanh ở Dầu Tiếng, làng 10, nói tiếng Nam còn lòi gốc rau muống.

– Anh Tám à ! Nhậu dưới hầm bực quá, mình lên sân thượng đi anh Tám.

– Không được đâu đồng chí. Pháo nó giã thình lình mình không có nhào kịp. Nó là thằng đui. Đồng chí không nhớ ngoài ngã ba Cây Điệp một trái pháo bay luôn hai vợ chồng mới cưới, ở Hố Bò… rồi ở Bàu Lách, Gò Nổi… đều xảy ra những vụ tương tự hay sao?

Nhậu nửa chừng, Tám Giò cụng ly với tôi và hỏi:

– Các cha mùa thu về trong này đồn chuyện này chuyện nọ của miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa nghe mệt quá, thầy Hai có chuyện gì mới mới nói nghe chơi cho khỏe gà chút coi!

Hai Khởi gật gù rồi nhướng nhướng mắt, nói giọng nhựa nhựa:

– Ở ngoải cũng như ở trỏng thì cũng chỉ có cái này là khỏe thôi anh Tám!

Hai Khởi giơ nắm tay lên. Tám Giò bật cười hô hố. Tôi không biết chuyện gì. Hai Khởi quay sang tôi đưa nắm tayquơ quơ: đầu ngón cái lú ra giữa ngón trỏ và ngón giữa. Tám Giò nói:

– Ở trong hay ở ngoài thì cũng chỉ có cái đó là chết người thôi. Hề… hề…

Tan tiệc Hai Khởi đưa tôi về một khúc. Trước khi rẽ sang ngã khác hắn bảo:

– Mấy cha nội này không biết pháo ghiếc gì đâu. Mà tôi nghĩ là tụi du kích này chỉ bắn vài phát lạy ông con ở bụi này. Tụi Mỹ cho xe tăng càn là mất súng.

Tôi xách theo gói mắm của Bảy Phấn cho gọi là mối thiện cảm. Nhưng theo luật tự nhiên của Củ Chi này thì cô nàng nấu bếp xinh xinh chắc chắn đã là con nuôi hay em nuôi của ai rồi.

Về tới nhà tôi ném gói mắm cho chị nuôi, rồi vác ba lô đi xuống bến tắm một phát tẩy trần. Ngồi trong cái hầm dơ dáy của ông quận, nhậu rượu mít với mắm, da như sần lên ngứa ngáy. Có lẽ lại bị ghẻ xốn như mấy cô em. Tôi bắt đầu cào bắp vế cào bên hông, ngoéo ra sau lưng chà lên cổ rồi cào tóc tai xửng lên như lông nhím.

Văn phòng tôi đóng ở ngoài rìa xóm gồm có nhà của ông ấp đội Tám lù đù, nhà vợ chồng Út và vài ba nóc nhà nữa. Tất cả người của cơ quan và dân xài chung một cái bến nước ở cuối một con dốc đá sỏi từ trên mé lộ đổ xuống nghiêng nghiêng như một cái mống cầu.

Hai bên dốc là dừa cau và cây ăn trái rợp mát. Ở bến này đậu thường trực chiếc ghe tam bản nhỏ của nhà Út dùng để qua lại sông Sài gòn chở lúa bên Thanh An về, nay H6 mượn bán thời gian để Út và thằng Đỏ đi chài cá ở con rạch Bến Mương này.

Tôi vừa đi vừa đá những hòn cuội cho nó rơi lăn lóc trước mặt tôi. Tiếng sỏi khua làm cho tôi nhớ truyện Les Etoiles của A. Daudet trong tập truyện viết ở Cối Xay Gió. Anh chàng ở đợ đem cơm lên cho cô chủ trên ngọn đồi bị mưa lũ không về được phải ở lại nhìn trời đếm sao với cô rất thơ mộng. Hai người tựa vào nhau, cô chủ ngủ yên… Bây giờ tôi cũng như gã ở đợ đó chăng. Cô chủ của tôi là ai? Tôi không mấy khi được rảnh rỗi để mà suy nghĩ mơ mộng vớ vẩn như hôm nay. Thiệt là hạnh phúc. Nhưng cái hạnh phúc vừa hiện tới bỗng biến tan ngay. Một tiếng kêu gần như thất thanh.

– Anh Hai !

– Đứa nào đó?

– Anh đi đâu vậy?

Tôi nhận ra Út. Nàng đang ẵm con đi về phía văn phòng. Thấy tôi không chú ý đến nàng, nàng đuổi theo sau bén gót. Tôi quát:

– Con nhỏ này đi đâu theo người ta vậy?

– Em đi coi ba sắp nhỏ chở lúa về chưa ?

– Lúa gì mà chở ?

– Em có năm công lúa chín bên Thanh An, ảnh qua đó gặt đập lấy hột đem về ăn.

– Bây đi vô nhà để đầm già phóng pháo chạy không kịp.

– Anh làm gì đuổi em vậy anh Hai.

Nghe cái giọng khác thường của người đàn bà, tôi quát:

– Đừng có theo tao nghe !

– Bộ anh giận em hả anh Hai?

– Giận gì! Bây lơ mơ tao mét thẳng nó đập mắc toi đó.

– Xí em không sợ ảnh đâu. – Út cứ theo sau tôi lằng nhằng – Sao anh cho con Mười đủ thứ hết vậy?

– Cho cái gì mà đủ thứ?

– Chỉ khai với em hết mà .

– Nè, đừng có bép xép cái miệng nghen. Coi vụ ông Hai Giả kia kìa. Bày đặt cho hung đó !

– Bày gì mà bày, con Hoàn nó kêu anh bằng ba trước mặt cơ quan còn gì nữa.

– Con bé nó thương tao nó đeo vậy thôi chớ ăn nhậu gì?

– Ăn nhậu sao không ăn nhậu. Chị Mười đi đâu cũng khoe anh là ba con Hoàn.

– Khoe thì khoe mắc mớ gì bây mà bây kèo nèo.

Tôi thấy sợ đàn bà thiệt tình cái một ta ơi! Hễ họ đeo thì dính. Mai Khanh, bà khu ủy, Lụa, Mười, rồi bây giờ hổng lẽ con quỷ này nữa. Nó mà chài mình thì sợ khó thoát. Cũng như Mười. Cô nàng không gạ mình tới hai câu, mà đã thế rồi. Lỡ lùm xùm ra mình trở thành một Hai Giả thứ hai.

Nghĩ vậy, tôi bảo:

– Anh tội nghiệp mẹ con con Hoàn. Bằng ấy tuổi đã mẹ góa con côi.

– Xí! Thân anh, anh không lo để lo chuyện bao đồng. Em muốn nói với anh một chuyện mà sợ anh rầy.

Tôi nghiêm sắc mặt:

– Nè, hổng có nói chuyện bậy bạ nghe!

Con nhỏ mình dây, gương mặt trái xoan có vẻ lanh lợi chớ không thiệt thà như má con Hoàn. Cả hai đều đẹp cả, nếu phải chọn lựa giữa hai người đàn bà này thì tôi phải suy xét cân đo kỹ lắm mới ngã về phía Mười. Tôi bảo:

– Em không nên nói chuyện gì hết! Để cho anh làm việc!

Út bồng con lẽ o đẽo theo tôi hoài. Đến bến nước tôi quát:

– Tao ngồi đây tao chờ thằng chồng bây về tao mét nó trấn nước bây luôn. .

Út cứ nói xơn xớt:

– Em không sợ ảnh đâu!

-Vợ mà không sợ chồng là gia đình không có hạnh phúc

– Chuyện gì thì em sợ chớ chuyện này em không sợ đâu. Em có bàn với ảnh rồi mà ! Ảnh rất đồng ý.

-Trời đất!..

Tôi chưa kịp nói hết thì Út tươm tướp:

– Ảnh bảo là phải lấy được của anh một đứa con cho dòng họ em, chớ ảnh thì con cái không khôn được.

– Thằng! Tao sẽ tống nó ra khỏi cơ quan nếu nó có ý định kỳ cục đó.

Bỗng thấy một chiếc xuồng lướt tới, tôi kêu lên:

– Nó về kìa! Tao cho hai vợ chồng bây một trận!

Thằng Đỏ ngồi ở mũi xuồng, vẫy tay la lên, tiếng của nó vang vang trên dòng sông yên lặng:

– Cá tôm quá sá ngán anh Hai ơi!

Út bơi lái cặp mũi vào chiếc cầu làm bằng một cánh cửa nhà ai lổ chổ vết đạn. Thằng Út nhảy lên còn Đỏ ở lại xuồng:

– Anh Út vải có bốn chài mà được bấy nhiêu đó !

Út leo lên ẵm con cho vợ xuống phụ với thằng Đỏ hốt tôm cá . Út vừa bỏ tôm cá vào rổ, vừa ngước lên nói với chồng:

– Ba con bé nói với anh Hai chuyện đó đi!

Út bảo vợ.

– Má mày nói đi, tui mắc cỡ miệng quá hè, má nó nói trước rồi tôi tiếp cho! Tui đồng ý lâu rồi!

Tôi nghĩ thầm: sao lại có loại đàn ông dám hi sinh vợ mình như thế. Và sao lại có loại đàn bà…

Hai vợ chồng đổ qua đổ lại không ai chịu vô đề. Còn tôi chờ chúng nói thì tôi quạt cho một mách. Cuối cùng vợ Út mở miệng:

– Con Mót không thua đứa nào ở Củ Chi này hết anh Hai ạ !

Út chồng nói thêm:

– Anh Hai chịu thì đẻ con khôn phải biết. Để chừng nào nó về phép sẽ tính. Nó lại ca vọng cổ mùi lắm anh ạ. Do đó Văn công R bắt nó lên trển.

– À ra thế!

Thiên hạ muốn lấy giống ông thầy pháo chứ chẳng phải chuyện kia. Tôi khen hai vợ chồng Út rồi bảo Đỏ đem tôm cá về cơ quan. Vợ Út đã đi còn nói với lại:

– Em có mua cục xà bông thơm giắt ở kẹt bẹ dừa tơ, anh lấy mà tắm!

Tôi nhìn theo hai vợ chống bế con đi lên dốc. Vợ đi sau đùa giỡn với đứa bé gác đầu trên vai chồng nhe mấy cái răng sữa cười và quơ quơ hai bàn tay chụp tóc mẹ. Tôi chỉ ước mơ một cái hạnh phúc đơn sơ như thế từ bao nhiêu năm nay mà không được. Cứ thấy nhấp nhoáng đó rồi mất. Giá nó đến như thằng Hùng, má cưới vợ rồi dắt lên cho…

Bây giờ chắc nó đã có con rồi. Còn mình cứ như bị án tử hình treo sắp chém nhưng chưa biết ngày nào. Yêu tất cả là chẳng yêu ai, và không được gì cả.

Tôi ra ngồi trên chiếc cầu bắc nhô ra mặt nước bên tàng cây rậm ri. Hình như chưa bao giờ được hưởng một yên tĩnh của thiên nhiên như hôm nay. Pháo phiếc, máy bay máy biếc hình như cũng chìu lòng khách chinh phu: Bắn làm gì cho nát thêm không gian vốn đã vỡ từ hàng chục năm nay rồi. Bắn làm gì, khi đã phí bao nhiêu tấn thuốc nổ rồi mà nó vẫn còn nguyên đây! Hãy nên làm lành với nhau cho con người bớt đau đớn, cho trẻ con không mất cha, cho đàn bà không mất chồng vô ích. Rồi ra đâu cũng vào đấy mà thôi, chẳng ai thắng được ai. Tôi ê ẫm, chán ngán đến cực độ. Tôi không muốn gì nữa hết. Dòng sông này yên lành trong mát quá. Tôi thèm sống lại tuổi ấu thơ với những trận thủy chiến oai hùng với những nắm bùn tung vào mặt nhau, với những phát lặn nín hơi đứt thở, đả đời. Tôi muốn ôm chiếc bộp lá thả bập bềnh theo dòng nước trôi đến ngoại càn khôn để sống ở ngoài cái vung úp của thượng đế, nơi đó tôi sẽ được yên tĩnh vui sống với cỏ cây, làm bạn với cầm thú.

Bầu trời xanh ngắt cao vút trên vòm cây in bóng dưới đáy sông lung linh. Ở dưới đó có một thế giới nào yên tỉnh không? Tôi sẽ mua vé tốc hành đi xuống. Tôi sẽ tuột bỏ hết mọi cái ở trên đời này, nào H6, nào thủ trưởng, nào đảng ủy để sánh đôi với một người con gái nào lặn xuống dưới kia . Ở đó chúng tôi có một căn nhà như cái chòi của thằng Hùng, một cái nhà như của bà khu ủy, một cái quán như của Chia… một cái giường và một cái bếp bên cạnh bàn ăn… Sao ta không chịu quyết định cho rồi nhỉ? Tôi tự hỏi tôi, nhưng không có câu trá lời nào đến với tôi cả.

Tôi nhìn những nhánh cây mắm sà sát đong đưa như hôn mặt nước. Mấy con chim lông lá sặc sỡ bay chuyền đuổi nhau âu yếm trong lúc dưới nước những bầy cá lòng tong lội nhởn nhơ trong vũng bóng xanh đen làm mặt nước gợn lên lăn tăn như hơi thở nhẹ của đất trời vốn mệt mỏi, luôn đắm mình trong giấc ngủ đầy ác mộng, chiều nay mới thấy được giây phút bình yên.

Tôi nhặt lấy mấy hòn sỏi cầm nơi tay. À, đây là những hòn sỏi của Daudet đã từng rơi trên tim tôi và gây một nỗi niềm đau khổ nho nhỏ… trong tôi. Tôi ném nó thành những vòng cầu, tiếng lõm bõm vang lên trong không gian vắng lặng. Có đến mấy tiếng đồng hồ khi chui vào cái hang cá trê tới bây giờ không nghe tiếng bom pháo nào gần. quanh đây. Giá mà có cuốn truyện.Tàu nằm ngửa ra bãi cỏ này mà đọc rồi đánh một giấc tới tối thức dậy có lẽ thành tiên mất.

Đang thả hồn theo mơ ước viễn vông thì có tiếng sỏi khua sau lưng. Tôi quay lại. Thì ra cô y tá Lam (đúng tên cô là Út Lan nhưng vì nhiều Lan quá, xin tạm gọi là Lam để khỏi lẫn lộn vì tất cả các cô Lan sẽ tái xuất hiện sau này ) Trời đất đang im lặng, bỗng xáo trộn. Làm ở C5 quân y của Tư Chuyền ở trên Phú Mỹ Hưng mới thuyên chuyển về trung đội trinh sát của H6 được vài ngày. Cô bé này thông minh nhưng chưa có trình độ học y tá, chỉ tạm công tác cứu thương. Vì hiện tại H6 không có y tá cứu thương gì cả. Nàng có nước da trắng như Mười, nhưng cao hơn tí. Nói chung là được bốn điểm Liên Xô.

-Đi đâu vậy Lam?

– Đi tìm anh chớ đi đâu? Có người cần gặp anh.

Lam vừa nói vừa bước ra cầu. Sợ có chuyện hỏa tốc, tôi hỏi.

– Bộ ông Năm Lê cho người gọi hả?

– Không! người khác? – vừa nói Lam vừa đến gần tôi – Anh uống rượu cho hung vào không tốt đâu.

– Gặp vui anh uống chơi vài ly chớ có bao giờ say đâu.

– Vài ly mà gọi là chơi à! Em từng thấy mấy chú uống đua hết chai này qua chai khác rồi còn thách nhau uống bằng lỗ mũi nữa. Sặc có cái đứng tim chớ không đùa đâu? -Lam nhìn tôi rồi nói – Anh sắp có ghẻ xốn rồi đó.

Lam giỗ áo tôi một cách tự nhiên như y tá thăm bệnh nhân.

– Sao em biết?

– Nhìn da của anh nổi lác đác vài nơi ở lưng nè. Bị lây của mấy bà Út Nhỡ, Bảy Nê rồi!

– Ba cái thứ đó lấy nước chanh pha với vôi phết sơ thi hết chớ gì !

Thấy Lam ngồi sau sát lưng, tôi bảo:

– Đi về cơ quan lấy kim ống vô chích cho chị Ba một mũi quinimax.

– Chà, coi bộ anh săn sóc chị Ba dữ he!

– Cái miệng nói bậy đi!

– Săn sóc bà chị để bắt cô em, em biết mà . Cô em dũng sĩ toàn miền Nam lại đẹp!

– Rồi sao?

– Có sao đâu ! Lam dầu mỏ làm duyên với tôi – Gia đình đó địa chủ không hợp với cách mạng đâu!

– Cô Bảy chiến đấu dũng cảm như vậy, hai người anh rể một hi sinh trong cuộc chiến tranh trước, một trong cuộc chiến tranh này không đủ thay đổi thành phần cô ta hay sao?

– Anh đưa cho em coi có ghẻ xốn không?

Thấy tôi hơi cáu, Lam đánh trống lãng.

– Đã bảo là tôi không có sợ thứ đó mà !

– Nhưng em là y tá em có nhiệm vụ săn sóc thủ trưởng.

– Để tôi tắm rồi về văn phòng đã.

Tôi vừa nói vừa cởi áo ra nhảy xuống nước lặn một hơi rồi trồi lên.

– Em định hỏi anh mấy chữ Tây chữ Tà ôn binh gì khó đọc quá hà.

– Chữ gì?

– Xích-nin, xích niết gì đó.

– Strychinine ! thuốc chích cho ăn cơm ngon.

– Còn Sa-lít-lát gì nữa?

– Salicylate để trị nhức khớp xương. Em đi lên cây dừa tơ mò trong bẹ lấy cục xà bông thơm đem xuống đây dùm.

Tôi bảo nàng và ôm cột cầu nghễnh mặt lên chờ. Nhờ vậy tôi mới thấy được một nét đặc biệt: nàng có cặp chân lư một chút. Nhưng điều đó không làm giảm đi nét duyên dáng của nàng. Lam trở lại vá vá cục xà bông chưa lột vỏ:

– Em biết của ai.

– Nói bậy đi. Nó coi tao như anh nó đó !

Lam cười hí hí:

– Thì cũng như anh ruột của chị Lụa chị Là.

– Hai vợ chồng nó định gã con em Văn Công R cho tao đó!

– Ở trên Rờ còn sao nổi mà còn?

Lam vừa nói vừa mở hộp lấy cục xà bông ra cầm tay và bảo:

– Đưa đầu anh đây cho em chà !

Không chờ tôi phản ứng, Lam ngồi xuống quay lia lịa. Vừa chà vừa nói huyên thiên:

– Chị Là với hai cô Nga nghịch nhau dữ lắm. Cô Nga nhỏ thì nghịch nhiều hơn. Anh có băng ngón chân cái của cổ phải không? Có chút vậy mà cổ đi khoe khắp cái xã Phú Mỹ Hưng. Hễ ngồi nói chuyện với bạn trai bạn gái một lát là cổ đá hất chân lên nói: “Anh Hai không có học cứu thương mà ảnh băng giỏi ghê… Tên thuốc Tây ảnh đọc chạy hơn chú Tư Chuyền.” Bà Nga lớn ghét cổ ghê lắm. Hồi trước hai chị em như hình với bóng, bây giờ như chó với mèo. Anh có cái ống dòm bỏ đâu rồi anh Hai?

– Ở nhà chớ đâu? – Tôi vừa nói, hụp xuống nước rồi trồi lên xua tay.- Thôi đủ rồi ! Đừng có chà nữa.

Lam bảo:

– Còn chà khắp người nữa chớ. Ghẻ xốn đâu có mọc trên đầu. .

Tôi nghĩ thầm: tụi y tá là chai nhất, kế đó là văn công. Y tá thì đã quen nhìn cơ thể trần truồng nên không biết mắc cỡ. Còn văn công thì quen khóc cười giả trên sân khấu nên ở ngoài đời khi họ khóc cười cũng pha sân khấu khó bề mà biết được. Má văn công, mông y tá mà!

Tôi ngại mặc quần tiều ướt mà đứng trước mặt con gái, nhưng cô nàng thì cứ nói xơn xơn:

– Thân hình anh giống chữ V.

– Đừng cho giống chữ Dê nghe cô em?

– Em đâu dám. Đưa lưng đây em chà tiếp.

– Chà lưng thôi, rồi đi tránh đi để người ta lên thay đồ.

– Thay thì thay chớ mắc mớ gì em phải đi tránh – Lam lại tiếp tục câu chuyện Chị Là khoe với em hết trơn. Lần nào em ra nhà chị Lụa xin muối nước mắm, gặp chỉ, chỉ cũng kéo xuống hầm nói chuyện dẽo nhẹo không cho về . Chỉ bảo anh ngủ trong cái ngách này, chỉ ngủ ngách bên kia. Chỉ còn khoe anh leo dừa giỏi nữa… Hí hí, có hôn? Anh có leo cây dừa bên hiên nhà không?

– Không, tôi không biết leo dừa leo cau gì hết.

– Anh thiệt chối hôn, em khai ra cho coi nè .

– Có leo thì đã sao nào?

0 Leo dừa như anh thì cũng nên leo chớ ! Chị Là rắn mắc quá trời. Chỉ làm vậy không sợ anh buông tay hay sao?

Tôi giật mình: cô xã đội phố không bị ai khảo mà khai hết. Tôi chưa kịp chối thì Lam dồn tới:

– Anh có đi với chỉ xem hầm gì ở Hố Bò phải không?

– Hầm nhiều lắm không nhớ cái nào.

– Nhưng cái nào chỉ cho anh xem anh không quên – Lam nhấn mạnh mấy tiếng cho anh xem và tiếp . Chỉ cho anh xuống thử nữa có không? Ờ, ờ, chỉ bảo là hầm của chỉ còn mới nguyên mà !

Con nhỏ này lém thiệt. Nó biết cách xài biểu tượng hai mặt của văn chương chớ phải chơi đâu. Lam lại kéo dây dài nhằng nhằng:

– Em nghe mấy bà Nga nói anh có ống dòm dòm thấu vải nữa !

– Đó là anh gạt tụi nó chơi, chớ ống dòm gì lạ vậy.

– Ống dòm thấu vải mà người ta đứng sầm sầm đó không thấy .

– Ai?

– Em chớ ai ! Bữa mấy bà Nga với ông Tư Chuyền thằng Quảnh đãi anh khoai mì luộc rồi ông Tư Chuyền xin anh đánh Mỹ lấy cho ông cây dù che hầm lúc giải phẫu, em đứng kế đó chớ đâu mà anh đâu có thèm để ý, vì mắc lo cười với hai bà Nga kia cà ! – Lam thò tay xuống đấm vào vai tôi hai ba cái và nghiến răng – Hai con nhỏ đó động trời chớ không có hiền đâu. Con lớn thì đã đành, còn con nhỏ thì làm bộ ngây thơ chớ không có con nào còn nguyên đâu, em nói cho!

– Chậc! chuyện của người ta.

– Ừ, em nói cho mà biết! để người ta mó vào rồi khóc không ra tiếng ! Thôi leo lên đi để ở dưới cá nốc nó rỉa… chết!

Nghe Lam nói, tôi hoảng hồn vọt lên cầu, vì ở miền Tây tôi có chứng kiến một anh cán bộ bị cá nốc xơi mất một miếng của quí. Lam moi ba lô lấy khăn và quần áo đưa cho tôi lau và thay. Tôi quảy ba lô đi trở lên, Lam theo bén gót.

– Anh Hai, anh ở đây nghe em nói chuyện này chút nữa.

– Thôi bỏ ba cái chuyện linh tinh đó đi !

– Thằng cha Tư Chuyền, già không bỏ nhỏ không tha. Hồi em với hai con Lan ở Q Hai Chòi tức trường Tân binh đóng ở Lộc Thuận, em mê giải phóng lắm. Đến chừng về C5 của ông già ó đâm đó thì em bắt đầu chán rồi. Thằng chả ỷ là thủ trướng quân y nên nói oang oang hầu như công khai: “Đứa nào cho tao ngủ, tao cho học y tá !”

Tôi thấy xấu hổ lây, nên gạt ngang:

– Ổng nói vậy là ngủ chung hầm cũng như anh với em ngủ chung nhà vậy thôi. . .

– Hổng phải đâu! Ổng nói: Đứa nào cho tao ngủ chớ không phải ngủ chung hầm. Mà con gái ngủ chung hầm với đàn ông cũng không được. Huống chi ngủ với đàn ông. Anh đã từng ngủ võng hai_từng chưa?

– Rồi, ủa chưa! … Đâu có ai chịu ngủ chung với anh ngoài thằng Đô.

Lam gọi với. giọng khác thường.

– Anh Hai à ! Anh không thấy gì hết à !

– Thấy gì ?

– Anh không thấy ai đây sao?

– Cô Lam !

– Cái ống dòm của anh xuyên qua vải, chắc cũng xuyên qua thịt em nữa. Anh sẽ thấy trái tim em.

Tôi quay lại. Lam ôm chầm lấy tôi và hôn lên mặt tôi như những quả pháo chụp tí hon mà mỗi phát tôi tưởng đã rút một miếng thịt. Nàng làm cho tôi phải thích nghi một cách tích cực trở lại, Sự tấn công của tôi còn mạnh bạo hơn nhiều. Đến nổi nàng. phải buông tôi ra. Lần này thì chính tôi lại quấn lấy nàng. Nàng đứng im và thở hào hển nóng bỏng vào mặt tôi:

– Em cho anh tất cả, em… em cho anh. .

Tôi dìu nàng lại một gốc cây xa đường mòn. Hai đứa đâu mặt với nhau: thủ trưởng và nhân viên. Không sợ gì cá. Kẻ không có vợ người chằng có chồng. Vũ khí đã sắn sàng, sợ gì mà không tác chiến. Tôi cúi xuống, nàng ôm miết đầu tôi vào và rên khe khẽ:

– Của anh đó . . . của anh đó .

Da thịt con gái tuyệt trần. Tôi đã thưởng thức hết bao lần hương vị cửa những đóa hoa vừa hé nụ, nhưng lần nào tôi cũng tướng chỉ là lần đầu. Tôi ngẩng lên:

– Em thương anh để làm gì vậy Lam? Anh không có sống lâu đâu.

Lam bịt miệng tôi bằng những ngón tay thơm ngát mùi xà bông. Tôi ghịt vào và nói qua kẻ tay nàng:

– Anh nói thật đấy. Yêu anh rồi em sẽ như cô Mười, cô Lụa, cô Tám Mang và bao nhiêu cô khác.

– Một đêm người ngọc dựa kề, còn hơn mãn kiếp bên thằng thất phu.

Tôi tung biệt kích xuống vùng đồi hoang. Vừa mới đụng mép địa đạo thì nàng chặn tay tôi lại và quắc mắt:

– Đừng anh! Chuyện đó phải chờ cưới hỏi xong đã.

– Anh phủi cũng lên bàn thờ nay mai nè, ở đó mà chờ cưới hỏi.

– Anh nói gỡ không hè !

– Cái H6 này xui lắm!

– Nó ít hoạt động thì có chứ xui gì đâu !

– Ông Giả đi luôn rồi!

– Hả?

– Ừ thiệt đó. Anh thay cho ổng, rồi anh cũng sẽ theo ổng thôi.

– Em mới tới nhà bả để mua rượu về thay cho cồn đây.

– Bả đâu có biết gì!

Tôi tưởng nêu cái cớ đó ra để nàng không cố thủ nữa, nhưng nàng nói:

– Vậy để em rước má em vô gấp.

– Chi vậy?

– Để biết mặt anh và làm đám cưới luôn!

Tôi nhìn nàng nàng trân trân. Mới vừa quan hệ nhau lại làm đám cưới? Quả thật lối sống yêu cuồng sống vội đã lan tràn khắp Củ Chi. Ở đâu cũng nghe nói đến những cái chết rùng rợn và những vụ phá thai ly kỳ . Người ta sợ cái chết đến bất ngờ nên quơ hốt ngay những gì có thể quơ hết, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, càng sớm càng tốt. Nàng thỏ thẻ:

– Má em phong kiến dữ lắm. Ngày em xách gói đi tân binh má em biết không cản được em nên dặn dò chớ có cho thanh niên đụng tay đụng chân. Chớ có bày đặt văn minh bắt tay người khác. Đàn ông con trai có bùa ngài quyến rũ đàn bà con gái dễ dàng. Mày đi mang cái trống chầu về tao chôn sống. Em sợ má em lắm, không dám sai lời. Cho nên khi em thấy hai con Nga bu theo anh thì em càng đứng nép trong bếp.

– Em thương anh hồi nào?

– Hồi anh ngồi ăn khoai mì luộc. Cái miệng này sao có duyên thấy trời. Em thấy muốn cắn quá đi.

– Thì bây giờ anh cho em đó.

Nàng vồ lấy tôi hôn bất kể, vừa hôn vừa nghiến răng:

– Của em, của em!

Trời chiều bóng cây sẩm xuống âm u. Chúng tôi đứng dậy để ra về, nhưng không về được. Hai đứa đứng đâu mặt nhau rất lâu. Hai đôi tay ôm hai thân mình xiết vào nhau, để cho mọi thứ vũ khí tấn công lẫn phòng ngự có dịp đối đầu nhau gầm gừ chờ sát hại nhau khi lớp giới tuyến mong manh được cuốn dẹp. Nhưng mặc dù bị con bướm bay liệng rà sát mà cái nhụy hoa nàng vẫn ém kỷ. Bỗng bùm! bùm! băm!

Tiếng nổ lạ lùng. Tai nhà pháo biết không phải bom hoặc rốc-kết. Một chiếc máy bay có vẻ như là B26. Nó như con dơi quạ khổng lồ vừa bay qua để lại một dư âm động trời rung đất. Nó bay quần hai vòng và bùm! bùm? bùm! sau những cái chớp sáng lòa rồi biến mất. Lam hỏi tôi:

– Máy bay gì kỳ vậy anh?

– Ôi, thứ đầm già cải tiến ! (Tôi nói như xe ba gác xe thồ cải tiến miền Bắc.)

– Nó làm gì nghe bùm bùm vậy?

Tôi đẩy cây tuốt luốt.

– Máy nó sắp hỏng, nó không bay về Sài gòn được nên cứ bay vòng vòng!

Sự thực thì đó là máy bay Mauhawk, bán phản lực, hai động cơ bay chụp hình ban đêm. Thứ này đến đâu thì sau đó vài ngày B52 tới. Tôi đã tỉnh giấc mơ hoa trong buổi hoàng hôn mờ ảo.

– Thôi đi về em!

Khi hai người trở về trần gian thì đã thấy chúng sinh lóc nhóc ở tại nhà ăn quanh mâm cơm đạm bạc. Mười vừa thấy tôi là bảo bé Hoàn:

– Ba về kìa con ! – rồi trách tôi – Anh đi đâu cho con đi tìm kiếm khắp nơi vậy?

– Anh đi coi cái bến.

Út cũng có mặt ở đó, nghe Mười nói thì trừng mắt:

– A/nh đi tắm mà có gạc-đờ-co đi theo thiệt là bánh ghê !

Tôi bế bé Hoàn vừa chạy tới tôi và đính chánh:

– Cái bến của mình ai thả trôi lều bều. Nó mà trôi ra tới sông thì tụi giang thuyền sẽ biết ngay trong rạch có cơ quan rồi thế nào cũng ăn bom pháo cho coi. Chắc của mấy ông cơ quan quân đội chớ không ai.

Lam bị châm chọc, sừng sộ:

– Tôi không có đi gác cho ảnh tắm đâu. Ở trên có chỉ thị trị ghẻ xốn cho các thủ trưởng cơ quan và chiến sĩ để nó lây tùm lum ra đó.

Những cặp mắt tóe ra những tia lửa căm hờn mà tôi là nguyên nhân. Út ức vì con nàng không được tôi nâng niu, còn Lam thì lại bực mình vì Mười gọi tôi bằng anh đàng hoàng trong lúc con nàng lại gọi tôi bằng ba trước mặt mọi người.

Nàng nói mát:

– Anh Hai chưa có vợ mà lại có con.

Mười không chịu thua:

– Ảnh là ba của nó đó cô y tá của ông Tư Chuyền à ! Cô kiếm đứa con đi rồi kêu ảnh làm ba nó.

Lần đầu tiên tôi thấy nàng hung dữ.

Chương 55 Những trái tim bốc lửa và những giọt nước mắt giá băng

Tôi về đến cái hầm cá trê eo hẹp thì tôi thấy trên bàn ba chiếc phong bì và một gói giấy tươm mỡ to bằng chiếc gối đệm. Tôi mở ngay các bức thư mà tôi đoán được tác giả khi liếc qua các dòng chữ. Cô xã đội phó viết:

(như quát vào tai tôi. Tôi hình dung gương ít giận dữ của nàng):

Anh Hai!

Bộ anh ngon cơm ngọt canh ở đất Bến Mương rồi hả ? nên không thấy anh về. Anh có biết là cô Tám Mang đã có chồng mà chồng bị thương cụt hai chân nên cổ bỏ luôn đó. Anh liệu mà đi vào. Chỗ đó xui lắm. Anh coi chừng đó. Em đã nhắn má về mấy lần. Má nói má sẽ về khi bên này bớt bom pháo. Anh ở dưới đó có dừa uống không? Có thèm thì cũng ráng về trèo dừa nhà chớ đừng có uống nước dừa lạ nghe anh. . .

Ua thì viết khác hẳn, với giọng của một kẻ trăn trối:

Đời em kể như đã chấm dứt từ hôm chia tay với anh. Em không còn mơ ước gì nữa ngoài việc gặp anh lần cuối cùng để em lao mình vào địa ngục. Mọi việc sẽ xảy ra y như em nói. Vĩnh biệt anh.

Chìa thì với giọng nhớ nhung nôn nóng:

Không có anh, tụi em họp nhau nhắn nhở chuyện qua. Con Nhánh con Biếc chỉ mong anh xuống để xin bắn mấy phát K54. Còn em, tôi ngày cứ đi ra đi vào cửa ngóng ngoài đường. Ai mặc áo con đỉa đi vào em cũng ngỡ là anh. Người ta mua đồ em thối tiền cứ lộn, má rầy hoài. Má bảo: “Mày ngồi đâu ngồi chết đó, làm gì quên nấy. ” Anh có biết, hồn em đã đi theo anh từ bữa ấy rồi. Em chỉ còn cái xác ở nhà. Chú Sáu nói có gặp anh, sao anh không nhắn gì với chú hết vậy. Một tiếng “thăm em mạnh giỏi” cũng không. Anh đã quên em rồi sao ? Em biết anh bận lắm, nhưng bận gì đến đổi không viết được cho em mấy chữ? Anh về thăm em sớm sớm nghen. Nếu trể chắc không còn gặp em đâu. Dì Ba đã thúc má em dời ra quận ở buôn bán khỏe hơn, nhưng má em còn chần chờ để gặp anh tính cho xong việc chúng mình rồi mới đi. Hàng ngày dì Ba thấy Mỹ đến Đồng Dù càng đông thì càng nôn nóng. Ngoại cũng sẽ đi. Anh về có thể chỉ còn trông thấy cái hầm và cái nhà hoang không có em, không có má cũng không có ngoại nữa. Không có ai ở đó hết ngoài những kỷ niệm của chúng ta… Nhưng có lẽ em cũng đã mang theo hết với em cùng với hình ảnh dấu tay và tiếng nói của anh… Em của anh.

Bất giác tôi nghe gò má nóng hổi. Tôi quệt ngang và nhủi đầu vào võng. Tôi thức dậy thì thấy ngọn đèn dầu Alcool de Menthe đã lóe lên hồi nào. Chắc thằng Đỏ đã thắp cho thủ trường. Tôi ngồi dậy móc giấy trong xắc-cốt ra làm việc.

Lớp học pháo binh mới phác qua có cái sườn. Còn giáo án thì tôi đã phân công cho các bộ, phần thảo và trình tôi duyệt. Một đơn vị pháo chuyên nghiệp gồm trên năm trăm người lâu nay còn tê liệt không hoạt động được, thì các ông bà du kích i-tờ ham súng nhưng không biết rành toán cộng thì làm sao sử dụng loại vũ khí khoa học này. Nhưng tôi phải thực hành, trước nhất là để vui lòng cấp trên. Và có lẽ chỉ để vui lòng cấp trên, ngoài ra nhìn vào kết quả và thành tích sẽ đạt được thì thật là mong manh.

Tư Kỹ, học trò của tôi ở trường pháo binh MB vừa được R điều động xuống đây là cán bộ giỏi lý luận nhất của đơn vị này, đã nộp cho tôi bản giáo án khá đầy đủ:

Thứ nhất – Phương pháp đo cự ly bằng công thức ly giác. Bài này chỉ giới thiệu sơ lược, không giảng chi tiết, vì học viên yếu toán. Nếu ai khá toán sẽ dạy riêng. Cần có thêm ống dòm để tập học viên sử dụng. Giải thích dụng cụ , phương hướng bàn cho họ làm quen.

Thứ hai – Trọng tâm là phương pháp đo thước dây, đo bằng bước chân, hoặc tầm đo ruộng, hoặc đo bằng bánh xe đạp. Tận dụng sáng kiến đo đạc của học viên. Phải đo ít nhất ba lần để lấy trung bình. Phán đoán nơi giặc đổ quân, cụm quân để đặt súng cối trước, chờ địch đến đúng cự ly thì nhả đạn v.v…

Nghĩa là coi khoa học và sự chính xác, hai yếu tố quan trọng bậc nhất của pháo binh không ra cái thá gì hết. Sai một ly đi một dậm. Câu nói đó có thể áp dụng cho pháo binh. Như đã thấy ở câu chuyện với các cán bộ Trung đoàn tại trường Trung Sơ, ông Hai Nhã Tư lệnh pháo binh R đã đấm lưng bộ binh đến nỗi trước khi ra trận, bộ binh hỏi có pháo binh yểm trợ không? Nếu có thì họ mất tinh thần chiến đấu ngay. Tôi biết vậy, nhưng không làm gì được. Nếu trình bày khó khăn thì ở trên bảo tìm cách khắc phục. Có những khó khăn không thể khắc phục bằng lập trường hoặc quyết tâm được.

Tôi bật cười to khi nhớ đến ông huấn luyện viên pháo cù lự Chín Hung. Tôi cho gọi Tư Kỹ tới, khen y và hỏi:

– Cậu giữ cấp bậc thiếu úy mấy năm rồi?

– Từ 61 đến nay.

– Như vậy không thôi.

(Tôi muốn nói tiếp: dân Nam kỳ lên được một cấp bậc cái đầu phải trọc ba lớp tóc, nhưng tôi tự chế kịp.)

Tôi quyết phá tan cái không khí xót xa kêu réo từ nhữngbức thư nên kêu sắp nhỏ nấu trà uống giữ Tư Kỹ ở lại bàn thêm công chuyện về lớp phá o binh nhân dân. Uống chưa cạn bình thứ nhất bỗng nghe có tiếng chân đi rầm rập tới gần.

Tư Kỹ bước lên khỏi hầm và quát to:

– Mấy ông thần nào tới đó?

– Có thầy Hai ở nhà không?

Tôi nghe tiếng trả lời thì biết là Ba Tố.

– Ông chánh trị viên dê tám đó hả ?

Ba Tố dắt một dọc ba người theo sau và kêu lên:

– Hầm hố thế này khác nào hộp cá mòi đứng, làm sao nhậu được?

– Tội có địa điểm tốt chớ anh Ba. Ơ kìa Tôn ! Sao lại lọt xuống đây?

– Tôi tưởng thầy quên tôi rồi chớ. Lý do lọt xuống để báo cáo sau.

Ba Tố cười hà hà :

– M79 đồn Bổ Túc nó làm dấu mày một phát trên môi, ai mà quên được.

Trong khi chờ chị nuôi làm thịt con gà do phái đoàn của Ba Tố đem tới, tôi hỏi chuyện Tôn Sứt trên R. Tôn Sứt nói:

– Bây giờ trên đó không còn thoải mái, khi Suối Dây khi Lộ Ái lúc cầu Cần Đăng nữa đâu. Bị B52 tan hết rồi. Nó rắc dưa hàng ngày mà anh. Tụi này đội mãi rồi lý ra.

– Bùi Khanh đâu?

– Ổng không chịu xuống đồng bằng như tụi tôi mà lại cho trấn nhậm Kà Tum.

– Làm gì ?

– Xã đội trưởớng thay ông Một!

– Trời đất! trung đoàn phó xuống làm xã đội trưởng?

– Cách mạng phân công thì phải làm chớ sao anh?

– Còn con Huê con Tiến?

– Loạn xà ngầu hết rồi, không ai còn biết ai là ai nữa. Lâu rồi tôi không gặp tụi nó. Tội nghiệp thằng con của con Huê kháu quá. Không có sữa đâu mà uống? Còn bà Mai Khanh thì đã lên chức chánh ủy.

– Chánh ủy gì?

– Bà chánh ủy. Nói vậy chớ bả được ông Tư Khanh cho làm chính trị viên bệnh xá của U lâu rồi. Ổng nói đó là sự đãi ngộ công trạng của một liệt sĩ là ông Chín Việt hi sinh trong trận đánh hụt đồn Bổ Túc với tôi. Nấm mộ của ổng chắc đã bị heo rừng ủi láng rồi. Nhờ công lao của ổng mà bả được cấp trên cất nhắc… giúp đỡ và huấn luyện đêm ngày!

Tôn Sứt cười làm vết thẹo trên môi giật giật, hắn hớp nước trà thấm giọng và tiếp:

-Từ sau cái đại hội mừng công, B52 đến hàng ngày. Nó đeo sát R và các công trường 5, 7, 9. Nhiều cơ quan đã vọt hẳn qua Miền, vài bộ phận còn chàng hảng giữa biên giới, hễ động thì vọt, hễ yên thì về, một kiểng hai quê.

Thằng Hùng dợm nói nhưng bị Tôn Sứt cản:

– Để tao báo cáo hết đã. Bà chánh ủy gởi lời thăm anh nghe. Bả còn nói thêm là nhờ anh lần đó cho nên bả cảm, ủa, bả hết cảm. Nếu không có anh…

Thằng Hùng cắt ngang.

– Thì chắc bả xí lắc léo rồi! Còn bà khu ủy. Bả gặp tôi bả tra hạch còn hơn công an nữa. Coi bộ bả buồn tình ghê lắm. Tôi xem qua nét mặt bả tôi lo cho anh quá hà ! Anh cắm trái dừa kỳ rồi dám lên mọng lắm.

– Bậy nào! Tao đâu có làm gì bả.

– Bả khoe cùng khắp cái huyện Tân Biên còn không làm gì. Anh nhát quá. Người ta con vòng con cỡi còn không sợ, anh o-ri-gin mà sợ ai chớ?

– Còn cái tửa của máy đi tới đâu rồi ?

– Oe oe rồi ! Ngỗng trăm phần trăm. Để êm êm tôi cho móc vô coi mặt thằng nhỏ.

– Vậy là có kẻ nối dòng…

– Cái dòng lang bang hả anh? Còn cô em nuôi Ba Phi bỏ sót trên Oàm Cỏ Đông, tiếc hùi hụi mà gùi đi không được. Chắc bây giờ nường đã lui ghe về chợ Long Hoa rồi. Thì, đại khái như vậy, anh cứ yên tâm đi. Cái gì của R trả lại cho R! À mà quên, cô em gái Huỳnh Mai Huỳnh Mốt gì của anh có thư từ gì cho anh không? Tôi rủa ông Bảy Đậu mấy ngày liền. Vợ tôi xúc hụt về cho anh là bị lão đó. Đang hội nghị bỗng xách con người ta về R. Vừa đút đầu về tới là B52 rắc ba-lông. Thầy Hai còn nhớ tụi thằng Lộc, thằng Lực, thằng Hải không? Chúng nó đem pháo Nhật 40 ly yểm trợ bộ binh ở trận Bình Giả, bị B52 rầm hết rồi. Còn thằng Chín Hung tôi mới gặp trên đường xuống đây. Hiện nó làm đại đội trường trợ chiến của D14 Tây Ninh.

Tôi tiếp:

– Nó thuộc dân bàn nạo Bến Tre cháu ông chủ tịch tỉnh. Vừa mới cưới cô vợ mười sáu tuổi. Bà già vợ mua gạo ấp chiến lược về bán cho bộ đội. Nó vẫn uống rượu bằng tô chớ không có bằng ly chén như tụi mình.

Tôn Sứt tiếp:

– Về đây thiếu gì rượu tha hồ cho nó uống. Cái mặt của nó bây giờ có nọng chớ không phải ốm nhom như hồi ở ngoài Thanh Hóa đâu. Còn về cán bộ chỉ huy thì U80 bị dân Sáu Bèo tràn lấn dữ lắm. Chắc rồi đây ông Tư Khanh nhà mình cũng bay luôn thôi. Nghe đâu thằng Huỳnh Thành Đồng còn sống sót sau trận pháo kích Biên Hòa. Chỉ mất hai khẩu DKZ và chết non một trung đội.

– Rồi sao Bùi Khanh làm xã đội trường Kà Tum?

– Ổng muốn làm như Huỳnh văn Một. Ngoài khẩu súng thể thao của ổng, với vài cây trường bá đỏ ổng có thể săn thịt rừng nuôi sống cả đơn vị bảo vệ Kà Tum của ổng. Ổng bảo chữ nghĩa quên hết rồi. Nhắn tao thăm nó, tao thương nó như em ruột.

Tôn Sứt dừng lại một hồi rồi hỏi:

– Anh có gieo mầm sống mới ở trển không mà người ta đòi đi ngã thành xuống Củ Chi tìm anh vậy?

– Đâu có sống mới sống cũ gì, tại người ta cảm tình…

– Ừ, cảm tình và tình… cảm ông ria khắp xứ, trên đó nhắc ông dữ lắm. Ông ở dưới này đâu có hay biết gì. Ông đi rồi trên đó nhậu mất ngon.

– Thôi tụi bây ơi! tao làm gì được mà đổ thừa. Ờ còn Sáu Ngọc với cái rẫy Nàng Rà ra sao?

– Dẹp hết rồi. Không biết ổng cõng vợ con đi đâu. Riêng Tư Thịnh bị đẩy về Z45 phòng không thay thế cho Tư Quảnh và Ba Tô Dê bị rụm ở Đồng Xoài, rồi cũng rụm luôn.

– Tao có nghe ! Trời ! Tư Thịnh bà con bên ngoại với tao. Còn Ba Ân Bến Tre?

– Ổng đau rề rề đi an dưỡng. Tư Răng, Bùi Đớt, Năm Chí, Sáu Việt, Hai Mạnh mỗi người một ngã.

– Vợ chồng Năm Chí còn đòi giải ngũ về miền Tây nữa hết?

– Ở trên nói để cứu xét. Nhưng cứ ngâm hoài. Bả đã tự vận mấy lần mà không chết. Anh em bảo cho hai vợ chồng giải phóng phức đi, nhưng ở trên sợ thả họ đi làm lộ bí mật địa điểm. – Tôn Sứt thở phào – Thôi, tôi về được dưới này với anh là vui rồi. Ở trển, qua mười giờ thì mới khỏe được chút chút. Nhưng gần đây thì nó chơi không còn giờ giấc quy luật như trước nên không biết đường mà tránh nữa. Cứ niệm Phật cầu Trời như ông Một vậy thôi.

Tôi cười hề hề :

– Tao có phép đỡ được bom pháo và B52.

– Phép gì vậy? Bộ ông tu… đạo gì hả?

– Người ta cho tao một lố cà rá làm bằng xương Cao Đài.

Mọi người nhảy dựng lên:

– Thầy nói nghe ghê vậy thầy Hai!

– Thiệt mà để tao đưa cho coi.

Tôi thấy thương Tôn Sứt quá trời. Cấp bậc trung úy, lớn con, nước da trắng, chân thật, hiền từ, dễ thương và… chưa vợ. Tôi đã nghĩ đến các cô Suối, Trong, Xanh, Biếc con của bà Tư Bánh Bò và cô bé Nhành, em của thằng Năm Cội. Một trong mấy cô này có thể xứng đôi với Tôn. Thằng Chín Hung xấu trai và ba mươi lăm tuổi còn quơ được cô văn công tỉnh mười sáu tuổi huống gì thằng trung úy đẹp trai này. Tình duyên của đám thanh niên tập kết toàn éo le, không có một cặp nào bình thường. Đó cũng là kết quả tình thương của Bác.

Đang nói chuyện rí rố ngon ngọt bỗng thằng Hùng hỏi ngang:

– Còn ông thầy cối Hai Giả đâu rồi thầy Hai?

– Ờ ờ ông đi công tác mới.

– Ở đâu?

– Ở dưới Dĩ An, Thủ Đức.

– Chà ! Đi gần mé Sàigòn ngon hả ?

Tôi ngồi lặng thinh. Cái xắc-cốt của Hai Giả do Năm Lê trao cho tôi, bảo đưa lại gia đình, đến nay tôi vẫn chưa dám đem lại cho chị Chín. Tội quá . Con gái của chị (con bé Thanh) hàng ngày tới đây cùng với con bé Nữ (con của vợ Sáu Phấn) để hụ trợ công tác nuôi quân, mè nhèo với tôi để được nhận vào cơ quan chính thức. Cả hai đứa đều than một giọng như nhau: “Ở nhà chán lắm, chúng cháu muốn vô với chú Hai.” . Tôi hứa lần hồi nhưng không thể nhận đám con nít làm nhân viên. Chúng vô đây chỉ làm cản trở công tác thôi. Vài bữa nữa tình hình sẽ không còn cho phép uống trà, nhậu nhẹt dụm năm dụm ba thế này nữa.

Bỗng có tiếng máy bay ù ù xớt ngang mặt sông, rồi tiếng bụp bụp. Đó là máy bay Mâu-hốc chụp hình. Cách đây mấy hôm, chúng cũng làm cái mửng đó. Đó là dấu hiệu sắp ăn dưa hấu hằng loạt. Bọn cán bộ quân sự đầu có sạn còn lạ gì. Chúng tôi nhìn nhau. Tôi trấn tỉnh ngay:

– Có khi nó chỉ dạ hành tỏ thôi.

Ba Tố bảo:

– Tuy chưa phải nó mần ngay, nhưng mình phải chuẩn bị chớ thầy Hai!

– Một đơn vị năm trăm người muốn dời đâu có phải dễ chú Ba nó !

Ba Tố tiếp:

– Hồi Củ Chi mình bị B52 lần đầu cũng thứ Mâu-hốc này ra vĩ trước. Nó bay qua bay lại xắc thành ô vuông. Cứ mỗi cái bốp là một pa. Mỗi pa chụp rộng cả cây số. Từ nay tới hai tuần nữa thế nào mình cũng bị một phát.

Hùng nói: .

– Vậy mình cho tụi nó đội đầu cối 82 mình trước đi!

– Chơi một vài chục quả ăn nhằm gì mày ơi!

– Vậy thầy định bao nhiêu?

– Đồng Dù: 1000. Trung Hòa: 500.

Hùng lắc đầu:

– Bất khả thi. Đạn ở đâu? Vò đất sét à ?

– Nếu không thì cũng một nửa. Chớ vài chục quả như gãi ngứa nó. Nhưng yêu cầu của ở trên là mấy quả cũng tốt. Miễn có nổ trong căn cứ tụi nó thì thôi. Cho nó biết rằng mình chưa có chết hết. Và cho đồng bào vô ấp chiến lược trở về vùng mình. Để tình trạng như bây giờ nó cứ lấn dần từng tấc đất lấn đất rồi xúc dân, cuối cùng mình trơ xương ra. Dân đã ra Trung Hòa xin giấy hợp pháp. Tuy làm ăn trong này nhưng cái đầu họ ở ngoài đó. Nhiều nơi nông dân đang làm đồng, bỗng trực thăng hạ xuống. Mỹ hẳn hoi. Nó xét giấy của hội tề. Ai có thì nó để cho yên, ai không có nó xúc ra ngoài ấp chiến lược. Nó cho gạo ăn, cho tôn lợp nhà, cho thuốc men. Rồi nó bảo muốn được bình yên, khi cày cấy phải cắm cờ quốc gia! Hễ nó thấy cờ đó thì nó không bắn.

Tôn Sứt ở trên R mới xuống, nghe lạ quá, kêu lên:

– Vậy tụi nó cha mình rồi !

– Nó là ông cố nội nữa chớ cha ? Đồng bào mình muốn làm ăn yên ổn nên làm theo nó. Thế là bị mấy ông đội ấp kiểm thảo, hăm dọa. Nhiều người đang ở trong này, sợ vọt ra ngoải luôn.

Hùng cào cái đầu tóc xùi lên, nhăn nhó:

– Tình hình dưới này phức tạp quá. Ở trên rừng vậy mà dễ . Sống với ba con khỉ chẳng cần chánh trị chánh trọt gì hết. Chỉ hơi khó xử với các tổ xe bò của ông Tư Ó thôi.

Tôi sực nhớ mấy người gài kỳ đà bán cho tôi và bà khu ủy nên hỏi phăng:

– Mấy tổ Hậu Cần còn đó không?

– Họ bỏ trốn ra Tây Ninh hết rồi. Bà Út khu ủy chèn ép họ quá, họ liều mạng thoát thân.

– Còn cái quán của má Hai bà Út chuyên môn mua ghi sổ?

– Vẫn còn đó, nhưng cũng sắp xếp xó. Vùng đó bây giờ lại sanh ra món bom trộm.

Ba Tố gắt hỏi.

– Ăn trộm hả? Ai ăn trộm của ai?

– Bom trộm ông ơi ! Tức là mình đang ngủ phản lực tới trút bom rồi bay thẳng không cần đầm già bắn điểm gì hết. Nó chơi cái kiểu này độc lắm. Mình không có đề phòng được. Cứ đưa cái bụng cho nó bỏ may nhờ rủi chịu. Do đó đoàn xe bò cũng thưa đi đêm.

Ba Tố trầm ngâm nãy giờ, lên tiếng:

– Vấn đề chính của mình bây giờ là vũ khí. Có pháo dệnh cho nó vài trăm quả , có pháo phòng không hạ vài chiếc máy bay thế là xoay chuyển tình hình. Chứ mình có tinh thần mà không có phương tiện thì như cua không có càng, kẹp ai? Cứ bị nó vây riết thôi.

Tôi nói:

– Hồi đình chiến bộ ở trên này mình không có chôn giấu vũ khí ở lại sao ta?

Ba Tố đáp:

– Chuyện đó mình đâu có rõ, nhưng hồi năm ngoái tôi nghe bên Bến Cát có bới được một hầm súng. Lúc đó ông Ba Kình là tham mưu trường quân khu, chỉ thị cho ông Năm Tiền và ông Hai Giả qua đó để xem xét. Quả nhiên có cà nông 20 và đại liên 13.2. Có lẽ người phụ trách cái hầm đã chết hoặc bỏ về thành, nên không biết mối mang để phăng ra nữa.

Ba Tố tiếp:

– Kế đó tôi và Năm Đùng bò sang mò tiếp với quận đội Bến Cát. Năm Đùng nhà ở ấp Bến Nhung nên rành con đường đá đỏ từ cầu Phú Bình đổ xuống ấp U Tàu. Lúc đó xóm ấp còn sung túc, dân cư đông đúc lắm. Quán xá khách khứa, bộ đội cán bộ dập dìu. Vui thiệt là vui. Qua bên đó tôi gặp cô huyện đội phó Sáu Hòa.

Tôn trợn mắt:

– Lại cũng đụng hầm chông nữa. Rồi lọt không?

Ba Tố cũng chưa vợ, cứng cạy nhất trong đám, nhưng có tính kỹ lường, đàng hoàng nên không mang tiếng. Ba Tố tiếp:

– Cô ta dắt vô một nhà cơ sở giở nắp hầm lên chỉ cho hai cây cà nông 20 ly.

– Rồi có lấy về không?

– Lấy làm gì ba cái thứ súng cà lăm của Tây để lại đó. Cứ bắn vài viên lại phải xoi lòng cả buổi. Đem về chơi với tụi Mỹ có mà bỏ mạng. Hơn nữa, nhân lực đâu mà dùng. Muốn di chuyển một khẩu phải dùng một trung đội.

– Rồi có ông nào vô ngàm được cô quận đội không?

– Cô ta là em gái của thằng tiểu đoàn trường tiểu đoàn Phú Lợi 3 của tỉnh Bình Dương cũng dân rau muống quấn hụt như mình nên biết tỏng tụi mình hết. Nó bảo tụi mình đều mắc gốc ngoài Bắc, chớ nên rớ vào. Do đó con bé đá lông nheo sơ sơ với tụi này rồi dạt ra, không xáp. Năm Đùng hi vọng nhiều nhất trên ôm vết thương lòng, đành ca sáu câu Hận sông Sài gòn rồi lẳng lặng ra về… tay không.

Tôi tiếp:

– Bên đó đất cũng cao như hai xã Nhuận Đức và An Nhơn Tây của mình. Dân ở xóm Bến Lò Than, Bến Củi, Xóm Miếu chuyên môn đi cạo mũ cao su. Người Bắc ở đó cũng nhiều. Sông Thị tính nhỏ nhưng tôm cá rất nhiều, không có tàu chạy như sông Sài gòn.

– Sao thầy rành vậy?

– Hồi chín năm tôi làm mật mã cho ông Lê Đức Anh đóng ở rừng Long Nguyên nên biết hết vùng này. Ổng gốc dân cạo mủ..

Ba Tố đất thuốc hút và tiếp:

– Tụi tôi từ Bến Nhung đi theo đường Lô cao su thẳng về Bưng Còng, rồi theo đường 14 về bến đò Đồng Sõi để qua bên này. Nhớ lại cảnh tươi vui trù phú hồi đó mà ham. Bây giờ từ cầu Phú Bình trở xuống Bến Sắn, Bến Nhung dân đã bỏ đi ra Bến Cát sống. Cũng giống y như bên này dân ra Trung Hòa và các ấp chiến lược vậy. Vùng đó bây giờ thường xuyên ăn pháo Lai Khê Bến Cát nên quận đội đã dời về đường 14 ở Bưng Còng hay Rạch Bắp gì đó.

Tôi nói:

– Mấy lúc gần đây tôi nhận thấy có hiện tượng chúng nó sắp đóng đồn Rạch Bắp.

Ba Tố lắc đầu:

– Nó mà đóng Rạch Bắp thì mình kẹt cứng! Dù Rạch Bắp ở phía bên kia sông Sài gòn nhưng đường chim bay cách đồn Trung Hòa không xa. Địa bàn hoạt động của mình sẽ bị thu hẹp vô cùng!

Bỗng Hùng bật ra câu hỏi:

– Pháo tụi Đồng Dù và Trung Hòa thì dễ rồi, nhưng hạ máy bay thì làm sao?

Tôi bảo.

– Cũng dễ thôi. Máy bay ở đây như trấu. Nhất là trực thăng thì với tay nắm được cái đuôi nó. Chỉ cần cho vài cậu lính hóa trang nông dân ra đồng trống làm bộ cuốc đất thì nó đáp xuống xét giấy thôi.

– Nhưng ai dám làm nông dân? Lơ mơ bị lạc đạn uổng mạng.

Ba Tố nói.

– Tôi có ý kiến là nên làm vài cái bù nhìn cắm giữa ruộng là hay nhất! Như vậy khỏi sợ lạc đạn.

Câu chuyện sắp kéo lê qua chuyện bắn máy bay thì bỗng có tiếng eo éo. Tôi nhận ra giọng bé Thanh.

– Gì đó cháu?

– Má em nói có dượng em về – Bé Thanh vừa nói Vừa khom mặt xuống hầm – Cháu nói là cháu ở đằng này hồi chiều đâu có thấy đường, nhưng má em bảo là có và bảo em lại xem cho chắc.

Ba Tố lắc đầu:

– Cháu xem nội đây có ai tên Hai Giả không?

Hùng bảo:

– Chắc bả nằm chiêm bao.

Tôi thấy xốn xang trong lòng. Chiếc xắc-cốt của Hai Giả mà tôi đang giữ như một cái món nợ chưa trả được. Mỗi lần tôi nhìn thấy nó, tôi như có một niềm ân hận. Nếu tôi không về H6 thì Hai Giả sẽ không đi Dĩ An Thủ Đức. Bây giờ sự việc đã như vậy rồi, không thể nào vớt vát được. Thương cho người đàn bà hai đời chồng đều tan vỡ hạnh phúc cả hai, chỉ vì chiến tranh. Lần trước một đứa bé gái nay đã mười lăm tuổi, lần này đứa bé còn nằm trong bụng mẹ mà cha thì đã chết rồi. Tôi bảo bé Thanh:

– Cháu về nói với má là dượng chưa có về.

Bé Thanh vẫn không chịu đi. Tôi bảo:

– Cháu vô văn phòng lấy máy ra tập đánh đi, khi thuần thục chú sẽ nhận cho làm thơ ký cơ quan.

Nghe thế, bé mới chịu rút lui. Tôi còn nhớ rõ trong xắc-cốt của Hai Giả có mấy tấm hình y cho vào cuốn album con có bọc giấy kiếng rất kỹ. Đó là hình của y mang lon đại úy chụp tại Thanh Hóa, ở tiệm Ánh Sáng Miền Nam. Tấm thứ hai là hình vợ lớn đứa con trai và y. Thằng con trai đâu chừng mười ba tuổi. Bà vợ nét mặt hiền hậu chất phác. Tấm thứ ba là hình chị Chín Kiểu đứng bên cạnh y. Ở sau lưng có những dòng chữ viết rất nắn nót. Quân phục giải phóng và chăn màn còn nguyên. Có lẽ ba lô được cất giấu ở hầm khác nên không thấy bị vết đạn.

Bữa nhậu hôm nay không ngon lành như những bữa tiệc họp mặt bạn cố tri trước. Tôi thấy nó nhờn nhọn thế nào ấy, uống không vô. Tiệc xong, tôi phân công chỗ ngủ cho mọi người. Ai cũng có phần dưới hầm. Không người nào phải nằm trần trên mặt đất đưa bụng hứng pháo. Tôi nhớ hồi ở miền Bắc, trước khi lên bệ phóng, tôi có dắt một đoàn cán bộ pháo binh đi vào vùng tuyến lửa để quan sát các trận đánh ngỏ hầu về trong này đụng với vũ khí và phi cơ Mỹ khỏi bỡ ngỡ. Quả thật như câu nói của Johnson: “Đánh cho Bắc Việt trở lại thời kỳ đồ đá”. Quân xa không chạy được, phà không có, cầu sập không còn một chiếc nào. Tôi đã sống tại mặt trận Vinh một tháng và đã thấy máy bay Mỹ ném bom Cảng Bến Thủy. Pháo thủ tiếng rằng ngồi trên mâm pháo ăn cơm, nhưng cũng không bắn kịp. Chúng nó bỏ bom xong rồi vọt lên biến mất trước khi khẩu đội hỏa tiễn nổ súng. Chúng tôi hoàn toàn ăn ngủ dưới hầm.

Bây giờ về đây cũng y như vậy: ở hang! Thời kỳ đồ đá?

Sắp xếp xong tôi vào hầm lấy chiếc xắc-cốt của Hai Giả đã bọc kỹ trong một tấm ni lông, ra đi. Phen này tôi phải làm nhiệm vụ của một trưởng cơ quan đối với một cán bộ đã hi sinh. Tôi không thể đeo mãi cái món nợ vô lý này. Chồng người ta chết, tại sao mình ém nhẹm?

Thằng Đỏ chạy theo la ơi ới:

– Anh Hai đi đâu vậy? Giờ này pháo hay giãgạo miệt này lắm!

– Không sao đâu! Vô ngủ đi.

Tôi quát rồi bấm đèn pin đi một mình. Tôi thu hết can đảm, định bụng sẽ nói tất cả sự thực và tình cảm của tôi đối với anh. Chị Chín chưa ngủ. Tôi gõ cửa và gọi tên bé Thanh. Bé Thanh kêu lên:

– Dượng về đó má !

Chị Chín mở cửa. Ngọn đèn chong trên tay người đàn bà run run như xúc động. Chị Chín nhìn ra tôi nhưng không tỏ vẻ thất vọng. Chị kéo ghế cho tôi ngồi, rót nước mời và nói:

– Chắc nay mai ảnh sẽ về . Con mắt trái của tôi giật mạnh quá hà cậu.

Tôi rủn chí. Bao nhiêu ý định của tôi đều tiêu tan vì câu nói lạc quan của người đàn bà. Tôi không nỡ dội một gáo nước vào ngọn lửa hi vọng của chị. Chị lại hỏi tiếp:

– Ảnh không có gởi thơ về sao cậu ?

– Ảnh mới xuống tới dưới đó thôi. Chừng nào yên nơi yên chỗ mới ngồi viết được.

– Tôi muốn gởi thơ cho ảnh được không cậu?

– Dạ được chớ! Chị viết đi, rồi tôi chuyển cho.

Từ láo ít đến láo nhiều. Láo không còn quay lại được. Chị vào buồng rồi trở ra ngay với một tờ giấy trên tay. Chị tươi cười:

– Cậu đọc đừng có cười nghẹn. Tôi thức đêm hồi hôm viết mà nước mắt chảy hoài tôi cứ phải ngưng hai ba lần, viết hai ba chặng mới rồi đó !

Chị cứ cầm bức thư trên ta nhấp nhứ mà không chịu đưa cho tôi. Tôi thấy rối trí và xấu hổ vô cùng. Chị tiếp:

– Còn hai tháng một ngày nữa là ảnh thêm một đứa con. Phải chi chừng đó ảnh được về phép để nhìn đứa nhỏ. Còn nếu ảnh bận thì sau khi ăn đầy tháng tôi sẽ bồng nó xuống thăm ảnh.

Tôi xua tay:

– Không được đâu chị, cháu bé còn non ngày tháng đi ra sương gió không tốt.

– Đâu có sao, hồi trước tôi sánh con Thanh cũng mới đầy tháng tôi cũng bồng nó đi thăm ba nó. Kỳ này rồi cũng vậy.

Bất giác tôi nhìn lên bàn thờ. Ngọn đèn tù mù xanh lét như linh hồn người xưa còn lơ lững chưa chịu tắt. Tấm hình để tựa vách, lờ mờ trong ánh sáng yếu ớt như cố lắng nghe lời người vợ năm nào. Than ôi ! Chiến tranh lại tái diễn những màn lớp cũ.

Chị xếp tờ giấy nhỏ lại rồi với tay lên góc bàn thờ lấy chiếc phong bì vừa xếp nhỏ lá thư cho vào vừa nói:

– Ảnh dặn tôi hễ sánh con gái thì đặt tên Chi, còn con trai thì đặt tên Hùng.

– Ý ảnh muốn nói là Củ Chi anh hùng.

– Cậu nói trúng ý ảnh đó ! – Chị đưa thư cho tôi – Cậu về kiểm duyệt rồi gởi đùm tôi.

Tôi nhận bức thư và đứng phắc dậy ra về quên cả từ giã, như một kẻ trốn tội. Tôi ra đến sân thì chị kêu:

– Cậu Hai bỏ quên cái gói gì.

Tôi giật mình đánh thót, trở vào nhận cái gói. Hú vía, nếu tôi không gói và buộc kỹ thì đã vỡ lỡ câu chuyện rồi. Tôi kẹp nách cái gói và cắm cúi soi đèn pin bước nhanh. Hai Giả ơi! tôi không có đủ can đảm nói sự thực cho vợ anh. Anh có khôn vong thì ứng mộng cho chị ấy.

Tôi nghe buốt lạnh xương sống. Tôi đi một lúc lâu sau không thấy tới ngõ rẽ vào cơ quan. Thì ra tôi đã lạc vào con đường mòn dẫn đến nhà Sáu Phấn. Đó là thói quen. Đôi khi định đến chỗ khác nhưng cặp mắt cá lại sáng hơn mình. Nó dắt mình tới những nơi mà mình không định đến.

Đã hơn mười giờ nhưng Sáu Phấn còn ở ngoài sân. Bà vợ cầm đèn soi cho chồng trét chai chiếc ghe mới. Thấy tôi, Sáu Phấn phân trần ngay:

– Tình hình này mình phải sẵn sàng thầy Hai ạ. Nếu mình bận chiến đấu thì vợ con mình có ghe đi xuống Phú Hòa tạm trú. Một thân một mình như thầy mà khỏe!

– Phải ! Tôi đến bàn giao cho anh mấy công tác để ở nhà anh hoàn thành còn tôi sáng mai dắt mấy ổng đi nghiên cứu mặt trận để sửa soạn vào đợt. Chậm thì một tuần, nhanh thì năm ngày là tôi về tới.

Chị Chín nói:

– Má con Hoàn bữa nay không vô cơ quan vì con nhỏ ấm đầu .

– Vậy hả chị. Để tôi qua thăm nó chút. – Nói xong, tôi đưa cái gói lại cho Sáu Phấn – Anh giữ nó đùm tôi. Để tôi đi bỏ nó ở nhà đám nhóc lục lọi bể hết.

– Có nên nói không?

– Tùy anh.. Nói cũng được mà không cũng chẳng sao.

Tôi tiến nhanh về phía nhà Mười. Thấy ánh đèn le lói qua kẹt cửa, tôi nghe nôn nao. Lâu nay thấy bé Hoàn gọi tôi bằng ba ngọt ngào, nhân viên cơ quan đều đốc tôi xốc tới, nhưng tôi làm thinh. Sáu Phấn cũng ngỏ ý thẳng thắn với tôi làm anh em cột chèo với y. Y cho biết: “Mình sai lập trường rồi đấy thầy Hai ạ !” Tôi hỏi tại sao thì y cho biết là hai chị em Mười là con ông Cả làng An Nhơn Tây. Cả hai đều có học, không nhiều, nhưng đó là loại tiểu tư sản ở vườn, lấy công dung ngôn hạnh làm tiêu chuẩn.

Tôi cứ hoang mang trước cái sắc đẹp và tính tình của người đàn bà góa trẻ đẹp hơn con gái này. Cái suy tính của tôi là mình còn trai chẳng lẽ lại đi lấy đàn bà có con? Sự suy tính đó cứ trì níu tôi một cách ác nghiệt. Cứ mỗi lần đến với nàng thì tôi ước ao phải chi đây là gia đình mình. Đôi lúc tôi nghĩ nếu nàng có bầu thì tôi nhận ngay như một việc đã rồi và sẽ không ân hận gì hết. Hoặc như bất thình tinh Sáu Phấn đưa ra tổ chức thì tôi cũng sẽ không chối cãi một tiếng. Còn như tự tôi chủ động cưới Mười thì tôi lại không có can đảm. Không phải vì chung quanh tôi có nhiều cô gái mà là vì Mười đã một đời chồng. Tôi bước tới thềm nhà thì cánh cửa sịt mở:

– :Em còn thức à?

– Em chờ anh.

– Con ấm đầu hả em?

Tôi vừa bước vào thì nàng cài then ngay như đóng cửa lồng sợ con chim trời bay thoát.

– Đâu có !

– Sao hồi nảy chị Chín nói?

Mười chỉ cười, cặp môi son xinh như một đóa hoa hàm tiếu bình minh. Tôi chợt hiểu ra người chị cũng muốn cho con chim mắc cái bẫy nhung này.

– Em có dẫn con đến hồi chiều, nhưng thấy khách lạ đông nên em lui trở về.

– Sao vậy? Mấy người đó ở trên R mới xuống, toàn là người quen cũ.

– Nếu ở lại thì con Hoàn sẽ gọi anh bằng ba rồi mấy người đó hỏi anh cưới vợ hồi nào mà có con lớn vậy rồi anh trả lời làm sao?

– Thì anh nói là con của anh.

Mười lặng thinh. Ngọn đèn trên tay nàng xao xuyến vì một ngọn gió len qua kẹt cửa. Mí mắt buồn rũ xuống chớp chậm. Tôi cũng không biết nói gì. Nếu nói, thì câu đó phải là: “Bé Hoàn là con anh, em là vợ anh.” Câu nói đó sẽ làm cho Mười vỡ ra thành nước mắt. Nhưng tôi vẫn không có can đảm. Nàng đưa mắt nhìn tôi và nói chậm rãi.

– Mỗi lần ở đằng đó về, con Hoàn cứ hỏi em: “Sao ba không về nhà mình vậy má ?” Em trả lời: “Ba mắc công tác ! “

Con nhỏ cãi rướn lên: “Sao dượng Chín cũng bận công tác mà dưởng về nhà được?” Em vả miệng nó : “Con không được hỏi như vậy nữa. ” Đêm nào vô mùng nó cũng hỏi em ba nằm gối nào, rồi nó lấy cái gối mới trong tủ ra để trên đầu nằm mà phía ngoài rồi bảo em: “Má nằm xít vô chừa chỗ cho ba về nằm để nằm meo ba té xuống sàn như con vậy.”

Nàng nhỏ nhẹ tiếp:

– Nó ngồi ở ghế chờ anh về và viết bài của anh cho, buồn ngủ gục xuống bàn, em ẵm vô mùng. Có đêm pháo bắn, nó thức dậy.

– Con không khóc à ?

Tôi bịt miệng nàng bằng môi tôi.

– Quen rồi, nó không sợ nữa anh à. Nó hỏi ba có về không? Em nói ba vừa đi. Nó bảo sao pháo bắn vậy mà mà để cho ba đi. Con nhỏ khôn ghê đi anh. Thôi, anh đi tắm cho khoẻ.

Nàng đưa tôi ra nhà tắm. Tôi đã quen với mùi xà bông thơm ở vùng trời nho nhỏ này rồi. Tắm xong tôi trở vào thì đã có sẵn một ly sữa trắng tinh để trên bàn con bên đầu giường. Nàng bảo:

– Anh uống đi . Cứ ba cái nước nếp nước cay nước ngược của mấy ổng đốc xúi thi đua mà anh uống miết mất sức khỏe hết, nguy hơn nữa là pháo bắn chạy không kịp.

Tôi ngồi lên giường, ấm áp cho đời thằng Lê Dương đỏ quá. Đây là tài sản của miền Nam Tự Do tặng cho gã ta.

Tôi uống từng ngụm sữa mà nghe những tế bào trong người tôi ở tuổi thanh xuân. Tôi đã làm bạn tình với nhiều người, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy no đầy hạnh phúc một cách đường hoàng và thấy mình gần như một người chồng như đêm nay. Nàng ngồi song song với tôi, nhìn tôi uống sữa như mẹ nhìn con.

– Ngón chân anh tách móng lành chưa, đưa em coi!

Tôi ngoan ngoản kéo chân lên để ở mép giường và hỏi:

– Sao em biết?

– Con Lam nó khoe om sòm rằng nó đi công tác chung với anh, nó băng ngón chân cho anh. Nó còn nói oang oang nó đem xà bông thơm cho anh tắm ở ngoài rạch.

– Chuyện đó có gì mà khoe.

– Nó còn nói nó khám cả người anh để tìm vành đai của thủ trưởng nữa.

– Anh đâu có ghẻ xốn mà khám?

Mười lấy khăn bàn lông vuốt tóc tôi cho khô rồi nói:

– Anh ốm hơn lúc mới về.

– Công việc nhiều quá em à !

– Quần áo của anh, anh cũng không chú ý nữa! Đi đâu cứ vác AK in như lính. Cán bộ người ta không có K54 cũng mượn đeo để làm oai với đàn bà con gái còn anh có lại không đeo. Ai đời trưởng cơ quan lại đi đẩy xe bò lãnh gạo lại để cho con nhỏ đó trên xe. Anh thiệt à !

Tôi đưa ly sữa cho nàng, nàng đẫy ra:

– Em ít uống sữa lắm.

Tôi hôn vào cổ nàng.

– Không uống mà da trắng thế này !

– Anh có vải sao không may quần áo để cho người ta?

– Anh thấy thằng Đỏ rách rưới quá. Nó đi liên lạc mà để như vậy, nó chạy khắp trời, chẳng khác nào bêu riếu cơ quan mình.

– May ở đâu không may lại đem ra bà Tám Mang.

– Vùng này đâu có thợ may, không lẽ đi ra Đồng Lớn.

– Ngoài đó người ta ăn hai trăm một bộ, ở đây bả lấy thêm năm chục mà còn nói ơn nghĩa đó. Mai mốt anh cần đem đây em may cho.

– Em có máy à?

– Có chớ sao không. Nhưng em giấu biệt. Em may cũng dư sống nhưng nghề đó quấn khách, em không muốn. Bộ đội có nhiều ông đàng hoàng cũng có nhiều ông hơi thiếu đàng hoàng. Để họ ra vào mang tiếng. Em ngồi bàn máy hồi mười ba tuổi chớ phải đi học lóm đâu anh.

Tôi uống cạn ly sữa. Đường cát còn đọng dưới đáy ly một lớp dày, tôi bèn rót trà vào lấy muỗng khuấy lên rồi uống nốt và bảo:

– Em đừng pha sữa cho anh nữa. Để dành cho con.

– Thiếu gì ba cái sữa. Em còn gởi đò máy đi Bình Dương mua Nestcafé cho anh kìa.

Bất giác tôi quay lại kéo bé Hoàn dậy và bồng nó lên hôn xối xả và thầm thì vào tai nó:

– Ba về nè con! Ba về..

– Ba về nề con, thức dậy đi coi thử có hay không để sáng khối tra hạch má sao ba không về.

Mười nói một hơi. Vừa nói vừa lắc vai con bé, tỏ vẻ vui sướng cực độ vì đã làm một chuyện bịa trở thành sự thực đối với trẻ thơ .

Bé Hoàn ngóc cổ lên, mở mắt tròn đen láy như hai hạt nhãn lấp lánh ánh đèn giữa khuôn mặt tròn trịa giữa mớ tóc mượt đẹp như tranh trong những quyển sách Hồng.

Mười nom sát mặt đứa bé và hỏi.

– Coi ai đây, con?

-Ba đây con!

Tôi đưa tay gộp đầu mẹ đầu con vào nhau và hôn bên kia bên này như mưa. Như trong mơ của truyện Thần Thoại mà bé là nhân vật, bé trỏ vào chiếc gối:

– Ba nằm ở đó. ..

– Ừ ba nằm ở đó.

– Má nằm xít vô .

– Ừ má nằm xít vô gần con để cho ba khỏi nằm meo té xuống sàn.

Tôi đặt bé Hoàn vào chỗ cũ và nằm xuống. Mười len vào giữa tôi và Hoàn. Tôi lấy chiếc gối tai bèo của nàng chồng lên gối tôi rồi đưa tay ra vừa đúng lúc nàng ngã xuống, làn da cổ chạm vào cánh tay tôi như một dải lụa đặt lên. Vừa nằm xuống và nghiêng qua ôm tôi, nàng nói.

– Anh Chín chị Chín em định bán một ít đất anh ạ !

– Đất gì?

– Ba má em có nhiều đất ở vùng Bến Mương này và ở ngoài đường số 1 nữa.

Tôi hơi bật ngửa ra. Đúng như lời Sáu Phấn nói: ba nàng là ông Cả. Tôi hỏi bâng quơ vì không thiết tha gì với ruộng vườn. Lâu nay tôi có hề cấy cây lúa trồng cây chuối nào đâu. Thấy ruộng lúa cháy, thấy vườn sầu riêng tơi tả thì cũng chắt lưỡi chút thôi chớ có đau đớn gì.

– Tại sao lại bán?

– Chớ anh không biết sao còn hỏi.

– Biết gì?

Bàn tay trắng buốt của nàng giơ lên đập đập ngực tôi:

– Anh Chín nói ở ngoài Bắc cải cách ruộng đất gì đó.

– À ! Nhưng ăn thua gì trong này?

– Còn không ăn thua nữa ! Họ vô trong này là chết. Một là họ lấy hết hai là họ bỏ tù chủ đất.

– Ai bảo bậy vậy?

– Anh Chín nói mà anh !

Thế là tôi hết phương cãi. Mười tiếp:

– Ảnh bảo chị Chín em bán chừng vài chục mẫu rồi thủ sẵn tiền, hai chị em về thành sống nuôi con The và con Hoàn. Hai chị em hú hí với nhau chớ ảnh chắc là không có sống qua cuộc chiến này đâu. May mà ảnh có được mụn con.

Tôi thở dài. Những cái bấm của ngón tay đàn bà khẽ thôi nhưng đau đớn. Tôi chạnh nghĩ tới cái thằng tôi. Già ngắt rồi vợ con chưa có, cứ xách xe không chạy cà tưng. Ông già tỏ ý buồn lo cho tôi, nhưng thấy tôi có vẻ bất cần nên ông không bảo ban gì cả, chỉ nói nhẹ một câu: “Má mày muốn có cháu bồng.” Nếu tôi quyết định cưới Chia thì má tôi sẽ vô ngay. Bây giờ nghe tâm sự của Sáu Phấn qua lời Mười thuật, tôi mới giật mình. Tụi thằng Hùng Cối, Hải ghẻ Trường Sơn, thằng Quân đều mang tâm sự đó cả . Chết không kẻ nối dòng !

Mười đã đưa tôi đến cái mức cuối cùng của sự can đảm mà tôi có bấy lâu nay: không chịu tiến tới với nàng. Nhưng nàng không dừng lại ở đó, nàng tiếp:

– Ông Hai Giả đã hi sinh rồi phải không anh?

Tôi nảy người lên:

– Ai đồn bậy vậy?

– Anh còn giấu em nữa à ?

Tôi lặng thinh nghiêng mình bỏ một tay qua hông nàng. Sự im lặng khá dài. Tôi có cảm tướng một ngàn ngôi sao đã rơi trên mái nhà này làm tan vỡ màn đêm bí mật. Tôi định thần lại, bảo:

– Đó là tin gián điệp!

Nàng không nói gì nữa. Tôi tiếp:

– Ảnh chỉ đi công tác xa một thời gian cho dịu bớt dư luận thôi.

– Công tác xa tận âm phủ hả anh? Anh Chín em nói với chị Chín. Chị Chín học lại với em mà gián điệp gì. Chị còn bảo em yêu anh, chị lấy anh Chín rồi hai chị em sẽ khổ hết thôi.

Vậy là chuyện Hai Giả đã vỡ ra rồi. Không biết bà ấy đã hay tin chưa? Nếu đã nghe sao còn bày trò nhờ gởi thơ? Hay là bả cũng đóng kịch để cười chê sự láo toét của mình.

Nghĩ vậy tôi bèn hỏi: .

– Bà Giả nghe chưa?

– Ai nói cho mà . . .

Tôi nghe cánh tay tôi ấm ấm. Tôi đưa tay tôi quệt nước mắt nàng. Nàng sụt sùi:

– Em lo cho anh quá hà . Bom đạn kinh hoàng, ngày nào cũng có người chết. Em còn nấn ná lại đây là vì anh. Chớ anh coi đó, em còn cái gì ở đây mà chờ mà đợi? Em về thành tái giá cho xong cuộc đời. Nếu anh về trể chừng một tháng thì đâu có gặp em. Bà con chung quanh đi hết rồi. Em chờ xem chị Chín bảo sao. Hai chị em cùng đi cho khỏi bơ vơ.

– Bỏ anh hả?

– Anh bỏ em thì có .

Tôi lặng thinh. Câu nói như suýt chọc vỡ cục can đảm của tôi. Nàng tiếp:

– Anh khinh em lắm phải không?

– Tại sao?

– Là vì khi không lại thế này. Nếu anh có khinh em, em cũng chịu. Nhưng em cũng nói cho anh biết rằng em không phải loại gái như đám dũng sĩ đâu. Có biết bao nhiêu người mở lời với em.

– Anh biết.

– Nhưng em không chịu ai hết. Từ ngày ba con Hoàn hi sinh em thấy không thương ai hết. Em định bỏ xứ Bến Mương này đi về thành để quên hết, thì bỗng anh đến. Em thấy yêu anh ngay . Em mơ ước anh là chồng em. Nhưng em biết không bao giờ anh chịu lấy em làm vợ. Anh chỉ thương con Hoàn nên đến với em thôi. Phải không? Nàng lắc vai tôi : Rồi nay mai sẽ cưới vợ, sẽ không còn nhớ đến em nữa. Mà cũng được. Anh yêu em bao nhiêu, em vui bấy nhiêu, em không đòi hỏi gì hết. Vầy cũng đã nhiều rồi.

Tôi ôm nàng úp mặt tôi vào mặt nàng và liếm những giọt nước mắt tuôn như suối chảy hai bên sống mũi nàng. Để khỏi bị day dứt về những lời cay đắng của nàng tôi hôn nàng trên môi những cái hôn dài nối tiếp nhau. Nàng run rẫy quằn quại rên rỉ. Rồi việc gì phải đến đã đến. Cuộc tình nào mà không đến đó. Thân thể nàng quả là một tuyệt tác của hóa công. Làn tuyết phơi mờ ảo dưới ánh đèn dầu, tóc như mây xoa trên gối, tương phản nhau làm cho người đàn bà giống như một bài thơ não nề không cần không vận. Tôi run từng miếng thịt. Tôi sợ hãi trước phần thưởng quá lớn dường như không dám đưa tay nhận. Một loạt pháo nổ xa xa ì ì ì…. âm vang của nó làm run khẽ ngọn đèn chong. Tôi thầm thì:

– Nó quay họng phía khác em ạ ?

– Kệ nó, yêu em đi. Anh đừng như lần trước.

– ….?

– Cho em xin một đứa con.

Bao nhiêu mơ mộng đều tan biến. Nàng ngồi dậy và bằng cử chỉ cương quyết.

– Bỏ cái thứ này ra đi. Tụi con gái lang bang mới sợ có con. Em không sợ có con với anh. Em sẽ không rêu rao một tiếng nào làm hại uy tín của anh. – Nàng nói tỉnh như sáo, như đã dự định từ trước – Khi em tắt kinh thì em sẽ cho anh hay rồi em lặng lẽ về thành.

Nàng giở mí chiếu lên cho tôi xem một cái gói và tiếp:

– Đây là số tiền bán mười mẫu đất xấu lại bị bom, chị Chín chia cho em. Còn mười lăm mẫu đất tốt, hễ ngả giá xong thì bán luôn. Anh! Nhưng số tiền dù bao to đi nữa, đối với em đều vô nghĩa, nếu không có anh.

Tôi là gã hành khách ngông đi trên chuyến xe đêm của Paoutowski chăng. Cửa hạnh phúc đã mở ra chào đón mà cứ quay lưng để sau này…

Chương 56 Có máu mới ăn tiền

Cơm nước xong lên đường. Phái đoàn có quân số một tiểu đội gồm ba thành phần: H6 phụ trách đo đạc để đặt pháo, do Sáu Đức làm tổ trưởng, D8 sẽ đóng vai yểm trợ cho pháo binh do Ba Tố phụ trách, quân đội sẽ liên hệ với du kích địa phương lo vụ hầm hố trong trường hợp bị đổ chụp do ông thổ địa Hai Khởi cầm đầu. Còn tôi chỉ huy chung. Mục đích của cuộc hành quân này là nghiên cứu chiến trường. Mục tiêu chính là đồn Trung Hòa. Sau đó sẽ nghiên cứu Đồng Dù. Vừa qua khỏi trung đội trinh sát thì tôi bị Lam chân đầu:

– Anh Hai cho em đi với.

– Em ở nhà lo sức khỏe cho anh em.

– Không có ai bịnh hết anh Hai ạ . Em muốn về thăm gia đình một chuyến.

– Anh sẽ cho em về phép một tuần lễ. Kỳ này anh đi có nhiều công tác khó khăn, phụ nữ không đi được.

Tôi biết Lam có âm mưu giới thiệu tôi với gia đình, vì chúng tôi sẽ ra Ràng là quê hương của Lam, để ngó ra Trung Hòa. Cho nên tôi cương quyết không cho cô bé đi.

Đi ngang nhà Sáu Phấn thấy y đang lui cui đóng mui ghe. Tôi bảo Sáu Đức trung đội trướng trinh sát cùng tôi ghé lại để dặn dò thêm công việc.

Vừa vào đến nơi, đã nghe tiếng reo mừng của bé Hoàn:

– Má ơi, ba về nữa.

– Ba mày về hồi nào mà nữa?

– Ba con về hồi hôm ngủ với con trong mùng.

Sáu Phấn sợ tôi ngượng nên nạt con bé:

– Đi vô lấy hộp quẹt ra đây cho dượng hút thuốc.

Con bé vừa quay lưng thì vợ Sáu Phấn và Mười đi ra. Mười ẵm con của Sáu Phấn. Con bé được ba tháng trông kháu khỉnh .ra phết.

– Dượng nó có ẵm một chút lấy hên không?

Chị Chín trêu tôi và liếc nhìn Mười. Mười đưa đứa bé cho tôi. Thiệt là sung sướng. Hìmh như lâu lắm tôi không có ẵm trẻ con. Bé Hoàn chạy lại đeo tôi như thường lệ :

– Sáng ngày con thức dậy ba đi đâu mất tiêu.

– Ba đi công tác mà con.

Mười nói, đỏ rần đôi má. Chị Chín nói rướn tới:

– Mai mốt con đừng cho ba con đi nghe !

Sáu Đức liếc tôi cười tủm và bước lại lái ghe ngó qua ngó lại và nói:

– Ghe này mới có một mình anh chèo lái hả anh Sáu?

-Ừ .

Sáu Phấn ngập ngừng y không nói tiếp cái câu mà y đã nói nhiều lần với tôi hoặc với người khác mà muốn thấu tai tôi. Ghe không kén người chèo nhưng người chèo lại kén ghe!

– Hoàn, hỏi ba đi công tác chừng nào về con?

Tôi nói thẳng với Mười.

– Anh đi chừng một tuầ n lễ .

– Anh có đem y tá theo không?

Tôi biết Mười hỏi cấn Lam, nên đáp:

– Toàn là đàn ông. Cả thằng Đỏ anh cũng không cho đi.

Tôi đưa mẫu giấy nhỏ ghi công tác cho Sáu Phấn rồi cùng Sáu Đức trở ra đường. Vì đã định trước hành trình, trạm nghỉ chân nên mỗi tốp cứ tự động hành quân. Khi đi ngang qua ngã ba Bầu Trâm, Hai Khởi tụt lại sau chờ tôi và trỏ vào ven rừng chồi, bảo:

– Trong đó có quán của vợ Năm Trầu, phó ban Hậu Cần quân đội.

Tôi cười:

– Năm Trầu là anh Bay Hốt chớ gì!

– Sao thầy biết giỏi vậy?

– Ở trên Bến Dược thì Bảy Hốt có em nuôi là Sáu Tiệm bán quán, ở đây có Năm Trầu cất quán cho vợ bán cắt họng lính chớ sao. Mao chủ tịch từng nói thằng nào làm quản lý ba tháng đem ra chém đầu không oan chút nào.

– Vậy mà thằng cha này làm Hậu Cần hai năm rồi, có ai sờ tới cái lông chân nó đâu, đừng nói chém. Vợ nó chém người ta thì có . Anh muốn vô coi chơi cho biết không? Vải ni lông giống hệt vải phát cho anh. Còn muối, gạo, khô, đường thì đầy ắp. Vậy mà lính đói trắng dã con mắt.

– Không coi cho đỡ xốn con mắt chú nó ơi.

Tôi và Hai Khởi, Tôn Sứt đi sau cùng. Tôi có ý đem theo Tôn đi kỳ này để bận về ghé xóm bà Tư Bánh Bò cho nó tìm ý trung nhân, chứ thực ra nó không có nhiệm vụ gì ở đây cho lắm. Nhà dân lưa thưa dọc theo hai bên đường. Ngoài ruộng người làm cũng thưa. Hai người du kích từ trong vườn chạy ra chận Hai Khởi, la lên:

– Ông quận, tụi em gác ở đây nên nghe tin tụi lính Trung Hòa thọc vô tới ngã ba Tầm Lanh nhưng không chắc.

Hai Khởi có tính la quát lính, nạt ngay:

– Sao không cho tốp đi trước hay?

– Dạ , tụi em không có quen.

– Chạy theo kêu họ trở lại, mau lên!

Tầm Lanh là một xóm nhỏ nằm giữa Ba Sòng đầu dưới và Đồng Lớn, gần bên Gò Nổi trên. Lính Trung Hòa thường nằm phục kích ở đây. Cán bộ đi lẻ đã bị chúng bắt sống nhiều lần rồi, nên nghe nói tôi bảo Sáu Đức và Tôn lùi lại quán vợ Năm Trầu. Nhưng toán du kích trở lại cho biết đó chỉ là tin vịt. Đoàn đi trước trót lọt, chắc không có lính. Hai Khởi kéo ngọn đi một chút thì tới giữa xóm. Hai Khởi vào một cái nhà và bảo là tìm ấp đội Hai Bụng. Bà vợ mới sanh còn non ngày tháng ngồi trên võng bế đứa con đỏ hỏn, càu nhàu rằng ông Bụng không có ở nhà. Hai Khởi bảo lính vô Tầm Lanh, thì chị nói quát ra:

– Tui có biết ai là ai. Du kích cũng như lính Trung Hòa ông nào cũng mang súng và ăn mặc giống nhau. Chừng nào có phục kích mới biết. Hễ du kích chạy thì có lính Trung Hòa vô còn hễ lính Trung Hòa chạy thì biết là bộ đội tới.

Nói xong chị hỏi tụi tôi đi đâu.

– Đi ra Ràng.

– Đi hướng đó thì dầu lính nằm ở Tầm Lanh cũng không ăn thua gì. Nếu nó ở Tầm Lanh thì sợ nó thụt cối hoặc xả trung liên chứ tụi nó đâu có chạy qua đồng trống mà rượt các anh được.

Thế là chúng tôi tiếp tục đi. Hai Khởi thầm thì với tôi:

– Nhà con bé út Hương của tôi ở đây. Mới mười tám thôi. Coi đặng lắm. Nhưng ông thầy nhớ là đừng có cho tôi lòi cái đuôi rau muống thì hết món ăn.

Đi một chốc, Hai Khởi trỏ vào một cái nhà ngói có vẻ còn nguyên và nói:

– Đây là nhà của Bảy Lập. Thằng này biết kéo cây đờn gió và chơi ghi-ta.

– Đờn gió là đờn gì cha non?

– Là cây đờn xếp ra xếp vô ôm trước ngực như cái máy đánh chữ đó mà.

Tôi ngẫm nghĩ mãi mới biết là cây đờn ắc-coọc, tôi bảo:

– Thì ăn nhậu gì mà nói ở đây.

– Thầy Hai ơi, nó có con em gái tên là Chín Hòa, mới mười chín tuổi rưởi, dạy bình dân cho con nít. Ông già bà già nó còn ở trong vùng “rảy phóng” ta. Thầy vô là nghe cái cụp ngay thôi.

– Ôg điều nghiên kỹ quá, ông tha-mu!

– Mình phải đi sâu vào loòng nhân rân và đi sát cái đáy quần . . . chúng mà thầy ! Hí hí !

Tôi nhìn màu xanh từng cụm từng dãy ở ven đồng điểm những cánh cò trắng chơi vơi trong nắng trưa. Ôi sao mà nhớ nhà nhớ cửa. Ông già vô nói chuyện chưa đâu đến đâu, tôi đã vội vã đưa về . Biết chừng nào phụ tử lại trùng phùng lần nữa. Mười năm, hai mươi năm hay lâu nữa? Sáu Đức vừa đi vừa móc sổ tay ra ghi ghi chép chép và báo cáo với tôi:

– Nếu đặt cối 82 ở đây thì phải bắn mút tầm đạn mới trúng giữa bót Trung Hòa, còn cối 81 thì phải nhích lên một trăm thước đó anh Hai.

Tôi lặng thinh vì tôi nghĩ tới nhiều chuyện khác: nếu đạn biến chất, không đi đúng tầm dự định thì sẽ rơi vào nhà dân, còn bay tới mục tiêu thì chắc gì đã đạt được kết quả? Vì tụi lính đồn thường ở hầm xây bằng bê tông. Bao cát Mỹ tăng cường chừng năm lớp trên nóc. Cối 81, 82 không chết ai.

Tới Bàu Sỏi, Hai Khởi cho toàn đoàn rẽ vào xóm phục kích và cho một tổ đi lên phía trước. Tất cả sẵn sàng chiến đấu. Hai Khởi trỏ về phía Trung Hòa, nói với tôi:

– Cái đồn này có từ thời Pháp tới bây giờ chưa bao giờ vắng lính. Bây giờ nó kiên cố vô cùng. Một trung đoàn đầy đủ binh chũng và quân số chưa chắc hạ nổi. Mình pháo kích có ăn thua chăng chỉ hai trái đầu. Đến trái thứ ba thì tụi nó chui hết xuống hầm. Quanh đồn là đồng ruộng. Mặt tiền là đường số 7. Ấp chiến lược và phố chợ bao che cho nó. Gạo, tôn, sữa, thịt hộp Mỹ đã làm nên một cái quan điểm nhân dân khỏe ru, còn mình chổng khu kêu gào tuyên truyền đe dọa vẫn không giữ được dân.

Trong lúc nhà tham mưu quận đội thuyết trình, tôi rẽ bụi rậm giơ ống dòm lên quan sát. Tôi thấy rõ tên lính ngồi trên chuồng cu đang vặn radio, chắc chắn đang nghe vọng cổ buổi trưa, thấy bùi nhùi kẽm gai từ chân đồi đến chân tường đồn không biết bao nhiêu lớp. Một trung đoàn dốc toàn lực tấn công và phải hi sinh ít nhất là một tiểu đoàn. Tôi thầm nghĩ và đưa ống dòm cho Hai Khởi xem tiếp. Hắn vừa xoay người vừa nói:

– Bắn từ hướng này thì mình không sợ trúng dân. Nếu đạn không bay tới đích thì rơi ngoài ruộng.

– Như vậy lỗ vốn thì pháo kích làm gì?

– Thì thầy bảo ở trên cần có tiếng pháo ta gầm cho chúng nó biết ta chưa chết hết.

Bỗng có tiếng vang từ hàng dừa xóm Tầm Lanh:

– Ê, làm gì đó mấy ông nội con nít?

– Qua đây biểu coi.

– Xung phong băng đồng bắt sống tụi nó bây ơi!

Hụp hụp! Tắc tắc tắc… Trung liên nổ ròn tan. Mấy trái moọc-chê bay rơi trên ruộng nước bắn tung trắng xóa.

– Chạy lùi vô , trong này có chiến hào anh Hai.

Tôi giương AK bấm cò đáp lễ và quát:

– Qua đây mà bắt sống!

Tôi nhắp cò thêm mấy loạt ngắn.

– Ê đụng chủ lực không phải dích-cu bây ơi!

Tắc tắc … tắc… Mấy tốp lính đã lao ra ruộng định băng qua đây dội lại vì mấy loạt AK. Cụp cụp cụp! … Moọc-ta liên tiếp phóng qua rơi ngay trong vùng chúng tôi đang thủ. Tôi cho tất cả lom khom chạy lùi sâu vào rừng. Chỉ vài cái tíc-tắc sau, pháo Trung Hòa lên tiếng. Chúng càng bắn, tôi càng cho đơn vị rút nhanh. May nhờ mấy đoạn chiến hào cũ của D8 bỏ lâu nay, tuy đã cạn nhưng tạm dùng để che thân qua cơn mưa đạn, mà không có đứa nào bị thương. Khi tỉnh cơn ác mộng thì chúng tôi đã thấy mình đứng giữa ấp Ràng. Kẻ mất bi đông, người văng nón, tôi sút một chiếc dép, chỉ còn một chiếc dính chân. Ba Tố xuất hiện vừa thở hào hèn vừa nói:

– Tụi này bữa nay chơi ác bỏ vòi qua tới đây. Tụi du kích Ràng ít dám ló đầu ra vì thường đụng biệt kích thằng trung sĩ Lệnh. Chúng nằm cả đêm ngoài rừng. Buổi sáng tụi du kích lơn tơn xách quần đi “bứt cỏ” , thế là đụng đầu, bị nắm chóp hết mấy thằng rồi.

Ba Tố vừa dứt lời thì có tiếng kêu:

-Hầy Hai ơi ! Hai Khởi bị thương !

Ba Tố nói tỉnh bơ:

– Đã nói mà ! Hễ không có máu là không ăn tiền!

Sáu Đức cười khặc khặc:

– Coi chừng mẹ đĩ ở ngoài Thanh Hóa không ai giúp đỡ !

Hai Khởi đi tới tay bụm mắt, máu rớt qua kẽ tay. Tôi hỏi.

– Có sao không?

– Nó xén cái chóp chân mày mất một phân tây.

Ba Tố cười:

– Chưa sao. Nếu một phân tây chỗ kia thì mới đáng sợ.

Sáu Đức bảo chạy đi kêu y tế xã. Hai Khởi lắc đầu. Tôi xem vết thương chỉ xớt qua tí da nên lấy bông băng cá nhân quấn mấy vòng rồi sai mắc võng cho nằm. Sáu Đức lại cười:

– Để tôi đi kiếm vài con gà về nhậu lấy lại tinh thần.

Hai Khởi trỏ căn nhà và nói:

– Đây là trường bình dân của Ràng do cô Chín Hòa dạy.

– Chết hụt không lo, ở đó mà chín Hoa mười Hóa.

Tuy bị thương nhưng Hai Khởi vẫn lo đầy đủ trách nhiệm của thổ địa. Y ngồi dậy cuốn võng đeo vào lưng rồi dắt cả đám đi sang một xóm gần đó, vào một ngôi nhà ba căn rộng mênh mông do hai chị em làm chủ. Cha mẹ chết vì một quả pháo cách đây vài tháng. Hai Khởi bảo Tôn:

– Chú mày vô đây bắt luôn hai con cá rô mẹ một lượt, chịu không?

– Thằng bị rau muống quấn mà đi đâu cũng trồng sua đủa không sợ trời đánh sao?

Hai Khởi cười hề hề :

– Thiếu chất nhép lâu ngày chịu không nổi bác Ba ơi!

Tôi bảo:

– Coi địa hình thuận lợi thì đo đạc và quan sát nhanh lên đi. Sau đợt pháo, nó có thể gởi bộ binh tới truy nã mình.

Ba Tố trỏ dưới đít ván:

– Ông tham mưu nên xuống đó nằm dưỡng sức ! Bây giờ tới phiên tôi làm thổ địa. Vùng này cũng đã từng nhẫm dấu chân của tôi. Ởở đằng sau vườn có một gốc xoài già . Mình leo lên đó bỏ ống dòm sang Trung Hòa thì thấy rõ nồn nội.

– Đây đó cách bao xa?

– Chưa đến hai cây số đường chim bay. Nhưng phải hóa trang thường dân.áo bà ba đen, nón lá vai vác cuốc. Nếu tụi nó nghi ngờ là ăn pháo ngay.

Sáu Đức nói:

– Ở đây tôi cũng đã mò tới. Phải mặc sơ mi trắng, nón nỉ cho giống dân chợ mới che được mắt tụi nó.

Thấy Sáu Đức nói có lý tôi bèn làm theo, nách kẹp ống dòm còn Ba Tố thì làm nông dân. Thế là chúng tôi bước từng bước men ra gốc xoài. Sáu Đức bảo:

– Cứ đi tự nhiên! Làm gì như đạo chích rình nhà vậy?

– Không đạo chích thì là cái giống gì?

Thiệt tội nghiệp cho Quân Đội Nhân Dân Việt Nam anh hùng. Từ khi lọt vào đường Trường Sơn tới nay, và không biết tới bao giờ nữa, chiến sĩ lẫn cán bộ đều sợ bị phát hiện ra là người của Bắc Việt. Tên họ thay đổi, áo quần thay đổi và phong cách cũng thay đổi luôn: anh hùng đổi thành gian hùng, vinh quang hóa ra lưu manh và quân đội vì dân chỉ còn là quân đội ăn cướp của dân.

Tội nghiệp cho quân đội nhân dân anh hùng? Đế quốc Mỹ xâm lược mà chúng đổ quân công khai vào Đồng Dù, máy hay chụp hình rầm trời. Còn ở đây cán bộ không dám ló ra khỏi hầm, và quân đội muốn thấy kẻ địch phải đóng vai thằng ăn trộm gà làm cho cái cục chánh nghĩa treo lủng lẳng ở đâu đó phải thon thót suýt teo mất. Tôi hỏi Ba Tố:

– Có phải Biệt kích của thằng Rắc không?

– Không rõ thầy ạ. Vì tụi nó nhiều loại biệt kích lắm. Nhưng tụi thằng Rắc là nguy hiểm nhất vì nghe đâu trước kia nó là du kích xã Phú Hòa bất mãn cái ông nội gì đó không biết mà nhào ra ngoài tổ chức biệt kích chơi lại mình. Nó không như tụi Mỹ nằm vài giờ mỏi lưng rồi rút về. Nó đem cả cơm nước theo ăn, có khi nó chém vè hai ngày liền. Du kích đi, nó cho lọt. Mình tưởng êm, đưa ông gộc tới là bị nó. Cũng như hồi nãy, thầy thấy không? Có thể nó chỉ rút một mớ còn một mớ ém lại cho nên nhân dân tưởng nó rút rồi.

– Vậy thì nó còn hơn tụi biệt kích Kangoroo trên đường Trường Sơn nữa!

– Ở đây nó còn mặc đồ bà ba nằm trong nhà dân nữa thầy ơi! Mình ở trong kia lơn tơn ra đụng nó là xuôi tay chớ chạy sao thoát.

-Mẹ, cái thứ này nguy hiểm lắm. Hồi tôi ở trên R, gặp mấy cha ở miền Tây lên thuật lại chuyện ở Rạch Giá có một thằng xếp đồn là Một Mun. Nó là Thổ lai…

Tôi ngó dớn dác vì nghe có tiếng cụp cụp không mấy gì hay ho. Ba Tố nghiêng tai nghe và nói:

– Không phải pháo, hình như nhà bên trẻ con chơi đập mo cau hay là đàn bà sãi gạo vỗ đít thúng đít nia. Tôi đã cho cảnh giới hai đầu rồi, thầy cứ yên tâm.

Tôi nói tiếp:

– Nó đen mun làm thiếu úy xếp đồn, nên dân gọi là Một Mun. Cũng gốc du kích không biết nó thù hận gì mà bỏ theo giặc. Nó nghe du kích bắn cạch cạch là xách súng dắt lính đuổi ngay, bắt được bắn liền.

– Thằng Rắc này chơi trò êm dịu kín đáo nhưng độc hơn.

– Mình ngồi lêu bêu thế này rủi nó chụp, chui đâu?

– Chạy thôi! Thầy đi qua mấy cái giếng tôi chỉ lúc nãy, nước lên lé đé miệng giếng. Kiểu đó, đâu có đào hầm được. Bởi vậy du kích tại đây tróc hết, chạy thụt vô Đồng Lớn, Sa Nhỏ lâu lâu mới ló ra một chuyến bắn cắc bùm rồi thụt vô…

Tôi ngồi nghe Ba Tố nói chuyện mà như dưới đít có chông. Mình đã quen sống doanh trại chính quy bên Tàu, ngoài Bắc, về rừng cũng độc lập muôn năm. Bây giờ ra tiếp cận vùng meo, nghe giống như con cua lột. Một cái gai bưởi, thậm chí chiếc tăm xỉa răng, cũng đâm lũng dễ đàng. Giống như tướng Cosaques Bạch Vệ trong Les Chemin des Tourments của A.Tosltoi, từ đồng rộng nghênh ngang bị lọt vào thành phố là cảm thấy chật hẹp khó xoay trở và bị bao vây bởi phố xá .

Sáu Đức dắt về một cô gái mặt rỗ hoa mè, miệng có duyên, tóc bới lủng lẳng sau ót.

– Đây là em Nưa, du kích ấp. Em sẽ đưa đường mình đi.

Nưa hỏi:

– Đi đâu anh?

– Ra mấy cây xoài múc sau nhà, leo lên đó ngó ra ngã ba Tầm Lanh và Trung Hòa.

Nua nhìn cách hóa trang của tôi và Ba Tố rồi gật đầu:

– Ừ làm như vậy mới được. Kỳ trước mấy ông tiểu đàn dìa đây thụt ló thế nào mà nó dùng một trái cối lọt giữa nhà bị thương tám ông bộ đội.

– Chín Nữa bị cú đì-réc! – Ba Tố tiếp theo – May thôi đi chầu Hà Bá rồi thầy ạ !

Nua trố mắt nhìn tôi có ý hỏi thầy gì? Tôi khoát tay bảo đi. Nữa đi trước, tôi và Ba Tố theo sau. Đang đi bỗng Nua quay lại:

– Bộ mấy anh muốn chọc cho nó bắn tan xóm này hả?

Sáu Đức đưa tay vuốt lưng cô em:

– Thôi mà cưng! Nó muốn bắn là nó bắn chớ đâu đợi chọc. Đừng đổ thừa cho mấy anh!

Ba Tố chêm vào:

– Thằng Đực em mày gài trái lựu đạn sét nổ bị thương hai thằng lính nên nó bắn cối trả thù chớ không phải mấy anh chọc đâu ! Nay mai quân đội sẽ cho tụi bây vài khẩu pháo để quạt lại tụi nó.

Nua quay lại hỏi.

-Thiệt hả?

Ba Tố trỏ trỏ vào tôi đang đi sau chót. Nua cuốn cặp môi mỏng:

– Hèn chi nghe kêu bàng thầy. Em nghe bà con đồn hồi sáng tụi nó bị thương hai thằng.

Ba Tố nói:

– Tụi anh chơi đó . Nó nghe AK, biết chủ lực, nên rút lui. Nếu nó nghe súng tép thì rượt bắt sống rồi.

Sáu Đức cười mơn trớn:

– Em có chịu học súng cối không Nua ? Anh cho một cây bắn… hì hì thích lắm!

– Có đâu mà thích?

Đức tán liên miên làm cô gái mê tít, cứ chốc chốc lại dừng chân hỏi:

– Thiệt hôn, có thiệt hôn?

– Nè, anh nói cho mà rõ. Kỳ này là nện thẳng tay đó. Mà đã nện là thẳng thét, không có oam oam đâu.

– Vậy cho em đi học súng cối đi!

– Các xã cử học sinh tới rồi. Em bảo xã đội giới thiệu em mau mau kẻo hết chỗ.

Bỗng có tiếng chân thình thịch ở sau lưng. Tôi quay lại: Một người mặc quần đùi, chân chữ bát, nịt thắt lưng Mỹ, K54 xề xệ gần đụng đầu gối. Ông ta nhận ra tôi bèn kêu lên:

– Ông thầy pháo! Từ ngày nhậu tép mỡ ở chuồng trâu con Sáu Trong Năm Biền tới bây giờ mới gặp đây.

– À ông Bính. Đi đâu vậy? – Nua quát hỏi – Đi đâu cũng đụng ông!

Tôi nhớ ra là Bính Chân Lư đại đội phó C3 Quyết Thắng. Bính tới bắt tay tôi và tiếp:

– Dượng Chín Nữa của ông bị pháo lũng bao tử nhưng không chết, hiện nằm ở C5 của Tư Chuyền.

Ba Tố hạch hỏi.

– Rồi ông đi theo tụi tui làm gì?

– Tôi đi theo nhìn ké cái chuồng cu Trung Hòa một chút.

Nua ra lịnh:

– Đi thì phải bỏ súng, áo bà ba, nón lá, vác cuốc. Vô nhà làm như vậy mau rồi chạy theo.

Chúng tôi tiếp tục đi theo sự hướng dẫn của cô du kích.

Đến gần cây xoài múc thì mọi người tản ruộng ra làm nông dân. Tôi thấy áo sơ mi trắng và quần dài không hợp thời trang nên chui vô bụi cởi bỏ và phơi lưng trần đi tiếp. Chung quanh cây xoài có nhiều bụi rậm cao khỏi đầu nên việc che tầm mắt lính canh từ chuồng cu bót Trung Hòa rất thuận tiện. Cây xoài này cũng như cây xoài tôi đã từng leo với Năm Cội ở Bàu Chứa hôm trước, nhưng ở đó thì khoảng cách bót Trung Hòa xa gấp ba so với đây.

Muốn đặt pháo phải biết rõ cự ly và mục tiêu căn cứ vào bản đồ pháo binh thật chính xác nhưng chúng tôi không có loại bản đồ đó nên đành phải vác thước dây thước gỗ mà đo như kẻ đạc điền thời Pháp. Vì thế nên pháo kích thường trật mục tiêu, thậm chí giết dân oan uổng. Điều đó không có gì làm lạ. Cộng Sản là chúa làm ẩu vì bất chấp khoa học kỷ thuật. Ba Tố mặt quạu đeo, làu bàu:

– Mình xuất hành không coi ngày thầy Hai ạ, nên mới đụng cú đầu đã hao quân.

Tôi cười gượng:

– Tiền hung hậu kiết, không sao đâu bác Ba nó. Ông coi cho đã đi để về đặt kế hoạch tác chiến. Tôi giao tất cả cho ông và ông Sứt điều binh khiển tướng trận này.

Tôi về nhà thì thấy Hai Khởi đang ngồi trên góc ván, đưa đầu cho một người con gái quấn băng. Cô nàng đứng quay lưng, cái ngực lê la sát mũi anh ta, như cặp mồi nhử con cá thòi lòi. Chỉ cần nhích tới một ly là ngoạm được. Cái mái tóc quăn ngắn để lắp ló da ót trắng ngần. Ba Tố buột miệng nói:

– Ước gì tôi bị thương như ông vậy nghe ông tham mưu.

Cô nàng quay lại khoe nguyên bộ mặt khả ái và nụ cười lúm đồng tiền:

– Bộ thích ăn miểng pháo lắm hả?

Hai Khởi lanh miệng đỡ:

– Ông thầy của anh đó Quắn. Kêu ảnh bằng thủ trưởng nghe em !

Cô nàng nhìn tôi ngạc nhiên một giây rồi quay lại đưa tay vỗ vỗ vai ông thương binh:

– Em đã rắc bột pê-nê-xi-lin, mau lành lắm.

Tôi hỏi.

– Có sao không cô?

– Dạ chỉ ngoài da thôi.

Ba Tố xen vào.

– Chân mày mà trụi hết chắc giống khỉ già lắm!

Quắn cười để lộ hằm răng trắng và đều:

-Dạ, hổng đến đổi đâu.

Hai Khởi quay sang tôi:

– Nhờ thầy quạt mấy loạt AK, nếu không chúng nó dám ùa qua bắt sống tụi tôi lắm.

Hai Khởi giới thiệu với tôi và Ba Tố:

– Cô Quắn y tá (đúng ra là cứu thương) của xã đội Trung Lập. Cô em có tên đẹp lắm nhưng vì tóc quăn nên ai nấy gọi là Quắn.

Hai Khởi bảo Quắn:

– Cô chạy đi kêu ông Ba Bụng hay Ba Hỉ gì cũng được, lại đây cho tôi biểu.

Quắn đáp:

– Có chị Ba Hỉ ở đây nè, anh, ủa chú !

– Mày sửa cái miệng mày được không Quắn. Ai biểu mày gắn quân hàm Chú cho tao đó?

Quắn cười to làm cái đồng tiền lún vô đủ sức chứa một lọ mực tàu của ban tổ chức. Quắn khiêu khích.

– Chú là phải rồi. Sợ lên lon Bác đó chớ !

Tôi ướm thử xem cô bé tặng cho mình cái lon sữa bò gì, bèn nói:

– Cháu biết Út Hương không?

– Út Hương quân trang ở Đồng Lớn chớ gì ! À, ủa mà trả chữ Cháu lại cho anh đó !

– Sao lại trả?

– Anh chỉ đáng anh Hai tôi thôi?

Mọi người cười ha hả. Ba Tố nói:

– Đó thấy chưa? Mới thấy mặt đã đặt tên rồi.

– Chớ không phải sao? – Quắn nghênh mặt – Coi ảnh trẻ giống như lính mùa đông chớ đâu có khằn như cán mùa thu mấy chú vậy?

– Thôi chạy tìm đùm ấp đội Hỉ, hoặc xã đội Bụng đi!

Vừa đến đó, tôi ngó ra sân thấy một thanh niên mặc quần trây-di. Tôi giật mình tưởng là lính Quốc gia. Những Hai Khởi ngoắc lia và kêu:

– Hỉ, vô mau !

Người thanh niên rảo bước vô nhà, đưa tay quệt ngang cặp mắt ti hí và hỏi Hai Khởi:

– Anh Hai tìm em có chuyện chi? Em nghe anh bị thương…

– Tôi có lòi phèo không ăn thua gì! – Hai Khởi gạt ngang – Còn ông này mà trầy da là tôi đóng gông hết các cha ấp xã đội Trung Lập Thượng này.

Bà con thấy ông quận bị thương bu tới xem. Ông quận là cán thứ dữ mà nói vậy thì cái ông này quan trọng cỡ nào? Nhất là cô y tá. Cô càng ngạc nhiên hơn mọi người vì cô là người biết cấp bậc trong quân đội. Ấp đội Hỉ đứng không có vẻ gì lo lắng lại còn tự hào:

– Anh Hai đừng lo. Có pháo thì em lấy thân em che cho ổng. Còn nếu tụi thằng Rắc vào, em rượt chạy có cờ cho coi.

Hai Khởi phán tiếp:

– Chúng tôi sẽ làm việc vài ngày tại Ràng. Vậy các anh phải lo cho chu đáo.

Ấp đội Hỉ móc ra gói Capstan hai tay đưa ra mời tôi xong lấy hột quẹt Zippo bật lửa cho tôi hút và tiếp:

– Mấy anh ở mấy ngày cũng được, sứt miếng da em chịu tội.

Cô y tá hỏi Hai Khởi.

– Còn em có công tác gì không anh Hai?

Ấp đội Hỉ hất mặt:

– Cô chạy biểu vợ tôi kiếm vài con gà con vịt gì đó làm sương sương cái đã, rồi công tác gì sẽ tính sau.

– Còn em? – Nua hỏi.

– Cô đi xách vài cây cột đầu vuông về đằng nhà con Mén. Ở đằng đó rộng hơn. Nếu không đủ chỗ thì ta triển khai qua nhà bà má Hai cách đó một bờ dừa, qua lại cũng tiện.

Phân phối công việc xong, Hỉ dắt chúng tôi đi. Ra đến đường thì đụng đầu mấy bà đi chợ về . Ba Hỉ chận lại hỏi:

– Mấy bà mấy cô qua ngang ngã ba Tầm Lanh có nghe gì không?

Một bà sồn sồn đáp:

– Mấy ông cố nội bắn mấy ông cố ngoại tụi tui sợ té đái chớ nghe giống gì?

Ba Hỉ nói trây một cách tự nhiên.

– Đái rồi thay quần chưa? Để vậy khai ngấy đó!

Các cô cười khúc khích lủi nhanh nhưng thấy người lạ thì quay đầu ngó lại. Một bà khác nói đả đớt:

– Tôi vừa đến Tầm Lanh thì thấy tụi thằng Lệnh gút ga Tung òa. Có hai thằng nằm băng-ca, bốn thằng khiêng? – Bà phẹc cổ trầu xuống mé đường, đưa tay chùi tém miệng và tiếp – Tụi nó vừa đi vừa chửi thề om sòm. Một đứa bảo tôi: “Bà về nhắn tụi dít-cu có ngon ra cầu Công Sở hoặc Tầm Lanh chơi một trận, đừng ở trong đó núp núp ống quần đàn bà , tụi tui vô nhai đầu có bữa ! “

Ba Hỉ nghênh mặt với Hai Khởi:

– Có giỏi vô đây mà nhai phải không anh Hai?

Ba Hỉ dắt phái đoàn vô một ngôi nhà nền gạch cao vách ván bổ kho lợp ngói kiểu như nhà Bảy Mô ở Gót Chàng và má Hai ở Hố Bò. Tôi nghĩ thầm: Lâu lâu mới thấy một ngôi nhà còn nguyên, nhưng chắc rồi cũng tiêu tan thôi. Bom pháo này có cái gì đứng được. Tôi bỗng nghe xót xa tấc dạ. Nhà cửa tôi cũng như thế này. Tây đốt tiêu hồi đầu kháng chiến. Không biết ba tôi cất lại hình dáng nó ra sao. Tôi đứng trước thềm nhìn ra . Hai Khởi trỏ rặng cây bảo:

– Đó là xóm Dân Hàn gần đường số 7.

Ấp đội Hỉ kêu hai người con gái trong nhà ra giới thiệu:

– Hai đứa này mồ côi. Cả nhà bị một trái pháo chết hết. May lúc đó tụi nó đi vắng nếu ở nhà cũng tiêu luôn.

Rồi Ba Hỉ chỉ dưới đít ván:

– Nó pháo thì mình chui xuống đó. Còn bộ binh vô thì mình chạy thôi.

– Chạy đâu? – Hai Khởi hỏi.

– Chạy trở vô dư xăng mà anh Hai.

Tôi thấy quanh hầm chất bao lúa sơ sài. Ở trong kia hầm hố kiên cố quen rồi, ra đây gặp hầm kiểu này nghe ớn xương sống quá! Thằng ấp đội này có vẻ gan dạ, nhưng không có kế hoạch chu đáo. Tuy vậy tôi cũng làm tỉnh, không hỏi thêm gì nữa. Biết ý tôi, Hai Khởi bảo ấp đội Hỉ:

– Mày ở đây để có gì tao sai khiến nghe !

– Dạ thì tui ở đây chớ đi đâu! Bây giờ để tôi dẫn anh và thủ trưởng ra sau mấy cây xoài già coi cái đồn.

– Tao quan sát ở đằng kia rồi.

– Ấ ra đây coi gần hơn. Nhưng phải thay đồ để che mắt tụi lính gác.

Hai Khởi lấy mấy cái sơ mi trắng đem theo từ nhà cho cả bọn tròng vô. Rồi Ba Hỉ dắt ra sau nhà. Tôi cặp nách ống dòm. Đi ngang chuồng bò thấy mấy cái nón lá và cây cuốc, Hỉ cũng quơ đưa cho tôi. Tôi nói:

– Nông dân gì vác cuốc mà mặc áo sơ mi trắng?

– Ở đây thanh niên làm ruộng cũng xài đồ trắng mà thủ trưởng. Tụi nó cuốc đất xong, liệng cuốc đi chợ uống la de, hoặc nhảy phốc lên xe lam đi Sài gòn chơi đều đều…

– Sướng vậy à?

– Dạ thì tụi nó vậy không hà ? Ảnh hưởng sống vội yêu cuồng của tụi Sài gòn hết mà !

Tôi hỏi qua địa đạo:

– Ở đây địa đạo ăn ra ngã nào?

Hỉ nhìn tôi hồi lâu rồi đáp:

– Ở đây đâu có xài ba cái thứ đó thủ trưởng!

– Vậy rồi làm sao chiến đấu?

Hai Khởi đỡ lời:

– Ấp này thuộc xã Trung Lập Thượng. Từ đây đổ ra các xã ngoài quốc lộ I đâu có đào địa đạo được thầy! Toàn chơi hầm nổi.

– Hầm nổi là hầm gì?

– Để chút nữa tôi chỉ cho thầy coi.

– Vậy sao mình cứ nói địa đạo Củ Chi thôn liền thôn xã liền xã.

Hai Khởi cười. Có lẽ da mặt căng đau nên cái miệng méo xẹo:

– Thôn liền thì có. Liền thôn cũng có nhưng xã liền xã thì còn lâu thầy ơi? Đất ở đây chọc mũi dao xuống là nước tràn lên rồi, đạo gì nổi mà đạo.

Hỉ tiếp:

– Muốn làm cái hầm bí mật cũng còn khó thủ trưởng ạ ! Phải chọn gò mối hoặc bờ tre, nhưng gặp tháng mưa thì chui xuống nước ngập tới cổ. Túng lắm mới độn thổ.

Đang nói chuyện thì nghe tiếng chân chạy phía sau. Tôi quay lại thấy một cô gái mặc áo lụa trắng: Nưa. Nưa cũng chưng diện coi khá khủm, làm mờ đi cái mặt rỗ hoa mè.

– Anh Hỉ dắt mấy ảnh đi đâu vậy?

Ba Hỉ quát:

– Con quỉ Nưa, tao biểu bây gác phía Tầm Lanh sao bỏ đi đây?

– Có thằng Đực em tui lo rồi !

– Ờ, bây sơ hở là chết đó !

Cô du kích thở hổn hển:

– Mấy anh đi coi trận địa để cối Trung Hòa hả ?

– Mày im cái miệng cá tra của mày đi có được không?

– Ừ ! Cối đi ! Mình không cối nó , nó cũng cối mình. Chậc ! phen này chắc tiêu xóm mình hết. Nhưng mà kệ…

Hai Khởi tuy bị thương, cũng cố đưa tay vuốt lưng cô bé :

– Mình không cối nó, nó cũng cối mình. Vừa rồi nó làm mình tiêu một tiểu đội của D8. Lần này mình trả hỏa, không phải vài phát đâu mà chơi nát luôn Trung Hòa lẫn Đồng Dù. Vài bữa nữa sẽ có cối tới tay mấy em.

Nưa cười hắc hắc:

– Thiệt hả anh? Em mà có cối là em quết tụi Trung Hòa này nát như tương.

Hai Khởi hạ giọng, có vẻ bí mật.

– Ông thầy cối kia kìa, ổng… đó ?

Nưa chạy vụt lên trước để nhìn mặt tôi, rồi tụt trở lại nói với Hai Khởi:

– Thầy gì trẻ vậy?

– Trẻ thì trẻ, thầy vẫn thầy. ông sẽ mở lớp huấn luyện cối. Em có đi không?

– Ai thèm giới thiệu cho mà đi.

– Để anh bảo Ba Bụng giới thiệu lên, anh nhận cho.

Nưa hỏi tiếp:

– Coi bộ khó quá chắc em không học nổi đâu anh!

Ra đến nơi, cả bọn núp ở bờ tre. Thấy đồng trống tôi bảo đừng leo cây xoài nữa. Rủi tụi nó thấy thì bể hết kế hoạch. Chưa chi đã có nhiều người nghe rồi. Nhất là cái cô du kích này. Miệng mồm chót chết, chỉ lát nữa là mọi việc đều ra đến bót. Tôi lại vô bụi và mở ống dòm ra xem. ở góc độ này địa thế thuận lợi cho việc nghiên cứu lẫn tác chiến. Cái đồn xây cao nhô lên như đỉnh núi Bà Đen ở Tây Ninh. Chung quanh, lúp xúp những dãy nhà nằm trong vòng tường trắng. Cái chuồng cu nhô lên nóc đồn như chiếc bánh ú gầy tọp, trong đó hai tên lính ngồi, mỗi đứa ngó một hướng. Hình như có cái radio treo bên cạnh của thằng ngồi phía trái.

Ông Bính vác cuốc ra ruộng đi qua đi lại giả bộ đắp bờ ranh. Nưa la:

– Ông phải đứng một chỗ chớ đi như vậy nó nghi. Nó cũng có ống dòm nữa !

Nói xong Nưa chui vô bụi bảo tôi cho xem thứ. Tôi đưa cho cô nàng và điều chỉnh độ nhìn đùm cho cô. Hơi thở của cô bé thổi vào mặt tôi thơm phưng phức. Cô Quắn không có nhiệm vụ quân sự nhưng thấy ông thầy dễ tính thì cũng nhào vô xin xem cho biết cái chuồng cu. Ba Tố núp sau bụi nghe cô bé nói thì phát cười:

– Chuồng cu không quan trọng, hai con cu ngồi kìa mới quan trọng.

– Anh ủa… chú quỉ nà. Nghiên cứu trận địa còn cà rởn.

– Ai cà rởn gì, cái tháp canh mình kêu là chuồng cu thì hai tên lính ngồi trong chuồng cu là con cu chớ con gì không phải sao?

Chờ cho Nưa xem xong, tôi hỏi:

– Thỏa mãn chưa?

– Được rồi đó thủ trưởng.

Tôi đưa ống dòm cho Quắn. Quắn kêu ngay:

– Rõ quá trời! Sức em vói đụng. Anh Hỉ ơi lại đây tui cho coi ké , đã lắm ?

Ấp đội Hỉ cũng là tay nhạy hài hước, nghe Quắn nói, tóm lấy ngay:

– Cho tui xem thiệt không?

-Thiệt. Lại đây tôi chỉ cho xem.

– Cái đó nó biết lâu rồi khỏi cần chỉ! – Bính Chân Lư ngưng tay cuốc quệt mồ hôi trán chỏ mồm vào – Xem mau mau đi để tao còn xem với chứ? Lâu gặp quá sợ quên mất mặt mũi ra sao!

Đám đàn ông cười ré lên. Hai cô mới vỡ nhẽ ra là mấy chú lớn cái đầu chọc mình. Quắn đỏ mặt quay lại chỉ chỏ:

– Chút nữa về nhà bỏ đói cho biết mặt! – rồi nàng tiếp tục dòm. Nàng kêu lên – Trời! thấy rõ quá hà. Dây chì gai mấy sợi đếm đủ. Kìa một thằng lính đeo máy ở lỗ tai. Chắc nó nghe vọng cổ. Mẹ nó sướng như tiên. Quánh với mình mà ngồi trên cao nghe vọng cổ.

Tôi ngồi ở giữa hai nàng. Quay qua bên nào cũng suýt đụng gò má, nhưng mới tới đây, chưa biết tình hình địch ra sao nên chưa dám tấn. Hai cô dành xem lôi cái ống dòm qua lại trước mặt tôi. Mấy cánh tay có vô lỗ mũi tôi cũng đủ vốn rồi. Sợ em út ghen thủ trưởng tốt số, nên tôi đứng dậy thụt lùi ra sau bụi và bảo Tôn Sứt vào giúp đỡ cho các em xem. Cái ống dòm hôm nay được mọi người nâng niu chìu chuộng. Hết các cô đến các chú. Ai cũng được xem qua cái chuồng cu và hai con cu ngồi trong đó vài ba lượt. Xong cả đoàn kéo nhau về nhà Út Mén để ăn cơm. Hai chị em cô có mòi mê giải phóng dữ dội. Hồi trưa khi chúng tôi mới đến thì các cô tóc tai bùm sùm như cây rơm, bây giờ chải rẽ , tém vén khéo rất đẹp. Ba Tố và Tôn Sứt đeo riết không hở chút nào. Vái trời cho họ có độ với nhau để mặt đất Củ Chi bớt sần sùi đau đớn.

Ăn cơm với thịt gà xé phai suông không ai được uống rượu. Cơm nước xong trời đã chạng vạng, rất tiện lợi cho công tác. Tôi bảo ông Bính Chân Lư về xách một tiểu đội ra án ngữ tại ngã ba Tầm Lanh phục kích để tụi này yên tâm đo đạc. Trận địa thứ ba này nằm trong vườn nhà của cô Nưa. Trước khi đi, Bính còn ráng nói móc:

– Ông thày dùng phương pháp hình học tam giác hả ? Hễ biết một cạnh và hai góc thì tìm được diện tích chớ gì. Tha hồ mà đo miếng đất của cô Nưa.

Nưa ngây thơ la toáng lên:

– Đất của ba em đâu phải hình tam giác!

Bọn chú lại cười ầm ỉ. Nưa hiểu ra đỏ mặt cúi gằm. Để chửa ngượng cho cô em, tôi hỏi:

– Các em ở ngoài này công tác đều không?

– Dạ khá lắm chớ. Chúng em đi đắp mô ngoài đường số 7, cầu Công Sỡ như cơm bữa. Rồi gài cà-nông lép hoặc lựu đạn ngoài đường.

– Có chết tên lính nào không?

– Lính thì không chết, chỉ chết ba ông lái xe lam với hành khách. Xe bị nổ văng xuống ruộng.

Bính Chân Lư tiếp:

– Xe lam ba bánh chớ không phải xe tăng Mỹ mười sáu bánh đâu nghe thủ trưởng.

Hai Khởi vọt miệng:

– Tôi đâu có phải nhà báo Nhã Nôm nghễnh ngảng nghe rồi phóng đại tô màu.

Nưa dắt vào vườn nhà bằng ngỏ hậu. Tôi bảo hai cậu quan trắc đóng cự ly đường đáy của tam giác. Đường đáy càng dài thì lấy mục tiêu càng chính xác. Một tam giác biết được một cạnh và hai góc kề thì tìm ra được góc đối đỉnh. Từ đó tra bảng Log của pháo binh ra hai cạnh dễ dàng. Hai cậu trinh sát được gởi đi học trên R nên rất rành công việc trắc địa. Chỉ trong vòng mười lăm phút là chúng tôi đã có cự ly mục tiêu Trung Hòa một cách chính xác theo phương pháp đồ giải tam giác lượng nhờ có khí tài phương hướng bàn để đo các góc của các điểm A B C. Cô du kích chỉ tay bốn phía nói tía lia:

– Xa mờ đó là Củ Chi. Vùng ánh điện tỏ là Đồng Dù. Đèn dầu leo lét trước mặt kia là xóm Mồ Côi. Đèn xa mờ chút là Lào Táo. Còn đèn phía bên phải là xóm Dân Hàn.

Bất giác tôi hỏi:

– Còn đâu là Hố Bò, đâu là An Nhơn?

– Bộ anh có quen ai ở đó à ?

Hai Khởi vọt miệng:

– Bồ cả đống đó sao không quen!

– Ai vậy?

– Cô đội trướng dũng sĩ.

– À, chị Bảy Mô hả? Chỉ thì xứng với thủ trưởng rồi!

Trời tối chúng tôi đi đứng tự do nên nói chuyện thoái mái. Nưa tiếp:

– Mấy anh lấy con gái ở đâu thì lấy đừng lấy con gái ế xóm Ràng của em nghe.

Tôi bật cười:

– Sao cô nói xấu xóm mình vậy?

Nưa thành thật:

– Em nói thiệt mà . Dân ở đây làm nghề đươn rế, không có ai giàu cả. Ngồi lết cả ngày đít chai ngắt và dẹp dép đâu có no tròn đẹp đẽ như con gái Gót Chàng Hố Bò. Chỉ có một nhà tường gạch là nhà thằng Tẻng. Nó cũng đi du kích. Ông già nó thầu hết rế trong xóm đem ra Củ Chi bán nên có lời. Ngoài ra đều nghèo xơ nghèo xác.

Ấp đội Hỉ dắt chúng tôi về nhà cô Quắn. Y trấn tỉnh chúng tôi lần nữa:

– Ở đây cách đồn chừng cây số ngoài, nhưng tôi cho canh gác kỹ rồi. Nếu có gì thì chúng nó bắn báo động tôi dắt các anh chạy, đừng lo.

Quắn có người anh tên Ba Quyết làm trung đội trưởng của C3 D1 Quyết Thắng nổi tiếng gan dạ. Một lần về phép với hai đội viên, Quyết đã phục kích đánh lấy được một Colt 12 của lính Trung Hòa tại cầu Công Sở trên lộ 7, nhưng biết đem về đơn vị cũng không được phép mang nên lén bán cho ông xã đội trưởng Ba Bụng lấy tiền xài chơi. Trước khi đến nơi, Hỉ dắt chúng tôi ghé một cái quán. Hỉ nói:

– Ở Ràng chỉ có con xẩm lai này là đẹp thôi. Bộ đội dòm dèm dữ lắm nhưng chưa ông nào lọt vô.

Vừa đến thì cửa quán đã đóng. Hỉ gọi to. Một anh chệt sồn sồn mở cửa với nụ cười toe toét dưới ánh đèn dầu:

-Hà hà… mời mấy ông dô nghỉ uống lướcé

Hỉ nói như ra lệnh.

– Cho ít gói cáp-tăng và hai chai anít, một kí khô mực !

Anh chệt quay vô bảo con gái lấy hàng còn mình lăng xăg đem nước ngọt ra khui mời. Hỉ xua tay:

– Mấy ông lớn này không quen ba thứ đó.

– Hà hà . . . để ngộ khui la-de .

Tôi biết cái kiểu ăn hàng của quân ta ở đâu cũng rập khuôn như bà khu ủy Tân Biên: cứ mua và ghi sổ. Giải phóng xong, trả một lần, nên bảo:

– Chúng tôi không uống bây giờ, để khi khác !

Quả thật cô bé đẹp vô cùng. Nước da trắng như bông bưởi, tóc đen, môi son. Chưa bao giờ tôi trông thấy một cô gái đẹp như thế từ trước đến nay. Ôm hàng trên tay, Hỉ hất hàm với chủ quán:

– Ghi đó mai trả nghé !

– Dạ, hổng có pao diêu mà ! Mấy ông công tác gian khổ mới diều chớ !

Chúng tôi quay ra. Nưa có lẽ ghen tức với cô xẩm lai vì những cặp mắt cú quạ các chú xoi mói tận tình, nên nói nhỏ với Hai Khởi:

– Chén kiểu coi trài trài vậy chớ bị mẻ miệng rồi.

Ba Tố hỏi.

– Tại sao vậy?

Hỉ đáp:

– Mấy con nhỏ này thấy nó ngộ rồi ganh, đồn bậy bạ là thằng trung sĩ Lệnh bắt nó vô đồn chớ đâu có.

Ba Tố gắt.

– Thằng Lệnh là thằng nào mà oai vậy?

– Nó cầm đầu nhóm biệt kích Trung Hòa này. Củ Chi có thằng Rắc. Trung Hòa có nó . Hai thằng đều là gốc du kích cả. Bây giờ mang súng lại chơi mình còn ác hơn tụi Sài gòn. Nó hút á phiện. Sáu con vợ. Đi phục kích mình, nó dám ỳ hai, ba ngày liền một chỗ, chớ không có sôt ruột nằm chưa nóng cỏ đất đã rút về như Mỹ đâu. Hồi nãy mấy anh bắn nó bị thương mấy thằng nó rút, nhưng chưa chắc nó rút hết. Nó chơi kiểu nhả bừa, còn nín lại đâu đó.

Tôn Sứt cười khậc khậc và nói tiếng Tàu ba rọi:

– Tôi muốn đụng tụi này phát nữa. Mẹ, nghe nó bắt con xẩm lai bỏ trong lồn (đồn) một lêm (đêm) ngộ tức muốn pể pụng! Con ngái của người ta mà bắt như dậy thì coòng gì !

Ba Tố cũng hùa theo giọng ba tàu:

– Pắt con người ta mà không có hửi dái (hỏi giấy) gì hết. Chừng nào hửi dái mà người ta không có mới pắt

– Người ta không có dái (giấy) thì cũng có cặc (cạc=thẻ căn cước). Ai ở vùng này mà không có dái có cặc. Không cặc xanh thì cũng có cặc lỏ chớ… Pắt ẩu người ta bỏ trong lồn như dạy một lêm chịu sao lổi. Ở ở trong lồn lông người ta, lộn xộn lâu có ngủ yên lược?

Nghe vui, Hỉ cũng hùa theo:

– Cái tụi đó nó hay hửi dái người ta lắm. Gặp ai nó cũng đòi cho coi dái coi cặc. Cặc xanh nó không chịu đâu, nó đòi cho lược cặc lỏ mới cho li. Ai không muốn bị bỏ vô lồn thì phải lóng tiền.

Nưa quát:

– Mấy anh mất quan điểm nhân dân quá trời.

– Nhân dân Ba Tàu hả?

– Ba Tàu thì Ba chớ họ đâu có nói tục tĩu như vậy.

Nhà cô Quắn ở gần đồn Trung Hòa, ớn quá. Nhưng phải đi theo. Quắn chạy ra đón chúng tôi vào. Nàng thay đổi xiêm y trang điểm trông khác hẳn lúc nãy. Tôi hỏi ngay.

– Hầm hố thế nào cô em?

Hỉ nói hớt.

– Có nhưng không bảo đảm như trong Hố Bò An Nhơn.

Vào đến nhà , tôi ngồi không yên, cứ ngó dáo dác. Không khéo lại ra đây nộp mạng cho địch. Hỉ nói cà rởn.

– Hầm ở đây đâm thủng tuốt thủ trưởng ạ !

– Hầm gì mà đâm thủng được chú em?

Quắn bảo:

– Các anh đừng lo. Tụi em ở đây cả đời có sao đâu?

– Tôi hết nhiệm vụ, giao phái đàn lại cho chị nghe.

Nưa nói rồi đi thẳng ra sau bếp. Bà má của Quắn bước ra với vẻ mặt sợ hãi, ngọn đèn dầu đỏ chạch trên tay run run:

– Mấy ông làm tôi sợ hết hồn hết vía. Tôi tưởng tụi thằng Lệnh chớ!

Hỉ đáp:

– Bác coi toàn là AK chớ đâu có AR-15.

– Tao có biết A ka a kiết gì. Thấy súng là tao sợ rồi !

– Tụi thằng Lệnh rượt tụi cháu chạy hoài. Tụi cháu có ngán đâu.

– Mấy đứa bây phải coi chừng cho kỹ. Hổng chừng nó đang ở ngoài bờ mía bây giờ nè chớ chưa có rút hết.

Nghe nói cái chiến thuật biệt kích nguy hiểm tôi hỏi phăng tới. Ông già từ trong bước ra kể tiếp:

– Cái thằng này lợi hại lắm đó mấy chú ! Đàn bà con gái đi chợ gặp nó là sợ như chuột gặp mèo, mặt nó có cô hồn. Nó không có tra khảo đánh đập gì hết. Ra vào tự do, nhưng khi đi ngang qua đồn mỗi người phải đứng lại nói cho nó nghe một vài tin tức.

Tôi hỏi.

– Tin gì bác ?

– Thí dụ ở trong này có hội họp không, có bộ đội đi tới đi lui không…

– Ăn thua mẹ gì ba cái chuyện vặt đó bác. – Hỉ gạt ngang – Tụi cháu cũng biết cái mánh lới đó, nên bảo bà con cứ nói láo cho nó nghe.

Tôi nghĩ thầm, thằng này rất nguy hiểm. Trong láo có thật. Từ láo suy ra thật. Đó là một ngón tình báo nhân dân của mình mà nó cũng biết sử dụng. ông già tiếp:

– Không biết láo hay dóc nhưng ai cũng phải nói vài chuyện thì nó mới cho đi. Có khi nó hỏi có gặp ông bí thư Đời không? Mời ông ra uống 1a-de với khô mực chơi! Vừa rồi nó pháo một phát ngay trân…

Bỗng ngoài cửa có tiếng chân. Bà má bước ra và kêu lên:

– Vợ thằng Quyết về !

Chị Ba Quyết trạc hai mươi lăm đẹp người theo kiểu đàn bà nông thôn dắt tay một thằng bé con chừng sáu tuổi. Quắn chạy lại ôm nó, hôn chùn chụt:

– Tiến, cháu vô kiếm ba hả? Đây là mấy bác khác, không phải bộ đội của ba cháu.

Thằng bé bệu bạo muốn khóc. Quắn năn nỉ:

– Để cô nhắn ba cháu một mốt về !

Ông già đến bồng thằng cháu nội từ tay cô nó, nói rủ rỉ:

– Thằng cù là lửa này giống hệt cha nó ! – rồi quay lại chúng tôi – Tôi có một chút cháu nội đây. Tôi giữ nó như trứng mỏng. Rủi cha nó có…

Bà má gạt ngang.

– Ôông nói dại không hè.. !

(Mà thật, đúng như lời ông già nói, ít lâu sau, ba thằng Tiến hi sinh trong một trận đánh ác liệt ở ngã ba Tân Qui xã Phú Hòa Đông. Đã chôn ba ngày, ông già còn đến nơi đào lên cho người khiêng về để nằm sau vườn. Đúng là ông già Ba Tri. Sẽ kể ở những chương tới )

Chị Ba xách giỏ cá đem thẳng ra sau bếp, nói với ông già :

– Con mới tát đìa được mấy cặp cá lóc cháo và cá trê nàng đem vô ba má uống rượu.

Ông già mau mắn:

– Đem làm luôn cho mấy chú nhậu với ba. Bây giờ có gì bà nó cho dọn ra làm sơ sơ trước đã.

Nhìn sắc mặt tôi, ông già đoán ra sự lo lắng nên nói:

– Thằng Lệnh không đi chập tối, nó có đi thì đi giác khuya nằm luôn tới sáng, sương mù nó lùi lũi trong vườn êm rơ, du kích ra đồng đụng đầu nó, ú ớ hết có chạy.

Bà già hỏi.

– Ông tính làm gì ba con cá?

– Nướng lửa rơm, đừng lột vỏ, ăn ngọt hơn. Ở đây mà chờ canh chờ cháo của bà đắng miệng chết.

Tôi nói:

– Món gì chớ món đó để cháu làm cho !

Tôi nói vậy để ra ngoài bờ cảnh giác. Nếu ngồi trong nhà bị bao là hết phương chạy. Ông già chỉ cây rơm ở góc mương và đưa cho tôi một mớ lụi tre vót thiệt kỹ.

(Vùng này toàn là thợ đươn nên sẵn tre trúc. Có nhà đặt tên con là Nia, Sàng, Rế. . . )

Bên bờ mương cạnh cây rơm đứng ủ rủ một bụi trúc um tùm. Mùi rơm ẩm lẫn hương lá trúc phảng phất trong sương đêm làm tôi nhớ nhà vô hạn. Quắn đem giỏ cá ra cho tôi.

Nàng nói trỏng:

– Đó nướng mấy con thì nướng.

– Cô muốn nướng mấy con?

– Bộ tui là tư lịnh hả ?

– Chánh ủy!

– Ừ nhớ nghe, chánh ủy ra lệnh gì, tư lịnh phải thi hành hết ráo.

– Ra thử coi !

Tôi thấy thân mật ngay với cô bé liếng thoắng này. Chắc là tay bướng bỉnh lắm đây. Tôi bảo:

– Vô lấy hộp quẹt đem ra mau đi bà chánh ủy.

– Hút thuốc mà không có hột quẹt trong lưng à?

– Bỏ trong xắc-cếốt ở trong. Vô mang ra đây luôn dùm.

Trong lúc Quắn đi vô nhà, tôi rút rơm chất đống, rồi trút giỏ bắt đầu lụi cá. Quắn vừa chạy ra vừa la.

– Coi chừng nó lóc xuống mương!

– Tôi chụp đầu hết, lóc đi đâu!

– Cá trê trắng đó nghe dượng thằng Tiến!

Quắn bỗng nhiên phóng tiếng dượng vào tôi như một mũi tên. Tôi nhận mũi tên một cách êm ái bất ngờ.

– Dượng thằng Tiến không có ngán cá trê gì hết!

– Làm tàng hoài, nó chém một ngạnh khóc sáng đêm không có ai dỗ đâu.

Vừa tới đó thằng Tiến chạy ra, thở hào hển:

– Ông nội biểu bác vô nhậu gụ.

Quắn cười ngất:

-Bác lát bụi tre, ba con chó què đè cắn bác. Ở đây không có bác nào hết. Chỉ có dượng thôi. Kêu ông này là dượng Sáu (Quắn thứ sáu). Để dượng Sáu nướng cá rồi vô !

Quắn xách khúc củi dừa phện mấy con cá dãy tê tê. Tôi chụp lấy xỏ từ miệng thấu ra đuôi rồi cắm thành hai hàng gần mé ao. Tất cả được chục con. Tôi bảo.

– Chỉ nướng cá lóc thôi. Cá trê đem vô nhà nướng lửa than cho ba nhậu.

– Rể thảo quá ha ! – Quắn vừa chất rơm lên vừa nói – Châm lửa đi ông tướng.

Tôi bật quẹt nhưng không châm vào rơm mà đưa cho Quắn. Quắn không cầm lấy mà nắm nguyên chân tay tôi dí ngọn lửa vào rơm. Lửa bùng lên rực rỡ soi gương mặt nàng tuyệt đẹp như trong thần thoại. Nàng vừa nói vừa nhìn tôi tình tứ

– Anh châm lửa… Lửa nhạy quá.

– Đúng ra là do tay em !

Tôi kéo nàng ngã vào vai tôi. Nàng như trái chín mùi, vừa đụng tới là rụng ngay. Tôi hôn lên má nàng. Nàng ôm choàng lấy tôi Tôi đẩy nàng ra:

– Thằng Tiến thấy mét ba chết.

– Ba không có rầy đâu. Ba nói với má, em nghe: “Hồi đó tới giờ có thằng mùa thu này coi được?”

Tình cảm đến thật bất ngờ. Đến rồi mà tôi vẫn còn ngờ. Tôi nhìn ngọn lửa nhảy múa trong mắt nàng vui thiệt vui.

– Sao em thương anh?

– Em không biết. Thấy mặt là thương liền.

– Khổ cho anh chưa?

– Khổ cho em chớ, anh khổ gì?

Chỉ trong vài câu nói tôi biết nàng là cô gái có học khá. Nàng đứng dang tôi ra và bảo:

– Ném thêm rơm vào đi anh.

– Lửa cháy to rồi ! Em không . . . nghe à ?

– Sao không ! Nhưng đây không phải là lửa rơm đâu. Đây là lửa thần đó !

Có tiếng từ trong nhà vọng ra:

– Cá chín chưa đem vô mau !

Ba Tố bưng ra một cái sàn có lót sẵn lá chuối. Tôi lấy que củi cào than ra. Quắn bảo:

– Chú Ba đi vô lo dọn rau chuối khế bánh tráng ra cho sẵn, hễ đem cá vô là cuốn liền.

Quắn ném rơm thêm vào lửa để tôi thấy đường làm việc. Ba Tố thấy hai anh chị coi bộ chịu đèn nên lẫn đi ngay. Tôi lấy một nắm rơm vo lại cạo than trên từng thân cá, thịt cá nứt ra trắng phau. Mùi thơm bốc lên ngào ngạt. Trông thấy càng thèm, tôi nuốt nước miếng ừng ực làm Quắn dòm. Tôi nói:

– Anh nhớ mùa tát đìa ở nhà quá em à.

– Đây là nhà của anh rồi còn nhớ đâu nữa?

Quắn như bà tiên của thần thoại đi một bước ngàn dặm vào vòm trời tình yêu. Nàng làm như tôi và nàng đã có gì với nhau rồi. Trong tình yêu người con gái bao giờ cũng bạo dạn hơn mặc dù có vẻ kín đáo. Ở đây nàng đã không giữ gìn ý tứ lại còn muốn cho mọi người biết nàng yêu anh cán Mùa Thu chỉ có thằng này coi được! Bỗng nhiên nàng nói bâng quơ.

– Đất chung quanh đây còn rộng lắm. Ba có thể cất cho mình một cái nhà và chia cho mình mấy công vườn có sẵn cây ăn trái!

Tôi đã cạo xong vẫy mấy con cá sắp vào sàng cho thằng Tiến bưng vào, lũ cá trê còn lại tôi đem rộng ở góc mương. Nàng bảo với theo thằng Tiến:

– Đem ra cho cô cái rổ thưa và cục gạch. Cá trê mà rộng lơ mơ thì hụt ăn. À mà thôi xách vô luôn nướng than vỏ dừa.

Rồi nàng bảo tôi:

– Anh đi lấy cái gào tát nước cho lửa tắt đi.

– Mới nhen lại dập hết à?

– Lửa bên ngoài thì tắt còn trong ruột thì không.

Hai đứa đã làm xong nhưng chưa chịu vô. Nàng bảo:

-Mình ở ngoài này cảnh giác tụi thằng Lệnh.

Sau gốc rơm, chúng tôi dắt tay nhau đến ngồi tựa lưng vào êm như nệm. Mùi rơm làm tôi nhớ lúc còn con nít chơi nhà chòi với đám bạn xóm những đêm đạp lúa trăng tỏa huy hoàng. Mùi hương rơm mới ngào ngạt. Những bó rơm là tổ ấm của chúng tôi. Chúng tôi ăn cơm, làm tiệc giả với vài trái ổi chín, vài trái quít rụng. Chúng tôi làm đám cưới với cô dâu chú rể giả. Chúng tôi uống rượu bằng nước lả đựng trong những vỏ cau tươi và đốt pháo miệng. Chúng tôi nghiêm trang nhập phòng trong lúc không biết vợ chồng là gì. Mơ ước và thực tế của tuổi thơ lẫn lộn như những trang sách quê mùa đượm hồng. Không có ai đọc nó thấm thía bằng chúng tôi, không bằng chữ nghĩa mà bằng kỷ niệm. Để rồi lớn lên, mỗi đứa một nơi. Lòng còn in đậm bóng nhau với những cuộc chơi vô tư đã vụt thành bất diệt. Một cô bạn mắt nai, một nàng tiên môi phượng, những cặp má đào và những lời nói giả làm người lớn. Ước gì còn trở lại được thời con nít .

Quắn hích cùi chỏ vào tôi.

– Anh nghĩ gì mà ngồi im vậy?

– Nghĩ đến ngày mai.

– Ngày mai không ai biết được, chỉ ngày nay mới đáng kể thôi. Ngay cả phút tới đây cũng không đáng kể, chỉ có phút này mới đáng kể thôi.

– Em nói gì vậy?

– Cái chết ở đây đến như đùa bỡn. Anh không thấy đó à? Ông quận chỉ bị sướt chân mày. Nếu viên đạn chệch đi một ly nữa thì cuộc đời ổng sẽ ra sao? Một trái pháo hay một mảnh đạn nhỏ đều làm đời mình thay đổi lớn được cả. Cuộc chiến này để lại quá nhiều trẻ mồ côi và đàn bà góa. Em về đây làm cứu thương xã để ở gần ba má. Vì em biết chắc anh Ba em đời nào bỏ ngũ về nhà và em cũng biết chắc thằng Tiến rồi sẽ mồ côi và chị Ba em sẽ trở thành góa bụa.

– Vậy em không sợ chính em sẽ trở thành góa bụa khi yêu anh sao?

– Có những khúc đường đầy gai góc mình biết trước mà vẫn cứ đi.

Một tiếng kêu vọng ra từ nhà :

– Cô Sáu dượng Sáu ơi, vô ăn cơm!

Quắn ôm choàng lấy tôi hôn một cái dài rồi đứng dậy. Nàng nói như trong sảng sốt:

– Nay mai anh sẽ đứng bên kia lề đường còn em thì đi bên này lề đường. Anh sẽ vẫy tay hoặc giơ một đóa hoa rừng chào, tặng em. Em sẽ vẫy tay đáp lại và sẽ tặng anh không gì hơn một nụ cười. Nụ cười bay lướt qua trong gió. Nhưng không tan. Em sẽ giữ mãi nụ cười ấy và anh là người độc nhất được em tặng cho.

Tôi ngồi điếng người ra nghe như kim chích xuyên tim. Tình mới yêu ly đã biệt, đó là số phận của tôi. Trái tim cứ bị cắt ra từng mẩu vụn cho đến những mảnh cuối cùng. Yêu, yêu mãi rồi chỉ được những biệt ly và ly biệt. Đã ly còn biệt.

Chúng tôi lững thững đi vào nhà. Bữa tiệc cá nướng trui đang vui. Chỉ hai chúng tôi là đau khổ, nhưng cố làm ra bình thường nên không ai biết. Quắn nói trước với ông già:

– Con nghe tiếng động khả nghi nên ngồi nín ngoài gốc rơm rình nãy giờ.

Ba Tố nhìn tôi một cách ý nhị và không nói gì. Ông già bảo Quắn:

– Con ra bàn thờ lấy chai rượu cúng đem vô cho ba . Thứ anít này ngọt quá, uống như ăn chè, nuốt không có vô.

Quắn vừa sắp lưng đi thì có tiếng tắc kè vang lên. Quắn thụt lùi lại kêu.sợ ma. Bà má bảo thằng Tiến đi với cô nó. Thằng Tiến cũng rụt cổ thè lưỡi. Tôi biết ý Quắn, bèn nói:

-Tôi chưa nhậu để tôi hộ vệ cô Sáu cho!

Rồi đi theo Quắn. Khi bước ngang qua bộ ván nhà cầu, Quắn đưa tay vỗ vỗ trên bờ đất cao ngang lưng quần, bảo:

– Đây là hầm của em!

– Hầm gì kỳ vậy?

– Anh đá vào thì biết.

Tôi làm theo lời nàng. Tôi biết ngay đó là bờ đất rỗng ruột. Tôi hỏi:

– Chui vô đó à ?

– Chớ hồi nãy ngồi ngoài mương, anh không thấy mặt nước lé đé bờ sao?

– Vậy không có địa đạo gì hết à?

– Ông địa thì có ! Đào một lưỡi cuốc là có nước rồi. Địa gì mà địa ! Ở ngoài Bàu Tròn Phước Thành cũng vậy thôi, họ cũng chỉ tìm được mô đất, bờ tre để đào. Nhưng tụi lính nó cũng biết rồi. Hễ vô ruồng là nó xóm nát hết.

Ra đến nhà trước. Tiếng tắc kè còn vang âm trong đêm tối Tôi bật hộp quẹt soi cho nàng thấy chai rượu. Nàng nhổ cây đèn cầy trên chân đèn mồi lên, rồi cầm chai rượu rút nút rót ra hai cái chun có sẵn trên bàn thờ. Xong nàng đốt nhang, rồi lầm thầm:

– Hôm nay chúng con thương nhau, xin ông bà chứng giám! – rồi quay lại tôi – Hôn em đi!

Chết chưa. Cô bé lạ lùng thật. Mưu trí của nàng quả là bất ngờ. Tôi chỉ còn biết làm theo nàng chánh ủy. Chúng tôi trở vào. Thằng Tiến lém lỉnh:

– Cô làm gì ngoài lâu vậy? ông nội chờ hoài lạt miệng.

Quắn cũng không kém:

– Bàn thờ ông bà lâu quá cô không có dịp đốt nhang nên bữa nay cô làm việc đó để tạ lỗi với ông bà !

Ông già gật gù:

– Ờ phải đó ! ông bà thời buổi này bị bom pháo cũng đi tứ tán hết chớ có ở trên bàn thờ như hồi trước đâu. Lâu lâu được một ngày êm, ông bà mới về chơi.

Quắn được trớn bắt đầu gọi tôi bằng anh Hai.

– Anh Hai thấy mấy tấm hình, ảnh hỏi hình của ai. Con nói cho ảnh nghe từng tấm một nên hơi chậm.

– Ừ! tới năm sáu tấm. Lâu quá không có lau bụi bặm gì.

Chắc ông già đoán biết tim đen chúng tôi, nhưng có lẽ ông thấy anh cán này coi được nên không có vẻ gì không hài lòng. Ông cầm chai rượu sớt vào chiếc nhạo xưa rồi mới rót

– Chú nào muốn uống gắt cổ thì uống thứ này, còn chú nào muốn húp chè thì dùng anít. Có chú nào ăn cay không? Ớt sừng trâu đây! Cắn ngang thì mới ngon. Tôi không thích ăn tương ớt.

Ông nói huyên thiên vừa bẻ cá cho người này người kia.

– Gỡ nạc, gói bánh tráng, rau thiệt nhiều, ăn phải lớn miếng thì mới ngon. Mấy chú cứ coi như đây là nhà mấy chú . Nội cái ruột cá này tôi cũng làm ngót một xị rồi.

Thằng Tiến bẻ cho tôi khúc nạc nung núc trắng phau thơm ngát và nói:

– Cháu cho dượng Sáu cái công dượng nướng nè !

Cả bàn cười ồ: tiếng dượng Sáu của nó bất ngờ quá đổi. Chị Ba đang bưng nước mắm tới rội thêm, hỏi con.

– Ai dạy mày vậy Tiến?

– Cô Sáu chớ ai má !

Quắn xấu hổ cãi ngang.

– Bậy nà, ai dạy mày hồi nào! – Bộ chị xúi nó hả chị Ba?

– Ai mà xúi cô Sáu! Con nít nó thấy gì nói nấy ai mà bụm miệng nó cho kịp.

Ấp đội Hỉ nốc một cái thiệt sâu, khổ rồi nói:

– Ai sao tôi không biết, nhưng tôi tán thành cả hai tay.

Bỗng mọi người ngưng đũa. Có tiếng cụp cụp như pháo đề-pa. Nhìn mặt mọi người nhớn nhác, thằng Tiến cười:

– Không phải hướng này đâu. Nó thụt phía cầu Công Sở.

– Sao cháu biết?

– Nếu đi hướng này, tiếng cụp cụp nghe lớn hơn.

Ba Tố khen:

– Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, thấy không thầy Hai?

Vừa dứt lời thì có tiếng chân đông người ở ngoài sân. Mọi người lại buông đũa. Tiến nhanh chân chạy ra rồi thụt vào.

– Người ta ở đâu đông quá. Không biết có phải là đội quân của bà Năm Đang không?

Tôi đang cố nhìn ra bóng tối thì một cô gái hiện lên: Nưa. Nua nói ngay:

– Anh Hai đâu rồi. Có bà con tới thăm.

Tôi băn khoăn không biết bà con nào ở đây thì một nàng khác bước vào. Lam ! Trời đất quỉ thần ơi ! Sao lại Lam? Giống y như một màn kịch gay cấn. Rồi hai ba người đàn bà con gái khác đi theo sau. Lam bước tới gần bàn tiệc kêu tôi:

– Anh Hai ! Em nè!

Hồn vía tôi lên mây. Lỗ tai tôi lùng bùng. Lam trỏ mấy người phía sau và tiếp:

– Má với chị dâu và em gái của em nè anh Hai! Em móc vô để má và gia đình gặp anh?

Lam chợt thấy Quắn thì reo lên:

– À Quắn, mày cũng đi công tác ở đây nữa à?

Quắn đáp quạu đeo:

– Nhà tao đây chớ công tác gì!

– Rể của má đó má ! – Lam cứ tự nhiên nói tới – Má coi cho kỹ đi! ảnh đó má !

Tôi ngẩn ngơ rối rắm. Phải chi nàng gọi anh Hai của con thì tôi còn chối được. Nhưng sao nàng về đây? Lúc xuất phát nàng đòi, tôi không cho kia mà . Nàng đi đường nào và với ai mà đến đây nhanh vậy? Bà má của Lam nói năng rất hồn nhiên với cả bàn tiệc:

– Tôi đưa gia đình đến gặp thằng rể, may lại nhằm lúc gia đình anh chị và anh em nó đang chung vui:. Thiệt là phước đức quá chừng. Vậy sẵn tôi có mua thịt và bánh, xin phép cho tôi dọn lên mâm, trước mời anh chị, sau là các anh em đồng chí của con gái và con rể tôi cùng dùng cho vui.

Ba Tố, Hai Khai và mọi người thảy đều sửng sốt. Tôi bị kẹt đạn, loay hoay không biết ngồi đứng nói năng như thế nào cho phải lẽ . Má quay lại bảo người đàn bà mà Lam giới thiệu là chị dâu:

– Con đem thịt và bánh mì dọn ra đi. Anh em nó vừa tới chắc đói bụng.

Lam trỏ người đàn bà và cô gái nhỏ, nhắc lại:

– Đây là chị dâu thứ sáu và em gái của em. Huệ, Huệ lại đây với chị chút!

Huệ nhỏ nhắn mặt trắng môi son, tóc kẹp. Còn người chị dâu thì trạc tuổi chị Tư Mai, chị của Bảy Mô. Nhìn nét mặt và y phục của người ở vùng tạm chiếm thấy khác dân vùng giải phóng và cách xa dân nông thôn miền Bắc giàu đẹp ba ngàn cây số. Tôi hỏi.

– Huệ có đi học không em?

– Dạ có .

Lam đùn em gái tới.

– Đi lại anh… biểu đi em!

Huệ bước lại gần. Tôi nắm bàn tay dịu nhiễu của cô bé.

– Để em đi mua la de với nước đá !

Nói xong Huệ chạy đi. Bà nói với tôi:

– Má đâu có hay biết gì. Nó về nó hối má, má bô hết công việc chạy ra đây. Gấp rút quá chỉ mua được mấy kí thịt heo quay với chục cặp bánh mì còn chị nó mua được có mấy khúc vải cho con.

– Dạ cám ơn má !

Tôi bị lỡ bộ, ‘không cãi chính được nên gọi má luôn, coi như bà là mẹ chiến sĩ.

– Sao, anh chị bên nhà cũng mạnh há con?

– Dạ, ba má con đều mạnh giỏi! Cám ơn má.

– Má nghe con Lam nó nói vừa rồi con có rước được gia đình vô !

– Dạ thưa, con chỉ rước được có một mình ba con thôi.

– Để rồi nay mai má đi tới thăm cho biết bên con.

– Dạ!

Tôi đành chịu xuôi tay. Cứ mỗi câu nói như một nuộc dây siết chặt thêm. Người chị dâu bảo Lam:

– Cô nói với dượng mời anh em cứ dùng tự nhiên. Thịt quay mua hồi sáng bây giờ da hết dòn rồi. Thấy tôi xách thịt lên xe lam, mấy người lính chọc ghẹo: “Bà nội đi thăm chồng ở trỏng hả ? Mai mốt mang cái bụng chành ảnh về đây đẻ cho Quốc gia nuôi! Tụi tui vốn làm mọi cho mấy bà.”

Bọn đàn ông chúng tôi đứng dậy nhường chỗ cho khách. Bữa tiệc đông thêm, người đứng người ngồi vui như ăn giỗ.

Sáu Đức liếc tôi ý chất vấn:

– Thủ trưởng vải chài hồi nào mà tài vậy? Tôi ở cơ quan hàng ngày mà chớ có nghe chút xíu động tĩnh gì hết ráo. .

Tôi khẽ thúc cài cho bảo im. Thì Ba Tồ lại ứng lên:

– Coi như bữa nay là đám hỏi. Vậy mà thầy kín miệng như mấy ông bà cấp ủy ngồi thum.

Tôi đánh trống lãng:

– Bót Trung Hòa này mọc rễ lâu đời khó nhổ quá !

Sáu Đức gắp miếng thịt đưa cho Tôn Sứt bảo:

– Miếng này hàn cái môi chú lành lại cái một.

Hai Khởi quấn băng trắng trên đầu đang rên, bây giờ mới ra miệng:

– Đạn nó có mắt bồ ạ ! Nếu nó đi sâu vô một phân nữa thì ổng không còn cái răng ăn cháo. Còn tôi trở thành dách cô ngạn.

– Như vậy thì khi nhắm súng ông khỏi nheo mắt! – Bính Chân Lư lọt giữa đám này chìm như đá bây giờ mới lên tiếng – Còn ông Tôn thì cười khỏi phải nhếch môi. Này, để tôi kể cho bà con nghe một làn đạn ly kỳ . Anh chàng là lính của tôi. Trận vừa rồi, hắn núp ở gốc cây, vừa la tiến thì một viên đạn xuyên qua hai gò má mà chẳng trúng xương và hai hàm răng còn nguyên. Đơn vị đặt cho hắn là thằng Rộng Họng. Hà hà, còn ông tham mưu này về ghé ông Tư Chuyền cho hai em Nga băng bó vết thương nòng chỉ vài ngày nà nành thôi.

Sáu Đức hỏi:

– Còn cặp chân của ông thì sao cong queo vậy?

– À, tại tôi đội một trái bom tấn đó mà ! Hà hà…

Ăn uống no say xong, anh em điệu đàn kéo đi tìm nhà khác nghỉ, để chàng rể bất đắc chí ở lại với gia đình bên vợ. Tôi đành ngồi ngúc ngắc với má, Lam và chị Sáu. Lam rất phấn khởi. Thỉnh thoảng nàng liếc tôi, cái nhìn tràn đầy hạnh phúc và còn hàm ý: “Đó, anh thấy chưa, em nói đâu có đó. Má thương anh lắm… Con Huệ nó thấy anh là mến liền…”

Tôi đâu có ngờ Lam lại bạo phổi như vậy. Quả thật tình yêu vạn năng. Nàng đã đơn thân độc mã ra tận đây như trò chơi. Còn tài tình hơn chúng tôi. Má bảo:

– Nhà có ba đứa, thằng anh nó cũng đi theo ở trỏng, nó không chịu ở nhà. Nó nói để nó đi chống Mỹ cứu nước. Còn con Huệ cũng nhấp nhỏm đòi đi nhưng má bắt ở nhà học.

Má nói xong, bảo chị Sáu vào buồng lấy ra một hộp nữ trang. Má mở hộp đưa cho tôi và Lam hai chiếc cà rá vàng.

– Hai con cất đi, khi nào ở trong đó có điều kiện thì cơ quan làm đám tiên bố cho nếu má không vô được. Bữa nay coi như má đã nhận hai con hứa với nhau rồi !

Xong má còn móc túi lấy tiền xỉa ra cả chục tờ giấy 500 đưa cho tôi. Tôi từ chối, nhưng Lam giật lấy trên tay má nhét vào túi áo tôi và trách:

‘ – Má cho thì cất đi để má giận!

Bữa tiệc hóa thành hai bữa một cách bất ngờ, cá nướng trui cộng thịt heo quay nhưng phải kết thúc một cách nhanh chóng, với lý do “tới giờ của thằng Lệnh cô hồn đi.”

Mọi người tản ra ở các nhà khác. Bà má, chị dâu và em gái của Lam cũng tạm biệt tôi và Lam rồi cáo lui. Chỉ còn mình tôi và Lam ở lại trong nhà. Ông già thì vô buồng hồi nào không biết. Chỉ còn bà già ở lại nói chuyện với tôi:

– À, vậy ra chú em đã có gia đình?

– :Dạ… chỉ mới… mới… a..a..

– Dạ mới hứa thôi thưa bác. – Lam nhanh nhảu đáp – Đây là lần đầu tiên má con biết mặt ảnh.

Tôi ngồi chết trân, chỉ đối đáp khi nào bị hạch hỏi. Bỗng tôi nhận ra Quắn cũng vắng mặt từ sau khi Lam đến nhưng không biết là lúc nào. Tôi hoang mang cực độ. Lam thấy tôi lơ láo bèn hỏi:

– Có việc gì vậy anh?

– Đâu có việc gì.

Sự vắng mặt của Quắn rất khả nghi. Tôi biết nàng yêu tôi say đắm, nhưng không vượt qua lễ giáo. Nàng bắt tôi hứa trước bàn thờ ông bà bằng một cái hôn. Hạnh phúc đang trong tay bỗng vuột bay mất, nàng có thể quẩn trí và hành động một cách điên cuồng. Trong kháng chiến chống Pháp tôi đã từng biết một anh chàng bị thượng cấp ngoài Trung ương vô cướp người yêu bèn vọt về thành dắt luôn một đạo quân thủy lục không quân Pháp vào tàn sá t một lô cơ quan đóng cố định như nhà dân. Thiệt hại về tài sản và sinh mạng vô số kể.

Trường hợp nàng Quắn có thể là sự lặp lại chuyện xưa chăng? Tôi hỏi.

– Bộ em có quen với cô… cô Quắn à?

– Con nhỏ đó là bạn học của em hồi ở Q Hai Chòi. Hơn năm rồi mới trông thấy mặt nó, định tâm tình chẳng ngờ ngó qua ngó lại, nó biến mất.

– Nó đi công tác gấp!

Bà má buông một câu lạnh lùng rồi bỏ vô buồng. Tôi cố định thần trở lại và hỏi Lam:

– Em dám vọt về vùng meo à?

– Dám chớ. Em quen đường băng nẻo tắt hết cả mà.

– Không sợ thằng Lệnh à?

– Em nhớ anh, em không sợ thằng nào hết. Nếu em không mạo hiểm thì chừng nào má mới biết mặt anh?

– Tình hình này không nên nôn nóng.

– Em đâu có nôn. Đâu cho rành đó rồi anh đi đâu em đi đâu cứ đi không đeo dính như sâm nữa làm anh mang tiếng.

Vừa đến đó thì Quắn xuất hiện. Lam kêu lên:

– Mày đi đâu mất biệt vậy Quắn?

Quắn vui vẻ :

– Đi công tác gấp của xã ủy.

– Lâu nay mạnh giỏi hả?

– Đều đều – Quắn nói rồi quay qua tôi – Anh Hai Đời, Bí thư xã ủy mời thủ trưởng đến gấp.

– Đi đâu?

– Ở cơ sở xã ủy chớ đâu !

– Bộ tình hình gì biến động sao?

– Em đâu có biết. Anh nai nịch rồi đi mau lên!

Tôi tuân lệnh của cô chánh ủy như máy. Quắn nói với Lam:

– Độ vài tiếng rồi tao dắt trả lại cho nguyên vẹn không sứt miếng da nào, mày đừng lo!

-Đi mau mau về sớm sớm. Khuya rồi!

– Xí, tao dắt đi luôn đó. Được không?

– Được ! Tao cho mày đó, con quỉ !

Tôi tạm biệt Lam bằng một cái vẫy tay không nồng nàn lắm. Nàng tỏ vẻ không hài lòng nhưng tôi ngượng không thể biểu lộ hơn nữa. Đi được một quãng, Quắn trỏ tay ra phía ruộng trống bảo:

– Mùa cấy thằng Lệnh thương dắt lính ra núp ở cái bờ dứa đó bắt nông dân vô làm xâu cho bót. Còn con suối kia là từ đâu trên Tầm Đinh chảy xuống Bàu Ràng qua cầu Trung Hưng cầu Dân Hàn rồi cầu Công Sở, tiếp đến suối Gia Bẹ, ăn thông qua suối Bà Cả Bảy dưới Bàu Chứa, rồi nối liền với Rạch Láng The bao bọc cái Đồng Dù.

Nàng nói liền miệng mà như không để tâm vào. Tôi hỏi:

– Vậy không phải vành đai thép của các cô cậu dũng sĩ bao bọc Đồng Dù à?

– Vành đai thép nào? Vành đai ghẻ xốn của bà Út Nhỡ Bảy Nê thì có.

– Anh vừa ở trên R xuống thì nghe đồn vậy nên bảo Năm Cội dẫn cho xem mà chưa có dịp.

– Nếu có dịp thì anh sẽ được xem mấy cái hang ếch. Hồi mới đào thì mấy ông mấy bả còn lúp ló bắn sẻ tụi Mỹ dắt gái ra ven rừng, còn bây giờ thì xe nó ủi láng hết rồi.

– Sao em biết?

– Em đi với đội du kích của ông Ba Bụng phối hợp toàn quận. Trận đó bị xe tăng rượt em chạy văng mất túi thuốc. Anh nghĩ coi địa đạo nào đào băng qua suối qua đồng ruộng được chớ?

– Anh còn nghe đồn miệng địa đạo ăn ra sông Sài gòn nữa kia !

– Sao không nói nó ăn thấu đáy sông Sài gòn qua luôn Bến Cát?

– Cũng có tin đồn đó nữa đa, cô em!

Đi một chập thấy đèn pha bót Trung Hòa lấp loáng trên mặt đường, tôi hơi ngại, nên hỏi:

– Ông Hai Đời ở đâu?

– Ở ngoài rừng kia cà.

– Có hầm ở ngoài hả?

-Em đã bảo là chỉ có hầm nổi thôi, đào hầm ngầm không được! Năm 63, ở dưới Cây Trùm xã Phước Hiệp thằng Rắc đã khui một cái hầm nổi do người ta chỉ điểm. Từ đó tới sau hầm gì cũng bỏ luôn. Nó đến ngay miệng hầm kêu, một ông huyện ủy, hai ông nông hội xã bò ra, nó bắn luôn tại chỗ, lấy một K54 mới nguyên. Đó là Tư Châu, anh ruột Năm Tiều ở tác huấn khu bây giờ. Ổng chết, bả còn bị bắt bỏ tù mấy tháng. Phải bán cái quán chạy lo mới ra được. Hai đứa con của ổng, Năm Tiều dắt đi theo lên đâu trên khu.

Quắn nắm tay tôi chắc cứng. Hai đứa cùng bước trên mặt đường xe bò nhấp nhô chập chờn ánh đèn pha, trật có cái muốn lọi chân. Nàng liên tiếp kể:

– Vậy mà không chịu rút kinh nghiệm. Năm sau, Mỹ vô, cụm xe tăng ở Bàu Trâu. Buổi trưa tụi Mỹ chịu nắng không nổi bèn vô xóm tìm bóng mát. Bỗng một tên nghe tiếng ho sù sụ trong hầm. Nó kêu: “Đi ra! Đi ra mau! Vi xi! Vi xi!” Bà vợ lừng khừng. Tụi nó bèn đem mìn vô đặt và dọa lần nữa. Bà vợ quì gối chắp tay lạy rồi kêu chồng: “Ông ơi ra đi khỏi chết! Không ra nó đánh mình!” Ông chồng và bảy ông nữa chui ra một dây. Sau đó lại tái diễn ở Tân Qui. Ông chồng là cán bộ tác huấn từ An Phú về thăm nhà, bị Mỹ đổ chụp, rượt nà bèn chui hầm. Mỹ theo tận nơi, kêu ra. Ổng cố nín. Mỹ tìm miệng hầm tung lưu đạn. Bà vợ dời về Lào Táo có chồng khác tên là Hai Khuông cũng bị Mỹ đuổi và khui được miệng hầm. Nó đánh mìn. Hốt không được tô thịt. Một năm hai đời chồng. Toàn chết như vậy. Anh có thấy ai như bà đó chưa?

– Sao tụi Mỹ rành vụ khui hầm vậy?

– Nó có người mách. Hầm gì mà nó không biết! Anh tưởng ai cũng mê giải phóng hết sao?

Quắn lại trỏ tay ra đồng:

– Chỗ có ngọn đèn leo lét, đó là xóm Mồ Côi có nhà ông bà già thằng Thẹo du kích. Ông bà ở giữa đồng đặt lọp bắt tôm cá. Hễ tụi Trung Hòa ra là ông treo cái nón lá trắng phếu trên vách chòi, thì mình biết không đi được. Nếu không có cái nón lá thì cứ đi. Nhưng tụi nó cũng nhờ dân mình mách, tụi nó vô chòi gỡ cái nón lá cất đi rồi phục kích. Đằng này lơn tơn đi tới, nó xộp tóc vài ông. Bây giờ hết vụ nón lá rồi.

Đang nói chuyện giặc, bỗng Quắn ngoặc sang chuyện R:

– Anh Hai à ! Em muốn hỏi anh chuyện này chút!

Tôi tưởng Quắn hạch tôi về chuyện Lam, nên gạt ngang.

– Không có chuyện gì! Đừng lôi thôi!

– Sao mấy chú mấy bác ở đây hay mò vợ con chủ nhà, làm mất uy tín cách mạng quá hà !

– Ai đâu? Đừng đặt chuyện nói xấu cách mạng nghe cô ! Bộ tính lên án tôi đó hả?

– : Anh đâu có vậy. Em nói là nói chú Năm Ngó kia. Chị Ba em về ở lại nhà em gặp lúc ổng đang đóng quân ở đó. Ổng mò. Chị Ba em định la lên. Ba em bảo: “Đừng làm vậy, xấu lá xấu nem, rồi ba thằng Tiến nó về nghe được mà sanh giặc. ” Lại còn ông Tư Hải cũng mùa thu, đóng ở nhà chị Tám Phụng. Nửa đêm ông vô buồng bị ông già xách dao xắc chuối chận ở cửa. Ổng sụp lạy ông già và tìm cách gỡ gạt: “Cháu vô đây mượn cái hộp quẹt hút thuốc.” Từ đó chị Tám không đi hội họp nữa. Chỉ suýt bỏ luôn công tác phụ nữ. Còn Tư Hải trở thành Từ Hải.

– Tại sao có tên Từ Hải?

– Từ Hải chết đứng, anh không biết tích đó à?

Tôi hơi ngượng nhưng cố gỡ gạt:

– Mấy chú đi xa nhà lâu năm thiếu thốn tình cảm.

Nàng bóp chặt tay tôi.

– Vậy anh không xa nhà lâu năm sạo? Ông già chỉ dữ lắm. Đang đêm mà ổng đốt đuốc vô Bào Trăn tìm ông Năm Tiều. Năm Tiều là dê trưởng, Tư Hải là dê chánh (Nghe Quắn xài danh từ tôi bật cười, con nhỏ lém thật.) . Ổng nói thẳng với Năm Tiều : “Làm chánh trị viên mà vậy thì còn cái chánh trị chánh trọt gì hả chú?” Ông Năm Tiều năn nỉ muốn gãy lưỡi, hứa thi hành kỷ luật ông dê … chánh, ông già mới thôi.

Quắn cứ kể chuyện này sang chuyện khác, tôi sốt ruột:

– Gần tới cơ sở chưa ? Em đi như vầy phiêu lưu quá ? Đáng lẽ anh phải đem cần vụ theo.

– Em thuộc đường và mật hiệu của đại đội ông Bính mà. Em cần vụ không được sao?

Quắn lôi tôi vào một ngả rẽ đến một căn chòi ở giữa một đám rừng chồi.

– Ông Bí thư xã ủy ở trong đó !

Tôi xem đồng hồ đã mười một giờ đêm. Quắn bảo:

– Ổng vừa đi đâu. Anh ngồi trên vạt chờ một chút!

Nói vậy rồi nàng đi thẳng ra sau chòi. Ánh trăng non soi mập mờ qua phên thưa. Một cái bếp tro lạnh ở góc chòi, bên cạnh đó lăn lóc một cái soong móp méo. Bộ vạt như hàm răng rụng đong đưa mỗi khi tôi trở bộ . Nghe nước xối róc rách ngoài sau. Tôi bước lại cửa nhìn ra. Một nàng tiên đang gội tóc bên một khạp nước bể, những làn nước lấp lánh tuôn chảy xuống tấm thân ngà. Thiệt chẳng khác cái cảnh tôi ngồi trên ngọn dừa nhìn xuống một nàng tiên khác không mảnh vải dính da hôm nào. Khi nàng lấy chiếc khăn lông trắng muốt choàng lên và bước về phía chòi thì tôi thụt vào ngồi y chỗ cũ trên vạt làm như nãy giờ không phạm tội trần tục chút nào.

Nàng ngồi bên cạnh tôi. Mùi xà bông thơm lẫn mùi da thịt tỏa sang tôi bát ngát. Nàng nói không chút e dè, nói một hơi không nghỉ như đã chuẩn bị từ lâu:

– Em không phải là đứa con gái lăng loàn đụng ai cũng quơ chụp. Em đã đi học trường tân binh Q Hai Chòi với con Lam. Sau khi mãn lớp, đám con gái được phân công đi các cơ quan. Những đứa đẹp được đưa cho mấy ông lớn làm con nuôi. Em cũng được hân hạnh làm con nuôi một ông kẹ. Chỉ một thời gian, em thấy cái trò chơi con nuôi dơ bẩn đó. Em xin nghỉ phép và ở nhà luôn. Thà ở nhà làm cách mạng mà hay hơn. Em thích cách mạng nhưng em không thể xáp với những cán bộ cách mạng đó . Về đây em cũng đã tiếp xúc với nhiều ông to. Sao họ toàn là những kẻ … hì hì… khó nói quá.

– Còn anh?

– Anh thì khác.

– Mới quen sao biết khác?

– Biết chớ! Em nhận ra người ngay từ phút đầu. Tất cả tâm tính đều hiện trên nét mặt. Em thương anh ngay từ cái nhìn đầu tiên. Giá không có vụ con Lam…

– Vụ gì đâu?

Quắn nhắc lại chuyện xảy ra vừa rồi ở nhà rồi bảo:

– Do đó em không muốn để mất anh hoàn toàn ! Em hận vì em không có cơ hội như con Lam. bây giờ đã như vậy rồi, em phải giành lấy được phần nào hay phần nấy.

Nàng lột chiếc khăn lông trải lên vạt rồi ôm lấy tôi mà quật xuống.

– Anh sẽ không bao giờ có dịp yêu em nữa đâu. Anh thuộc về người khác rồi.

Tôi muốn đính chánh nhưng nàng không để miệng tôi thốt ra lời. Nàng vồ vập làm như tôi là con mồi non. Nàng giục giả, khuyến khích, lãnh đạo tôi như một bà chánh ủy.

– Bộ anh sợ cái má văn công, cái mông y tá hả? Y tá nào uống thuốc ngừa thai, nạo thai chớ y tá Quắn này khỏi có bị đâu… Anh thấy chưa… Đó… em vậy đó. Anh tin chưa? Con Quắn này xấu hơn Bảy Mô, Ba Cấm, Tám Phụng, nhưng chưa chắc các bà đó hơn em điểm này. Rồi anh sẽ thấy!

Nàng cầm tay tôi đặt lên những vùng cấm. ánh trăng làm da người con gái thêm mát rợi, làm mắt nàng thêm lấp lánh.

– Em có đôi mắt nai đẹp lắm!

Tôi nhìn xuống mắt nàng. Nàng vít đầu tôi xuống ngực nàng, đè riết rất lâu. Tôi bảo:

– Lửa của anh đâu phải lửa rơm phải không em?

Bộ vạt yếu ớt run suýt đổ bao lần. Chúng tôi nằm yên bên nhau, ngủ. Và thức giấc mơ tiên. Nàng bảo:

-Trời còn khuya, ngủ một giấc nữa rồi hãy về.

Chúng tôi không ngủ. Ai lại có thể ngủ được khi da thịt của hai đứa mọc gai và khiêu chiến nhau ở từng góc cạnh.

– Đừng quên em nhé, đứa em liều lĩnh của anh! Em không tiếc rẻ, không ân hận một chút nào.

(Về sau khi tôi ra chỉ huy Tiểu Đoàn Thép rồi làm Tham mưu trưởng Trung đoàn Quyết Thắng Quân Khu, tôi gặp lại nàng trong mấy tháng liền lúc chiến trận rất ác liệt. Rồi sau đó tôi di quân đi xa, không còn dịp gần nhau và cũng không biết tin nàng nữa.)

Tỉnh giấc lần thứ hai chúng tôi vẫn luyến tiếc cảnh tiên nhưng tiếng gà trần thế đã gáy rộ bên tai. Chúng tôi hôn nhau điên cuồng, đôi môi đôi má không muốn rồi ra nữa. Mắt nàng hoen lệ, giọng rưng rưng.

– Thú thực, em không còn muốn lấy chồng. Có người tới hỏi nay mai, em sẽ…

Tôi vả miệng nàng rồi trám miệng nàng bằng một cái hôn cắn. Quắn đưa tôi về tới nhà đập cửa rầm rầm, quát lạc giọng:

– Lam ! tao trả chồng mày đó !

Rồi lẫn đi mất. Tôi đứng chết trân như trời trồng, cảm thấy mình có tội. Tội với ai? Không rõ. Với Thu Hà, Lụa, Là, Nga, với bà khu ủy, Mai Khanh, Thanh Tuyền, Ua, Chia. Hay với Lam đang chờ suốt đêm nay tôi đi họp với xã ủy.

Lạy Chúa. Lạy Trời xin tha tội cho con nếu yêu chân thành là tội…

Bạn đọc thân mến,

Đến đây bạn cùng đi với Lôi-Vũ khá sâu vào đất Củ Chi với trên 1000 trang sách. Nhưng chưa đến cho cực điểm hoang tàn của nó. Đây mới chỉ là một đoạn dạo nhạc trong khúc hòa tấu ác liệt, một món ăn chơi trên mâm cổ bom đạn Củ Chi. Sự chết chóc, tàn phá do bom đạn gây nên, tới đây chỉ mới là một vết xước trên làn da non.

Những trang sách tới sẽ ghi lại cái chết của trên 1000 cán bộ thuộc các cấp tại quận Củ Chi. Có những cấp ủy bầu đi bổ lại ba lần và cả ba lần đều chết rụi. Bạn còn nhớ chị nuôi nấu cơm cho Quận đội trưởng Tám Dò không? Chính cô ta lên làm quận phó sau này, rồi cũng chết. Cô Tư Bé lên rồi cũng chết.

Cả Bộ Tư Lịnh Quân Khu chết sạch. Trần Bạch Đằng, Huỳnh Tấn Phát chịu không thấu phải cuốn gói dông luôn. Võ Văn Kiệt xuống thay, chuyên môn ở dưới hang cá kèo không dám ló đầu lên một phút. Nguyễn Chí Thanh cũng bỏ mạng ở Bến Cát bên ven Củ Chi.

Chết đủ kiểu, mọi lứa tuổi. Người người đều chết, ngành ngành đều chết để cho “Hồ Chủ Tiệm vui lòng, ngủ ngon và sống lâu!”

Mặc kệ dân Nam Kỳ quốcl Miễn sao đặt được ách thống trị của dân Bắc Kỳ để biểu diễn xã hội chủ nghĩa dỏm.

Tháng 8, 1992 Lôi – Vũ

PHẦN PHỤ LỤC

Từ tên chột Nguyễn Bình đến gã mặt toét Lê Đức Anh *

-I-

Năm 1949 tôi đang học trường Đồng Tử Quân của Trung đoàn 300 Dương văn Dương tại Mũi Bần thuộc khu rừng Chà Là, xã Đồng Hòa, quận Nhà Bè cũng gọi là khu Rừng Sát, bỗng một hôm tôi được Ban Giám Đốc trường gọi lên và đưa cho tôi một bức công điện gọi tôi về văn phòng Trung Đoàn.

Bức điện khẩn này ký tên Lê Đức Anh, quyền Tham Mưu Trưởng Nam Bộ . Cầm bức điện trên tay, tôi run từng miếng thịt. Vì lúc đó nội bộ Trung Đoàn đang bị nhân viên phòng nhì Pháp cài vào khắp các cơ quan và Trung đoàn 305 do Tư Đức chỉ huy mới vừa bị tảo thanh nội bộ một cú rùng rợn. Trong lúc đó các ngành sau đây: Hai Điểu trưởng ban Quản trị Hậu Cần. ông này bị bắt ở An Thành và thủ tiêu. Tám Son, chánh văn phòng Trung Đoàn, Bảy Nghiệp tiểu đoàn trưởng Trưởng ban Đảng Vụ , Năm Sơn trường ban Quân Nhu, bác sĩ Năm Ngà, trưởng bệnh xá Trung đoàn; chị Sương, một phụ nữ rất đẹp, nhân viên Ban Quân Báo Trung đoàn, Chín Lá trưởng ban Vô tuyến điện Trung đoàn và rất đông cán bộ khác trong Ban Bào Chế và Binh Công Xướng. Thuốc của Binh Công Xường làm Tromblon và đạn cối thì nhét đầy bông gòn thay vì thuốc nổ, còn thuốc của ban Bào Chế thuốc tiêm vào áp-xe. Cả trăm người bị bắt một lượt và chôn sống ở bãi biến Đồng Hòa hoặc bị cho mò tôm ở sông Lòng Tào. Do đó mà tôi sợ Trung đoàn 300 của tôi cũng bị phát hiện như Trung đoàn 305 và.tôi đã bị ai báo và sẽ đi mò tôm chăng?

Hồn vía lên mây, tôi về đến nơi thì được gọi vào gặp đồng chí quyền Tham Mưu Trưởng Nam Bộ . Tôi đi nghe nhẹ nhỏm như chân không bén đất. Ông ta ở một cái chòi lá một mình bên cạnh đó là một cái chòi khác của tổ Mật Mã do ông trực tiếp chỉ huy lâu nay tôi chỉ thấy chữ ký tên. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mặt con khỉ già mặt rỗ này. Phải nói là ông ta giống con vượn già, tay chân nghều ngào, mặt dài, trán vuông và tóc đã bạc lốm đốm. Ông nói chuyện không suông sẻ không cười. Thiệt khó đoán ông ta là người Miền Nam, Trung hay Bắc vì tiếng và giọng của ông rất lẫn lộn pha chè.

Sau này nghe người ta đồn ông ta là người Huế hay Quảng Bình gì đó, tôi cũng không để ý. Tôi nhớ rõ lúc đó Bảy Viễn đã về thành rồi, nên cơ cấu tổ chức đều xáo trộn. Riêng phân khu Duyên Hải thì bị giải tán hơn và phòng Chánh trị phải dời về đóng tại Suối Tre thuộc ấp Nhà Mát Long Nguyên (nơi sau này ông đại tướng mặt đỏ Nguyễn Chí Thanh bỏ mạng cuối năm 1967).

Đụng mặt ông ta tôi thấy ông không phải là tướng quân sự mà có vẻ một thầy rùa, một mưu sĩ cũng như Trần văn Trà có bộ tướng loắt choắt như trẻ con, còn tên Lê Quang Đạo cốt là trung (hay thiếu) tướng hiện là chủ tịch Quốc Hội thì lại đầu đít có một tấc.

Xin trở lại Lê Đức Anh. Ông ta bảo: “Tôi gọi cậu về làm mật mã, vì ở trường không có đứa nào có văn hóa bằng cậu. Nếu có thì không bảo đảm lập trường.”

(Sự thực có nhiều đứa bạn tôi học trường Lê Bá Cang và Nguyễn Văn Khuê, nhưng không hiểu tại sao ông lại chọn tôi.)

Khi biết được ông ta muốn tôi làm mật mã thì tôi hết sợ, lại còn chống lại. Bò nghé không sợ cọp vậy. Tôi biết cái nghề này một khi đã lọt vào thì không được cưới vợ, lấy chồng, như một thứ phu cao su đã bán thân cho chủ, nên nói:

– Tôi mới 17 tuổi, chưa phải là công dân. Tôi muốn đi học văn hóa để sau này học lục quân trở thành sĩ quan.

Ông ta cười hừ hừ rồi bảo:

– Cậu là đồng tử quân phải có kỷ luật, cấp trên phân công đâu thì phải làm đó, không được cãi. Lại nữa cậu là đảng viên, cậu phải tuân lệnh đảng.

(Tôi vô đảng hồi đầu năm. Do Hà Huy Giáp kết nạp đặc biệt. )

Tôi cãi lại:

– Nhưng tôi chỉ là đảng viên dự bị.

– Dự bị thì cũng là đảng viên – ông ta trợn mắt.

Nhưng tôi vẫn không sợ, vì tôi ở gần mấy ông lớn đã quen như Phạm văn Bạch, Phạm ngọc Thuần, Hà huy Giáp, Hoàng xuân Nhị, Khả vạn Cân, bác sĩ Trần văn Du có gì mà sợ. Vả lại ông ta cũng không la hét gì, lại còn hứa cho tôi đi học lục quân khi tôi đủ tuổi.

Phòng Tham Mưu Bộ Tư Lịnh Nam Bộ bấy giờ gồm có:

Lê Đức Anh Quyền Tham Mưu Trưởng, Nguyễn văn Lung Tham Mưu Phó kiêm trưởng ban tác huấn, Ban Quân Báo do Phạm Xuân Hoàng làm Phó ban (tên này sau làm Trường Phòng Quân Báo cho R) Còn Phòng Chính Trị do ông Vũ Huy Xứng và Bùi Thanh Khiết Chánh Phó.

Chung quanh hai phòng Tham Mưu cà Chánh trị có nhiều nhân vật rất ngộ . Đó là các thằng xây lố cố phục dịch cho Lê Đức Anh như thằng Lộ Đẹt và thằng Uyển mắt bị lông quặm như ông ta vậy. Năm Lâm chánh văn phòng Tham Mưu, cao, ốm, cà lăm nhưng giỏi tiếng Pháp. Tỉnh đội Gia Định do Ba Tô Ký làm Tỉnh đội trưởng cũng đóng gần đó. Ông Ký có thằng em khậc khùng tên là Tô Sung chuyên môn giữ ngựa nhảy, kiêm đội trưởng bảo vệ. Thỉnh thoảng ông Lê Đức Anh đến cỡi, nhưng gặp thằng Sung khùng không cho. Lính thấy vậy bèn giải thích chức vụ của ông ta cho nó nghe để nó ngán mà cho mượn ngựa.

– Đó là ông Tham Mưu Trưởng, chỉ dưới ông Tư Lịnh thôi.

Tô Sung vẫn coi như pha:

– Tha-mu thì tha, ngựa tôi, tôi giữ.

Ông Anh phải kêu ông Ký ra bảo mới được. Trong văn phòng, mỗi khi nói anh Ba thì phải nói rõ Ba Tô hay Ba Chè (Tô Ký Và Trần văn Trà). Anh Năm thì phải nói rõ Năm Bi hay Năm Cà Lăm, Năm Sún, Năm Ròn hay Lâm Vênh (bàn nạo). Còn anh Sáu thì phải nói rõ Sáu Nâu hay Sáu Rỗ hoặc Sáu toét (ông ta mặt rỗ hay mắt toét, tức Lê Đức Anh).

Một hôm tôi đi ngang qua láng của mấy bà, thì bất ngờ tôi thấy một lô bà bầu ở trong đó. Tôi bước vào để kiếm một mớ măng le và mắm ruốc về cho tổ ăn thì thấy bà Sáu Cẩm (cũng còn gọi là bà Sáu Bầu) là vợ ông Tham mưu trưởng, hội trưởng Hội Phụ Nữ Thủ Dầu Một, còn bà trẻ kia cũng mang cái trống chầu vĩ đại là vợ Tô Ký, còn một bà to con xinh xinh cũng có cái bụng no phình là vợ của ông Ba Khịt tức là Ba Lung Tham mưu phó. Chỉ có một bà không mang trống là vợ Ba Xu, sau này là Tư Lệnh khu Sài gòn Chợ Lớn bị đạp mìn chết ở Trảng Bàng đầu năm 1969 khi đi về R nhậm chức Thứ trưởng Quốc phòng của cái chánh phủ ma Huỳnh Tấn Phát. Riêng tên Trà thì lúc đó cũng đã cưới vợ bằng công điện tận Miền Tây Nam Bộ. Nàng ta là Lê kim Thoa, học sinh thành, con gái luật sư Lê Đình Chi bị bom chết ở khu 8. Trà tới ve vãn bà má, nhưng bà ta lại muốn thủ tiết với chồng nên đưa con ra đỡ đòn. Lúc đó có một chàng thư sinh đang tới lui tình cảm rất đậm đà với nàng, nên được điện ông Tư Lệnh, nàng khóc lóc nhảy xuống sông tự vận nhưng rồi trái tim không thắng được cường quyền, hơn nữa bà mẹ cũng muốn con thay mẹ trám lỗ trống để ông Tư Lệnh khỏi ve vãn mẹ mà có ngày mẹ rơi hầm chông. Cho nên nàng Thoa cuối cùng trở thành Bà Tư Lệnh. Bà Tư Lệnh thì không ở chung với các bà bầu mà ở chung với ông Tư Lệnh.

Cũng cuối năm 1949, xảy ra chiến dịch Bến Cát. Trà cử Lê Đức Anh làm Tư Lệnh mặt trận, Ba Tô Ký làm chánh ủy và Ba Xu (tức Ba Đình) làm Tham mưu trưởng. Chiến dịch này thành công vĩ đại là do công của Tư Lệnh Anh: tóm được mười mấy xe hàng dân sự ở Chơn Thành chở gạo đi Hớn Quản, đổi lại sự nướng sạch gần hai tiểu đoàn 302 và 304 ở mặt trận Bến Súc. Chiến thương lên đến ba trăm, nằm đặc dọc đường từ Đường Long, Thanh Tuyền về đến cầu sông Thị Tính. Quân Pháp nhảy dù ở Nhà Mát rượt Ban chỉ huy chạy ói ra máu ở Bà Tứ. Thêm vào quân nhảy dù, pháo 105 và 155 của Pháp bắn tơi bời. Hai bà bầu Ba Xu và Ba Tô Ký chui hầm, nếu không có tôi chắc bị miểng cứa lòi con. Nhờ tôi ngồi trám miệng hầm (lãnh đạn) nên các bà an toàn.

Sau chiến dịch này, Pháp phong tỏa chiến khu Long Nguyên nên toàn bộ Tư Lệnh rút về chiến khu D, ở Đất Cuốc Tân Uyên Biên Hòa. Cũng đâu vào khoảng 1949, xảy ra trận La Ngà do Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy. Trận này nổi tiếng toàn quốc Người ta ghi lại thành tích bắt được một đại tá Pháp và giết một đại tá khác. Nhưng lại bảo rằng đó là nhờ tài Lê Đức Anh. Tôi không rõ lẽ nào. Nói chung suốt chín năm, Lê Đức Anh ở hậu phương điều binh khiển tướng gì đâu đâu chớ không thấy ra tiền tuyến, trừ chiến dịch Bến Cát mà tôi có tham gia.

Trong thời gian làm việc với ông ta, tôi có nhận xét sau đây :

1. Không rõ học lực của ông ta tới đâu, nhưng chữ ông rất to tròn và khéo không bao giờ ngoáy. Ông không bao giờ nói xen tiếng Pháp trong câu chuyện.

2. Có người bảo ông ta từng làm thầy su (ở sở cao su nào đó tôi không rõ) như ông Trần Đình Xu, biệt danh Ba Xu, Ba Đình (tư lệnh Quân Khu IV) nhưng không có ai xác định được. c lãnh tụ Cộng Sản thường giấu lý lịch mình hoặc sửa nó đi như Lê Duẫn.

3. Lê Đức Anh thuộc loại người kiên trì, chịu kỷ luật, tôn trọng thượng cấp và không hay gây gỗ cãi cọ, cũng không la ó đánh lính như Tô Ký, Ba Xu. Rất nặng tư tưởng giáo điều.

4. Ông ta là kẻ áp dụng chiến lược trường kỳ của Cộng Sản một cách bền bĩ và làu thông quyển Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh. Chính ông ta biết lo xa bảo toàn căn cứ, dời căn cứ, cũng cố phát triển căn cứ trong nhiều lần tình thế hiểm nghèo.

5. Chính ông ta cũng đã chủ trương cấy người ở các trục lộ để nắm sơ hở địch ngõ hầu phục kích đánh giao thông.

Kết thúc chiến tranh, năm 1954 ra Bắc, ông ta chỉ được quân hàm đại tá giữ chức Cục phó Cục tác chiến của Bộ Tổng Tham Mưu của Văn Tiến Dũng, trong lúc Trần Văn Trà lên Trung Tướng cái rột giữ cái ghế Thứ Trường Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu phó kiêm Hiệu trưởng trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn.

-II-

Tôi quá đổi ngạc nhiên khi biết Lê Đức Anh lên đại tướng làm tới Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng và là nhân vật số hai của Cộng Sản Hà Nội. Thực ra, tôi cho về binh nghiệp, hắn chỉ làm nổi đến chức thiếu tướng và chỉ huy nổi một Quân Khu là thượng số. Vì tôi biết hắn, con người lọ mọ, rì rầm, bền chí. Những đức tính này cần thiết cho thời kỳ du kích chớ không xài được cho một giai đoạn tiến nhanh, tiến mạnh, mà yếu tố lớn nhất là khoa học kỹ thuật. Điều này có thể được chứng minh trong chín năm đánh Pháp mà thôi. Trong mười năm đánh Mỹ, Lê Đức Anh trở thành con cù lần. Ông ta không làm gì được, không rời khỏi rừng Tây Ninh Cao Miên một ngày. Trừ lúc sau, ông ta được đưa về làm Tư Lệnh Quân Khu III tức là miền Tây Nam Bộ để lo việc vận chuyển lén vũ khí từ Bắc vô Kompongsom.

Năm 1964, khi tôi về R, đóng ở Tà Bon thì tôi gặp ông, tôi nhắc lại những kỷ niệm cũ. Ông không thích thú lắm. Có lẽ ông ta tự hiểu rằng mình đã trở thành một chiếc cối xay gió trước những máy móc tối tân, nên ông không hứng thú nhắc lại nữa.

Lúc đó ông ta là trướng B2 tức là Cục Tham Mưu với quân hàm đại tá của quân đội Bắc Việt. Còn thằng bé đồng tử quân năm xưa nay đã là đại úy, giảng viên trường pháo binh Bộ Tổng Tư Lệnh Miền Bắc. Ông ngạc nhiên nhìn tôi tiến bộ nhanh. Còn tôi cũng ngạc nhiên nhìn ông già sọm, ốm yếu lem hem, ho hen, sốt rét, tóc bạc trắng mà chịu dưới quyền tên Trà, Độ, Tấn, v.v… đứa trung tướng đứa thiếu tướng nghênh ngang một cõi R.

Cái trống của bà Sáu Bầu năm xưa đã vỡ ra và cho ông ta một đứa con gái khá xinh tên là Thanh Tuyền, bây giờ cũng đã vào R ở trong cái hang hùm của bố. Ngồi chung bàn uống trà với ông, tôi không những là đại úy pháo binh mà còn là anh hùng pháo binh vừa pháo kích sân bay Biên Hòa lẫy lừng thế giới nữa. Nhưng nhìn ông Cục trưởng, tôi có cảm giác như Cộng Sản đi theo một vòng luân hồi, một cái trò luẩn quẩn. Giết người để làm thỏa mãn người rồi lại bị người giết. Đó là Nguyễn Bình thời kháng chiến chống Pháp. Còn thời này là ai? Chưa biết là Trần Độ, Lê Trọng Tấn, Hoàng văn Thái, Trần văn Trà hay Lê Đức Anh?

Ý nghĩ đó của tôi không sai lắm khi thời gian trôi qua. Trần Độ bị cho về vườn, Lê Trọng Tấn và Hoàng văn Thái chết thảm tại nhà riêng không biết lý do. Còn Lê Đức Anh? Thời gian chưa trả lời, nhưng chắc gì số phận của hắn lại khác số phận Nguyễn Bình? Bạn hãy cùng tôi phóng mắt ngược về thời điểm mà Lê Đức Anh còn là một kẻ vô danh cấp trên không biết cấp dưới không hay, cái thời mà Nguyễn Bình quảy gói quả mướp vào Nam làm nhiệm vụ Thống nhất lực lượng võ trang năm cha ba mẹ của Nam Bộ.

Đảng Cộng Sản Đông Dương bên ngoài tuyên bố tự giải tán, nhưng bên trong đeo đuổi tham vọng nắm lực lượng võ trang toàn Nam Bộ. Nhưng lực lượng này tự động thành lập mang tính cách địa phương nhưng đã làm cho giặc Pháp kinh tâm tán đởm suốt bốn năm đầu kháng chiến. Ở miền Đông có các lực lượng của các ông Huỳnh văn Một, Huỳnh Tấn Chùa, Bình Xuyên v.v… Ở miền Trung có lực lượng của giáo phái, lực lượng của Đồng văn Cống, Phan văn Phải, Romand v v.. Ở miền Tây có lực lượng của Nguyễn Hùng Phước, Ngô Hồng Giỏi, Lâm Quang Phòng… Tất cả đều tự chỉ huy lấy không nằm dưới sự lãnh đạo nào.

Khi Nguyễn Bình vô thì bàn tay của Cộng Sản bắt đầu mò mẫm tìm cách qui tất cả về một mối để chỉ huy. Nguyễn Bình thi hành chánh sách chém giết lén lãnh tụ các đảng phái như Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ và lãnh tụ Bình Xuyên Ba Dương, sau đó dụ dỗ Bảy Viễn làm Khu Bộ Phó để nắm lực lượng Bình Xuyên. Hai tiểu đoàn Hải Ngoại từ Thái Lan về, võ trang súng Thompson và các loại súng máy, không có súng trường, oai dũng vô cùng do ông Ngô Thiết Sơn chỉ huy nhưng về nước cũng bị phân tán xuống khu 8 và khu 9. Nguyễn Bình phong Huỳnh văn Nghệ làm khu trưởng, Bảy Viễn làm khu phó và Nguyễn văn Trí một tên tù Cộng Sản ở Côn Đảo về làm chánh ủy. Kế đó thành lập phân khu Duyên Hải mục đích khống chế và chiêu dụ lực lượng Bình Xuyên, vì lực lượng này đã chống đối Nguyễn Bình từ đầu không cho đặt hệ thống chính trị trong nội bộ họ. Bảy Viễn đã từng tuyên bố: “Không có một tên Bắc kỳ nào trong bộ đội tao!” Câu nói đó trở thành bất hủ. Khu này do ông Dương văn Hà, em ruột ông Ba Dương làm Tư lệnh. Nhưng lại cũng do một tên Cộng Sản là Hai Huy làm chánh ủy. Ngoài ra còn mở trường Quân Chính do sĩ quan Nhật được Bình Xuyên đem ra huấn luyện, nhưng cũng do một tên Cộng Sản là Đặng Quang Long cầm cán. Tên này năm 1964 làm Trường phòng Chánh trị Quân Khu IV (gồm Củ Chi) còn gọi là Quân khu Sài gòn Chợ Lớn, đổi tên là Tám Quang.

Sau khi bị quân Pháp đẩy lui ra khỏi thành thị, lực lượng Thanh Niên Thành Phố, Cộng Hòa Vệ Binh, Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo đã kiện toàn lại tổ chức. Cao Đài kéo về vùng Tây Ninh, Hòa Hảo xuống Hậu Giang, Bình Xuyên trở lại vùng ngoại ô Sài gòn và Rừng Sát. Trong lúc đó các lực lượng do Việt Minh nắm được đã hình thành các chi đội (mỗi chi đội có chừng một ngàn người). Riêng ở khu 7 có các chi đội sau đây:

Chi đội 1 – ở Thủ Dầu Một do Cò Trương chỉ huy, Hai Thế làm phó. Chi đội này do Nhật cung cấp vũ khí chôn giấu ở Bến Cát. Cò Trương thuộc đảng Dân Chủ, năm 47 được cấp trên đưa đi hội nghị Calcutta (Ấn Độ) rồi mất ghế luôn. Sau đó không biết làm gì.

Chi Đội 2 – Gồm một số người Bình Xuyên do Hai Sói chỉ huy.

Chi đội 3 – Gồm một số người Bình Xuyên do Hai Lung chỉ huy.

Chi đội 4 – Gồm một số người Bình Xuyên do Huỳnh văn Trí tức là Mười Trí chỉ huy. Tên này tập kết ra Bắc ngồi chơi xơi nước.

Chi đội 5 – do Tư Đức chỉ huy. Tư Đức có liên hệ với em ruột là Cao Đài ở Chùa Bà Dệt (Đức Hòa) nên bị Nguyễn Bình nghi ngờ cho người bắt, Tư Đức bắn tên Hai Giá chi đội phó để tự giải thoát nhưng không chạy khỏi, bị bắn chết ở Quéo Ba.

Chi đội 6 – Vùng quốc lộ I Củ Chi, Trảng Bàng do Tư Công (Cộng Sản) chỉ huy.

Chi đội 8 – Vùng Vũng Tàu (Bình Xuyên).

Chi đội 9 – Bình Xuyên ở Long Thành.

Hai chi đội 7 và 9 sát nhập thành Trung đoàn 397 đặt dưới quyền thống thuộc của Phân Khu Duyên Hải, do ông Nam Sơn và Sáu Đội em nuôi của Bảy Viễn chỉ huy.

Chi đội 10 – Vùng Long Thành – Dĩ An – Tân Uyên -Biên Hòa do Huỳnh văn Nghệ chỉ huy và Lê Đức Anh làm tham mưu trưởng.

Năm 1948, hai chi đội 1 và 10 sát nhập thành Liên Trung đoàn 301-310. Ba Lung làm Trung đoàn trưởng trung đoàn này ít lâu rồi được đưa về làm tham mưu phó Nam Bộ dưới quyền của Lê Đức Anh. (Lê Đức Anh được Nguyễn Bình cất nhắc vượt lên đầu ông Nghệ và Ba Lung cái rột!)

Chi đội 11 – hoạt động vùng Trảng Bàng Gò Dầu Tây Ninh do Tư Đầu (người Nam) chỉ huy.

Chi đội 12 – Do Huỳnh Tấn Chùa chỉ huy. Ông này bị nghi ngờ có liên hệ với Huỳnh Phú Sổ nên bị Tô Ký sát hại. Rồi làm đám ma rất to. Tô Ký lên làm Chi đội trưởng, dưới trướng có một bầy lâu la: Hai Búa, Đào Sơn Tây, Ba Xu. (Sau này đều là bọn mặt rằn của R)

Chi đội 13 – do ông Đặng văn Thìn tức Mười Thìn chỉ huy. Năm 47 chi đội này sát nhập với tiểu đoàn Nam Tiến từ Quảng Ngải kéo vô, thành Trung đoàn 300 mang tên Dương văn Dương và được Nguyễn Bình điều động về trấn giữ vùng Rừng Sát khống chế các lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn.

Chi đội 14 – Vùng Vàm Cỏ Đông, sau thuộc quyền của Tư lệnh Trà.

Chi đội 15 – do Huỳnh văn Một chỉ huy sau này trở thành Trung đoàn 308. Có ba tiểu đoàn: (l) Nguyễn văn Tiếp (cầu thủ Trương Tấn Bữu ở tiểu đoàn này) (2) Ngô gia Tự (3) Ký Con.

Chi đội 16 – Vùng Bà Rịa giáp giới Hàm Tân – Xuyên Mộc.

Chi đội 21 – Thuộc Bình Xuyên do Tư Quạnh chỉ huy . Năm 48 sau khi Bảy Viển bỏ về Sài gòn, ban chỉ huy chi đội bị tảo thanh, chi đội sát nhập vào Trung đoàn 300. Hầu hết cán bộ đại đội, tiểu đoàn đều bị ám hại hoặc giết công khai.

Chi đội 25 – Do Tư Tỵ chỉ huy cùng số phận với chi đội 21. Tất cả các chi đội này hoặc do Cộng Sản chỉ huy hoàn toàn hoặc bị kiểm soát, khống chế rất nặng, nhưng để nắm chắc hơn nữa các lực lượng võ trang trong hai năm 47-48 Nguyễn Bình cho tổ chức lại các chi đội thành các trung đoàn. Ở khu 7 có các trung đoàn 300, 301, 303, 305, 306, 308, 309, 310, 311, 312. Nổi tiếng nhất là trung đoàn 303 của Hoàng Thọ. Nhưng Hoàng Thọ chỉ nghe lệnh anh Ba (Bình), do đó mà khi Ba Bình bị phục kích chết trên đường về Bắc nhận chức thứ trưởng Quốc Phòng, Thọ bất phục tùng cuốc xuổng. Do đó bị anh Ba (Duẫn) xử tử ở cạnh Đền U Minh.

Do sự cất nhắc của Nguyễn Bình mà Huỳnh văn Nghệ được làm khu trưởng nên sau khi Nguyễn Bình đi, Nghệ rơi xuống làm Tỉnh đội trưởng. Dương Quốc Chính vô (1950) thì chiếc thòng lọng đã tròng vào trọn vẹn cái cổ của các lực lượng võ trang năm cha ba mẹ Nam Bộ. Tên này chia Nam Bộ ra làm hai Phân Liên Khu: Miền Đông và Miền Tây, thiết lập chế độ chánh ủy: đào tạo chính trị viên đại đội và đá hất tất cả tư lệnh, phó tư lệnh gốc Nam kỳ (kể cả Cộng Sản) ra khỏi các Bộ Tư lệnh và các cơ quan quan trọng trong quân đội đưa dân Bắc kỳ nắm lấy hoàn toàn. Phải vất vả mất năm năm mới làm được việc này chớ không phải dễ. Tội nghiệp cho tên chột Nguyễn Bình làm xong rồi thì được gọi về Bắc để khen thưởng bằng cái ghế phó nhòm, nhưng cũng không được ngồi mà đã ăn kẹo made in Deuxième Bureau của Pháp !

Rút kinh nghiệm xương máu đó, bọn Hà Nội, ngay từ đầu cuộc chiến tranh chống Mỹ đã đưa bọn tướng tá miền Bắc vô R không để một anh Nam kỳ nào dù là Cộng Sản nắm một cơ quan trọng yếu và nhất nhất phải xin chỉ thị Trung ương, cho đến năm 1964, Nguyễn Chí Thanh mò vô như một Thống đốc đỏ toàn quyền giải quyết mọi vấn đề không phải thỉnh thị Trung ương như trước nữa.

Tấm gương tày liếp còn trước mắt Lê Đức Anh đó chớ đâu đã lu mờ gì. Văn Tiến Dũng, ông đại tướng đại thắng mùa xuân xong bị cho ra rìa, không được dự đại hội 6. Lê Trọng Tấn từ R về được gởi đi Cao Miên ăn cướp, cướp xong về Hà Nội được phong đại tướng rồi bị giết ngay tại nhà không ai tìm ra manh mối. Rồi Hoàng văn Thái cũng theo chầu ông vãi bằng cách đó. Lê Đức Anh từ R về được phong vượt cấp từ đại tá lên trung tướng và được cho làm tiếp nhiệm vụ Tham Mưu trưởng của đạo quân đầu đỏ của Lê Trọng Tấn.

Trở về nước, gặp lúc Đồng Chinh Thọ về hưu, Giáp có cơ ngoi lên, anh em nhà Lê Đức Thọ bèn làm bỉ mặt Giáp cái chơi: gắn cho Lê Đức Anh bốn sao cho làm Bộ Trưởng Quốc Phòng, vừa gây thêm vây cánh cho mình vừa dìm luôn em út của Giáp. Lê Đức Anh, một tên tướng già không có thành tích gì nổi bật, xưa xách dép còn chưa được phép, bây giờ ngồi trên đầu Giáp, nhờ ai? Chẳng lẽ lại đảo chánh kẻ vừa gắn bốn sao cho hắn. Có người sẽ hỏi: bọn Yazov Liên Xô thì sao? Xin trả lời bọn Bát nhân bang đó được Gorbachev bốc lên, nhưng đồng sàng dị mộng cho nên mới có cuộc đảo chánh hụt ở Liên Xô. Còn ở Việt Nam Thọ, Thọ, Anh, Khuê, Hùng, Ngô và trung ương đảng cùng hợp tác xã chia đều các chiếu; ai cũng no phè, ai đảo ai làm gì rủi hụt chết uổng.

Về đạo đức cách mệnh, Lê Đức Anh có một điểm cũng cần phải nêu. Vì đó ít ra cũng thuộc về Cần Kiệm Liêm Chính của già Hồ. Như ở trên đã nói, Anh có vợ là bà Sáu Cẫm, hội trường Phụ Nữ Chi Quận Thủ Dầu Một, có bầu và bể bầu ở Long Nguyên. Không hiểu sao đi tập kết hắn không mang vợ con theo? Vì hoàn cảnh hay vì mưu định trước? Ra Bắc hắn cưới một nữ sinh. Đám cưới làm to nhất Hà Nội đến nổi báo Quân Đội Nhân Dân phải lên tiếng cảnh cáo. Trùng tên Anh, một tên Bắc kỳ khác là Võ Quang Anh, Tư lệnh Miền Tây cũng còn gọi là Thằng Lé hoặc Tư Lệnh Mắt Mèo. Tên này đã cuỗm được một cô bé ngây thơ ở Ông Dèo tên Thu Hồng vốn là fiancée của thuộc cấp.

Hắn đã no phè và hết xí quách rồi còn đâu mà cưới nữ sinh Hà Nội. Vậy Anh đây là Lê Đức Anh. Một bằng chứng nữa là khi hắn về Nam thì bà Sáu Cẩm vợ tào khang của hắn đang công tác Phụ Nữ Giải Phóng, đem con gái nay đã mười bảy tuổi giao trả cho hắn không nói lấy một lời, rồi quay về thành bỏ luôn công tác cách mạng.

Vậy là có bằng chứng rõ ràng hắn đã phạm điểm luân lý nặng nề trong tam cang ngũ thường. Con gái hắn cô Thanh Tuyền, tôi có quen… thân, bị mẹ bỏ vô hang hùm với cha, nhưng chẳng chịu kêu cha bằng cha mà kêu bằng ông Sáu. Ông Sáu Nam Lê Đức Anh nổi doá tát cho con một bạt tai. Cô gái không sợ mà nói to: “Tôi tưởng người Cộng Sản tốt lắm, chẳng dè thối quá !” rùm cả cơ quan R.

Cho đến lúc tôi về R lãnh huân chương anh hùng pháo binh thì hai cha con đã hòa giải hòa hợp rồi. Cô bé đã chịu gọi bố nó nhưng không biết người Cộng Sản bố nó hết thối chưa? Dù hết thối hay chưa, Lê Đức Anh cũng đã trèo lên đến bậc chót của danh vọng và quyền lực của cái thang đỏ, cũng như Nguyễn Bình xưa kia. Tóm thâu quyền lực cho đảng rồi đảng giết êm bằng tay Pháp. Cũng như Lê Trọng Tấn, Hoàng văn Thái sau này. Nguyễn Bình mắt chột, Lê Đức Anh mắt toét. Thật không khác nhau: Hai kẻ đều thiển cận. Nhưng Bình, Anh cũng đã làm vừa lòng đảng tối đa. Số phận nào giành cho hắn? Hãy chờ xem! Nhưng có điều chắc chắn mà tôi có thể nói ngay bây giờ là Tổng Thống Cộng Hòa Xã Nghĩa Lê Đức Anh sẽ làm khổ dân mình gấp bội, tồi tệ hơn năm mươi năm qua. Vì trình độ của hắn chỉ hơn anh chủ nhiệm hợp tác xã một tí. Về mặt sản xuất thì sợ còn thua!

Tháng 8 năm 1992

[*] Việt cộng vừa công bố “Lê Đức Anh snh năm 1920. Năm nay 72 tuổi” Nói láo! Trần văn Trà trẻ hơn Lê Đức Anh. mà sanh 1918. Năm 1949, hắn mới 29 tuổi, làm Tham Mưu Trưởng Nam Bộ? Vậy nay, Lê Đức Anh trẻ lắm cũng phải 79 tuổi!

– HẾT QUYỂN III –

—->Chương 57- 58- 59- 60

2000 NGÀY ĐÊM TRẤN THỦ CỦ CHI : QIII- (48-52)

16/08/2010 — Lê Thy

Thung catong dong hang thuốc lá caraven giá bao nhiêu năm 2024
Tiếng Sét Ái Tình và Tiếng Sấm Bom Đạn

Chương 48 Gặp lại cố nhân hốc hác: Sơn Tiêu và Tám Nghi

Trong kháng chiến chống Pháp cũng từng có một vụ thất tình của một anh cán bộ đã dẫn tới một hành động chính trị Một anh chàng học sinh Sài gòn dắt một cô bạn ra bưng để xây tổ uyên ương trong khói lửa. Ra khu được ít lâu, một tên cán bộ trung ương giỏi mép Mác xít đã cuỗm được cô nàng. Chàng kia uất ức trở lại thành kêu quân đội Pháp đến oanh tạc và đổ bộ đánh tan một hệ thống cơ quan ở vùng Bạc Liêu. Những người có trách nhiệm tìm cách che giấu rất kỹ nhưng sau cuộc tấn công bất thần đó, truyền đơn rải khắp nơi. Mỗi tờ giấy trắng đều in rõ hình anh chàng hận tình, tên tuổi và câu chuyện bị cuỗm người yêu cùng với danh tánh của những kẻ trong chuyện.

Sau đó lại xảy ra một chuyện khác ở vùng Cần Thơ. Tên tư lệnh mắt mèo Võ Quang Anh hốt vợ chưa cưới của sinh viên trường Quân chính Quang Trung. Cậu sinh viên này phẫn chí bỏ về thành đi học trường sĩ quan quân đội Sài gòn, lúc đình chiến lên đến trung tá. Trước khi về thành cậu ta nhắn với bạn thân: “Mày nói thằng này địt mẹ cách mạng dùm tao nghe!” Thằng bạn thân đó chính là tôi.

Có lẽ nào giờ đây tôi là kẻ cuỗm vợ chưa cưới của ai? Tôi không bao giờ làm chuyện đó. Ngược lại chính một tên tư lệnh mắt mèo khác đã cuỗm người yêu của tôi. Nhưng tôi không nói gì cũng không thèm phản ứng. Vì tôi biết nàng ta không yêu hắn mà bị bà mẹ nàng dồn ép, dâng nàng cho hắn để hắn không đến ve vãn bà ta nữa. Sự ve vãn này có thể đưa đến sự thất tiết của bà . Lẽ thứ hai tôi luôn luôn nghĩ con gái như mảnh lụa đào phất phơ giữa chợ, cũng như chim trời cá nước ai bắt được nấy ăn. Ta tìm cái khác. Thiếu chi mà ta phải ghen tương giành giật với nhau? Xoàng!

Với triết lý đó tôi không bao giờ đau khổ vì tình. Không có người con gái nào làm tôi đau khổ, và tôi cũng không muốn ai đau khổ vì tôi. Tôi muốn họ coi tôi như một thứ chim trời, cá nước, một con bướm khi vui nó đậu khi buồn nó bay. Tôi chỉ sợ Ua quẩn trí thì khốn.

Cô nàng chỉ vọt ra Củ Chi trong vòng ba tiếng đồng hồ là cả vùng này nát như tương. Thoắt nghĩ như vậy tôi muốn vọt theo nàng nhưng nàng đã ra đến đường lớn. Chiếc xe phóng nhanh. Cô Hiền ra đến cái ngõ lan cỏ hoang rắp hờ bằng một nhánh chà tre để ngăn biệt kích chớ gì? Rõ một trò đùa. Ở trên R có một cơ quan cũng làm như cảnh giác cao, bắt nhân viên đốn nứa rào một châu vi rất rộng. Chẳng ngờ đó là một cách phô trương. Chẳng bao lâu biệt kích đột nhập, phối hợp với trực thăng đổ chụp giết sạch nhân viên.

Cô Hiền kẻo nhánh chà tre qua một bên lấy lối cho tôi vào rồi rắp lại ngay. Tôi vừa bước ít bước thì từ một cái chòi lá lụp xụp núp dưới một gốc bưởi bước ra một người: .

– Ê! bồ nhà !

Tôi nhìn ra ngay: Tám Nghi! Nhưng một Tám Nghi xơ xác hãi hùng. Hắn là thượng úy đoàn viên của một đoàn sĩ quan do tôi làm phó đoàn vượt Trường Sơn. Tám Nghi nói.

– Ổng được điện bá o của H2 mày đã rời trên đó hồi sáng. Tao cho người rình nãy giờ ! Thôi đi vô, đi vô ! Ổng đang chờ mày như trông nước uống.

– Gì mà dữ vậy?

– Mày thuộc về thứ dữ rồi chớ còn gì nữa?

– Ăn ở gì mà kín cổng cao tường vậy? Còn hơn mấy ông trời con giao liên trên Trường Sơn trốn khách!

– Phải vậy mới sống ! – Tám Nghi quay lại Hiền lót tót theo sau bảo – Em đi vào đem trà kẹo và thuốc lá ra đây để anh bạn anh giải lao chút rồi vô yết kiến bệ hạ !

Tám Nghi đẩy tôi vào chòi. Trong đó có một chiếc võng mắc sẵn. Hắn bảo tôi giăng võng nghỉ ngơi chờ lệnh. Tôi nghĩ: lại một thứ triều đình con con so với trên R. Mỗi một ông lớn hùng cứ một vùng tha hồ đặt ra điều lệ riêng cho mình. Tôi hất hàm hỏi tám Nghi:

– Cô em nào coi khớ vậy?

– Thì cũng con nuôi của các ông thôi, hỏi làm gì?

– Mày không nuôi đứa nào à?

– Tao lấy gì mà nuôi?

Phong trào con nuôi em nuôi coi bộ lây khắp nơi!

– Biết vậy hay vậy, chớ có nói ra mà mất chỗ đội nón!

– Con gái bây giờ mà lọt vô cơ quan của mấy ông là in như phi tần của hoàng thượng vậy.

Tám Nghi móc thuốc Capstan ra mời. Hai đứa nằm võng lắc lư coi trời bằng hột vịt qua làm khói mờ. Tám Nghi hỏi:

– Tao nghe đồn mày sắp làm phò mã đâu ở trển?

-Đếch gì!

– Ở trển có phải yên thân không?

– Mày không hay vụ dưa hấu rụng kỳ rồi à?

– Có chớ sao không. Mày tưởng dưới này không có thứ đó sao mà vác càng tôm xuống đây?

– Dưới này còn lượm mạnh hơn trên đó hả ?

– Dưới này còn bận Ba xây, ba chống, ba khoan nên để trên R lượm trước.

Hai đứa cười rù với nhau thoải mái. Phải có Tư Linh là đủ bộ ba ông Táo tha hồ mà phun mây nhả khói. Nguyễn Trường Nghi không biết ở tỉnh nào. Tôi không hề hỏi quê quán hắn mà hắn cũng không hỏi gốc gác tôi. Tôi biết hắn là tay xạ thủ súng ngấn của trường Lục Quân Sơn Tây. Trên đường về Nghi bệnh nằm lại trạm Tl4. Mới có hai năm mà anh ta trông hom hem quá đổi.

Hắn đoạt hạng tư trong toàn thể các tay súng ngắn Liên Xô và Đông Âu. Trên đường Trường Sơn, Nghi là tay bắn khỉ đại thần sầu còn tài hơn Dương bá Dương nữa đấy, không phát nào sẩy mà toàn ngay đầu. Khỉ mà bắn trúng mình thì kể như ăn máu… nó thôi. Tám Nghi buông một câu bất ngờ. .

– Thằng Trần Chánh Lý nằm lại ngoài đó muôn năm! . ..

– Không biết Bảy Phương có sửa sang gì lại cái mộ nó hay không?

– Vào trong này đụng tăng Mỹ mới nhớ đến nó . Thượng úy chống tăng lại nằm ở chỗ không có tăng!

Hai đứa thở dài với nhau sườn sượt. Tám Nghi chợt thấy chiếc nhẩn trên tay tôi, hỏi:

– Bộ mày có dính với cô nào rồi sao?

– Cô nào?

– Không biết con Thu Hà . . .

Tám Nghi bỏ lửng không nói thêm, cơ chừng sợ đụng chạm tới cô nào. Tôi nói:

– Tao vẫn lang bang như xưa !

– Ai biết đâu. Tao nghe nói mày bị đeo dữ lắm. Nào thành phần cơ bản, nào tiểu tư sản!

– Cũng có nhưng không dính với ai.

Tám Nghi uống trà và đốt thuốc hết điếu này mồi điếu khác Hắn ngó mông lung trên nóc lều một hồi lâu và nói:

– Mày biết vụ bà chằn trên R không?

– Bà chằn nào?

Tám Nghi ngó quanh như cảnh giác điều gì và nói:

– Bà chằn Rừng Sát xuống tới đây này.

Tôi giựt mình:

– Hồi nào vậy cha nội?

Tám Nghi nghiêng qua gần tôi và thầm thì.

– Cũng mới đây thôi! Mày đừng có học đi đồ lại nghe chưa ? Đứt đầu đó ! Mẹ! Tao không hiểu ngày xui tháng rủi gì mà tao lại gặp một chuyện như vậy .

Nghe Tám Nghi nói vòng vo, tôi cũng đoán ra rồi, nhưng để y bật mí thử xem. Thì đúng y như rằng:

– Không hiểu bằng cách nào mà bả mò trúng ngay chóc hầm ông Đờ Cát.

– Rồi cái tuồng đó diễn ra như sao?

– Thì đại khái là quăng cái hồ lô của bà lên hô giáng. Ổng cũng quăng cây gươm phép của ông lên hô giáng đáp lại. Bả chỉ tay một cái và hô thâu. Cây gươm chạy tọt vào hồ lô. Thói đời là vậy, cây gươm bao giờ cũng không thắng nổi cái hồ lô… Nè tao dặn kỹ nghe, chớ có nói ra nói vào. Gặp con nhà báo Nhỡ Nôm nó chụp được nó phết ra thì mệt cho ổng lắm! Hôm trước đóng ở trên kia cà, sau màn hỗn chiến đó sợ hôi ổ ổng rút xuống đây.

– Còn bả ?

– Bả là khu ủy viên mà mậy! Mấy bà Hai Xót, Năm Đang mọp dưới trướng bả nghe lệnh bả truyền nào dám chống lại. Các cơ quan của khu đóng trên đất Củ Chi này đều phải liên hệ với hai bà đó. Bả hỏi một tiếng là hai bà đó khai ngay. Ổng bây giờ sợ bả còn hơn sợ xe tăng Mỹ.

– Mày nói cà rởn hoài tao không hiểu gì hết, đâu nói rõ ra nghe coi. Tao hứa sống để bụng chết mang theo mà ! Tao thề độc – Tôi đưa tay ra – ngoéo tay nè.

Tám Nghi tiếp:

– Bả la ó dữ quá !

– Làm sao bả vô tận nồi gọ được vậy?

– Bả đứng bên ngoài bả la om lên. Bảo vệ ra đuổi bả. Bả rút K54 ra lên đạn rong róc và xưng tên. Ông thần mình sợ vỡ lỡ ra nên kêu bảo vệ đẩy bả xuống hầm để ém luôn. Bả dữ thiệt mày ạ. Tao không ngờ bả dám nói những tiếng quá ư nặng nề .

– Nói gì? Bả xổ nho à?

– Chậc! Không đâu! Bả là cán bộ đảng cao cấp hơn bà Ba Phó Tư lệnh R mà. Bả đâu có xài nho! Bả nói về bốn chữ Cần Kiệm Liêm Chính kia chớ !

– Bả hoan hô chữ nào nhất?

– Chữ nào bả cũng đem ra hô giáng ông thần cả ! Cuối cùng bả hạ một câu bất hủ : “Cụ Hồ còn đó sao củ không dạy cháu củ?”

(Tội nghiệp bà khu ủy viên! Bà tưởng cụ Hồ là người đạo đức! Đứt họng thì có! Toàn dân Nam kỳ đã nhầm lão già tàn ác này. Chính lão đã bỏ thuốc độc giết chết Dương Bạch Mai tại cuộc họp khoáng đại của Quốc Hội tại Ba Đình năm 1960. Ai cũng biết mà không dám hó hé!)

Tám Nghi tiếp:

– Lúc bấy giờ tao đang làm báo cáo ở trong một cái ngách hầm ngay bên cạnh hầm chính của ổng. Muốn tránh để cho hai bên tha hồ oánh phép, tao bèn chui tọt lên và chạy đi. Nhưng tai vẫn còn nghe văng. vang những câu rất ác…

– Rồi ông phản ứng làm sao?

– Ổng xuống nước nhỏ, rất nhỏ ! Nhỏ tối đa, tao chưa bao giờ có thể tưởng tượng đến thế.

– Rồi bả làm sao?

– Bả thì đi nước lớn, lớn thật lớn. Lớn như chưa bao giờ có thể tưởng tượng đến thế! Thôi, đại khái vậy đó, mày đừng có phổng rấn tao nữa, khổ thân tao lắm.

Tôi không hỏi hắn nữa nhưng suy nghĩ, hoang mang. Tôi chưa bao giờ thấy một lãnh tụ hoặc một cán bộ cao cấp đàng hoàng. Phải chăng thượng bất chánh hạ tất loạn. Ông trưởng phòng như thế thì còn dạy dỗ các trường ban và nhân viên làm sao? Tôi đi từ miền Đông qua miền Trung xuống miền Tây Nam Bộ trong thời kháng chiến. Đi tới đâu cũng nghe những chuyện lăng nhăng của mấy ông lớn. Ở miền Đông thì có ông Tô Ký, miền Trung có Trần văn Trà, miền Tây có Nguyễn văn Trấn và Võ quang Anh. Toàn những ông tư lệnh tư lọt không thôi. Lính lãi có quyền hành đâu mà giật vợ người. Người nắm quyền trong tay phải luôn luôn được kiểm soát chặt chẽ, nếu không sẽ gian dâm, hà lạm.

Tôi nhớ đám cưới Tô Ký, một thứ xa xí cực kỳ quái gở. Đèn măng sông đốt cả mấy chục cái trong rừng cao su, không nói làm chi. Rượu Tây uống không hết đem đổ trên đầu nhau chơi. Còn đám cưới của Năm Lê (tức là Sơn Tiêu) lính lấy thịt heo quay ném nhau như đất cục. Thế nhưng bây giờ Năm Lê lại phụ tình và bị vợ hạ nhục. Ắt hẳn bây giờ chị Hai Mặn ăn năn vì đã đá ông Trung đội trưởng Chọn kia để lấy ông Tiểu đoàn trướng Sơn Tiêu này. Tôi nói với Tám Nghi:

– Tao gặp bả trên trạm 66 R mày ạ ! Bả định đột nhập vào triều đình để hỏi tội đức lang quân nhưng lính gác kỹ quá bả không vào được.

– Mà có vào được cũng chẳng làm gì. Vì ổng đâu có ghé R. Ổng đi tàu lặn về Bến Tre rồi lội về đây nhận chức Phó phòng tham mưu luôn.

– Tha… m mu hả?

– Tha gì thì tha nhưng ổng bây giờ kẹt cò dữ lắm. Ổng không vô được đảng ủy thì có ngày rơi mão. Tao về đây hai năm rồi ngày nào cũng nghe ông chưởi bới gắt gỏng. Cả với ông Hai Phụng thượng tá Tư lệnh phó kiêm Trưởng phòng Tham mưu mà ông cũng tạt ngang, không ngán.

– Tại ổng không tha được cái mu con mẹ đan len ở Phố Hàng Đào vô đây nên ông khủng hoảng chớ gì. Còn ông tạt ông Phụng là vì ông này dốt không có thành tích bằng ổng, chứ đối với ông Ba Xu ổng đâu có dám lấn lướt. Ông ấy là Tư lệnh lại thành phần dân cạo mủ, vô sản trăm phần trăm, còn ổng thành phần lính thủy Tây. Ổng cũng biết tùy mặt mà lên chân! Thôi bỏ chuyện đó đi, mày rước bà xã vô chưa?

– Tao cũng ôm cây cà-nông-xăng-rờ. .. cum đây mà chịu trận chớ xã ớt gì đâu! Trên Trường Sơn thì bị sốt rét, xuống đồng bằng cái nọc muỗi đòn xốc cũng còn đây chớ nào đã dứt. Tối ngày cứ ru rú trong hầm chờ coi ổng có kêu tới la hét gì không. Làm chánh văn phòng mà y như thằng cần vụ.

– Sao có cái việc lẩm cẩm trong chức trách vậy?

-Ở đây toàn như vậy cả, không phải chỉ ở đây và mà mình tao. Mấy ổng bỏ hết điều lịnh nội vụ, điều lịnh kỷ luật của quân đội rồi. Mỗi ông là một cái đầu gà, muốn gáy kiểu nào cứ gáy. Tao chỉ huy cả một trung đội liên lạc, cần vụ. Tối ngày chuyên nấu cơm và móc hầm cho ông lủi. Kia kìa mày nhìn cái mái nhà lụp xụp đó ! Trên mặt đất trông không ra gì cả nhưng dưới hầm thì đủ hết: ván gõ, bàn ghế y như ở trên. Ổng không bao giờ bước ra khỏi hầm, trừ khi tiểu tiện. Tao chỉ thiếu việc bưng bô cho ổng nữa thôi. Ổng vừa ra lịnh cho tao bắt lũ con nít khoét đường cho ổng đi dạo quanh nhà này. Lạ thật! Ổng là trung đoàn trưởng pháo binh mà lại sợ pháo hơn tụi thường.

– Chính vì con nhà pháo hiểu tánh cách lợi hại của pháo nên sợ pháo hơn người thường.

– Ờ, mày nói đúng. Thằng Ba Xây, xã đội phó, chủ có nhà này, nó cho vợ con ra ấp chiến lược hết rồi ở lại đây tử thủ. Hàng ngày nó đi đặt lờ đặt lọp bắt cá tôm bán, có biết sợ sệt gì.

– Tao biết ổng hồi còn trẻ cũng gan lắm đâu có thỏ đế dữ vậy. Có lẽ về già lưng mật. . ..

– Mấy lúc ngớt pháo ổng kêu tao tới nói chuyện chơi. Biết chuyện gì mà nói? Bố ai dám pha trò với ổng.

– Hồi chín năm ổng vui nhộn và thể thao lắm! Trung đoàn 300 có đánh lấy được chiếc tàu Tây… tụi này chiều chiều thường chạy trên sông Vàm Sát la ó cho hả hơi. Ổng chạy đua, bơi lội đều giỏi hết.

– Bộ tướng ổng coi bộ cái gì cũng giỏi. Giò dài, tay dài mặt cũng dài… Từ hôm B52 cắt một đường vén ót tao coi bộ cái mặt của ông càng dài hơn ra, khó nhìn quá hè . Để chừng gặp ổng mày sẽ thấy tao nói có đúng không? Tối ngày ăn rồi cứ rút trong hầm, nếu độn thổ được chắc ông cũng độn thổ tới đất cái luôn.

– Bộ B52 có viếng khúc lòng ống này à?

– Có chớ. Nó rạch một lằn từ Hố Bò xuống An Nhơn bề ngang chừng hai cây số. Có lẽ đây là loạt mồ côi và đầu mút cho nên độ bom không đông đặc lắm. Chừng hai trăm thước mới có một hố bom. Ấy là tao chỉ đoán mò thôi chớ làm sao biết được. Nhưng nếu nó chệch về phía trong một chút thì tụi này chắc hốt xương rồi. Chừng mày về H6 sẽ đi ngang cái nhát dao vén ót đó.

– Chắc gần Đồng Dù, tụi nó sợ xuống cựa nên làm nhẹ tay chớ gì ?

– Đây chỉ cách Đồng Dù chừng sáu cây số!

– Xa thì sợ B52, gần sợ tăng, pháo, biệt kích, mày muốn cái nào?

– Muốn cái nào à? Còn mày chạy vuột B52 trên R về đây bắt cái nào?

Tôi cười:

– Mày bắt cái nào tao bắt cái đó !

Tám Nghi ngưng một chút rồi hỏi:

– Mày về đây có kế hoạch đánh đá gì chưa?

– Đánh bằng cùi chõ hay bằng gì?

– Pháo phiếc tụi H6 chôn sống hết, mày về quật mồ lên mà xài.

– Tao không có một món khí tài nào trong tay, ngoài bộ thước xạ kích tổng hợp trong ba lô và cặp ống nhòm này.

– Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng ! Nói vậy sao được tía nó .

– Vùng thì vùng, còn lên hay không chưa biết.

– Tao thì muốn vùng mà nó không lên. Nó cứ nằm ỳ. Hề hề… mà thà nó nằm êm còn dễ chịu, chứ nó vùng lên thì mắc công kiểm thảo như thằng Hai Giả.

– Tao nghe đồn mà không rõ vụ đó ra sao?

– Thì có cái đách gì! Sướng con cu thì mù con mắt. Nó có vợ ngoài Hốc Môn, tháng nào cũng vô cho nó nộp tô, nhưng vì nó thích vùng lên nên ở trong này chịu không nổi lại thím xực thêm một bà . Vậy chớ có gì. Nghĩa là đúng y cái công thức con vòng con cỡi của mùa thu ta.

– Có vậy thôi?

– Vậy thôi đã hạ từng công tác, ngưng sinh hoạt đảng. Nếu hơn thì tới chuyện gì nữa?

– Trong khi vợ bé bố Duẫn ở villa còn bố thì làm Tổng bí thư với số phiếu trăm phần trăm.

– Chíp! Chuyện đời muôn năm nó là vậy. Nói đạo đức dễ hơn giữ đạo đức.

Bỗng có bấng kẻng khua leng keng trong nhà . Tám Nghi nhổm dậy, bảo:

– Sửa soạn triều phục, đi vô chầu cha nội. Bệ hạ gọi đó.

– Ê hồi nảy cô bé nào coi mướt vậy ta?

– Mày cũng muốn vùng lên hả? Con gái nuôi của ổng đó, nó là người thận cận với ổng hơn cả tao. Nó ra vào chầu chực mình rồng tự do còn tao có lô phôn gọi mới được tới.

– Ở đây có lô phôn cơ à ?

– Cái kẻng đó, không nghe sao? Đánh với Mỹ mà xài lô phôn cỡ đó, mày thấy bình minh lên khắp nơi rồi chứ?

– Tao đi đâu cũng thấy con nuôi. Ông Ba Thắng trên R, ông Tám Quang và ông Thần Núi ở đây.

– Con nuôi có hiếu hơn con đẻ . Con nuôi bố biểu cái gì cũng được mày có hiểu không?

Chúng tôi sánh vai đi đạp lên đầu những đám cỏ mịt mùng ít dấu chân. Người ta muốn để nguyên màu hoang dại. Tám Nghi bảo:

– Có đại yến đãi mày đấy!

– Yến gì?

-Tao chưa hề thấy ổng săn đón ai như đối với mày. Bọn hậu cần, liên lạc, cả tao nữa, được lệnh ổng chạy đi mua rượu tây la ve và một mớ thỏ để nấu sốt vang theo kiểu Hà Nội . Riêng tụi tiếp phẩm phải chạy mua cho kỳ được nước đá !

Tôi bật cười:

– Bỏ mẹ rồi!

– Gì?

– Mới đút đầu vô chiến đấu mà ổng cho ăn thịt thỏ là điềm chẳng lành. Vậy thì tao sẽ nhát như thỏ đế và chạy nhanh như thỏ rừng mà thôi!

Tới thềm nhà, Tám Nghi níu tôi dừng lại và nói nhỏ:

– Mày đứng ở đây, tao vô ngách bảo thằng cần vụ.

Một chốc Tám Nghi chạy ra, đẫy tôi đi trước, hắn rón rén theo sau. Tới hầm hắn bảo:

– Rồi, vào đi! Cởi dép ra !

Tôi làm theo lệnh rồi bước xuống bậc thứ nhất. Sao mà lạnh thế ! Tôi đã từng vào nhiều hầm nhưng chưa hầm nào giống âm phủ như hầm này. Đúng là hầm Đờ Cát. Tôi có cảm tưởng tôi là chú chuột nhắt đang chui vào lòng một quả núi đất. Quả núi mà sụp là chuột bẹp dí. Phải dùng ít nhất năm trăm nhân công mới đắp nổi cái hầm này. Lòng hầm rộng rải nhưng tôi lại thấy nó ngột ngạt khó chịu vì cái không khí ẩm ướt nặng nề và ánh sáng lờ mờ của một ngọn đèn cầy cắm ở một chỗ lõm của tường đất.

Tám Nghi bảo tôi ngồi ở một cái ngách có bàn ghế hẳn hoi. Đây là nơi cán bộ các ban ngồi chờ trước khi làm việc với ổng. Tôi đang đảo mắt ngó quanh thì cận vệ trở ra. Cậu ta bước lại rỉ tai Tám Nghi. Tám Nghi nắm vai tôi, bảo:

– Ổng kêu vào !

Rồi hắn đi trước tôi theo sau. Tôi nghĩ thầm ông thần này rành chiến tranh lắm. So với cái hầm của Tám Quang thì nó khoa học hơn gấp bội. Bỗng Tám Nghi quẹo qua trái. Hầm kiến trúc theo hình chữ L. Nếu đạn có nổ ngay miệng hầm miễng cũng không văng vào được. Một ngọn đèn cầy khác hắt ra một thứ ánh sáng nhà mồ. Tám Nghi quay lại bảo:

– Coi chừng sụp.

Tôi bước xuống luôn một mạch bốn bậc đất xén rất sắcnhư lót gạch. Ai xuống cái hầm này dù không đội bom đạn cũng có thể hiểu được cường độ chiến tranh ở đây. Tám Nghi đưa tôi đến một cái ngách đào sâu vào vách hầm, rộng bằng phân nửa toàn bộ hầm của Tám Quang. Tám Nghi trỏ vào bàn ghế, các cây trụ rất chắc và bảo:

– Đây là hang của tao và mấy cậu bảo vệ. Bàn để ăn cơm và làm việc. Trụ để mắc võng hai tầng.

Tám Nghi lại bảo tôi ngồi chờ rồi cười khoe cặp môi chì khô răn rúm:

– Mày coi tao kiến trúc hầm kiểu này đúng với hầm chống nguyên tử mình học ngoài Bắc không?

Đối diện với cái ngách này là một cái ngách nhỏ, trong đó một cậu bé đang ngồi trên một cái thùng gỗ thông đựng đạn DKZ. Tám Nghi bảo:

– Viết thư viết từ cái gì . Không có được gởi lén đó nghe. Bữa nào tao cho về Sa Nhỏ mà thăm nó. Bộ gần ngày cưới rồi nôn hả? Tao đây với ông thầy pháo này già khú rồi mà có được như mày đâu !

Thằng bé ngóc lên nhìn rồi nói:

– Chú già chớ thầy pháo có già đâu!

– Đi lại bếp bảo mấy đứa nhỏ lột da thỏ chuẩn bị xào nấu đi, khách tới rồi. Đứa nào coi lại nước đá rộng mạc cưa và trấu có kỷ không, để đến lúc dùng mà chảy hết, ổng cạo đầu tụi bây nghe!

Tám Nghi quay lại bảo tôi bỏ ba lô và các thứ lỉnh kỉnh ra để trên bàn ăn cơm, đứng chờ còn y thì đi tới rồi rẽ ngang về phía trái. Như vậy hầm có hình chữ Z. Tôi tranh thủ gạ chuyện cậu bé :

– Bộ nhà cậu ở Sa Nhỏ à?

-Dạ.

– Sao vô đây?

– Dạ, ban đầu em tòng quân ở Q Hai Chòi, học xong khoa tân binh, em đưa nguyện vọng ra đơn vị chiến đấu, nhưng họ đưa về đây.

– Chừng nào đám cưới?

– Dạ em hẹn với cô ta là giải phóng xong về cưới, nhưng xem mòi không mau, nên em muốn xin phép về làm đám cưới rồi trở vô nhưng chú Tám bảo khoan đã , tình hình này không có ai dám tập trung ăn đám cưới mà làm, nên em gởi thơ về bảo ở nhà nán lại một thời gian nữa. .

(Thì cũng kiểu hai năm thống nhất cậu ơi! Đừng có bao giờ tin lời hứa của cách mạng!)

Tôi bắt qua chuyện hầm hố:

– Hầm này đào sâu ngủ thoái mái quá ?

– Trời ơi mấy cháu đào hộc máu đó chú. Cả trung đội làm liên miên một tháng trời mới xong.

– Đà ngang bằng cây cao su hả?

– Dạ, đây là cột nhà giàu bỏ đi mình lấy đại về làm. Rừng chồi cây non đâu đủ sức chịu cái nóc hầm này. Tụi cháu lvừa trồng khoai mì và mắc cỡ trên nóc. Hồi trước có cái nóc lá nhưng bị B52 quạt bay mất.

– B52 ở ngoài xa mà.

– Nhưng mà hơi nó mạnh lắm, nó đi như sấm vậy. Nếu người đứng trên mặt đất không bị đạn thì cũng văng.

Tôi trỏ mấy đóm ánh sáng loang trên vách hầm, hỏi:

– Lỗ thông hơi khoét hay có ống tre?

– Dạ đặt ống tre đàng hoàng, còn khoét thì ít lâu đất lỡ bít hết.

– Có lót ni-lông trên đà ngang trước khi đổ đất lên không?

– Dạ có, chúng em còn đươn vỉ tre trải đè lên để đất lkhỏi rơi xuống nữa .

– Vậy là tốt! Ở đây đất cao nên lòng hầm đào rất sâu, trong Gót Chàng đất thấp, xuống một thước là đụng nước.

Tám Nghi trở ra. Tôi hỏi ngay:

– Cái hầm có ăn thông ra địa không?

– Có chớ ! Ba Xây có được một khúc đào trước kia. Nó vừa lỡ, tụi tao phải sửa sang lại để xài. Y tặng cho tụi này luôn. Y bảo: “Mấy ổng có chun thì chun, còn tôi thì dông thôi, chun xuống dưới rủi tụi nó moi được miệng hầm nó móc lên như móc cua, tôi hổng chơi.”

– Địa được bao dai?

– Trăm rưỡi thước.

– Mày có xuống thử chưa?

– Có chớ !

– Bao lâu?

– Chừng hơn nửa tiếng. Tao thấy tốt lắm.

– Hơn nửa tiếng thì tốt, chớ chừng ba tiếng trở lên phải coi chừng. Tao đã từng đào và từng xuống địa. Đây là vấn đề khoa học không phải vấn đề lập trường. Thiếu dưỡng khí thì dù có thừa lập trường cũng không kham! Mày phải đặt vấn đề nếu nó chốt trên đầu thì phải làm sao?

– Mày bảo tao phải làm sao?

– Người ta cứ tướng xuống địa như đi xuống nhà nghỉ mát, nằm ngủ khỏe re chờ giặc nó rút thì trồi lên bắn tỉa xuyên hông hay vét đuôi nó dễ như ăn ớt vậy. Sự thực không phải đâu. Một cái đánh dấm ở dưới đó có giá trị bằng một trái bom nguyên tử trên mặt đất vậy. Còn rủi mấy cô công chúa kia có kỳ thì cả hầm sẽ chết ngộp. Rồi khát nước, rồi tiểu tiện, rồi ăn uống. Bất cứ cái gì cũng kỳ cục khác thường hết cả. Đừng tưởng đơn giản mà chết.

– Sao mày rành vậy?

– Thì tao đã xuống rồi chớ sao. Cái thằng nhà báo Bọ Chét tới đây hồi năm ngoái đòi quay phim lòng địa đạo nhưng nếu nó quay được thì tai hại biết bao nhiêu. Cứ để cho nhân dân thế giới thưởng thức cái địa trên đài Giải phóng và đài Hà Nội thì tốt nhất?

Bỗng nghe tiếng lục lạc ngựa leng leng. Tám Nghi ngắt nhẹ hông tôi và thì thào:

– Ổng kêu vô !

Tám Nghi dẫn tôi đến miệng ngách rồi đùn tôi vào.

Một người cao ốm, mặt dài, cằm dài ,trán thấp mà ngang chàng, mắt lươn ti hí, nhe răng cười mà không ra tiếng chỉ lphát ra tiếng hừ hừ như sư tử vờn mồi, đi tới đưa tay cho tôi. Tôi bắt lấy và nói:

– Anh Tiêu, anh mạnh hả ?

– Cậu làm gì ở dưới với mấy thằng Bắc kỳ lâu vậy? Có lmóc được gia đình không?

– Dạ tôi nằm chờ. ông già vô cho tiền rồi về.

– Còn vụ thằng em?

– Dạ chưa kết quả .

– Mấy thằng đó làm ăn bá láp. Gặp đâu xâu đó . Cán bộ chiến đấu không phải dính vào những cái chuyện địch vận lăng nhăng như vậy. Con người ta ai cũng chỉ có một bộ óc, là hễ làm tham mưu thì không chính trị, hễ làm chính trị thì đừng làm tham mưu. Cái thằng chính trị nó nhìn cậu nó thấy như một cục mồi nhử cá, còn thằng tham mưu nhìn cậu như một cái búa đập kẻ thù, cậu hiểu chưa? – Anh vừa nói vừa móc gói Capstan ra đưa cho tôi – Theo tôi trong nghệ thuật chỉ huy không nên có hai bộ phận chính trị. và tham mưu cùng một lúc.

Tôi mời lại anh và bật lửa cho anh đốt. Anh nói:

– Kể từ khi cậu đi miền Tây tới giờ tôi không gặp lại.

– Dạ, có gần hai chục năm!

– Cậu hồi đó còn thiếu nhi nhưng đã có khiếu quân sự. Mười bốn tuổi mà dám đánh xe tăng.

– Dạ làm ẩu may mà được anh à .

– Cậu xài cái ống quẹt ngon quá !

– Dạ , của người ta mua ở chợ Bắc Hà cho. – Nói xong tôi để hộp quẹt lên bàn. – Dạ, anh cất dùng còn cái kia để tôi gởi ra Hà Nội sửa.

Tôi cũng có nhưng cái của xưởng cơ khí Hà Nội làm, quẹt rách ngón tay mà không ra lửa.

Tám Nghi thò đầu vô hỏi:

– Dạ anh Năm còn bảo gì nữa không?

– Dặn con Hiền mua thuốc hút cho tôi.

– Dạ có rồi anh Năm.

– Thịt thỏ bảo tụi nó chiên sả ớt, đừng nấu kiểu có nước lỉnh bỉnh như vừa rồi ăn tanh lắm.

Tám Nghi thụt ra, anh bảo:

– Cậu đó giáo viên Lục quân mà chậm chạp, không linh hoạt, việc gì cũng đợi nhắc.

Tôi mở sắc-cốt định lấy bức thư của thượng tá Phúc, Phó tư lệnh pháo binh R U80 của ông Tư Khanh, nhưng lại thôi, chỉ móc giấy công tác ra trình. Anh xem xong, để trên bàn, xòe bàn tay to lớn ra đập đập trên tờ giấy, gầm gừ:

– Cái này là không được.

Tôi giật mình hỏi.

– Dạ, anh nói sao ạ?

– Hễ công tác ở Tham mưu thì công tác ở Tham mưu không có chàng hãng hai chân vậy được.

Tôi.ngồi lặng thinh, khống biết số phận mình ra sao. Ổng không nhận thì có nước lội về R. Trên đó còn ai đâu? Sức hút duy nhất làm cho tôi trở về R là các em thôi. Các em đã tản lạc hết rồi thì về làm gì nữa? Anh hất hàm:

– Cậu muốn tham mưu hay chính trị?

– Dạ, ở trên sắp xếp đâu tôi ngồi đó.

– Nói vậy sao được. Tham mưu là thực tế: Nhìn bom đạn là bom đạn chớ không thấy nó là mầm mống căm thù như chánh trị. Theo cậu cuộc chiến tranh này sẽ đi đến đâu?

Tôi ngần ngại, anh bảo ngay:

– Trung ương không hiểu gì ráo mà phát động chiến tranh. Giống như hồi 45 tầm vông đánh xe tăng. Nhưng bây giờ không giống chút nào.

Một cô bé đưa trà vào. Anh rót mời tôi và uống ngay, rồi tiếp :

– Binh thư có nói ba yếu tố chiến tranh: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Kẻ nào có ba yếu tố đó sẽ thắng. Ta có không? Tôi sát hạch chính trị cậu đó. Nói đi nghe thử!

– Dạ, thiên thời ta có vì đây là đất của ta, Mỹ không quen cái thủy thổ nhiệt đới này. Địa lợi: ta có địa đạo thôn liền thôn, xã liền xã, ta thuộc lãnh thổ hơn Mỹ. Nhân hòa….

Anh cười như con cọp bị hóc xương:

– Nói về nhân hòa nghe thử.

– Ta có dân. Mỹ bị dân thù ghét.

Anh khoanh hai tay trước ngực, ngã ngửa ra thành ghế:

– Cậu làm chánh ta có thớ lắm! Hà hà… Cậu nói y như Tám Quang. Nhưng đó là những điều trật lất. Mỹ không chịu được nhiệt đới nếu nó không có máy lạnh. Mình ốm đau vì ăn ở ngoài rừng, bịnh không có thuốc. Thậm chí bị thương chở tới Bưng Còng ông Tám Lê chạy trốn. Lính rượt bắn ông đó là thiên thời. Còn về địa lợi thì đây nà – Anh dậm dậm chân : Địa xạo chớ địa đạo gì. Ở chui rút như chuột có thấy trời đất gì mà chỉ huy? Còn nhân hòa hả ? Thằng Ba Xây xã đội phó này cho vợ con ra ấp chiến lược hết rồi. Chung quanh đây bà con cũng đã đi hoặc sắp đi. Người ta không thích mình đến. Vì mình đến có nghĩa là bom pháo, B52, biệt kích đến. Cậu nhớ hồi chín năm không? Mình đi đến đâu gà heo ngã liệt địa tới đó, dân chúng sắp hàng hai bên đường chào đón hoặc tiễn đưa. Còn bây giờ? Cấp trên phán như vậy rồi, mình cãi làm sao?

Tôi không ngạc nhiên về nhận định của anh. Tôi cũng nghĩ thế, có điều tôi không dám nói ra. Anh rót trà uống và tiếp:

– Cuộc chiến tranh này ác liệt hơn, ta phải hi sinh nhiều hơn và nó sẽ kéo dài hơn cuộc kháng chiến chống Pháp, ngoại trừ thằng Mỹ chạy làng. Nếu không, với tương quan lực lượng này ta không thấy có lý do để chiến thắng. Tôi nói thật đấy mà. Tôi đi tàu lặn với năm chục ông cấp tá . Tàu cặp bờ biển Bến Tre. Từ đó về đây phải chạy chừng một chục cuộc đổ dù. Qua những lần đó tôi tổng kết tình thế của miền Nam về mọi mặt. Dân quan chánh đảng và tình hình quân địch.

– Xin anh cho tôi nghe với.

– Uống nước đi, chút nữa ở đây ăn cơm với tôi một bữa ngon nghe ! – Anh hớp trà rồi trở lại vấn đề – Ta ép buộc dân làm chiến tranh, không phải họ tự nguyện. Bộ đội ta vũ khì không bằng 1/100 quân địch. Đây tôi chỉ cho cậu một điểm. Chiến tranh là tội ác, bất cứ chiến tranh nào. Thằng nào giết người nhanh và nhiều nhất thằng đó thắng. Về điểm này Mỹ có ưu thế hơn ta nhiều. – Anh chĩa ngón tay trỏ vào cốc trà và chấm chấm trên bàn – Đây là cự ly đạn phát ra từ lòng súng M16 không đấy một tấc một viên. Nghĩa là một chiến sĩ ta có thể bị ba viên một loạt đạn. Còn đạn trực thăng bắn thì còn kích hơn. Nó bắn từ sáu đến tám ngàn viên trong một phút. Cự ly đạn ước chừng hai tấc. Vậy một người chạy trong lưới đạn của nó không có thể lọt kẽ được. Cậu hiểu dư mà!

-Dạ.

– Còn loại cá lẹp của nó phóng rốc-kết sẽ không để cho mình thoát. Bốn trái nổ bốn gốc một lúc. Tôi nhìn dấu đạn thì tôi thấy là nếu mục tiêu bị nó nhắm thì chỉ có hai trường hợp: một là hủy diệt, hai là trọng thương. Nhiều ông cùng về với tôi hỏi: “Sao nó không bắn giống FM Tây hồi trước nghĩa là bập bập bập mà chỉ nghe cái réec hoặc hù ù.. Là vì đạn đi dính liền nhau. Khi về đến Tháp Mười tôi bị một trận pháo bầy. Đạn nổ rồi mình mới nghe đề pa ! Ở Trung Quốc tôi không có học thứ này. Sợ e bạn ta không có . Binh chũng của cậu đó, cậu thấy thế nào?

– Dạ tôi cũng để tâm dữ lắm anh Năm ! Nhưng chưa biết phải làm gì. Ít nhất ta phải có lực lượng tương đối.

– Tương đối là bao nhiêu?

– Là…ít nhất nó mười ta phải sáu hoặc năm.

– Đừng mong. Tôi biết hiện giờ nó mười, ta 0,5. Cũng có thể là 0.

– Sao vậy anh?

– Vì DKZ là thứ dùng hồi chín năm ta lén chôn lại, bây giờ móc lên. Lau chùi xong lại chôn. Cậu dạy trên trường loại pháo gì?

– Dạ Nhựt, Mỹ, Pháp, Trung Quốc.

Anh cười chế diễu.

– Học gì dữ vậy? Bộ oánh một lúc bốn phép à?

– Dạ râu ông này cặm cầm bà kia anh Năm ạ . Pháo Nhật không có máy ngắm, phải dùng máy ngắm của Pháp gắn qua. Bắn vòng cầu không được phải bắn trực xạ.

– Vậy rồi làm sao chơi với thằng Đồng Dù?

– Cần chơi thì phình bụng ra chơi chớ sao giờ anh Năm!

Anh lặng thinh một lúc rồi bảo:

– Nhưng ngặt nhất là học sinh. Lớp hai, lớp ba, làm pháo thủ còn không xong lấy đâu chỉ huy một khẩu đội? Rồi hành quân bằng cái gì?

– Anh mà thấy lính trên Trường Sơn khiêng pháo thì anh sẽ khóc ròng đó anh ! Bộ giò như cây tăm xỉa răng mà khiêng pháo 90 ly. Trời ơi ! Đói ! Đế cối bỏ đầy đường ! Tôi thấy không dám dòm. Trung ương ác quá ! Miễn đạt mục đích thì thôi, hi sinh bao nhiêu không kể.

– Nhất là hi sinh dân Nam kỳ và nhất nữa là không có đứa con đứa cháu gì của mấy ông to bà lớn cả !

Tám Nghi lại ló đầu vô:

– Thưa anh Năm, uống rượu gì ạ?

– Có Tây chơi Tây, có đế chơi đế. Đãi cậu thầy pháo này một bữa cho tới gáo. Cậu ta là lính của tôi hồi chín năm. Tiến bộ mau quá ! ờ ờ đó là nhờ văn hóa. Chiến tranh là một khoa học. Hồi chín năm ai có dao dùng dao, ai có búa dùng búa chớ bây giờ không thể chơi miếng võ rừng đó được nữa. Một người chỉ huy bây giờ phải là một nhà khoa học. Cậu có thắc mắc tại sao Ông Chuột nhà mình làm quyền Sư trưởng mất năm, sáu năm mà không lên Sư trưởng được không?

– Dạ thấy dân Nam mình ra Bắc bị lép, nhưng không dám thắc mắc.

Anh lắc đầu:

– Đứng về địa phương anh thì thắc mắc, nhưng đứng về khoa học thì không nên. Ông ấy làm Sư trường trong lúc chưa rành toán chia thì làm sao? Một vị chỉ huy cầm mười ngàn lính trong tay gồm có cả chục loại binh chủng, nào pháo binh, xe tăng, bộ binh, cơ giới, hóa học, quân y, hậu cần, có khi cả hải quân và không quân mà trình độ như ổng thì làm sao xoay trở? Lập trường chỉ tốt ở trong văn phòng và kiểm thảo dâm ô tham ô thôi chớ ra trận thì vứt đi. Thằng lính nào hi sinh bằng Ma tơ rô xốp và Đồng Tồn Thụy? Cậu có xem phim chứ? ờ… ờ Bế văn Dàn, Tô vĩnh Diện của ta nữa !

-Dạ có.

– Cứ bắt lính lao mình vô lấp lỗ châu mai hoài sao? .

– Dạ… tôi đâu có ý kiến gì anh Năm!

– Ba cái cô dũng sĩ do Tám Quang sơn phết chỉ nhảy cóc nhảy nhái ít lâu và trong lúc bom đạn chưa thật ác liệt thôi . Nay mai thằng Tư Linh sẽ không có đạo diễn địa đạo chiến được nữa.

Tôi hơi nhột, gượng hỏi.

– Hồi thằng cha Bọ Chét tới đây anh về chưa anh Năm?

– Tôi ở đây chớ đâu ! Tám Quang có liên hệ với tôi yêu cầu cho bố trí pháo bắn máy bay để quay phim. Tôi bảo không được Anh ta có đề nghị lên ông Ba Đình, nhưng ông Ba bảo tùy tôi. Cậu thấy không? Con mắt chính trị nó nhìn sự việc như thế đó . Nó tưởng bắn máy bay là dễ lắm. Cứ có tiếng nổ cho nó thu thanh là được rồi. Mấy đứa nữ du kích ngoài Bắc tập bắn máy bay bằng súng trường tôi trông thấy mà khóc ròng. Vậy mà ông thi sĩ nhà mình làm thơ ca ngợi và mời quốc tế tới xem nữa.

– Thơ gì anh?

– Thơ gì không biết thơ gì, tôi chỉ nhớ đoạn du kích bắn máy bay ở cầu Lai Vu như sau:

Có cô du kích xóm Lai Vu Quấn rắn trong chân vẫn bắn thù Mỹ hại muôn nhà lo diệt trước Rắn! Mình em chịu có sao đâu.

Đem súng trường ra bắn phản lực thì chỉ có Việt Nam ta thôi.

– Và đem hầm chông địa đạo ra chống B52 thì cũng chỉ có Củ Chi này thôi anh ạ -Thấy ông thủ trưởng cởi mở nên tôi cũng phụ họa – Tôi đã đi với các đội du kích đào hầm và địa đạo để tìm hiểu tình hình hầu sau này áp dụng cho công tác chỉ huy. Tôi thấy quả bi đát. Anh Tám Quang bảo tôi là một vòng đai thép bao quanh Đồng Dù, tôi tưởng có thật…

– Thì có thật chớ láo à?

Dạ, anh bảo sao?

– Thì có mấy hang ếch của tụi thằng Năm Cội và của con Bảy Mô!

Anh ngừng lại lấy cái lục lạc trên bàn lắc lắc. Tám Nghi ló vào Anh chỉ cái ghế bảo Tám Nghi ngồi:

– Cậu nói cho ông giáo viên pháo nghe về cái vành đai thép của ông Tám Quang chút.

– Dạ! Hôm trước anh Năm bảo tôi đi nghiên cứu cái vành.

Anh cắt ngang.

– Là vì tôi ở đây mà không biết. Thế mà đài Giải phóng nói oang oang. Rồi đài Hà Nội cũng phụ họa và khuếch đại nó thành Thượng Cam Lĩnh. Tôi nghe mà giật nảy người lên ! Mình ở đây mà sao không biết vụ đó ! Khơi quá ! Nào, cậu Nghi trình bày để ông thầy pháo nghe xem có thể đem cà-nông 105 ở Tầm Vu ra tăng cường cho cái vành đai đó không?

Tám Nghi nói:

– Dạ là chục rưỡi hố một của du kích các xã Phước Hiệp với Nhuận Đức. Họ núp bắn ba tụi tinh Mỹ ở Đồng Dù thường đem đĩ ra làm ăn ở bên ngoài vòng rào. Nhưng tình trạng đó đã chấm dứt rồi. Vì sau mấy lần tụi nó bị bắn xách quần chạy, thì xe tăng, pháo, trực thăng đáp lễ. Chúng vừa bắn vừa ủi tan mấy cái hầm đó hết rồi. Hiện giờ du kích bị tróc nên chạy vô Bàu Chứa đào hầm khác.

– Như vậy thì Đồng Dù ở ngoài đạn đạo súng trường rồi. Tôi có gặp đội nữ của Bảy Nề và tự sung công làm ông thầy khoét hết một ngày.

Tám Nghi hết nhiệm vụ, đứng dậy cóm róm:

– Dạ, thỏ chiên sả ớt cũng sắp xong rồi anh Năm!

– Bảo tụi nó dọn ra đi. Cậu tới nhậu cho vui nghé!

-Dạ.

Tám Nghi vừa đi ra, anh lấy bản đồ trải ra và chỉ cho tôi các vị trí đồn bót. Tôi rút bút chì mỡ và bút nguyên tử bốn màu đưa cho anh làm điểm. Anh hỏi:

– Ở đâu cậu có thứ này?

– Dạ tôi mua ở chợ Long Hoa II. . .

– Cậu dám vô chợ Long Hoa kia à?

– Dạ, đó là Xóm Mới ở quận Tân Biên của Tây Ninh chớ không phải chợ Long Hoa thiệt. .

– Xa không?

– Dạ nếu không có máy bay đi bộ chừng hai ngày.

– Từ ngày về đây tôi như thằng ngố cứ ở miết trong hầm. Tụi nó xì xào tôi nghe, nhưng kệ. Tụi nó cười tôi là con nhà pháo sao lại sợ pháo ghê thế. Tụi nó không hiểu gì hết nên không sợ là phải.

Anh cầm cây bút chì nghiêng qua nghiêng lại xem và nói.

– Thứ này là made in USA đấy ! Tôi bảo Sáu Huỳnh mua cho tôi mấy cây mà y có nhớ đâu, y chỉ nhớ má con Chia.

Tôi làm bộ không biết: .

– Con Chia nào anh Năm?

– Chỗ thằng mắt bù lạch đóng cơ quan cậu không biết thật à?

Tôi lắc. Anh cười hắc hắc:

– Thằng Chín Lộc với bà Ba Bánh Bò, thằng Huỳnh đớp mụ Tư The má con Chia. Tụi nó làm công tác quân báo nhân dân mọc rễ ở đó luôn chớ gì! Kệ tụi nó, tôi cũng thế thôi. Hay dỡ là công tác chớ ba cái vụ lặt vặt đó tôi không xét nét.

Anh cầm bút chì chỉ mấy điểm trên bản đồ rồi xếp lại, nói tiếp:

– Cậu biết từ trước tôi không ưa mấy thằng chính trị viên. Chúng nó nói toàn chuyện trên trời dưới đất không thực tế chút nào! Lão Long này (tức là Tám Quang) vì nói chính trị nhiều quá mà ở vá tới bây giờ, mó đâu hụt đó. Ổng đi Trung Quốc học xong về, cũng nói cái giọng Mỹ là con cọp giấy. Lão Khơ trọc vậy mà thực tế: “Cọp giấy nhưng nó có nanh nguyên tử” Đến Củ Chi này xem con cọp giấy nó có làm gì không? Ấy là nó chưa xài tới nanh của nó đó. Mấy thằng chánh trị ba lem nhem học được ba mớ lý luận đã bốc trời… Tôi đã chỉ thị cho Ba Hải, Năm Tiều triển khai lực lượng đánh phục kích hoặc pháo kích, nhưng ba tháng nay vẫn êm rơ. Ngày ngày cứ lõ con mắt ra nhìn đồng bào chạy ra ấp chiến lược và xe tăng ủi Phước Hiệp lấn vô Cây Sộp. Ttình hình càng găng, cán bộ càng bệ rạc. Mỗi lần tôi thấy Hai Giả và Sáu Phấn tôi nổi xung lên! Tánh của tôi cậu còn lạ gì. Hễ nóng lên là bất kể. Tôi la ó um sùm. Mà giận thiệt, cán bộ có khuyết mặt này thì được mặt khác. Còn hai ông này trớt he. Đó mấy ông chánh trị già làm thử xem! Cậu về đây tôi mừng lắm. Trẻ, lại có kiến thức.

– Anh muốn tôi về H6 làm gì trước?

– Giao công tác đảng cho Sáu Phấn. Cậu lo mặt tác chiến. Chấn chỉnh lại đơn vị, hâm nóng tinh thần chiến đấu. Mục tiêu chính là Đồng Dù. Phải hạ vài chiếc khu trục ngày nào cũng bay lên bay xuống tuôn bom vùng An Nhơn! Ông Ba Đình cứ hối thúc tôi mãi, tôi thiệt bực mình. Nhưng làm gì được với một giàn cán bộ như vậy? Nhớ hồi chín năm đánh mấy trận Bàu Cá, La Ngà, Bến Cát ăn ngon như rau mà ham. Bây giờ dễ gì làm nổi một cái?

– Anh có bản đồ pháo binh vùng này cho tôi xin một tấm! Tôi chỉ có bản đồ Củ Chi của U80 phát, tỷ lệ 250.000 mà mờ quá, lại toàn chữ Trung Quốc.

– Mình vô đây là rơi vào một cái khủng hoảng thiếu; thiếu tất cả phương tiện chiến đấu và một cái khủng hoảng thừa, thừa bom đạn địch. Không thứ gì mình cần mà có. Bản đồ thí lem nhem và không chính xác nên ông Hai Nhã đấm lưng bộ binh ngoài Đồng Dù Bình Giả khá khá đó .

– Tôi có gặp ông Năm Truyện và ông Trí O ở trường Trung Sơ.

– Cậu làm gì về đó?

– Dạ học.

– Học cái gì?

– Tình hình nhiệm vụ mới. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành

– Kẻ thù nào cũng đánh thắng. Biết rồi. Đó là chánh trị xưa như trái đất.

Tôi biết anh rành câu đó của ai nên không nói tới nữa nhưng hỏi:

– Phải anh Ba Đình chỉ huy trận Đồng Xoài Bình Giả không anh?

– Ổng chớ ai. Hồi 1949 ổng làm tham mưu trưởng Bến Cát thì dễ ăn hơn! Vô đây tôi cho cái bản đồ .

Anh đứng dậy bước đi. Tôi theo anh qua một đường hầm ngắn đến một cái ngách khác khá rộng nền đất lót bằng một bộ ván dầu mun đen, trên đó kê một chiếc giường đôi và một cái bàn nhỏ.

– Ở hầm kinh niên mà nền không lót cây thì bị bịnh tê thấp cũng đủ chết chớ không cần bom đạn cậu ạ.

Trong hầm có nhiều lỗ thông hơi nhưng không đủ ánh sáng nên vẫn phải đốt đèn cầy. Anh nói:

– Ở mãi dưới này rồi mắt mờ và các giác quan khác đều kém nhạy.

Anh ngồi xuống giường lôi cái sắc-cốt để bên cạnh chiếc ba-lô kiểu Trung Quốc còn mới nguyên, lấy bản đồ, mở ra và nói:

– Bản đồ này tỷ lệ 1/50 ngàn do đồ bản của mình vẽ lại của Mỹ in ở Đà Lạt. Đây là tấm Củ Chi, cậu xài đỡ, khi nào, xong tấm mới, tôi sẽ gởi cho cậu.

Thấy cái ngách nhỏ tối om khoét trong vách hầm, tôi hỏi:

– Cái ngăn này anh để làm gì xin nói cho tôi kinh nghiệm với.

– Phòng khi hầm sập mình chui vào đó. Nó ăn thông ra địa đạo. Như vậy lỡ bộ binh nó ngồi trên đầu, mình vẫn có lối thoát thân. Còn một kinh nghiệm này nữa. Khi cậu xuống hầm trốn bom pháo, không nên nằm, mà chỉ nên ngồi thôi. Nằm có hai cái hại. Một là chấn động tim, hai là khi hầm sụp cậu không ngồi lên được.

Chúng tôi trở ra chỗ cũ. Anh hỏi:

– Hôm cậu lên đại hội mừng công có gặp mấy cha Ba Thành, Ba Sinh, Hai Lơn, Hai Búa, Lê đức Anh không?

– Dạ đủ mặt hết anh ạ ! Người khu 7 cũ của mình hình như đã về hết trong này.

– Họ có nhắc tới tôi không?

– Dạ…ơ ơ…

– Nhắc làm mẹ gì thằng này. Khi gian khổ có nhau. Lúc vinh quang ngoảnh mặt.

Tôi biết tánh anh ngang bướng từ thời trai trẻ, nên ngồi làm thinh. Anh tiếp:

– Hôm đám cưới tôi ở Hà Nội, tôi có mời từng người, không ai đến cả. Họ sợ trách nhiệm.

Tôi vẫn làm thinh. (Ông nội ai dám đến dự đám cưới vợ bé của ông thần?)

– Chỉ có Hai Nhơn thôi. Cậu nhớ Hai Nhơn bí thư của ban chỉ huy E300?

– Dạ quên sao được. Ảnh ra Bắc mười năm chỉ được lãnh lon thiếu úy, vì thành phần trí thức.

– Thì tao đây cũng vậy. Không trí thức nhưng là lính thủy của Pháp, nên bị trù không lên nổi, lại vụ cưới vợ ngoài Hà Nội. Tao không trách ai – Anh chuyển sang tình cảm anh em, xưng tao và gọi tôi bằng mày – Mấy chả sợ gánh trách nhiệm với tao. Tao chẳng phiền gì, chỉ buồn là anh em quên tình nghĩa cũ. Tao quyết định làm thì làm và ngửa cổ chịu một mình. Rơi một sao, tụt một cấp tao vẫn vui. Vợ tao oán trách và nói nặng tao. Tao chấp nhận. Vì đàn bà ai cũng thế. Còn tao… – Anh ngập ngừng một chút và nói như suối chảy – Nhưng nếu ngược lại ở trong này vợ tao có chồng tao không trách móc gì hết. Con người phải hơn con vật! Con người phải sống như con người. Trước kia tao đi lính thủy, hễ lêu bêu dưới nước thì thôi, hễ lên bờ là việc đầu tiên là vô bung-ga-lô tìm chất tươi. Chưa bao giờ tao thiếu nó trên ba tháng. Nếu có thiếu thì tao tự bù trừ. Còn ở ngoài Bắc mười năm thằng nhỏ vô dụng. Liên Xô nó sang Hà Nội hai tuần dẫn vợ theo. Còn mình, nó khen là thần thánh! Ai ham làm thần thánh kiểu đó chớ tao thì không! Người ta chê bai anh Ba Duẫn, anh Sáu Thọ có vợ bé, lấy vợ địa chủ nữ sinh v.v… Tao không khen nhưng cũng không chê. Thằng Napoléon là thằng mê gái số một, thậm chí khi viễn chinh nó có cả một đơn vị đi tìm gái cho nó . Đêm nó ngủ không thể không có mỹ nữ bên mình. Đến lúc bị đày ra St- Hélène vẫn còn có cô con gái 17 tuổi yêu nó cơ. Yêu nó cho đến nó chết. Nhưng nó là thằng gì? Liên Xô phải học nó và sợ nó. Cutuzov thắng nó không phải nhờ tài ba mà nhờ mùa đông quái ác của xứ Nga . Mày có ra Hà Nội ghé lại hiệu sách Ngoại Văn ở Tràng Tiền mày sẽ thấy bày bán một quyển sách tiếng Pháp bìa carton dày 807 trang bên trong in một chữ vàng N. Đó là tác phẩm của Viện Hàm Lâm Quân sự Liên Xô nghiên cứu về nó đấy. Tiếc là hồi ở Hà Nội tao không gặp mày để bảo mày đọc cuốn đó. Mày đọc được chớ?

– Dạ , chắc được !

– Bây giờ về đây tao đọc cái này – Anh thò tay móc dưới gầm bàn ném lên – Bí thư của tao đấy.

Tôi nhìn: Tam Quốc Diễn Nghĩa. Anh trở lại Napoléon:

– Nó làm thống soái hồi ba mươi hai tuổi, nhỏ hơn mày hai tuổi, nhỏ hơn tao mười tám tuổi. Khi nó đứng ra chỉ huy mấy thằng nguyên soái già thì tụi này xì xầm tỏ vẻ bất phục, nó rút gươm bảo “à mes ordres!” Nghe lệnh của tôi! Thế là tụi kia răm rắp cúi mặt nghe theo lệnh nó. Chuyện lăng nhăng của nó ngày nay vẫn được ghi lại thành sách để bên cạnh binh nghiệp của nó. Nào Joséphine, nào Beauhamais và cả chục mối tình khác, mối tình nào cũng cho thấy nó là thằng mê gái tuyệt vời, nhưng vẫn là một nhà chi huy quân sự số 1 lịch sử. Lịch sử có phê phán gì về tội mê gái của nó không? Tao xa vợ tao mười năm, đó là chưa kể những năm ở khu 7, lâu lâu mới gặp nhau một lần trong nhà dân hoặc ngoài rừng. Tao lấy vợ ở Hà Nội đàng hoàng, không giấu ai, trái lại có mời bạn bè và cho tổ chức biết một cách quang minh. Ông anh vợ tao là thượng tá cùng học pháo bên Trung Quốc hai năm tiền ăn ở chung, vẫn biết tao có vợ con trong Nam nhưng ông vẫn gã em gái cho tao. Vợ tao ở Hà Nội cũng biết tao có vợ…

Anh ngưng ngang như bị nghẹn. Tôi cười:

– Chắc anh mong một lá thư của chị?

– Vô phương có !

Anh nói bằng tiếng Pháp và vung tay lên buông rơi xuống trên đùi.

– Nếu có anh nghĩ sao?

– Hả ? hả t Mày đùa à ? Bà này sẽ bỏ tao và đem con tao về Sài gòn. Bà ta là một loại đàn bà ghê gớm. Không phải sự hung dữ mà là tình yêu. Bà ta yêu tao như một lý tưởng trong đời sống riêng tư, cho nên bà ta không tha thứ cho tao, không chấp nhận sự chia xẻ tình yêu. Tao muốn nói chuyện với bả lúc bả hồi tĩnh lại nhưng bả nhất định không nghe. Bả nói một câu như búa chém: “Nếu tôi ở lại đây, tôi sẽ có thể bị ông thuyết phục mà đồng ý với ông. Như vậy suốt những năm tháng còn lại của đời tôi sẽ chỉ là sống tạm sống nhờ.t Tôi sẽ ân hận vì đã chấp nhận tội lỗi của ông !”

Anh ngưng, mặt đờ ra, thờ thẩn.

Tôi từ từ cởi cúc áo trên móc ra một chiếc phong bì mà tôi đã sửa soạn khi nằm võng với Tám Nghi bên ngoài. Tôi rất kính phục anh từ thuở còn là thiếu nhi và vẫn còn giữ nguyên tình cảm đó. Tôi đưa cho anh và nói tên người nhờ gửi bức thư. Anh nói lạc hẳn giọng.

– Ông Phúc à? Anh… anh… ấy…

– Dạ anh ấy mới về nhận chức Phó tư lệnh U80. Khi tôi đến gặp anh ấy để nhận quyết định đi xuống đây thì ảnh giao cho tôi thư này nhờ tôi trao tận tay anh.

Anh xé thư ra xem ngay trước mặt tôi. Xem tới đâu mặt anh hững lên tới đó. Xem xong anh xếp lại đút vào phong bì cho vô túi áo và hỏi tôi.

– Tao thì đành vậy rồi, còn mày? Ở Hà Nội có gặp con Ánh Tuyết không?

– Dạ có, nhưng chỉ một đêm…

– Một đêm đủ rồi! thằng Napoléon cũng thế, nhưng không phải nó phụ tình mà ngày mai nó đã lên ngựa hành quân xứ khác. Con nhỏ nào được nó ngủ một đêm cũng đã vinh hạnh suốt đời.

Tôi nói:

– Tôi gặp Ánh Tuyết một đêm ngồi trên băng đá anh ạ. Hai đứa chỉ nói chuyện cũ ở Rừng Sát đi mò cua bắt ốc và tô bùn trên đầu cho chí chết, chớ có chuyện gì đâu mà nói vì nó sắp đi Trung Quốc học kỹ thuật gì đó còn tôi thì đã nằm trên bệ phóng rồi chẳng lẽ cách xa vạn dậm mà yêu nhau được? Tôi đã ớn một lần hai năm rồi nên không dám quyết định gì hết.

– Đúng đấy! Hai năm gì được mà hai năm.

Anh cười ha hả một cách bất ngờ:

– Nó tước mất xe của tao mày ạ !

– Xe jeep gì, anh?

– Nói chuyện hồi ở ngoài Hà Nội mà ! Hai sao hai gạt hai cái chày tiêu gác tréo thì được xe jeep có tài xế lái phom phom đi Hà Nội. Đằng này nó kê tao vụ đó, nó đánh tao rơi một sao, mất xe nhưng tao cóc cần. Tao vứt xe đạp lên tàu hỏa, ra Hà Nội chạy tới nhà vợ, rồi đèo vợ đi cinê, đi uống nước ngọt Bờ Hồ chẳng sướng hơn đi xe jeep mà xách xe không chạy nhong nhong như con chó thiến à? Đói cơm thì chịu được chớ đói tình cảm thì buồn lắm phải không chú đồng tử quân của Rừng Sát?

Anh lại hỏi:

– Rồi bây giờ mày định mối nào chưa?

– Dạ cũng còn đang chạy nhong nhong.

– Ông già vô có vui không?

– Dạ ổng buồn lắm. Vì hai thằng con trai mỗi đứa một đường.

– Làm sao được! Ai có chí hướng nấy. Mày khó chinh phục nó mà nó cũng khó chinh phục mày!

– Vậy làm sao bây giờ anh?

– Tao không biết. Về ba cái vụ lăng nhăng đó tao không có ý kiến được. Hà hà, trước khi tao xuống tàu lặn họ gắn sao lại cho tao mày ạ ! Được sao nhưng lại mất nàng tiên Hà Nội. Như mày mày bắt sao hay tiên?

Tôi cười:

– Anh bắt cái nào?

– Mày không có quyền bắt mà mày phải bắt cái người ta đưa cho mày. Chịp, nhớ hồi kháng chiến ở Đồng Hòa Long Thành vui quá, chiều chiều ra bãi cát ngó thấy Cấp St-Jacques, hay ngó qua Vàm Láng Gò Công chỉ cách có con sông Lý Nhơn… Bây giờ hổng biết bà ấy dắt hai đứa con tao đi đâu?

Tiệc xong, tôi ra ngoài cái chòi mắc võng nằm với Tám Nghi. Hắn bảo:

– Từ lúc tao hầu dưới trướng ông tới nay, tao chưa thấy ứng tiếp ai như tiếp mày, hơn nửa ngày. Bữa nay có bốn trưởng ban về xin gặp ổng, ổng bảo chờ đến mai. Thế nào, ổng bảo gì mày?

– Về chỉnh đốn H6 bắn vài cái máy bay, pháo cho thằng Đồng Dù vài quả, một quả cũng được.

– Ổng xử lý Hai Giả ra sao?

– Xưa kia nghe vụ ổng lôi thôi, rồi về R chính tao gặp bà Mặn làm loạn ở trạm 66 tao có ý chê trách ổng kém đạo đức nhưng nghe ông tâm tình, tao hết ghét ổng. Tao lại thấy thông cảm với ổng. Chiến tranh rõ thật đáng thù, ổng bảo ổng không muốn làm gì Hai Giả cả mà vì ở trên bảo rằng Hai Giả bị dư luận không tốt trong quần chúng nên ổng cho Hai Giả đi công tác nơi khác một thời gian rồi trở về chỉ huy đơn vị chiến. đấu ở quận Bến Cát hoặc Nhà Bè. Tội mẹ gì mà phải ngưng sinh hoạt đảng và rơi sao. Vậy các ông tướng ở R thì sao?

Tám Nghi nói:

– Kẹt một cái là Hai Giả có vợ con ở Hốc Môn ai cũng biết. Bả vô đây hoài hoài, bả tiếp tế lớp tiền, lớp xe Bờ Rô, lớp Radio, toàn thứ kẻng…

– Chậc ! Thì vậy không mà ! Bà Ba lớn nhăn như da ổi thì anh Ba phải tìm bà Ba nhỏ láng hơn. Còn mày? Đã có chỗ nào để bám trụ chưa?

– Con gái nhìn mặt tao là chạy tét, bám trụ gì!

– Sao không đi bệnh viện?

– Đi đến đó nằm, thì thà ở nhà còn khỏe hơn. Cái bệnh viện của ông Tư Chuyền ở trên Hố Bò chớ đâu. Tao đã đến xem qua rồi. Nó chỉ thiếu dùng cưa mập để cưa chân tay thương binh thôi.

Tôi định lấy đồ trong sắc-cốt tặng cho Tám Nghi, nhưng hắn bảo hắn chỉ thích cái đèn pin USA có cái đầu bẻ cụp được (gọi tắt là đèn quắu) để rọi đi ra đi vào hầm. Tôi chụp vào hông bảo:

– Đây tặng cho mày !

Nhưng không thấy nữa. Tôi sực nhớ ra lúc nhậu tôi đã mở ống dòm sắc-cốt và dây nịt đưa cho bảo vệ . Tôi ngồi dậy định đi vào nhưng Tám Nghi bảo để y lấy cho. Tôi bảo:

– Để tao vào gặp ông có chút chuyện riêng, lúc nãy tao quên nói.

Tôi đi vào hầm. Nhờ quen lối cũ nên tìm đến mâm tiệc lúc nãy dễ dàng, nhưng không thấy đồ đạc ở đó, tôi bèn quay lại phòng của Tám Nghi và mấy chú bảo vệ . Vẫn không thấy ai. Tôi đi theo lối đến phòng bản đồ. Tôi sắp bước vào thì nghe tiếng thì thào và tiếng rên ư ử. Bất giác tôi đứng nép một bên đưa mắt nhìn vào.

Tôi bật ngửa. Dưới ánh đèn xanh lờ mờ một thân hình tiên nữ nằm phơi lồ lộ trên chiếc giường đôi. Ánh sáng làm cho nó hư ảo như một vệt mây trắng tinh với một đám mây đen lung linh. Còn ông tiên thì ngồi bên cạnh cầm quạt phe phẩy, chốc chốc lại nghiêng môi xuống hớp mây, cái đầu to của ông ta gục xuống rất lâu mới ngóc lên. Ông ta hỏi.

– Mát không cưng mát không?

Tôi sợ bị bắt gặp, định quay trở ra thì một bàn tay lôi khẽ tôi. Tôi vọt ra ngoài rất nhanh như một tên trộm sợ chủ nhà rượt bắt. Tám Nghi thầm thì.

– Tới giờ ổng lên giàn hỏa. Tao biết thế nào thịt thỏ xong cũng có cái trò múa đôi đi liền. Tao muốn bảo mày nhưng mày nói có chuyện riêng tao để cho mày đi.

Tám Nghi rỉ tai tôi:

– Con nuôi ổng đó !

Tôi cười chữa ngượng và chối phắt.

– Tao có thấy gì đâu mà nuôi với dưỡng!

– Thấy hay không thì cũng vậy đó. Mấy cậu bảo vệ và tao biết ý nên tối tối là chui vô ngách nằm im rơ, có tiếng chuông mới trình diện. Con nhà ai vô đây thì kể như dưng cơm cho lục đi. Hễ tanh cơm tanh cá thì ổng cho qua Bưng Còng nạo.

Tiếng nạo của Tám Nghi làm cho xương sống tôi nghe như có miếng B52 bay phớt qua.

(Sau đó tôi về H6 là Trưởng ban Pháo binh Quân khu, tôi có dịp ra vào cái.hầm “Đờ-cát-tiêu” này luôn. Mỗi lần đến tôi mua quà tặng các cô các cậu báo vệvà nhậu nhệt với Tám Nghi. Do đó tôi được họ coi như người nhà. Lắm khi làm việc xong tôi vô bếp lục cơm nguội ăn hoặc được mấy cô cấp dưỡng xẻ phần của ông xếp lớn cho tôi. Đầu năm 66 tôi ra chỉ huy tiểu đoàn bộ binh, toàn cơ quan Quân khu không ở nổi Củ Chi nữa nên vọt qua xây căn cứ ở Đường Long tức bên kia sông Sài gòn. Tôi vượt sông qua đó gặp ông Thần Núi để thông qua kê hoạch phòng ngự của Củ Chi. Lúc bấy giờ nhân viên và phòng chẳng còn người nào quen cả. Hỏi thăm thì họ bảo “Tám Nghi về R an dưỡng, cô Hiền đi học y tá. ” Nhưng mà tháng sau tôi gặp ông Chín Nửa, dượng tôi, người cho tôi cái radio Sony sau bữa tiệc nhậu tép mỡ ở cái chuồng trâu. Dượng cho hay Tám Nghi và cô Hiền đã bị Mỹ khui hầm bắt ở Bến Súc nay đang ngồi trong tù. Vậy cũng may, tôi nghĩ Tám Nghi tên lính Lê dương vẫn còn có cơ may: sống sót. Còn đối với cô Hiền thì đời tù tội có cực khổ nhưng không nhục bằng làm con nuôi.)

Nhưng màn con nuôi vẫn còn dài dài trong hầm Đờ-Cát ở Củ Chi và R.

Đời thằng thượng úy kiêm xạ thủ quốc tế về đây để được làm một trung tá sai vặt và ngồi tù Mỹ.

Trong kháng chiến chống Pháp cũng từng có một vụ thất tình của một anh cán bộ đã dẫn tới một hành động chính trị Một anh chàng học sinh Sài gòn dắt một cô bạn ra bưng để xây tổ uyên ương trong khói lửa. Ra khu được ít lâu, một tên cán bộ trung ương giỏi mép Mác xít đã cuỗm được cô nàng. Chàng kia uất ức trở lại thành kêu quân đội Pháp đến oanh tạc và đổ bộ đánh tan một hệ thống cơ quan ở vùng Bạc Liêu. Những người có trách nhiệm tìm cách che giấu rất kỹ nhưng sau cuộc tấn công bất thần đó, truyền đơn rải khắp nơi. Mỗi tờ giấy trắng đều in rõ hình anh chàng hận tình, tên tuổi và câu chuyện bị cuỗm người yêu cùng với danh tánh của những kẻ trong chuyện.

Sau đó lại xảy ra một chuyện khác ở vùng Cần Thơ. Tên tư lệnh mắt mèo Võ Quang Anh hốt vợ chưa cưới của sinh viên trường Quân chính Quang Trung. Cậu sinh viên này phẫn chí bỏ về thành đi học trường sĩ quan quân đội Sài gòn, lúc đình chiến lên đến trung tá. Trước khi về thành cậu ta nhắn với bạn thân: “Mày nói thằng này địt mẹ cách mạng dùm tao nghe!” Thằng bạn thân đó chính là tôi.

Có lẽ nào giờ đây tôi là kẻ cuỗm vợ chưa cưới của ai? Tôi không bao giờ làm chuyện đó. Ngược lại chính một tên tư lệnh mắt mèo khác đã cuỗm người yêu của tôi. Nhưng tôi không nói gì cũng không thèm phản ứng. Vì tôi biết nàng ta không yêu hắn mà bị bà mẹ nàng dồn ép, dâng nàng cho hắn để hắn không đến ve vãn bà ta nữa. Sự ve vãn này có thể đưa đến sự thất tiết của bà . Lẽ thứ hai tôi luôn luôn nghĩ con gái như mảnh lụa đào phất phơ giữa chợ, cũng như chim trời cá nước ai bắt được nấy ăn. Ta tìm cái khác. Thiếu chi mà ta phải ghen tương giành giật với nhau? Xoàng!

Với triết lý đó tôi không bao giờ đau khổ vì tình. Không có người con gái nào làm tôi đau khổ, và tôi cũng không muốn ai đau khổ vì tôi. Tôi muốn họ coi tôi như một thứ chim trời, cá nước, một con bướm khi vui nó đậu khi buồn nó bay. Tôi chỉ sợ Ua quẩn trí thì khốn.

Cô nàng chỉ vọt ra Củ Chi trong vòng ba tiếng đồng hồ là cả vùng này nát như tương. Thoắt nghĩ như vậy tôi muốn vọt theo nàng nhưng nàng đã ra đến đường lớn. Chiếc xe phóng nhanh. Cô Hiền ra đến cái ngõ lan cỏ hoang rắp hờ bằng một nhánh chà tre để ngăn biệt kích chớ gì? Rõ một trò đùa. Ở trên R có một cơ quan cũng làm như cảnh giác cao, bắt nhân viên đốn nứa rào một châu vi rất rộng. Chẳng ngờ đó là một cách phô trương. Chẳng bao lâu biệt kích đột nhập, phối hợp với trực thăng đổ chụp giết sạch nhân viên.

Cô Hiền kẻo nhánh chà tre qua một bên lấy lối cho tôi vào rồi rắp lại ngay. Tôi vừa bước ít bước thì từ một cái chòi lá lụp xụp núp dưới một gốc bưởi bước ra một người: .

– Ê! bồ nhà !

Tôi nhìn ra ngay: Tám Nghi! Nhưng một Tám Nghi xơ xác hãi hùng. Hắn là thượng úy đoàn viên của một đoàn sĩ quan do tôi làm phó đoàn vượt Trường Sơn. Tám Nghi nói.

– Ổng được điện bá o của H2 mày đã rời trên đó hồi sáng. Tao cho người rình nãy giờ ! Thôi đi vô, đi vô ! Ổng đang chờ mày như trông nước uống.

– Gì mà dữ vậy?

– Mày thuộc về thứ dữ rồi chớ còn gì nữa?

– Ăn ở gì mà kín cổng cao tường vậy? Còn hơn mấy ông trời con giao liên trên Trường Sơn trốn khách!

– Phải vậy mới sống ! – Tám Nghi quay lại Hiền lót tót theo sau bảo – Em đi vào đem trà kẹo và thuốc lá ra đây để anh bạn anh giải lao chút rồi vô yết kiến bệ hạ !

Tám Nghi đẩy tôi vào chòi. Trong đó có một chiếc võng mắc sẵn. Hắn bảo tôi giăng võng nghỉ ngơi chờ lệnh. Tôi nghĩ: lại một thứ triều đình con con so với trên R. Mỗi một ông lớn hùng cứ một vùng tha hồ đặt ra điều lệ riêng cho mình. Tôi hất hàm hỏi tám Nghi:

– Cô em nào coi khớ vậy?

– Thì cũng con nuôi của các ông thôi, hỏi làm gì?

– Mày không nuôi đứa nào à?

– Tao lấy gì mà nuôi?

Phong trào con nuôi em nuôi coi bộ lây khắp nơi!

– Biết vậy hay vậy, chớ có nói ra mà mất chỗ đội nón!

– Con gái bây giờ mà lọt vô cơ quan của mấy ông là in như phi tần của hoàng thượng vậy.

Tám Nghi móc thuốc Capstan ra mời. Hai đứa nằm võng lắc lư coi trời bằng hột vịt qua làm khói mờ. Tám Nghi hỏi:

– Tao nghe đồn mày sắp làm phò mã đâu ở trển?

-Đếch gì!

– Ở trển có phải yên thân không?

– Mày không hay vụ dưa hấu rụng kỳ rồi à?

– Có chớ sao không. Mày tưởng dưới này không có thứ đó sao mà vác càng tôm xuống đây?

– Dưới này còn lượm mạnh hơn trên đó hả ?

– Dưới này còn bận Ba xây, ba chống, ba khoan nên để trên R lượm trước.

Hai đứa cười rù với nhau thoải mái. Phải có Tư Linh là đủ bộ ba ông Táo tha hồ mà phun mây nhả khói. Nguyễn Trường Nghi không biết ở tỉnh nào. Tôi không hề hỏi quê quán hắn mà hắn cũng không hỏi gốc gác tôi. Tôi biết hắn là tay xạ thủ súng ngấn của trường Lục Quân Sơn Tây. Trên đường về Nghi bệnh nằm lại trạm Tl4. Mới có hai năm mà anh ta trông hom hem quá đổi.

Hắn đoạt hạng tư trong toàn thể các tay súng ngắn Liên Xô và Đông Âu. Trên đường Trường Sơn, Nghi là tay bắn khỉ đại thần sầu còn tài hơn Dương bá Dương nữa đấy, không phát nào sẩy mà toàn ngay đầu. Khỉ mà bắn trúng mình thì kể như ăn máu… nó thôi. Tám Nghi buông một câu bất ngờ. .

– Thằng Trần Chánh Lý nằm lại ngoài đó muôn năm! . ..

– Không biết Bảy Phương có sửa sang gì lại cái mộ nó hay không?

– Vào trong này đụng tăng Mỹ mới nhớ đến nó . Thượng úy chống tăng lại nằm ở chỗ không có tăng!

Hai đứa thở dài với nhau sườn sượt. Tám Nghi chợt thấy chiếc nhẩn trên tay tôi, hỏi:

– Bộ mày có dính với cô nào rồi sao?

– Cô nào?

– Không biết con Thu Hà . . .

Tám Nghi bỏ lửng không nói thêm, cơ chừng sợ đụng chạm tới cô nào. Tôi nói:

– Tao vẫn lang bang như xưa !

– Ai biết đâu. Tao nghe nói mày bị đeo dữ lắm. Nào thành phần cơ bản, nào tiểu tư sản!

– Cũng có nhưng không dính với ai.

Tám Nghi uống trà và đốt thuốc hết điếu này mồi điếu khác Hắn ngó mông lung trên nóc lều một hồi lâu và nói:

– Mày biết vụ bà chằn trên R không?

– Bà chằn nào?

Tám Nghi ngó quanh như cảnh giác điều gì và nói:

– Bà chằn Rừng Sát xuống tới đây này.

Tôi giựt mình:

– Hồi nào vậy cha nội?

Tám Nghi nghiêng qua gần tôi và thầm thì.

– Cũng mới đây thôi! Mày đừng có học đi đồ lại nghe chưa ? Đứt đầu đó ! Mẹ! Tao không hiểu ngày xui tháng rủi gì mà tao lại gặp một chuyện như vậy .

Nghe Tám Nghi nói vòng vo, tôi cũng đoán ra rồi, nhưng để y bật mí thử xem. Thì đúng y như rằng:

– Không hiểu bằng cách nào mà bả mò trúng ngay chóc hầm ông Đờ Cát.

– Rồi cái tuồng đó diễn ra như sao?

– Thì đại khái là quăng cái hồ lô của bà lên hô giáng. Ổng cũng quăng cây gươm phép của ông lên hô giáng đáp lại. Bả chỉ tay một cái và hô thâu. Cây gươm chạy tọt vào hồ lô. Thói đời là vậy, cây gươm bao giờ cũng không thắng nổi cái hồ lô… Nè tao dặn kỹ nghe, chớ có nói ra nói vào. Gặp con nhà báo Nhỡ Nôm nó chụp được nó phết ra thì mệt cho ổng lắm! Hôm trước đóng ở trên kia cà, sau màn hỗn chiến đó sợ hôi ổ ổng rút xuống đây.

– Còn bả ?

– Bả là khu ủy viên mà mậy! Mấy bà Hai Xót, Năm Đang mọp dưới trướng bả nghe lệnh bả truyền nào dám chống lại. Các cơ quan của khu đóng trên đất Củ Chi này đều phải liên hệ với hai bà đó. Bả hỏi một tiếng là hai bà đó khai ngay. Ổng bây giờ sợ bả còn hơn sợ xe tăng Mỹ.

– Mày nói cà rởn hoài tao không hiểu gì hết, đâu nói rõ ra nghe coi. Tao hứa sống để bụng chết mang theo mà ! Tao thề độc – Tôi đưa tay ra – ngoéo tay nè.

Tám Nghi tiếp:

– Bả la ó dữ quá !

– Làm sao bả vô tận nồi gọ được vậy?

– Bả đứng bên ngoài bả la om lên. Bảo vệ ra đuổi bả. Bả rút K54 ra lên đạn rong róc và xưng tên. Ông thần mình sợ vỡ lỡ ra nên kêu bảo vệ đẩy bả xuống hầm để ém luôn. Bả dữ thiệt mày ạ. Tao không ngờ bả dám nói những tiếng quá ư nặng nề .

– Nói gì? Bả xổ nho à?

– Chậc! Không đâu! Bả là cán bộ đảng cao cấp hơn bà Ba Phó Tư lệnh R mà. Bả đâu có xài nho! Bả nói về bốn chữ Cần Kiệm Liêm Chính kia chớ !

– Bả hoan hô chữ nào nhất?

– Chữ nào bả cũng đem ra hô giáng ông thần cả ! Cuối cùng bả hạ một câu bất hủ : “Cụ Hồ còn đó sao củ không dạy cháu củ?”

(Tội nghiệp bà khu ủy viên! Bà tưởng cụ Hồ là người đạo đức! Đứt họng thì có! Toàn dân Nam kỳ đã nhầm lão già tàn ác này. Chính lão đã bỏ thuốc độc giết chết Dương Bạch Mai tại cuộc họp khoáng đại của Quốc Hội tại Ba Đình năm 1960. Ai cũng biết mà không dám hó hé!)

Tám Nghi tiếp:

– Lúc bấy giờ tao đang làm báo cáo ở trong một cái ngách hầm ngay bên cạnh hầm chính của ổng. Muốn tránh để cho hai bên tha hồ oánh phép, tao bèn chui tọt lên và chạy đi. Nhưng tai vẫn còn nghe văng. vang những câu rất ác…

– Rồi ông phản ứng làm sao?

– Ổng xuống nước nhỏ, rất nhỏ ! Nhỏ tối đa, tao chưa bao giờ có thể tưởng tượng đến thế.

– Rồi bả làm sao?

– Bả thì đi nước lớn, lớn thật lớn. Lớn như chưa bao giờ có thể tưởng tượng đến thế! Thôi, đại khái vậy đó, mày đừng có phổng rấn tao nữa, khổ thân tao lắm.

Tôi không hỏi hắn nữa nhưng suy nghĩ, hoang mang. Tôi chưa bao giờ thấy một lãnh tụ hoặc một cán bộ cao cấp đàng hoàng. Phải chăng thượng bất chánh hạ tất loạn. Ông trưởng phòng như thế thì còn dạy dỗ các trường ban và nhân viên làm sao? Tôi đi từ miền Đông qua miền Trung xuống miền Tây Nam Bộ trong thời kháng chiến. Đi tới đâu cũng nghe những chuyện lăng nhăng của mấy ông lớn. Ở miền Đông thì có ông Tô Ký, miền Trung có Trần văn Trà, miền Tây có Nguyễn văn Trấn và Võ quang Anh. Toàn những ông tư lệnh tư lọt không thôi. Lính lãi có quyền hành đâu mà giật vợ người. Người nắm quyền trong tay phải luôn luôn được kiểm soát chặt chẽ, nếu không sẽ gian dâm, hà lạm.

Tôi nhớ đám cưới Tô Ký, một thứ xa xí cực kỳ quái gở. Đèn măng sông đốt cả mấy chục cái trong rừng cao su, không nói làm chi. Rượu Tây uống không hết đem đổ trên đầu nhau chơi. Còn đám cưới của Năm Lê (tức là Sơn Tiêu) lính lấy thịt heo quay ném nhau như đất cục. Thế nhưng bây giờ Năm Lê lại phụ tình và bị vợ hạ nhục. Ắt hẳn bây giờ chị Hai Mặn ăn năn vì đã đá ông Trung đội trưởng Chọn kia để lấy ông Tiểu đoàn trướng Sơn Tiêu này. Tôi nói với Tám Nghi:

– Tao gặp bả trên trạm 66 R mày ạ ! Bả định đột nhập vào triều đình để hỏi tội đức lang quân nhưng lính gác kỹ quá bả không vào được.

– Mà có vào được cũng chẳng làm gì. Vì ổng đâu có ghé R. Ổng đi tàu lặn về Bến Tre rồi lội về đây nhận chức Phó phòng tham mưu luôn.

– Tha… m mu hả?

– Tha gì thì tha nhưng ổng bây giờ kẹt cò dữ lắm. Ổng không vô được đảng ủy thì có ngày rơi mão. Tao về đây hai năm rồi ngày nào cũng nghe ông chưởi bới gắt gỏng. Cả với ông Hai Phụng thượng tá Tư lệnh phó kiêm Trưởng phòng Tham mưu mà ông cũng tạt ngang, không ngán.

– Tại ổng không tha được cái mu con mẹ đan len ở Phố Hàng Đào vô đây nên ông khủng hoảng chớ gì. Còn ông tạt ông Phụng là vì ông này dốt không có thành tích bằng ổng, chứ đối với ông Ba Xu ổng đâu có dám lấn lướt. Ông ấy là Tư lệnh lại thành phần dân cạo mủ, vô sản trăm phần trăm, còn ổng thành phần lính thủy Tây. Ổng cũng biết tùy mặt mà lên chân! Thôi bỏ chuyện đó đi, mày rước bà xã vô chưa?

– Tao cũng ôm cây cà-nông-xăng-rờ. .. cum đây mà chịu trận chớ xã ớt gì đâu! Trên Trường Sơn thì bị sốt rét, xuống đồng bằng cái nọc muỗi đòn xốc cũng còn đây chớ nào đã dứt. Tối ngày cứ ru rú trong hầm chờ coi ổng có kêu tới la hét gì không. Làm chánh văn phòng mà y như thằng cần vụ.

– Sao có cái việc lẩm cẩm trong chức trách vậy?

-Ở đây toàn như vậy cả, không phải chỉ ở đây và mà mình tao. Mấy ổng bỏ hết điều lịnh nội vụ, điều lịnh kỷ luật của quân đội rồi. Mỗi ông là một cái đầu gà, muốn gáy kiểu nào cứ gáy. Tao chỉ huy cả một trung đội liên lạc, cần vụ. Tối ngày chuyên nấu cơm và móc hầm cho ông lủi. Kia kìa mày nhìn cái mái nhà lụp xụp đó ! Trên mặt đất trông không ra gì cả nhưng dưới hầm thì đủ hết: ván gõ, bàn ghế y như ở trên. Ổng không bao giờ bước ra khỏi hầm, trừ khi tiểu tiện. Tao chỉ thiếu việc bưng bô cho ổng nữa thôi. Ổng vừa ra lịnh cho tao bắt lũ con nít khoét đường cho ổng đi dạo quanh nhà này. Lạ thật! Ổng là trung đoàn trưởng pháo binh mà lại sợ pháo hơn tụi thường.

– Chính vì con nhà pháo hiểu tánh cách lợi hại của pháo nên sợ pháo hơn người thường.

– Ờ, mày nói đúng. Thằng Ba Xây, xã đội phó, chủ có nhà này, nó cho vợ con ra ấp chiến lược hết rồi ở lại đây tử thủ. Hàng ngày nó đi đặt lờ đặt lọp bắt cá tôm bán, có biết sợ sệt gì.

– Tao biết ổng hồi còn trẻ cũng gan lắm đâu có thỏ đế dữ vậy. Có lẽ về già lưng mật. . ..

– Mấy lúc ngớt pháo ổng kêu tao tới nói chuyện chơi. Biết chuyện gì mà nói? Bố ai dám pha trò với ổng.

– Hồi chín năm ổng vui nhộn và thể thao lắm! Trung đoàn 300 có đánh lấy được chiếc tàu Tây… tụi này chiều chiều thường chạy trên sông Vàm Sát la ó cho hả hơi. Ổng chạy đua, bơi lội đều giỏi hết.

– Bộ tướng ổng coi bộ cái gì cũng giỏi. Giò dài, tay dài mặt cũng dài… Từ hôm B52 cắt một đường vén ót tao coi bộ cái mặt của ông càng dài hơn ra, khó nhìn quá hè . Để chừng gặp ổng mày sẽ thấy tao nói có đúng không? Tối ngày ăn rồi cứ rút trong hầm, nếu độn thổ được chắc ông cũng độn thổ tới đất cái luôn.

– Bộ B52 có viếng khúc lòng ống này à?

– Có chớ. Nó rạch một lằn từ Hố Bò xuống An Nhơn bề ngang chừng hai cây số. Có lẽ đây là loạt mồ côi và đầu mút cho nên độ bom không đông đặc lắm. Chừng hai trăm thước mới có một hố bom. Ấy là tao chỉ đoán mò thôi chớ làm sao biết được. Nhưng nếu nó chệch về phía trong một chút thì tụi này chắc hốt xương rồi. Chừng mày về H6 sẽ đi ngang cái nhát dao vén ót đó.

– Chắc gần Đồng Dù, tụi nó sợ xuống cựa nên làm nhẹ tay chớ gì ?

– Đây chỉ cách Đồng Dù chừng sáu cây số!

– Xa thì sợ B52, gần sợ tăng, pháo, biệt kích, mày muốn cái nào?

– Muốn cái nào à? Còn mày chạy vuột B52 trên R về đây bắt cái nào?

Tôi cười:

– Mày bắt cái nào tao bắt cái đó !

Tám Nghi ngưng một chút rồi hỏi:

– Mày về đây có kế hoạch đánh đá gì chưa?

– Đánh bằng cùi chõ hay bằng gì?

– Pháo phiếc tụi H6 chôn sống hết, mày về quật mồ lên mà xài.

– Tao không có một món khí tài nào trong tay, ngoài bộ thước xạ kích tổng hợp trong ba lô và cặp ống nhòm này.

– Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng ! Nói vậy sao được tía nó .

– Vùng thì vùng, còn lên hay không chưa biết.

– Tao thì muốn vùng mà nó không lên. Nó cứ nằm ỳ. Hề hề… mà thà nó nằm êm còn dễ chịu, chứ nó vùng lên thì mắc công kiểm thảo như thằng Hai Giả.

– Tao nghe đồn mà không rõ vụ đó ra sao?

– Thì có cái đách gì! Sướng con cu thì mù con mắt. Nó có vợ ngoài Hốc Môn, tháng nào cũng vô cho nó nộp tô, nhưng vì nó thích vùng lên nên ở trong này chịu không nổi lại thím xực thêm một bà . Vậy chớ có gì. Nghĩa là đúng y cái công thức con vòng con cỡi của mùa thu ta.

– Có vậy thôi?

– Vậy thôi đã hạ từng công tác, ngưng sinh hoạt đảng. Nếu hơn thì tới chuyện gì nữa?

– Trong khi vợ bé bố Duẫn ở villa còn bố thì làm Tổng bí thư với số phiếu trăm phần trăm.

– Chíp! Chuyện đời muôn năm nó là vậy. Nói đạo đức dễ hơn giữ đạo đức.

Bỗng có bấng kẻng khua leng keng trong nhà . Tám Nghi nhổm dậy, bảo:

– Sửa soạn triều phục, đi vô chầu cha nội. Bệ hạ gọi đó.

– Ê hồi nảy cô bé nào coi mướt vậy ta?

– Mày cũng muốn vùng lên hả? Con gái nuôi của ổng đó, nó là người thận cận với ổng hơn cả tao. Nó ra vào chầu chực mình rồng tự do còn tao có lô phôn gọi mới được tới.

– Ở đây có lô phôn cơ à ?

– Cái kẻng đó, không nghe sao? Đánh với Mỹ mà xài lô phôn cỡ đó, mày thấy bình minh lên khắp nơi rồi chứ?

– Tao đi đâu cũng thấy con nuôi. Ông Ba Thắng trên R, ông Tám Quang và ông Thần Núi ở đây.

– Con nuôi có hiếu hơn con đẻ . Con nuôi bố biểu cái gì cũng được mày có hiểu không?

Chúng tôi sánh vai đi đạp lên đầu những đám cỏ mịt mùng ít dấu chân. Người ta muốn để nguyên màu hoang dại. Tám Nghi bảo:

– Có đại yến đãi mày đấy!

– Yến gì?

-Tao chưa hề thấy ổng săn đón ai như đối với mày. Bọn hậu cần, liên lạc, cả tao nữa, được lệnh ổng chạy đi mua rượu tây la ve và một mớ thỏ để nấu sốt vang theo kiểu Hà Nội . Riêng tụi tiếp phẩm phải chạy mua cho kỳ được nước đá !

Tôi bật cười:

– Bỏ mẹ rồi!

– Gì?

– Mới đút đầu vô chiến đấu mà ổng cho ăn thịt thỏ là điềm chẳng lành. Vậy thì tao sẽ nhát như thỏ đế và chạy nhanh như thỏ rừng mà thôi!

Tới thềm nhà, Tám Nghi níu tôi dừng lại và nói nhỏ:

– Mày đứng ở đây, tao vô ngách bảo thằng cần vụ.

Một chốc Tám Nghi chạy ra, đẫy tôi đi trước, hắn rón rén theo sau. Tới hầm hắn bảo:

– Rồi, vào đi! Cởi dép ra !

Tôi làm theo lệnh rồi bước xuống bậc thứ nhất. Sao mà lạnh thế ! Tôi đã từng vào nhiều hầm nhưng chưa hầm nào giống âm phủ như hầm này. Đúng là hầm Đờ Cát. Tôi có cảm tưởng tôi là chú chuột nhắt đang chui vào lòng một quả núi đất. Quả núi mà sụp là chuột bẹp dí. Phải dùng ít nhất năm trăm nhân công mới đắp nổi cái hầm này. Lòng hầm rộng rải nhưng tôi lại thấy nó ngột ngạt khó chịu vì cái không khí ẩm ướt nặng nề và ánh sáng lờ mờ của một ngọn đèn cầy cắm ở một chỗ lõm của tường đất.

Tám Nghi bảo tôi ngồi ở một cái ngách có bàn ghế hẳn hoi. Đây là nơi cán bộ các ban ngồi chờ trước khi làm việc với ổng. Tôi đang đảo mắt ngó quanh thì cận vệ trở ra. Cậu ta bước lại rỉ tai Tám Nghi. Tám Nghi nắm vai tôi, bảo:

– Ổng kêu vào !

Rồi hắn đi trước tôi theo sau. Tôi nghĩ thầm ông thần này rành chiến tranh lắm. So với cái hầm của Tám Quang thì nó khoa học hơn gấp bội. Bỗng Tám Nghi quẹo qua trái. Hầm kiến trúc theo hình chữ L. Nếu đạn có nổ ngay miệng hầm miễng cũng không văng vào được. Một ngọn đèn cầy khác hắt ra một thứ ánh sáng nhà mồ. Tám Nghi quay lại bảo:

– Coi chừng sụp.

Tôi bước xuống luôn một mạch bốn bậc đất xén rất sắcnhư lót gạch. Ai xuống cái hầm này dù không đội bom đạn cũng có thể hiểu được cường độ chiến tranh ở đây. Tám Nghi đưa tôi đến một cái ngách đào sâu vào vách hầm, rộng bằng phân nửa toàn bộ hầm của Tám Quang. Tám Nghi trỏ vào bàn ghế, các cây trụ rất chắc và bảo:

– Đây là hang của tao và mấy cậu bảo vệ. Bàn để ăn cơm và làm việc. Trụ để mắc võng hai tầng.

Tám Nghi lại bảo tôi ngồi chờ rồi cười khoe cặp môi chì khô răn rúm:

– Mày coi tao kiến trúc hầm kiểu này đúng với hầm chống nguyên tử mình học ngoài Bắc không?

Đối diện với cái ngách này là một cái ngách nhỏ, trong đó một cậu bé đang ngồi trên một cái thùng gỗ thông đựng đạn DKZ. Tám Nghi bảo:

– Viết thư viết từ cái gì . Không có được gởi lén đó nghe. Bữa nào tao cho về Sa Nhỏ mà thăm nó. Bộ gần ngày cưới rồi nôn hả? Tao đây với ông thầy pháo này già khú rồi mà có được như mày đâu !

Thằng bé ngóc lên nhìn rồi nói:

– Chú già chớ thầy pháo có già đâu!

– Đi lại bếp bảo mấy đứa nhỏ lột da thỏ chuẩn bị xào nấu đi, khách tới rồi. Đứa nào coi lại nước đá rộng mạc cưa và trấu có kỷ không, để đến lúc dùng mà chảy hết, ổng cạo đầu tụi bây nghe!

Tám Nghi quay lại bảo tôi bỏ ba lô và các thứ lỉnh kỉnh ra để trên bàn ăn cơm, đứng chờ còn y thì đi tới rồi rẽ ngang về phía trái. Như vậy hầm có hình chữ Z. Tôi tranh thủ gạ chuyện cậu bé :

– Bộ nhà cậu ở Sa Nhỏ à?

-Dạ.

– Sao vô đây?

– Dạ, ban đầu em tòng quân ở Q Hai Chòi, học xong khoa tân binh, em đưa nguyện vọng ra đơn vị chiến đấu, nhưng họ đưa về đây.

– Chừng nào đám cưới?

– Dạ em hẹn với cô ta là giải phóng xong về cưới, nhưng xem mòi không mau, nên em muốn xin phép về làm đám cưới rồi trở vô nhưng chú Tám bảo khoan đã , tình hình này không có ai dám tập trung ăn đám cưới mà làm, nên em gởi thơ về bảo ở nhà nán lại một thời gian nữa. .

(Thì cũng kiểu hai năm thống nhất cậu ơi! Đừng có bao giờ tin lời hứa của cách mạng!)

Tôi bắt qua chuyện hầm hố:

– Hầm này đào sâu ngủ thoái mái quá ?

– Trời ơi mấy cháu đào hộc máu đó chú. Cả trung đội làm liên miên một tháng trời mới xong.

– Đà ngang bằng cây cao su hả?

– Dạ, đây là cột nhà giàu bỏ đi mình lấy đại về làm. Rừng chồi cây non đâu đủ sức chịu cái nóc hầm này. Tụi cháu lvừa trồng khoai mì và mắc cỡ trên nóc. Hồi trước có cái nóc lá nhưng bị B52 quạt bay mất.

– B52 ở ngoài xa mà.

– Nhưng mà hơi nó mạnh lắm, nó đi như sấm vậy. Nếu người đứng trên mặt đất không bị đạn thì cũng văng.

Tôi trỏ mấy đóm ánh sáng loang trên vách hầm, hỏi:

– Lỗ thông hơi khoét hay có ống tre?

– Dạ đặt ống tre đàng hoàng, còn khoét thì ít lâu đất lỡ bít hết.

– Có lót ni-lông trên đà ngang trước khi đổ đất lên không?

– Dạ có, chúng em còn đươn vỉ tre trải đè lên để đất lkhỏi rơi xuống nữa .

– Vậy là tốt! Ở đây đất cao nên lòng hầm đào rất sâu, trong Gót Chàng đất thấp, xuống một thước là đụng nước.

Tám Nghi trở ra. Tôi hỏi ngay:

– Cái hầm có ăn thông ra địa không?

– Có chớ ! Ba Xây có được một khúc đào trước kia. Nó vừa lỡ, tụi tao phải sửa sang lại để xài. Y tặng cho tụi này luôn. Y bảo: “Mấy ổng có chun thì chun, còn tôi thì dông thôi, chun xuống dưới rủi tụi nó moi được miệng hầm nó móc lên như móc cua, tôi hổng chơi.”

– Địa được bao dai?

– Trăm rưỡi thước.

– Mày có xuống thử chưa?

– Có chớ !

– Bao lâu?

– Chừng hơn nửa tiếng. Tao thấy tốt lắm.

– Hơn nửa tiếng thì tốt, chớ chừng ba tiếng trở lên phải coi chừng. Tao đã từng đào và từng xuống địa. Đây là vấn đề khoa học không phải vấn đề lập trường. Thiếu dưỡng khí thì dù có thừa lập trường cũng không kham! Mày phải đặt vấn đề nếu nó chốt trên đầu thì phải làm sao?

– Mày bảo tao phải làm sao?

– Người ta cứ tướng xuống địa như đi xuống nhà nghỉ mát, nằm ngủ khỏe re chờ giặc nó rút thì trồi lên bắn tỉa xuyên hông hay vét đuôi nó dễ như ăn ớt vậy. Sự thực không phải đâu. Một cái đánh dấm ở dưới đó có giá trị bằng một trái bom nguyên tử trên mặt đất vậy. Còn rủi mấy cô công chúa kia có kỳ thì cả hầm sẽ chết ngộp. Rồi khát nước, rồi tiểu tiện, rồi ăn uống. Bất cứ cái gì cũng kỳ cục khác thường hết cả. Đừng tưởng đơn giản mà chết.

– Sao mày rành vậy?

– Thì tao đã xuống rồi chớ sao. Cái thằng nhà báo Bọ Chét tới đây hồi năm ngoái đòi quay phim lòng địa đạo nhưng nếu nó quay được thì tai hại biết bao nhiêu. Cứ để cho nhân dân thế giới thưởng thức cái địa trên đài Giải phóng và đài Hà Nội thì tốt nhất?

Bỗng nghe tiếng lục lạc ngựa leng leng. Tám Nghi ngắt nhẹ hông tôi và thì thào:

– Ổng kêu vô !

Tám Nghi dẫn tôi đến miệng ngách rồi đùn tôi vào.

Một người cao ốm, mặt dài, cằm dài ,trán thấp mà ngang chàng, mắt lươn ti hí, nhe răng cười mà không ra tiếng chỉ lphát ra tiếng hừ hừ như sư tử vờn mồi, đi tới đưa tay cho tôi. Tôi bắt lấy và nói:

– Anh Tiêu, anh mạnh hả ?

– Cậu làm gì ở dưới với mấy thằng Bắc kỳ lâu vậy? Có lmóc được gia đình không?

– Dạ tôi nằm chờ. ông già vô cho tiền rồi về.

– Còn vụ thằng em?

– Dạ chưa kết quả .

– Mấy thằng đó làm ăn bá láp. Gặp đâu xâu đó . Cán bộ chiến đấu không phải dính vào những cái chuyện địch vận lăng nhăng như vậy. Con người ta ai cũng chỉ có một bộ óc, là hễ làm tham mưu thì không chính trị, hễ làm chính trị thì đừng làm tham mưu. Cái thằng chính trị nó nhìn cậu nó thấy như một cục mồi nhử cá, còn thằng tham mưu nhìn cậu như một cái búa đập kẻ thù, cậu hiểu chưa? – Anh vừa nói vừa móc gói Capstan ra đưa cho tôi – Theo tôi trong nghệ thuật chỉ huy không nên có hai bộ phận chính trị. và tham mưu cùng một lúc.

Tôi mời lại anh và bật lửa cho anh đốt. Anh nói:

– Kể từ khi cậu đi miền Tây tới giờ tôi không gặp lại.

– Dạ, có gần hai chục năm!

– Cậu hồi đó còn thiếu nhi nhưng đã có khiếu quân sự. Mười bốn tuổi mà dám đánh xe tăng.

– Dạ làm ẩu may mà được anh à .

– Cậu xài cái ống quẹt ngon quá !

– Dạ , của người ta mua ở chợ Bắc Hà cho. – Nói xong tôi để hộp quẹt lên bàn. – Dạ, anh cất dùng còn cái kia để tôi gởi ra Hà Nội sửa.

Tôi cũng có nhưng cái của xưởng cơ khí Hà Nội làm, quẹt rách ngón tay mà không ra lửa.

Tám Nghi thò đầu vô hỏi:

– Dạ anh Năm còn bảo gì nữa không?

– Dặn con Hiền mua thuốc hút cho tôi.

– Dạ có rồi anh Năm.

– Thịt thỏ bảo tụi nó chiên sả ớt, đừng nấu kiểu có nước lỉnh bỉnh như vừa rồi ăn tanh lắm.

Tám Nghi thụt ra, anh bảo:

– Cậu đó giáo viên Lục quân mà chậm chạp, không linh hoạt, việc gì cũng đợi nhắc.

Tôi mở sắc-cốt định lấy bức thư của thượng tá Phúc, Phó tư lệnh pháo binh R U80 của ông Tư Khanh, nhưng lại thôi, chỉ móc giấy công tác ra trình. Anh xem xong, để trên bàn, xòe bàn tay to lớn ra đập đập trên tờ giấy, gầm gừ:

– Cái này là không được.

Tôi giật mình hỏi.

– Dạ, anh nói sao ạ?

– Hễ công tác ở Tham mưu thì công tác ở Tham mưu không có chàng hãng hai chân vậy được.

Tôi.ngồi lặng thinh, khống biết số phận mình ra sao. Ổng không nhận thì có nước lội về R. Trên đó còn ai đâu? Sức hút duy nhất làm cho tôi trở về R là các em thôi. Các em đã tản lạc hết rồi thì về làm gì nữa? Anh hất hàm:

– Cậu muốn tham mưu hay chính trị?

– Dạ, ở trên sắp xếp đâu tôi ngồi đó.

– Nói vậy sao được. Tham mưu là thực tế: Nhìn bom đạn là bom đạn chớ không thấy nó là mầm mống căm thù như chánh trị. Theo cậu cuộc chiến tranh này sẽ đi đến đâu?

Tôi ngần ngại, anh bảo ngay:

– Trung ương không hiểu gì ráo mà phát động chiến tranh. Giống như hồi 45 tầm vông đánh xe tăng. Nhưng bây giờ không giống chút nào.

Một cô bé đưa trà vào. Anh rót mời tôi và uống ngay, rồi tiếp :

– Binh thư có nói ba yếu tố chiến tranh: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Kẻ nào có ba yếu tố đó sẽ thắng. Ta có không? Tôi sát hạch chính trị cậu đó. Nói đi nghe thử!

– Dạ, thiên thời ta có vì đây là đất của ta, Mỹ không quen cái thủy thổ nhiệt đới này. Địa lợi: ta có địa đạo thôn liền thôn, xã liền xã, ta thuộc lãnh thổ hơn Mỹ. Nhân hòa….

Anh cười như con cọp bị hóc xương:

– Nói về nhân hòa nghe thử.

– Ta có dân. Mỹ bị dân thù ghét.

Anh khoanh hai tay trước ngực, ngã ngửa ra thành ghế:

– Cậu làm chánh ta có thớ lắm! Hà hà… Cậu nói y như Tám Quang. Nhưng đó là những điều trật lất. Mỹ không chịu được nhiệt đới nếu nó không có máy lạnh. Mình ốm đau vì ăn ở ngoài rừng, bịnh không có thuốc. Thậm chí bị thương chở tới Bưng Còng ông Tám Lê chạy trốn. Lính rượt bắn ông đó là thiên thời. Còn về địa lợi thì đây nà – Anh dậm dậm chân : Địa xạo chớ địa đạo gì. Ở chui rút như chuột có thấy trời đất gì mà chỉ huy? Còn nhân hòa hả ? Thằng Ba Xây xã đội phó này cho vợ con ra ấp chiến lược hết rồi. Chung quanh đây bà con cũng đã đi hoặc sắp đi. Người ta không thích mình đến. Vì mình đến có nghĩa là bom pháo, B52, biệt kích đến. Cậu nhớ hồi chín năm không? Mình đi đến đâu gà heo ngã liệt địa tới đó, dân chúng sắp hàng hai bên đường chào đón hoặc tiễn đưa. Còn bây giờ? Cấp trên phán như vậy rồi, mình cãi làm sao?

Tôi không ngạc nhiên về nhận định của anh. Tôi cũng nghĩ thế, có điều tôi không dám nói ra. Anh rót trà uống và tiếp:

– Cuộc chiến tranh này ác liệt hơn, ta phải hi sinh nhiều hơn và nó sẽ kéo dài hơn cuộc kháng chiến chống Pháp, ngoại trừ thằng Mỹ chạy làng. Nếu không, với tương quan lực lượng này ta không thấy có lý do để chiến thắng. Tôi nói thật đấy mà. Tôi đi tàu lặn với năm chục ông cấp tá . Tàu cặp bờ biển Bến Tre. Từ đó về đây phải chạy chừng một chục cuộc đổ dù. Qua những lần đó tôi tổng kết tình thế của miền Nam về mọi mặt. Dân quan chánh đảng và tình hình quân địch.

– Xin anh cho tôi nghe với.

– Uống nước đi, chút nữa ở đây ăn cơm với tôi một bữa ngon nghe ! – Anh hớp trà rồi trở lại vấn đề – Ta ép buộc dân làm chiến tranh, không phải họ tự nguyện. Bộ đội ta vũ khì không bằng 1/100 quân địch. Đây tôi chỉ cho cậu một điểm. Chiến tranh là tội ác, bất cứ chiến tranh nào. Thằng nào giết người nhanh và nhiều nhất thằng đó thắng. Về điểm này Mỹ có ưu thế hơn ta nhiều. – Anh chĩa ngón tay trỏ vào cốc trà và chấm chấm trên bàn – Đây là cự ly đạn phát ra từ lòng súng M16 không đấy một tấc một viên. Nghĩa là một chiến sĩ ta có thể bị ba viên một loạt đạn. Còn đạn trực thăng bắn thì còn kích hơn. Nó bắn từ sáu đến tám ngàn viên trong một phút. Cự ly đạn ước chừng hai tấc. Vậy một người chạy trong lưới đạn của nó không có thể lọt kẽ được. Cậu hiểu dư mà!

-Dạ.

– Còn loại cá lẹp của nó phóng rốc-kết sẽ không để cho mình thoát. Bốn trái nổ bốn gốc một lúc. Tôi nhìn dấu đạn thì tôi thấy là nếu mục tiêu bị nó nhắm thì chỉ có hai trường hợp: một là hủy diệt, hai là trọng thương. Nhiều ông cùng về với tôi hỏi: “Sao nó không bắn giống FM Tây hồi trước nghĩa là bập bập bập mà chỉ nghe cái réec hoặc hù ù.. Là vì đạn đi dính liền nhau. Khi về đến Tháp Mười tôi bị một trận pháo bầy. Đạn nổ rồi mình mới nghe đề pa ! Ở Trung Quốc tôi không có học thứ này. Sợ e bạn ta không có . Binh chũng của cậu đó, cậu thấy thế nào?

– Dạ tôi cũng để tâm dữ lắm anh Năm ! Nhưng chưa biết phải làm gì. Ít nhất ta phải có lực lượng tương đối.

– Tương đối là bao nhiêu?

– Là…ít nhất nó mười ta phải sáu hoặc năm.

– Đừng mong. Tôi biết hiện giờ nó mười, ta 0,5. Cũng có thể là 0.

– Sao vậy anh?

– Vì DKZ là thứ dùng hồi chín năm ta lén chôn lại, bây giờ móc lên. Lau chùi xong lại chôn. Cậu dạy trên trường loại pháo gì?

– Dạ Nhựt, Mỹ, Pháp, Trung Quốc.

Anh cười chế diễu.

– Học gì dữ vậy? Bộ oánh một lúc bốn phép à?

– Dạ râu ông này cặm cầm bà kia anh Năm ạ . Pháo Nhật không có máy ngắm, phải dùng máy ngắm của Pháp gắn qua. Bắn vòng cầu không được phải bắn trực xạ.

– Vậy rồi làm sao chơi với thằng Đồng Dù?

– Cần chơi thì phình bụng ra chơi chớ sao giờ anh Năm!

Anh lặng thinh một lúc rồi bảo:

– Nhưng ngặt nhất là học sinh. Lớp hai, lớp ba, làm pháo thủ còn không xong lấy đâu chỉ huy một khẩu đội? Rồi hành quân bằng cái gì?

– Anh mà thấy lính trên Trường Sơn khiêng pháo thì anh sẽ khóc ròng đó anh ! Bộ giò như cây tăm xỉa răng mà khiêng pháo 90 ly. Trời ơi ! Đói ! Đế cối bỏ đầy đường ! Tôi thấy không dám dòm. Trung ương ác quá ! Miễn đạt mục đích thì thôi, hi sinh bao nhiêu không kể.

– Nhất là hi sinh dân Nam kỳ và nhất nữa là không có đứa con đứa cháu gì của mấy ông to bà lớn cả !

Tám Nghi lại ló đầu vô:

– Thưa anh Năm, uống rượu gì ạ?

– Có Tây chơi Tây, có đế chơi đế. Đãi cậu thầy pháo này một bữa cho tới gáo. Cậu ta là lính của tôi hồi chín năm. Tiến bộ mau quá ! ờ ờ đó là nhờ văn hóa. Chiến tranh là một khoa học. Hồi chín năm ai có dao dùng dao, ai có búa dùng búa chớ bây giờ không thể chơi miếng võ rừng đó được nữa. Một người chỉ huy bây giờ phải là một nhà khoa học. Cậu có thắc mắc tại sao Ông Chuột nhà mình làm quyền Sư trưởng mất năm, sáu năm mà không lên Sư trưởng được không?

– Dạ thấy dân Nam mình ra Bắc bị lép, nhưng không dám thắc mắc.

Anh lắc đầu:

– Đứng về địa phương anh thì thắc mắc, nhưng đứng về khoa học thì không nên. Ông ấy làm Sư trường trong lúc chưa rành toán chia thì làm sao? Một vị chỉ huy cầm mười ngàn lính trong tay gồm có cả chục loại binh chủng, nào pháo binh, xe tăng, bộ binh, cơ giới, hóa học, quân y, hậu cần, có khi cả hải quân và không quân mà trình độ như ổng thì làm sao xoay trở? Lập trường chỉ tốt ở trong văn phòng và kiểm thảo dâm ô tham ô thôi chớ ra trận thì vứt đi. Thằng lính nào hi sinh bằng Ma tơ rô xốp và Đồng Tồn Thụy? Cậu có xem phim chứ? ờ… ờ Bế văn Dàn, Tô vĩnh Diện của ta nữa !

-Dạ có.

– Cứ bắt lính lao mình vô lấp lỗ châu mai hoài sao? .

– Dạ… tôi đâu có ý kiến gì anh Năm!

– Ba cái cô dũng sĩ do Tám Quang sơn phết chỉ nhảy cóc nhảy nhái ít lâu và trong lúc bom đạn chưa thật ác liệt thôi . Nay mai thằng Tư Linh sẽ không có đạo diễn địa đạo chiến được nữa.

Tôi hơi nhột, gượng hỏi.

– Hồi thằng cha Bọ Chét tới đây anh về chưa anh Năm?

– Tôi ở đây chớ đâu ! Tám Quang có liên hệ với tôi yêu cầu cho bố trí pháo bắn máy bay để quay phim. Tôi bảo không được Anh ta có đề nghị lên ông Ba Đình, nhưng ông Ba bảo tùy tôi. Cậu thấy không? Con mắt chính trị nó nhìn sự việc như thế đó . Nó tưởng bắn máy bay là dễ lắm. Cứ có tiếng nổ cho nó thu thanh là được rồi. Mấy đứa nữ du kích ngoài Bắc tập bắn máy bay bằng súng trường tôi trông thấy mà khóc ròng. Vậy mà ông thi sĩ nhà mình làm thơ ca ngợi và mời quốc tế tới xem nữa.

– Thơ gì anh?

– Thơ gì không biết thơ gì, tôi chỉ nhớ đoạn du kích bắn máy bay ở cầu Lai Vu như sau:

Có cô du kích xóm Lai Vu Quấn rắn trong chân vẫn bắn thù Mỹ hại muôn nhà lo diệt trước Rắn! Mình em chịu có sao đâu.

Đem súng trường ra bắn phản lực thì chỉ có Việt Nam ta thôi.

– Và đem hầm chông địa đạo ra chống B52 thì cũng chỉ có Củ Chi này thôi anh ạ -Thấy ông thủ trưởng cởi mở nên tôi cũng phụ họa – Tôi đã đi với các đội du kích đào hầm và địa đạo để tìm hiểu tình hình hầu sau này áp dụng cho công tác chỉ huy. Tôi thấy quả bi đát. Anh Tám Quang bảo tôi là một vòng đai thép bao quanh Đồng Dù, tôi tưởng có thật…

– Thì có thật chớ láo à?

Dạ, anh bảo sao?

– Thì có mấy hang ếch của tụi thằng Năm Cội và của con Bảy Mô!

Anh ngừng lại lấy cái lục lạc trên bàn lắc lắc. Tám Nghi ló vào Anh chỉ cái ghế bảo Tám Nghi ngồi:

– Cậu nói cho ông giáo viên pháo nghe về cái vành đai thép của ông Tám Quang chút.

– Dạ! Hôm trước anh Năm bảo tôi đi nghiên cứu cái vành.

Anh cắt ngang.

– Là vì tôi ở đây mà không biết. Thế mà đài Giải phóng nói oang oang. Rồi đài Hà Nội cũng phụ họa và khuếch đại nó thành Thượng Cam Lĩnh. Tôi nghe mà giật nảy người lên ! Mình ở đây mà sao không biết vụ đó ! Khơi quá ! Nào, cậu Nghi trình bày để ông thầy pháo nghe xem có thể đem cà-nông 105 ở Tầm Vu ra tăng cường cho cái vành đai đó không?

Tám Nghi nói:

– Dạ là chục rưỡi hố một của du kích các xã Phước Hiệp với Nhuận Đức. Họ núp bắn ba tụi tinh Mỹ ở Đồng Dù thường đem đĩ ra làm ăn ở bên ngoài vòng rào. Nhưng tình trạng đó đã chấm dứt rồi. Vì sau mấy lần tụi nó bị bắn xách quần chạy, thì xe tăng, pháo, trực thăng đáp lễ. Chúng vừa bắn vừa ủi tan mấy cái hầm đó hết rồi. Hiện giờ du kích bị tróc nên chạy vô Bàu Chứa đào hầm khác.

– Như vậy thì Đồng Dù ở ngoài đạn đạo súng trường rồi. Tôi có gặp đội nữ của Bảy Nề và tự sung công làm ông thầy khoét hết một ngày.

Tám Nghi hết nhiệm vụ, đứng dậy cóm róm:

– Dạ, thỏ chiên sả ớt cũng sắp xong rồi anh Năm!

– Bảo tụi nó dọn ra đi. Cậu tới nhậu cho vui nghé!

-Dạ.

Tám Nghi vừa đi ra, anh lấy bản đồ trải ra và chỉ cho tôi các vị trí đồn bót. Tôi rút bút chì mỡ và bút nguyên tử bốn màu đưa cho anh làm điểm. Anh hỏi:

– Ở đâu cậu có thứ này?

– Dạ tôi mua ở chợ Long Hoa II. . .

– Cậu dám vô chợ Long Hoa kia à?

– Dạ, đó là Xóm Mới ở quận Tân Biên của Tây Ninh chớ không phải chợ Long Hoa thiệt. .

– Xa không?

– Dạ nếu không có máy bay đi bộ chừng hai ngày.

– Từ ngày về đây tôi như thằng ngố cứ ở miết trong hầm. Tụi nó xì xào tôi nghe, nhưng kệ. Tụi nó cười tôi là con nhà pháo sao lại sợ pháo ghê thế. Tụi nó không hiểu gì hết nên không sợ là phải.

Anh cầm cây bút chì nghiêng qua nghiêng lại xem và nói.

– Thứ này là made in USA đấy ! Tôi bảo Sáu Huỳnh mua cho tôi mấy cây mà y có nhớ đâu, y chỉ nhớ má con Chia.

Tôi làm bộ không biết: .

– Con Chia nào anh Năm?

– Chỗ thằng mắt bù lạch đóng cơ quan cậu không biết thật à?

Tôi lắc. Anh cười hắc hắc:

– Thằng Chín Lộc với bà Ba Bánh Bò, thằng Huỳnh đớp mụ Tư The má con Chia. Tụi nó làm công tác quân báo nhân dân mọc rễ ở đó luôn chớ gì! Kệ tụi nó, tôi cũng thế thôi. Hay dỡ là công tác chớ ba cái vụ lặt vặt đó tôi không xét nét.

Anh cầm bút chì chỉ mấy điểm trên bản đồ rồi xếp lại, nói tiếp:

– Cậu biết từ trước tôi không ưa mấy thằng chính trị viên. Chúng nó nói toàn chuyện trên trời dưới đất không thực tế chút nào! Lão Long này (tức là Tám Quang) vì nói chính trị nhiều quá mà ở vá tới bây giờ, mó đâu hụt đó. Ổng đi Trung Quốc học xong về, cũng nói cái giọng Mỹ là con cọp giấy. Lão Khơ trọc vậy mà thực tế: “Cọp giấy nhưng nó có nanh nguyên tử” Đến Củ Chi này xem con cọp giấy nó có làm gì không? Ấy là nó chưa xài tới nanh của nó đó. Mấy thằng chánh trị ba lem nhem học được ba mớ lý luận đã bốc trời… Tôi đã chỉ thị cho Ba Hải, Năm Tiều triển khai lực lượng đánh phục kích hoặc pháo kích, nhưng ba tháng nay vẫn êm rơ. Ngày ngày cứ lõ con mắt ra nhìn đồng bào chạy ra ấp chiến lược và xe tăng ủi Phước Hiệp lấn vô Cây Sộp. Ttình hình càng găng, cán bộ càng bệ rạc. Mỗi lần tôi thấy Hai Giả và Sáu Phấn tôi nổi xung lên! Tánh của tôi cậu còn lạ gì. Hễ nóng lên là bất kể. Tôi la ó um sùm. Mà giận thiệt, cán bộ có khuyết mặt này thì được mặt khác. Còn hai ông này trớt he. Đó mấy ông chánh trị già làm thử xem! Cậu về đây tôi mừng lắm. Trẻ, lại có kiến thức.

– Anh muốn tôi về H6 làm gì trước?

– Giao công tác đảng cho Sáu Phấn. Cậu lo mặt tác chiến. Chấn chỉnh lại đơn vị, hâm nóng tinh thần chiến đấu. Mục tiêu chính là Đồng Dù. Phải hạ vài chiếc khu trục ngày nào cũng bay lên bay xuống tuôn bom vùng An Nhơn! Ông Ba Đình cứ hối thúc tôi mãi, tôi thiệt bực mình. Nhưng làm gì được với một giàn cán bộ như vậy? Nhớ hồi chín năm đánh mấy trận Bàu Cá, La Ngà, Bến Cát ăn ngon như rau mà ham. Bây giờ dễ gì làm nổi một cái?

– Anh có bản đồ pháo binh vùng này cho tôi xin một tấm! Tôi chỉ có bản đồ Củ Chi của U80 phát, tỷ lệ 250.000 mà mờ quá, lại toàn chữ Trung Quốc.

– Mình vô đây là rơi vào một cái khủng hoảng thiếu; thiếu tất cả phương tiện chiến đấu và một cái khủng hoảng thừa, thừa bom đạn địch. Không thứ gì mình cần mà có. Bản đồ thí lem nhem và không chính xác nên ông Hai Nhã đấm lưng bộ binh ngoài Đồng Dù Bình Giả khá khá đó .

– Tôi có gặp ông Năm Truyện và ông Trí O ở trường Trung Sơ.

– Cậu làm gì về đó?

– Dạ học.

– Học cái gì?

– Tình hình nhiệm vụ mới. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành

– Kẻ thù nào cũng đánh thắng. Biết rồi. Đó là chánh trị xưa như trái đất.

Tôi biết anh rành câu đó của ai nên không nói tới nữa nhưng hỏi:

– Phải anh Ba Đình chỉ huy trận Đồng Xoài Bình Giả không anh?

– Ổng chớ ai. Hồi 1949 ổng làm tham mưu trưởng Bến Cát thì dễ ăn hơn! Vô đây tôi cho cái bản đồ .

Anh đứng dậy bước đi. Tôi theo anh qua một đường hầm ngắn đến một cái ngách khác khá rộng nền đất lót bằng một bộ ván dầu mun đen, trên đó kê một chiếc giường đôi và một cái bàn nhỏ.

– Ở hầm kinh niên mà nền không lót cây thì bị bịnh tê thấp cũng đủ chết chớ không cần bom đạn cậu ạ.

Trong hầm có nhiều lỗ thông hơi nhưng không đủ ánh sáng nên vẫn phải đốt đèn cầy. Anh nói:

– Ở mãi dưới này rồi mắt mờ và các giác quan khác đều kém nhạy.

Anh ngồi xuống giường lôi cái sắc-cốt để bên cạnh chiếc ba-lô kiểu Trung Quốc còn mới nguyên, lấy bản đồ, mở ra và nói:

– Bản đồ này tỷ lệ 1/50 ngàn do đồ bản của mình vẽ lại của Mỹ in ở Đà Lạt. Đây là tấm Củ Chi, cậu xài đỡ, khi nào, xong tấm mới, tôi sẽ gởi cho cậu.

Thấy cái ngách nhỏ tối om khoét trong vách hầm, tôi hỏi:

– Cái ngăn này anh để làm gì xin nói cho tôi kinh nghiệm với.

– Phòng khi hầm sập mình chui vào đó. Nó ăn thông ra địa đạo. Như vậy lỡ bộ binh nó ngồi trên đầu, mình vẫn có lối thoát thân. Còn một kinh nghiệm này nữa. Khi cậu xuống hầm trốn bom pháo, không nên nằm, mà chỉ nên ngồi thôi. Nằm có hai cái hại. Một là chấn động tim, hai là khi hầm sụp cậu không ngồi lên được.

Chúng tôi trở ra chỗ cũ. Anh hỏi:

– Hôm cậu lên đại hội mừng công có gặp mấy cha Ba Thành, Ba Sinh, Hai Lơn, Hai Búa, Lê đức Anh không?

– Dạ đủ mặt hết anh ạ ! Người khu 7 cũ của mình hình như đã về hết trong này.

– Họ có nhắc tới tôi không?

– Dạ…ơ ơ…

– Nhắc làm mẹ gì thằng này. Khi gian khổ có nhau. Lúc vinh quang ngoảnh mặt.

Tôi biết tánh anh ngang bướng từ thời trai trẻ, nên ngồi làm thinh. Anh tiếp:

– Hôm đám cưới tôi ở Hà Nội, tôi có mời từng người, không ai đến cả. Họ sợ trách nhiệm.

Tôi vẫn làm thinh. (Ông nội ai dám đến dự đám cưới vợ bé của ông thần?)

– Chỉ có Hai Nhơn thôi. Cậu nhớ Hai Nhơn bí thư của ban chỉ huy E300?

– Dạ quên sao được. Ảnh ra Bắc mười năm chỉ được lãnh lon thiếu úy, vì thành phần trí thức.

– Thì tao đây cũng vậy. Không trí thức nhưng là lính thủy của Pháp, nên bị trù không lên nổi, lại vụ cưới vợ ngoài Hà Nội. Tao không trách ai – Anh chuyển sang tình cảm anh em, xưng tao và gọi tôi bằng mày – Mấy chả sợ gánh trách nhiệm với tao. Tao chẳng phiền gì, chỉ buồn là anh em quên tình nghĩa cũ. Tao quyết định làm thì làm và ngửa cổ chịu một mình. Rơi một sao, tụt một cấp tao vẫn vui. Vợ tao oán trách và nói nặng tao. Tao chấp nhận. Vì đàn bà ai cũng thế. Còn tao… – Anh ngập ngừng một chút và nói như suối chảy – Nhưng nếu ngược lại ở trong này vợ tao có chồng tao không trách móc gì hết. Con người phải hơn con vật! Con người phải sống như con người. Trước kia tao đi lính thủy, hễ lêu bêu dưới nước thì thôi, hễ lên bờ là việc đầu tiên là vô bung-ga-lô tìm chất tươi. Chưa bao giờ tao thiếu nó trên ba tháng. Nếu có thiếu thì tao tự bù trừ. Còn ở ngoài Bắc mười năm thằng nhỏ vô dụng. Liên Xô nó sang Hà Nội hai tuần dẫn vợ theo. Còn mình, nó khen là thần thánh! Ai ham làm thần thánh kiểu đó chớ tao thì không! Người ta chê bai anh Ba Duẫn, anh Sáu Thọ có vợ bé, lấy vợ địa chủ nữ sinh v.v… Tao không khen nhưng cũng không chê. Thằng Napoléon là thằng mê gái số một, thậm chí khi viễn chinh nó có cả một đơn vị đi tìm gái cho nó . Đêm nó ngủ không thể không có mỹ nữ bên mình. Đến lúc bị đày ra St- Hélène vẫn còn có cô con gái 17 tuổi yêu nó cơ. Yêu nó cho đến nó chết. Nhưng nó là thằng gì? Liên Xô phải học nó và sợ nó. Cutuzov thắng nó không phải nhờ tài ba mà nhờ mùa đông quái ác của xứ Nga . Mày có ra Hà Nội ghé lại hiệu sách Ngoại Văn ở Tràng Tiền mày sẽ thấy bày bán một quyển sách tiếng Pháp bìa carton dày 807 trang bên trong in một chữ vàng N. Đó là tác phẩm của Viện Hàm Lâm Quân sự Liên Xô nghiên cứu về nó đấy. Tiếc là hồi ở Hà Nội tao không gặp mày để bảo mày đọc cuốn đó. Mày đọc được chớ?

– Dạ , chắc được !

– Bây giờ về đây tao đọc cái này – Anh thò tay móc dưới gầm bàn ném lên – Bí thư của tao đấy.

Tôi nhìn: Tam Quốc Diễn Nghĩa. Anh trở lại Napoléon:

– Nó làm thống soái hồi ba mươi hai tuổi, nhỏ hơn mày hai tuổi, nhỏ hơn tao mười tám tuổi. Khi nó đứng ra chỉ huy mấy thằng nguyên soái già thì tụi này xì xầm tỏ vẻ bất phục, nó rút gươm bảo “à mes ordres!” Nghe lệnh của tôi! Thế là tụi kia răm rắp cúi mặt nghe theo lệnh nó. Chuyện lăng nhăng của nó ngày nay vẫn được ghi lại thành sách để bên cạnh binh nghiệp của nó. Nào Joséphine, nào Beauhamais và cả chục mối tình khác, mối tình nào cũng cho thấy nó là thằng mê gái tuyệt vời, nhưng vẫn là một nhà chi huy quân sự số 1 lịch sử. Lịch sử có phê phán gì về tội mê gái của nó không? Tao xa vợ tao mười năm, đó là chưa kể những năm ở khu 7, lâu lâu mới gặp nhau một lần trong nhà dân hoặc ngoài rừng. Tao lấy vợ ở Hà Nội đàng hoàng, không giấu ai, trái lại có mời bạn bè và cho tổ chức biết một cách quang minh. Ông anh vợ tao là thượng tá cùng học pháo bên Trung Quốc hai năm tiền ăn ở chung, vẫn biết tao có vợ con trong Nam nhưng ông vẫn gã em gái cho tao. Vợ tao ở Hà Nội cũng biết tao có vợ…

Anh ngưng ngang như bị nghẹn. Tôi cười:

– Chắc anh mong một lá thư của chị?

– Vô phương có !

Anh nói bằng tiếng Pháp và vung tay lên buông rơi xuống trên đùi.

– Nếu có anh nghĩ sao?

– Hả ? hả t Mày đùa à ? Bà này sẽ bỏ tao và đem con tao về Sài gòn. Bà ta là một loại đàn bà ghê gớm. Không phải sự hung dữ mà là tình yêu. Bà ta yêu tao như một lý tưởng trong đời sống riêng tư, cho nên bà ta không tha thứ cho tao, không chấp nhận sự chia xẻ tình yêu. Tao muốn nói chuyện với bả lúc bả hồi tĩnh lại nhưng bả nhất định không nghe. Bả nói một câu như búa chém: “Nếu tôi ở lại đây, tôi sẽ có thể bị ông thuyết phục mà đồng ý với ông. Như vậy suốt những năm tháng còn lại của đời tôi sẽ chỉ là sống tạm sống nhờ.t Tôi sẽ ân hận vì đã chấp nhận tội lỗi của ông !”

Anh ngưng, mặt đờ ra, thờ thẩn.

Tôi từ từ cởi cúc áo trên móc ra một chiếc phong bì mà tôi đã sửa soạn khi nằm võng với Tám Nghi bên ngoài. Tôi rất kính phục anh từ thuở còn là thiếu nhi và vẫn còn giữ nguyên tình cảm đó. Tôi đưa cho anh và nói tên người nhờ gửi bức thư. Anh nói lạc hẳn giọng.

– Ông Phúc à? Anh… anh… ấy…

– Dạ anh ấy mới về nhận chức Phó tư lệnh U80. Khi tôi đến gặp anh ấy để nhận quyết định đi xuống đây thì ảnh giao cho tôi thư này nhờ tôi trao tận tay anh.

Anh xé thư ra xem ngay trước mặt tôi. Xem tới đâu mặt anh hững lên tới đó. Xem xong anh xếp lại đút vào phong bì cho vô túi áo và hỏi tôi.

– Tao thì đành vậy rồi, còn mày? Ở Hà Nội có gặp con Ánh Tuyết không?

– Dạ có, nhưng chỉ một đêm…

– Một đêm đủ rồi! thằng Napoléon cũng thế, nhưng không phải nó phụ tình mà ngày mai nó đã lên ngựa hành quân xứ khác. Con nhỏ nào được nó ngủ một đêm cũng đã vinh hạnh suốt đời.

Tôi nói:

– Tôi gặp Ánh Tuyết một đêm ngồi trên băng đá anh ạ. Hai đứa chỉ nói chuyện cũ ở Rừng Sát đi mò cua bắt ốc và tô bùn trên đầu cho chí chết, chớ có chuyện gì đâu mà nói vì nó sắp đi Trung Quốc học kỹ thuật gì đó còn tôi thì đã nằm trên bệ phóng rồi chẳng lẽ cách xa vạn dậm mà yêu nhau được? Tôi đã ớn một lần hai năm rồi nên không dám quyết định gì hết.

– Đúng đấy! Hai năm gì được mà hai năm.

Anh cười ha hả một cách bất ngờ:

– Nó tước mất xe của tao mày ạ !

– Xe jeep gì, anh?

– Nói chuyện hồi ở ngoài Hà Nội mà ! Hai sao hai gạt hai cái chày tiêu gác tréo thì được xe jeep có tài xế lái phom phom đi Hà Nội. Đằng này nó kê tao vụ đó, nó đánh tao rơi một sao, mất xe nhưng tao cóc cần. Tao vứt xe đạp lên tàu hỏa, ra Hà Nội chạy tới nhà vợ, rồi đèo vợ đi cinê, đi uống nước ngọt Bờ Hồ chẳng sướng hơn đi xe jeep mà xách xe không chạy nhong nhong như con chó thiến à? Đói cơm thì chịu được chớ đói tình cảm thì buồn lắm phải không chú đồng tử quân của Rừng Sát?

Anh lại hỏi:

– Rồi bây giờ mày định mối nào chưa?

– Dạ cũng còn đang chạy nhong nhong.

– Ông già vô có vui không?

– Dạ ổng buồn lắm. Vì hai thằng con trai mỗi đứa một đường.

– Làm sao được! Ai có chí hướng nấy. Mày khó chinh phục nó mà nó cũng khó chinh phục mày!

– Vậy làm sao bây giờ anh?

– Tao không biết. Về ba cái vụ lăng nhăng đó tao không có ý kiến được. Hà hà, trước khi tao xuống tàu lặn họ gắn sao lại cho tao mày ạ ! Được sao nhưng lại mất nàng tiên Hà Nội. Như mày mày bắt sao hay tiên?

Tôi cười:

– Anh bắt cái nào?

– Mày không có quyền bắt mà mày phải bắt cái người ta đưa cho mày. Chịp, nhớ hồi kháng chiến ở Đồng Hòa Long Thành vui quá, chiều chiều ra bãi cát ngó thấy Cấp St-Jacques, hay ngó qua Vàm Láng Gò Công chỉ cách có con sông Lý Nhơn… Bây giờ hổng biết bà ấy dắt hai đứa con tao đi đâu?

Tiệc xong, tôi ra ngoài cái chòi mắc võng nằm với Tám Nghi. Hắn bảo:

– Từ lúc tao hầu dưới trướng ông tới nay, tao chưa thấy ứng tiếp ai như tiếp mày, hơn nửa ngày. Bữa nay có bốn trưởng ban về xin gặp ổng, ổng bảo chờ đến mai. Thế nào, ổng bảo gì mày?

– Về chỉnh đốn H6 bắn vài cái máy bay, pháo cho thằng Đồng Dù vài quả, một quả cũng được.

– Ổng xử lý Hai Giả ra sao?

– Xưa kia nghe vụ ổng lôi thôi, rồi về R chính tao gặp bà Mặn làm loạn ở trạm 66 tao có ý chê trách ổng kém đạo đức nhưng nghe ông tâm tình, tao hết ghét ổng. Tao lại thấy thông cảm với ổng. Chiến tranh rõ thật đáng thù, ổng bảo ổng không muốn làm gì Hai Giả cả mà vì ở trên bảo rằng Hai Giả bị dư luận không tốt trong quần chúng nên ổng cho Hai Giả đi công tác nơi khác một thời gian rồi trở về chỉ huy đơn vị chiến. đấu ở quận Bến Cát hoặc Nhà Bè. Tội mẹ gì mà phải ngưng sinh hoạt đảng và rơi sao. Vậy các ông tướng ở R thì sao?

Tám Nghi nói:

– Kẹt một cái là Hai Giả có vợ con ở Hốc Môn ai cũng biết. Bả vô đây hoài hoài, bả tiếp tế lớp tiền, lớp xe Bờ Rô, lớp Radio, toàn thứ kẻng…

– Chậc ! Thì vậy không mà ! Bà Ba lớn nhăn như da ổi thì anh Ba phải tìm bà Ba nhỏ láng hơn. Còn mày? Đã có chỗ nào để bám trụ chưa?

– Con gái nhìn mặt tao là chạy tét, bám trụ gì!

– Sao không đi bệnh viện?

– Đi đến đó nằm, thì thà ở nhà còn khỏe hơn. Cái bệnh viện của ông Tư Chuyền ở trên Hố Bò chớ đâu. Tao đã đến xem qua rồi. Nó chỉ thiếu dùng cưa mập để cưa chân tay thương binh thôi.

Tôi định lấy đồ trong sắc-cốt tặng cho Tám Nghi, nhưng hắn bảo hắn chỉ thích cái đèn pin USA có cái đầu bẻ cụp được (gọi tắt là đèn quắu) để rọi đi ra đi vào hầm. Tôi chụp vào hông bảo:

– Đây tặng cho mày !

Nhưng không thấy nữa. Tôi sực nhớ ra lúc nhậu tôi đã mở ống dòm sắc-cốt và dây nịt đưa cho bảo vệ . Tôi ngồi dậy định đi vào nhưng Tám Nghi bảo để y lấy cho. Tôi bảo:

– Để tao vào gặp ông có chút chuyện riêng, lúc nãy tao quên nói.

Tôi đi vào hầm. Nhờ quen lối cũ nên tìm đến mâm tiệc lúc nãy dễ dàng, nhưng không thấy đồ đạc ở đó, tôi bèn quay lại phòng của Tám Nghi và mấy chú bảo vệ . Vẫn không thấy ai. Tôi đi theo lối đến phòng bản đồ. Tôi sắp bước vào thì nghe tiếng thì thào và tiếng rên ư ử. Bất giác tôi đứng nép một bên đưa mắt nhìn vào.

Tôi bật ngửa. Dưới ánh đèn xanh lờ mờ một thân hình tiên nữ nằm phơi lồ lộ trên chiếc giường đôi. Ánh sáng làm cho nó hư ảo như một vệt mây trắng tinh với một đám mây đen lung linh. Còn ông tiên thì ngồi bên cạnh cầm quạt phe phẩy, chốc chốc lại nghiêng môi xuống hớp mây, cái đầu to của ông ta gục xuống rất lâu mới ngóc lên. Ông ta hỏi.

– Mát không cưng mát không?

Tôi sợ bị bắt gặp, định quay trở ra thì một bàn tay lôi khẽ tôi. Tôi vọt ra ngoài rất nhanh như một tên trộm sợ chủ nhà rượt bắt. Tám Nghi thầm thì.

– Tới giờ ổng lên giàn hỏa. Tao biết thế nào thịt thỏ xong cũng có cái trò múa đôi đi liền. Tao muốn bảo mày nhưng mày nói có chuyện riêng tao để cho mày đi.

Tám Nghi rỉ tai tôi:

– Con nuôi ổng đó !

Tôi cười chữa ngượng và chối phắt.

– Tao có thấy gì đâu mà nuôi với dưỡng!

– Thấy hay không thì cũng vậy đó. Mấy cậu bảo vệ và tao biết ý nên tối tối là chui vô ngách nằm im rơ, có tiếng chuông mới trình diện. Con nhà ai vô đây thì kể như dưng cơm cho lục đi. Hễ tanh cơm tanh cá thì ổng cho qua Bưng Còng nạo.

Tiếng nạo của Tám Nghi làm cho xương sống tôi nghe như có miếng B52 bay phớt qua.

(Sau đó tôi về H6 là Trưởng ban Pháo binh Quân khu, tôi có dịp ra vào cái.hầm “Đờ-cát-tiêu” này luôn. Mỗi lần đến tôi mua quà tặng các cô các cậu báo vệvà nhậu nhệt với Tám Nghi. Do đó tôi được họ coi như người nhà. Lắm khi làm việc xong tôi vô bếp lục cơm nguội ăn hoặc được mấy cô cấp dưỡng xẻ phần của ông xếp lớn cho tôi. Đầu năm 66 tôi ra chỉ huy tiểu đoàn bộ binh, toàn cơ quan Quân khu không ở nổi Củ Chi nữa nên vọt qua xây căn cứ ở Đường Long tức bên kia sông Sài gòn. Tôi vượt sông qua đó gặp ông Thần Núi để thông qua kê hoạch phòng ngự của Củ Chi. Lúc bấy giờ nhân viên và phòng chẳng còn người nào quen cả. Hỏi thăm thì họ bảo “Tám Nghi về R an dưỡng, cô Hiền đi học y tá. ” Nhưng mà tháng sau tôi gặp ông Chín Nửa, dượng tôi, người cho tôi cái radio Sony sau bữa tiệc nhậu tép mỡ ở cái chuồng trâu. Dượng cho hay Tám Nghi và cô Hiền đã bị Mỹ khui hầm bắt ở Bến Súc nay đang ngồi trong tù. Vậy cũng may, tôi nghĩ Tám Nghi tên lính Lê dương vẫn còn có cơ may: sống sót. Còn đối với cô Hiền thì đời tù tội có cực khổ nhưng không nhục bằng làm con nuôi.)

Nhưng màn con nuôi vẫn còn dài dài trong hầm Đờ-Cát ở Củ Chi và R.

Đời thằng thượng úy kiêm xạ thủ quốc tế về đây để được làm một trung tá sai vặt và ngồi tù Mỹ.

Tiếng Sét Ái Tình và Tiếng Sấm Bom Đạn

Chương 49

Ly nước mía của nàng tiên bên đường.

< Tám Nghi kêu thằng Đỏ đến, bảo:

-Đây là thủ trưởng của mày, chở ông về đi!

Tôi nhìn thằng bé ròm rỉnh chưa đến mười bảy tuổi, tóc húi trọc, mắt gà chọi, quần tiều áo bà ba bạc màu cụt tay. Tôi chợt nhớ thằng Xe trong trận đánh Pắc-sa-ma năm 1948. Toàn dùng con nít đưa vào nướng trong lửa đạn để vui lòng bác, để bác đừng có không ngủ đêm nay. Tám Nghi đưa tôi ra cái ngỏ rấp chà tre, giọng ngậm ngùi:

– Mày đi khỏe nhe ! Thỉnh thoảng lên tao chơi. Coi chỗ nào trống trống ở dưới xin tao về. Ở trên này ít không khí quá

Tám Nghi không thân với tôi như Tư Linh nhưng tôi thương hắn quá. Cái thân một xạ thủ lại làm tên chạy hiệu. Tôi bắt tay hắn không buông ra được, nhưng không hứa vì không dám. Tôi cũng chỉ là tên thiên lôi chớ có quyền hạn gì. Hai đứa nhìn nhau. Tự nhiên tôi muốn khóc. Hắn quay mặt đi và giục:

– Đi đi Đỏ !

Hai thằng đoàn viên trong đoàn vượt Trường Sơn của tôi. Một thằng ngồi lại gốc cây rừng mà chết ngon lành. Còn thằng này chết chậm và bầm dập.

Thằng Đỏ cắm đầu đạp như bay. Qua khỏi lộ số 7 nó bảo :

– Tới đây là hết lo rồi đó anh!

Rồi nó trỏ mấy cái hầm ếch và nói tiếp.

– Coi đó , nếu khu trục có tới thì mình chui vô cho nó bắn muôn năm. Đây là hầm của du kích đào cho người đi đường. Nắp hầm cao một thước, chỉ sợ bom rơi tệnh thôi.

Nó chỉ tay ra phía trước cười khúc khích.

– Ở đằng đó có người đang chờ anh.

– Ai?

– Chút nữa thì biết ?

Chạy một hồi Đỏ lại bảo:

– Chỗ đó đó !

– Cái gì mới được chớ !

– Anh ghé uống nước mía, em đãi anh một ly nghe ? Chợ chồm hổm ỳ xèo vui lắm! Có tiệm hàng xén, tiệm sửa đồng hồ, sửa la-dô, tiệm hủ tiếu, tiệm gì cũng có.

– Tiền đâu mà đãi?

– Hôm ông ngoại cháu lên thăm cháu cho cháu hai trăm, cháu chưa xài. Thôi cho cháu gọi bằng anh, cậu chịu hôn?

– Cháu gọi mấy ổng bằng gì?

Thằng Đỏ cười hí hí.

– Bằng ông hoặc chú là bét. Mấy ổng bắt các chị kêu bằng anh, các chị không chịu kêu. Anh gì mà đầu bạc hết mà anh? Em mà kêu anh bằng anh thì mấy chị cũng kêu như vậy, đây rồi mấy ổng ganh cho coi!

Thằng Đỏ đạp không thua Lạn hoặc Ua. Tôi hỏi:

– Ông ngoại lên thăm cho tiền, có nói gì với em không?

– Ông đòi bắt em về.

– Rồi em nói sao?

– Dạ, ngoại về trước, mai con về sau.

– Rồi sao còn ở đây?

– Em nói là mai mà ! tức là mai chớ không phải bữa nay hì hì… em gạt ông ngoại em tuốt luốt.

Tới một đám người đứng lúm xúm bên đường, thằng Đỏ dừng xe. Tôi chưa có ý kiến gì thì có tiếng chế diễu:-

– Thầy Hai! Thầy hứa dạy tụi này thụt súng cối sao đi biệt lâu vậy?

Tôi nhìn ra Bây Mô.

– Thì mới gặp hôm nào đây mà !

– Nhưng em nói vụ dạy súng kìa.

– Bé Liên với chị Năm có đến không?

– Chuyện đó nói sau, bây giờ mời anh ly nước uống cho khỏe cái đã.

Đỏ thêm một phần.

– Hai ly chớ !

– Chi Mai và…

Bảy Mô nguých.

– Người có mặt không hỏi, hỏi người vắng mặt.

– Ờ thôi hỏi người có mặt.

– Hỏi gì?

– Sao em đẹp vậy? À sao mặt mày sáng rỡ vậy, bộ có gì vui sao?

– Không chết là may; ở đó mà vui.

– Sao may cho anh vậy? Vừa nhớ tới em, em lại xuất hiện.

– May cho em chớ may gì cho anh. Em vừa nhảy mũi, anh lại đi ngang.

– Em nhớ anh thật hả ?

Bảy Mô đỏ mặt:

– Em nhắc nợ dạy pháo, không phải nhớ gì đâu!

– Nhớ gì miễn có nhớ thôi!

– Em chỉ nhớ cái xe nước mía này thôi.

Thằng Đỏ xen vào:

– Hồi nãy chỉ gặp em, chỉ tra hạch em, em khai thiệt là em đi đón anh. Chỉ biểu mau mau, chỉ ở đây chờ.

– Hổng có đâu anh, thằng Đỏ bày đặt đó !

– Vậy em thưởng cho nó một ly, thêm một ly bỏ túi đem về để kỳ sau nó hết bày đặt.

– Ừ mấy ly cũng được, lột ba lô ra, ngồi xuống băng đó, dựng xe đạp ở gốc cây kia. Mau mau lên để đầm già tới nó liếc cái là hết uống.

Nãy giờ có một người con gái cứng tuổi hơn Mô đứng nhìn chúng tôi. Bảy Mô quay lại giới thiệu:

– Xỉn giới thiệu với anh đây là chị Tám Lý nhà gần bên em, còn đây là anh Hai…

Tôi xua tay._Mô ngưng ngang. Cô gái cười duyên dáng với cặp mắt nai rất đẹp:

– Bữa nào mời anh Hai ghé nhà em chơi.

Bảy Mô sửa lưng cô bạn nhè nhẹ.

– Mời anh Hai bữa nào ghé nhà em chơi chớ không phải bữa nào mời anh Hai ghé nhà em chơi. Bộ ai hốt hồn sao nói trật câu hết vậy.

Thằng Đỏ xía vào:

– Ờ, hổng chừng chị Lý bị ai hết hồn đó. Tui là trai mà tui nhìn ảnh tui cũng bị hốt hồn.

Lý với tay đập vai thằng Đỏ:

– Em nói kỳ quá hè !

– Kỳ mà trúng. Anh Hai tui vầy chị Lý không mê còn mê ai, hén anh Hai.

Tôi can gián khi thấy mấy ly nước mía đưa tới.

-Thôi uống nước đưa đi em! Mời hai cô. Uống đi Đỏ, rồi dông!

– Anh Hai uống đi, em uống rồi!

Bảy Mô cầm ly nước mía nặn chanh vào và đưa cho tôi.

Tôi mời lại Lý. Lý nói.

-Em cũng uống rồi. Tụi em ở đây anh lo gì.

– Vậy tôi nghe nói xe nước mía dời đâu lên Trảng Bàng rồi tôi buồn quá !

Tôi đưa cho Đỏ. Đỏ lắc đầu:

– Của chị Bảy mời anh chớ đâu phải mời em!

– Em nói đúng đó Đỏ !

Lý bước lùi lại núp sau lưng Bảy Mô cười khúc khích.

Bảy Mô ứng khẩu ngay:

– Ảnh có tánh hay nhắc người vắng mặt, chị không thấy sao? Cho nên ảnh mời tôi là tôi mời chị đó.

– Vậy cô Lý từ chối cũng có nghĩa là nhận lời à?

– Ừ, chị Bảy chị Lý gì cũng nhận hết á !

Bảy Mô nguých thằng Đỏ.

– Cái thằng lẽo mép ! Mày biết đâu trong bụng người ta.

Thằng Đỏ còn mở hơi.

– Để rồi xem! Chị Bảy về nhà làm xôi sầu riêng còn chị Lý bắt một con gà làm thịt quay nước dừa, anh Hai vô ăn gà quay còn xôi sầu riêng thì tôi bọc đem về.

– Ừ, mày chở anh vô đi, rồi sầu riêng sầu chung gì cũng có hết.

– Ghé nghe anh Hai !

Thấy tôi ngần ngừ, Đỏ tiếp.

– Về cơ quan cơm rời chấm cơm cục, muối ớt trộn muối tiêu nuốt như kẹo chà tre qua cổ họng vậy. Lâu lâu thầy trò mình cải thiện sanh hoạt một bữa. Bây giờ về tới trỏng cũng tối rồi đâu có làm gì được mà anh phải vội. Nhận đi anh Hai.

Bảy Mô cười:

– Cái thằng này, cái miệng nó nói dẽo như kẹo kéo vậy !

– Thôi đi thì đi. Nhưng đi nhà ai Đỏ?

– Nhà chị Bảy trước vì chỉ có công đón anh từ trưa tới giờ.

Thế là hai anh em đi với Bảy Mô. Sợ Lý buồn tôi đưa tay cho Lý. Lý đưa tay ra. Tôi giật mình: Sao có bàn tay đẹp thế này. Tôi hấp tấp nắm lấy, giật giật:

– Cô Lý cảm phiền nhé . Chủ nhật tôi sẽ đến ăn con gà quay.

– Anh gọi bằng em cho thân mật!

Lý nói nhỏ rí và cúi nhìn xuống đất. Tôi vẫn giữ bàn tay trong tay tôi. Tim nghe động mạnh. Lại duyên nợ nữa đây!

Thằng Đỏ cười châm chọc:

– Chừng nào đánh Mỹ thành công. Bác Hồ cho phép một ông bốn năm bà !

Nói xong nó cười ré lên. Bảy Mô nhìn Lý. Cả hai ngượng đỏ mặt và vành tai. Mô gắt:

– Mày học lóm được câu đó ở đâu vậy Đỏ?

Đỏ vênh mặt:

– Mấy chú mấy bác mùa thu uống rượu nói rùm. Mà cần gì uống rượu, bây giờ cũng đã có nhiều ông hai bà rồi, như bác Hai Giả nè!

Chưa tới nhà, Bảy Mô đã nói:

– Anh về kỳ này sẽ thấy cảnh nhà không vui.

Tôi sợ chồng chị Mai hi sinh, nên hỏi:

– Bộ có tin gì sao em?

– Nhà trên giở đi rồi. Chỉ còn cái nhà dưới thôi.

– Cách đây mấy bữa…

– Sau bữa anh ghé với con Ua, ba về mướn người giở, cột kèo lớp ngâm dưới mương, lớp mướn xe bò chở ra ấp chiến lược Suối Cụt. Lần này có má vô nữa.

Mô dùng tiếng ba má suông kiểu Ua và Chia. Tôi cũng tùng dấu nói theo:

Má vô làm gì trong vùng bom đạn này?

Mô làm thinh. Đi bên cạnh Mô tôi cảm thấy Ua và Chia còn trẻ con quá. Hai cô chỉ yêu sôi nổi thôi còn làm vợ thì phải là Mô. Nhưng trước Mô còn Thu Hà. Khổ thiệt. Tôi khẽ thở dài. Mô nhìn sang có lẽ nàng tưởng tôi buồn vì cảnh nhà, nên nói:

– Nếu để nguyên sẽ bị máy bay đánh tiêu hết anh à !

– Cả quận Củ Chi chắc không còn mấy cái nhà còn nguyên.

– Đồng bào đi gần hết. Nhà nào ráng bám ở lại cũng giở làm hầm. Bây giờ chuyện ruộng nương đã thưa thớt rồi. Lúa gạo đâu mà ăn. Bà con đi ra Củ Chi được phát gạo Mỹ đem về cả trong này.

– Có ngon không?

– Thì cũng là gạo, nhưng trắng và nhỏ hột như gạo thơm nanh chồn hay gié vàng.

– Mỹ nó đánh đủ mặt em ạ ! Mùa này là mùa sầu riêng sao em?

– Đúng giữa mùa sầu riêng đó anh. Anh đi R chỉ còn nhớ có mai rừng thôi.

Giọng Mô bắt đầu trách móc. Tôi giật mình nghĩ: Sao cô bé biết chuyện mình với Huỳnh Mai? Bèn hỏi phăng:

– Sao em biết anh chỉ nhớ Mai, anh còn nhớ nhiều loại hoa khác nữa chớ.

– Thì ông nhạc sĩ nào đó chẳng làm bài hát Xuân Chiến Khu nói mai rừng nở khắp nơi là gì?

Tôi như qua khỏi truông nhà Hồ, té ra không phải. Tại mình có tịch nên nhúc nhích đó thôi . Tôi tỏ vẻ nôn nóng muốn về nhanh đơn vị thì nàng nói mát:

– Anh đã làm anh hùng, còn làm kiện tướng rồi còn muốn làm gì nữa?

– Anh chỉ muốn làm anh… của em thôi, ngoài ra anh gì cũng không bằng.

Mô liếc tôi trong thầm lặng. Chúng tôi đi song song với nhau như cặp vợ chồng mới. Tôi hỏi:

– Lâu nay em có gặp Tư Linh không?

– Không! Chỉ gặp nhà báo khu. Họ cho em biết anh sẽ về H6 và còn biết anh là anh hùng chiến thắng trận pháo kích sân bay Biên Hòa.

– Trời! Ai dám tưng anh tới tận mây xanh vậy?

– Anh đừng tưởng em không biết. Chính là cái nàng Xuyên Đảo Phương Tử nói chớ ai.

– Tên gì lại giống gián điệp Nhự vậy?

– Không phải gián điệp mà là nhà báo Nhã Nam.

– Ờ… ờ…

Tôi chợt nhớ cô sinh viên Nhã Nam hôm nọ đụng đầu với Chia dội ngược. Mô tiếp:

– Nhà báo còn cho em biết nhiều chuyện về anh nữa kìa.

Tôi linh cảm biết ngay là cô nhà báo này chơi cái chiến thuật ăn không được cũng khuấy cho hôi, nên nói chặn đầu trước:

Người ta đồn vậy chớ không có gì đâu!

– Anh có đi đào hầm với đội Bảy Nê và được bầu làm kiên tướng phải không?

– Anh muốn tìm hiểu thêm về địa đạo nên có tham gia một buổi.

– Con Cấm nó nhắc anh hoài. Bữa đó em mắc đi với cô Năm Đang nên không đến được.

– Thì bây giờ anh đến với em. .

Tôi liếc nhìn, thấy nàng có vẻ đẩy đà hơn trước. Cái cổ trắng nõn lấp ló dưới mái tóc huyền phủ trên đôi vai tròn nỉn. Nàng hỏi:

– Anh rước ba vô sao không cho ai hay hết vậy?

– Ba vô gấp. Chỉ ở có một đêm rồi về đâu kịp cho ai hay.

– Vậy mà ai cũng hay hết á !

Cô bé này thọc mũi dao găm vào ba sườn mình, tôi nghĩ, vậy mình phải tấn công để phòng ngừa mới được, nhưng chưa nghĩ ra cú gì để đáp lại thì nàng đã ngọt ngào:

– Em sắp được ăn cưới của ai rồi đây nhá !

– Của ai?

Nàng cười khảy, ngó ngang tôi: .

– Còn của ai nữa?

– Anh không biết thiệt mà .

– Anh giả bộ hoài. Con Ua gặp em hôm qua, nó khoe nó là vợ chưa cưới của anh. Nó bảo ông già về chuyến này sẽ rước bà già vô làm đám tuyên hôn. Có không?

Tôi tê cứng lưỡi, lúc sau mới ngọng nghịu đáp:

– Chừng… chừng nào Đồ… Đồng Dù bị san bằng thì chừng đó mới có đám cưới.

– Nó còn khoe nhiều chuyện khác nữa.

– Như chuyện gì?

– Trong ví của anh có cái gì không?

– Cái gì là cái gì mới được chớ !

Tôi sợ nàng biết tới mấy cái chứng minh thư của Tư Linh, Hùng và Sáu Huỳnh cho tôi cất kỹ trong xắc-cốt, còn một mớ nhét trong ví để dành ứng chiến, có lần Ua lục lạo bắt gặp. Con bé hồn nhiên đó dám nói tùm lum ra lắm.

– Cũng may, Bảy Mô nói làm tôi nhẹ nhõm:

– Hình chụp ở tiệm ngoài Củ Chi mới lấy về tặng anh liền! Cho em xem tình yêu bất diệt với.

Tôi thấy không có đường chối nên làm thinh. Còn nhà nữ quân sự có lẽ cũng biết không nên đuổi giặc vào đường cùn nên không hỏi tới nữa. Chúng tôi đi vô sân và dừng lại. Cảnh điêu tàn hiện ra trước mặt. Cả ngôi nhà ngói xưa đã biến mất chỉ còn trơ lại cái nền trên đó ngổn ngang gổ gạch ngói và bàn ghế gãy Bên hiên nhà mấy chiếc bàn thờ đứng ủ rủ dưới tàng cây bưởi cây mít như những nàng con gái ngồi phải cọc gượng cười. Cái nhà bếp như một đứa con nít mất đi chỗ tựa là ngôi nhà trên, trở nên quái gở, không còn giống cái nhà (như Việt Nam mất Liên Xô vậy). Tôi hỏi:

– Công tác với cô Năm Đang xong rồi sao em về nhà?

– Không. Hôm qua em gặp con Lan với con Phượng, chúng nó cho em hay anh đi lên K10. Thì em biết anh sẽ đi ngang qua đây, nên em xin phép cô Năm về nhà xin tiền má để bồi dưỡng, em giao việc đào hầm cho tiểu đội của con Bê .

– Vậy em gạt người ta.

– Em học ai đó, anh biết không? Lần này em nhất định.. .

Mô nói em thật tha thiết và nhìn tôi một cách tình tứ.

– … sẽ bị gạt nữa.

– Anh thấy chị Tám Lý thế nào?

– Thế nào là thế nào?

– Cũng đẹp đấy chứ. Em giới thiệu được không?

– Giới thiệu ? Em đã . . .

– Không… vụ kia cà.

Tôi biết Mô tháu cây tôi nên tôi thấu cấy lại:

– Được đấy Vừa thấy cô ấy, anh yêu ngay, yêu cả cái tên Lý.

– Chị ấy yêu anh rồi.

– Sao em bói chắc vậy?

– Thấy thì biết chớ còn sao. Chỉ ra đứng ở đây với em cả buổi, cứ hỏi em về anh. Em bảo anh là người…

-.. . như con ma ấy!

Mô cười:

– Ừ ma mà quỉ nữa.

Từ trong khung cửa hiện ra một gương mặt đàn bà hao hao giống Bảy Mô.

– Chị Ba em đấy. Chỉ về ở đây để trông coi vườn cho em đi công tác. Ba má và thằng Út ở luôn ngoài ấp chiến lược Chị Tư Mai và bé Liên ở nhà dì Hai em gần cây xăng Suối Cụt

Tôi phóng mắt ra vườn sầu riêng: một hố bom. Cây ngã liệt địa. Miễng bom gây thương tích cho người lẫn cây. Một sự tàn phá.

– Mày nói chuyện với ai vậy Mô.

– Chị nấu cơm đi, em hái sầu riêng. Bữa nay có khách đặc biệt.

– Đỏ vô giúp chị Ba một tay em!

Tôi quay lại bảo Đỏ đang lót tót theo sau chúng tôi từ nãy giờ. Rồi trêu Mô:

– Khách đặc biệt nào?

Mô chới với.

– A!… không…

Tôi nói với chị Ba.

– Không phải khách chị Ba ơi! Em là… là gì Mô?

– Ai biết đâu đấy… ủa anh là kiện tướng, ủa là anh hùng…

– . rơm , rơm !

Bảy Mô trỏ tay về phía trái:

– Cái bàn cẩm thạch ba chở đi rồi.

– Cái bàn ba bỏ ngoài để phòng khi…

– Nhà cháy thì có chỗ ngồi ăn cơm. Em nhớ nó ghê lắm.

– Nhớ cái bàn?

– Nó có liên quan đến em.

– Nó không có liên quan đến anh à ?

Mô cười. Bây giờ tôi mới thấy hàm răng của nàng được sửa sang: Nó vừa trắng lại vừa có trật tự hơn. Tôi hỏi trỏng:

– Đi nha y hồi nào vậy?

– Tháng trước em lên Phú Hòa ở gần suối Lộc Thuận có nha y quân khu, nhưng phải có giấy giới thiệu của ông Tám Quang thì họ mới làm.

– Coi đẹp quá !

– Nhưng nhai thịt gà ram hơi khó. Thôi, đi vô ăn cơm.

– Sao mới nói với chị Ba làm mà xong rồi?

– Em làm trước chờ anh, chớ đợi anh tới rồi mới làm à?

– Bữa nay ngày gì mà anh đi tới đâu cũng gặp ăn?

– Ăn kẹo của Plấy con nhỏ đó coi chừng mắc cổ đấy.

Tôi đánh trống lãng:

– Bé Liên bây giờ chắc lớn lắm.

Mô cười:

– Con nhỏ nhớ dai ghê ! Nó cứ hỏi cậu Hai. Má nó dạy nó gọi anh bằng…

– Bằng gì?

– Thôi, em hổng nói đâu.

Hai đứa đi ngang hòn non bộ, một sự thương tâm dấy lên trong tôi, như tôi đang xem những đào kép lên sân khấu mà không có trang phục áo mảo. Lần trước tôi đến nó cổ kính duyên đáng bao nhiêu thì lần này thấy nó trơ trẻn bấy nhiêu. Cảnh Trúc Lâm thất hiến, Hoàng Thạch Công nhận giày của Trương Lương. Cảnh mục đồng cỡi trâu, tiều phu đốn củi, ngư ông câu cá, nhà nông đi cày không còn hòa hợp với những vết đạn trước sân và những trái sầu riêng rụng vỡ nát ở hiên nhà Tôi lột ba lô và đồ lề để trên bàn, đến ngồi trên tấm ván bắc ngang con suối mơ nơi hai đứa từng ngồi đàn măng-đô năm ngoái. Nghe hương tóc bay trong gió lâng lâng, tôi hỏi:

– Bộ em không thích xà bông Mỹ hay sao mà xài xà bông Cô Ba vậy?

– Em quen với nó rồi. Cái gì em quen khó bỏ lắm. Ở ngoài chợ Bắc Hà bán đủ thứ xà bông Mỹ, nào Dial, Camay, nhưng em không gởi mua. Nghe cái mùi đó, em thấy nó kỳ kỳ thế nào ấy.

– Anh thì thứ gì cũng xài miễn sạch thì thôi. Cọp nó có tắm rửa gì mà người ta cũng gọi nó bằng ông vậy.

– Anh nói ngang không hè .

– Bữa nay anh mới biết xà bông Cô Ba là thơm nhất. ‘

– Vậy từ trước anh thấy xà bông nào thơm?

– Xà bông nào cũng thơm nhưng không nhất.

Mô liếc và bĩu môi:

– Giỏi tài nịnh.

– Anh nói thật mà ! Ở Sài gòn sắp sửa có xà bông Cô Bảy còn thơm hơn xà bông Cô Ba.

Đột nhiên Mô nói.

– Anh kiếm chuyện hay lắm, em chịu thua . Em ước bữa nay má vô đây bất ngờ. ‘

– Chi vậy?

– Coi mặt chàng rể.

– Rể ở đâu mà coi mặt?

– Ai biết đâu đấy.

Mô chợt bước lên tấm ván làm nó oằn suýt đụng mặt nước. Tôi kêu lên:

– Coi chừng gãy !

Tôi vừa nói vừa ôm lấy nàng. Tôi đặt trên má nàng một cái hôn nồng nàn và thủ thỉ:

– Mùi xà bông Cô Bảy thiệt tuyệt diệu.

Mô đứng im trong tay tôi, ngã đầu trên vai tôi. Tôi hỏi:

– Em yêu anh không sợ tình yêu lỡ dỡ sao?

Nàng gỡ tay tôi ra, bước qua đứng bên kia cầu tỏ vẻ suy nghĩ rất lung rồi lắc đầu:

– Em không sợ gì hết.

– Anh không sống lâu đâu em.

– Anh đừng nói gở.

– Yêu em thì đẹp quá rồi. Đời anh đâu ao ước gì hơn. Nhưng anh nghĩ đến thân góa bụa của em như chị Tư Mai, như cô Lụa con má Hai, hoặc đau khổ với người chồng chưa cưới cụt chân như Tám Mang.

– Không bao giờ em nghĩ tới cảnh tượng đó.

Tôi bước tới xoay người nàng lại, mặt đối mặt. Tôi thở dài:

-Anh khác. Anh chỉ sợ uổng một đời con gái hương sắc của em thôi. Chớ anh là tên lính lê dương cách mạng, từng lội suốt từ Đông sang Tây, từ Bắc vô Nam anh đâu có sợ gì.

– Yêu mà gian nan mới gọi là yêu. Dám hi sinh cho người yêu mới gọi là yêu.

– Anh cũng nghĩ thế.

Đột nhiên trên gò má mịn màng và trắng hồng của cô học sinh lăn hại hạt trân châu lóng lánh. Tôi kề môi vào khẽ hớp và thầm thì:

– Đừng khóc em.

Mô đưa tay quệt ngang và gượng cười, trỏ dưới lòng suối:

– Anh trông kìa, anh với em có giống Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài không ?

– Ừ, giống lắm, nhưng mà không giống chút nào.

Tôi nhìn hai cái bóng lộn đầu dưới nước gợn lăn tăn. Mặt đất cũng rung theo: có tiếng pháo nổ xa xa.

Tiếng Sét Ái Tình và Tiếng Sấm Bom Đạn

Chương 50 Người đàn bà đau khổ vì dở dang thời kháng chiến

< Thấy chị Ba khoảng bốn mươi, tôi hỏi Bảy Mô:

– Còn anh Ba đâu?

Mô lặng thinh. Hai đứa đi song song vào nhà. Mô buồn dàu dàu. Tôi nghi là có chuyện gì bi đát. Thì quả như rằng, Mô kể:

– Chị Ba có thương một anh vệ quốc đoàn…

– Thời kháng chiến chống Pháp.

– Thời đó em mới ba tuổi. Còn anh chắc đã…

– Mười sáu tuổi rồi. Anh đang làm mật mã cho quân khu.

– Em nghe chị kể lại anh ấy ở Tiểu đoàn 303.

– Anh biết rồi! Đó là tiểu đoàn đánh giao thông chiến giỏi nhất toàn khu.

– Chị bảo trận Bến Súc hay Bến Cát gì đó, mình thắng lớn, bắt được hơn chục xe GMC chở hàng và thu súng nhiều vô kể. Bộ đội kéo về nhà em liên hoan mấy ngày liền.

– Anh biết rồi. Tiểu đoàn đó do ông Hoàng Thọ chỉ huy. Sau khi Hoàng Thọ bị thuyên chuyển thì Ba Cửu và Ba Vỏ về thay.

– Trận đó anh ấy hi sinh.

– Trời!

– Cho nên bộ đội thì liên hoan mà chị Ba em thì liên hận. Từ đó chị lãnh đạm với tất cả mọi người. Các ông Năm Tiền, Ba Châm, Ba Hải cùng lứa với anh ấy bây giờ là cán bộ tiểu đoàn cả. Các ông ấy tìm gặp chị hoài, nhưng chị bảo là lòng chị đã đóng kín không còn mở ra để đón tiếp bóng hình nào. Tuy bị từ chối thẳng họ cũng vẫn cứ tới lui.

– Em cũng nên khuyên chị !

– Chị Ba, chị Năm, rồi tới em nữa. Toàn lấy chồng bộ đội.

– Anh đã bảo mà !

– Em rầu… cho hai chị quá !

Bữa tiệc xôi sầu riêng và gà quay trở thành buồn tẻ vì có một mối sầu chung lan trải quanh bàn ăn. Tôi thấy buồn nặng trĩu. Xưa nay những danh tướng mấy ai về đã đành rồi, còn lính tráng càng có mấy ai? Tôi từ giã Bảy Mô như chạy trốn một hạnh phúc, thứ hạnh phúc có thể cháy vèo như một chiếc cánh bướm mong manh. Đời thằng lính đầu đỏ này luôn luôn như thế đó. Ngã Ba Gót Chàng – Bến Mương chia tay.

Về đến đơn vị đã có cả chục cán bộ tề tựu san để chào đón thủ trưởng mới: Ba Tố, Ba Đùng, Ba Thu, Sáu Đức. Ba Tố vốn quen tôi từ xưa và từng cụng ly từ Sơn Tây vô tới R, rồi xuống Củ Chi, săn sớm giới thiệu với tôi từng người không theo điều lịnh nội vụ mà theo luật lục lâm sơn trại:

– Tụi bây nhờ hồng phước của chúa thượng nên được ở trên ban cho ông thủ trường này, vừa điệu đàn vừa tài giỏi. Nhậu thì hết chê ! Sao không mọp sư phụ đi tụi bây?

Tôi xua tay.

– Thôi anh ba, phá em hoài !

Sáu Đức giơ cái rộng tre nước chảy ròng ròng:

– Tôi có cái này mừng thủ trưởng.

Ba Tố cười:

– Tôm ăn thây ma ở sông Sài gòn đó hả?

– Thứ mồi đó nhậu đế mới bắt.

Tôi đứng ở đây, miệng đối đáp với cán bộ chiến sĩ quyền chỉ huy của tôi mà lòng tôi còn ở lại con suối ngát hương sầu riêng. Tôi đã yêu nàng rồi chăng? Ở Củ Chi, nếu có thì chỉ có nàng, người con gái hợp với tôi nhất. Nàng đang chen lấn trong trái tim tôi với Thu Hà. Mùi xà bông Cô Ba còn thoang thoảng bên tôi. Tóc nàng, vai nàng, áo nàng. Nàng đã lẩn vào trong tôi bằng ngõ mắt và tóc. Tôi chưa hề có cảm giác da thịt khi đụng chạm hay ôm lấy nàng. Tôi chỉ tưởng tôi là thi sĩ đang tựu thành những vần thơ khi gần nàng hay hôn nàng. Mô ! cho dù tất cả tình yêu đều phải kết thúc bằng những cuộc ân ái để thỏa mãn thèm khát, tôi chưa bao giờ thấy háo hức khi đụng chạm nàng. Tôi cứ vẫn muốn giữ nguyên nàng như hôm nay bên dòng nước nhỏ gợn rêu xanh, một tấm ván bắc ngang, dưới đáy nước một đôi tình nhân lộn ngược đầu.

– Ơ kìa, ông thầy làm gì đứng ngớ ra vậy.

Một tiếng nào đó vang lên từ đám người. Tôi giật mình đáp như máy:

– Tôi đang nghĩ cách đào pháo lên để bố trí trận địa chơi với thằng Đồng Dù. A nè, tại sao mày tên Đỏ hả?

Tôi tạt ngang có vẻ như lạc đề. Thần kinh đang rung vì một chuyện lại bị giật lại nên hoảng hồn, như súng bắn vậy.

Nhưng Sáu Đức vẫn vui vẻ :

– Nó tên Độ, nhưng cậu Mười Muôn của nó ở trên D14 Tây Ninh xuống đây uống rượu với tôi rồi bảo là ở trên R có ông nào cũng tên Độ ngoài Bắc vô làm tới tướng lận, nên cậu nó bảo sửa tên nó lại. Nhưng văn phòng đã ghi nó trên khắp các giấy tờ là Độ rồi làm sao sửa được nên chỉ sửa chữ “ô” ra chữ “ỏ” là dễ nhất. Còn cái dấu nặng là quẹt ngang là xong. Do đó mà có tên Đỏ chớ chẳng phải nó muốn nó tên Đỏ đâu. Tên gì nghe kỳ cục vậy.

– Ở chỗ chú Chín Lộc có bốn chị em tên rất hay Suối Trong Xanh Biếc nghe cũng hay hay.

Sáu Đức ứng khẩu:

– Vậy cơ quan cũng nên đặt là Thu Đức Đỏ Lòm đi !

– Ba tên đầu thì có nhưng còn tên Lòm tìm đâu ra.

– Thằng Đỏ gánh luôn, thay vì Đỏ thì kêu là Đỏ Lòm!

Thằng Đỏ dẫy nẩy :

– Tui hổng chịu đâu.

Tôi bảo:

– Ở ngoài Bắc người ta thường đặt hiệu tiệm hoặc hợp tác xã bằng chữ đỏ, như Cờ Đỏ.

Xanh biếc thì nghe còn hay chớ đỏ lòm nghe mắc ói quá, em không chơi đâu.

Sáu Đức đưa cái rộng tôm cho quản lý Ba Thu:

– Làm sao nhậu cho oắc cần câu mừng thủ trưởng mới đêm nay thì làm.

Ba Tâm cười nhe hàm răng vàng nghĩnh:

– Để đó tôi tinh, không phải lo.

Thằng Tâm trinh sát viên góp ý:

– Tôi đi quán xách một cây nghe anh Ba, anh Sáu. .

Thu Ba, cô bé cấp dưỡng chống chế:

– Mấy anh ăn cơm thì muốn cục chấm muối hòn, còn nhậu một bữa hết cả chục kí tôm. Đưa cho tôi kho ăn hai ba bữa, để mai thấy muối khỏi kêu rát ruột nghen!

Thằng Đỏ bảo:

– Đáng lẽ phải kiếm gà vịt mới phải, tôm nhằm nhờ gì!

Khách khứa bỗng kéo tới chật cả văn phòng, không có chỗ ngồi, chỗ đứng cũng không đủ. Năm Đùng, Út Lộc, Út Chi ở D8 xa mà cũng đến góp mặt. Năm Đùng vỗ vai tôi :

– Từ bữa ở nhà cô Lụa tới nay tụi tôi làm cả chục trận, trận nào cũng nhắc thầy. Pháo Đồng Dù bắn bao nhiêu, tôi chống bằng đế quốc bấy nhiêu. Hội ve chai chống Mỹ sinh hoạt đều chờ thầy. Bữa nay đại hội bất thường mới có tôm chưa đủ. Để tôi đi kiếm thêm vài ký lươn.

Út Chi thêm:

– Có gà giò quơ vài con. Mình phải chơi sáng đêm. Mấy cha Hai Giả và Sáu Phấn đâu có bao giờ hợp rơ với tụi này. Mấy chả chơi toàn mấy bà không thôi !

Quản lý Thu tiếp:

– Hai ổng còn không ăn cơm ở đây nữa là nhậu!

Thu Ba bồi thêm:

– Hai chú cắt khẩu phần, lãnh gạo đem về nhà lâu rồi.

Tôi hỏi.

– Vậy ai chỉ huy cơ quan này, nếu có giặc tới?

-Đâu có ai!

Ba Tố bảo.

– Bây giờ có rồi ! Mấy chú khỏi lo. H6 sẽ lên như diều.

Bữa tiệc tan tôi đi theo thằng Đỏ . Kể từ bây giờ nó là bạn chí thân của tôi. Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ. Tôi ra cái hầm cá trê của nó móc ngoài vườn để nghỉ ngơi. Qua một ngày đi đường và một trận đấu ly của Hội ve chai, tôi mệt. Nhưng cái này không đáng sợ bằng cái buồn. Buồn ghê gớm. Buồn vì xa ông già, vì chia tay với ba người yêu cùng một lúc, buồn vì sự bệ rạc của cơ quan và sự cô đơn.vây riết quanh mình. Không có bạn bè nào chung quanh. Nhậu xong họ về hết rồi. Còvl lại mình tôi như con chim bay giữa cái biển mênh mông với đôi cánh cô đơn nặng trĩu.

– Mày ăn ở như vầy sao hả Đỏ ?

– Vậy là sao anh?

– Một cái hầm cá trê với một mớ rơm lót, không có gì nữa hết?

– Còn cái võng với tấm ni lông nữa chớ anh.

Tôi nhìn quanh: vườn hoang. Trước mặt con lộ đất chạy ngang. Nằm gác đầu trên mép võng, có thể nhìn thấy xuyên qua mớ cỏ lưa thưa cao nghệu, đàn bà đàn ông đi qua ngoài đường. Đỏ làm cho tôi chỗ mắc võng để tối ngủ theo kiểu hai tầng. Tôi nằm dưới đáy hầm trên mớ rơm khô có mùi hăng hắc, đưa mắt ngó lên trời. Hoàng hôn ảm đạm. Ráng tỏ rực ở chân trời phía sông Sài gòn. Tôi lấy chiếc khăn lông trắng ra bảo Đỏ nhúng dùm chút nước để tôi lau mặt.

– Nhớ đừng có giặt nghe .

– Sao vậy anh?

– Giặt bay mất mùi xà bông… thơm.

– Ối xà bông thơm thiếu gì, tôi mua cho anh cả lô… ủa ủa hay là anh sợ mất mùi xà bông Cô Ba.

– Cô Ba ở đâu mà mày biết.

– Hồi trưa chị Ba bảo em ra kêu anh vô ăn cơm, em ra vườn gặp anh đang nói chuyện xà bông Cô Ba với chị Bảy.

Đỏ nói đúng, nhưng chiếc khăn này là của Chia tặng “để mỗi sáng anh lau mặt là nhớ em! ” Thằng Đỏ lại nói:

– Hôm trước anh Lạn có đến đây.

– Mày cũng biết nó nữa à ?

– Biết chớ, ảnh đem công văn khẩn đến đây hoài mà. Ảnh nói là nếu anh có về đây thì nhắn anh chị Lụa chị Là gì đó bảo anh về nhà má ở Phú Mỹ Hưng, có má bên Bến Cát Thanh An về !

– Có nhắn gì nữa không?

– Bảo anh phải về gấp, má không có ở lâu được!

Tôi nói y như với Lụa và Là .

– Về sao được mà về ? Công việc mê mê, thì giờ đâu?

– Ai biết đâu nà !

Lại coi mắt! má Ua, má Là, má Mô ! Ba bà mẹ đi coi mặt một chàng rể ! Tôi không muốn vương mắc trong đám tơ rối mù đó nên hỏi sang chuyện khác: .

– Ông Hai Giả và ông Sáu Phấn không về đây sinh hoạt với anh em à ? .

– Sinh gì mà sinh. Ông Hai có xe đạp Bờ Rô của vợ ở Hốc Môn đem vô cho nên ông nhường xe của cơ quan cho ông Sáu rồi. Hai ông có chân chạy nên không ở đây. Ông Hai thì ở riết nhà bà Chín Kiểu, còn ông Sáu thì sáng đạp xe tới chiều đạp xe về. Đó là hồi trước, còn bây giờ cả tuần ổng mới đến một lần.

– Bộ phận trinh sát thì sao?

– Dạ thì chỉ có ông Sáu Đức đó thôi. Còn anh Ba Thanh và anh Mười, tiếng là trinh sát cơ động nhưng sự thật hai ảnh đang đeo sát Út Lành và Út Lan ở ngoài Xóm Chùa.

– Sao mày biết?

– Tôi còn biết nhiều chuyện nữa chớ!

– Gạo muối lãnh đủ không?

– Dạ đủ, ủa mà thiếu nhưng không sao. Vẫn ăn đủ.

– Tại sao vậy. Bộ thắt lưng buộc bụng hả?

– Dạ không phải. Quân số H6 mình 420 kể cả đơn vị, riêng văn phòng 40 nhưng còn có 12 hiện diện, nên gạo lãnh cho 40 họ phát có 15. Như vậy vẫn thừa ba khẩu phần.

– Còn sinh hoạt phí?

– Dạ cũng đủ xài.

Vừa tới đó thì có tiếng trực thăng phía sông Sài gòn. Tôi đứng bật dậy nhìn ra. Trời mờ mờ, mây vằn vện giăng giăng tôi không thấy gì. Đỏ bình tĩnh bảo:

– Anh cứ yên trí đi !

– Yên trí cái gì?

– Nó đi tuần là mình khỏe gà. Nó đi tuần sông đó, anh ạ ! Không phải nó đi hứng mát đâu.

Đỏ vừa dứt lời thì một làn ánh sáng từ trên không tỏa ra như hình một cái nơm khổng lồ xé màn đêm chụp xuống mặt đất Tôi hỏi:

– Nó làm gì vậy Đỏ ?

– Trực thăng soi đó anh.

– Lạ nhỉ !

– Anh chưa từng bị lần nào à?

– Chưa !

– Tụi nó khôn lắm. Nó biết hậu cần chở gạo qua sông. Nên hễ sụp tối là nó đi soi như mình soi ếch soi cá vậy. Soi đường sông xong nó soi đến đường xe bò. Nhưng mình cũng đâu có dại. Hễ nó soi vừa xong, biến dạng là mình cho đuôi tôm vọt. Có lúc một tuần liền mình không bị soi phát nào, nhưng không hiểu tại sao nó rút kinh nghiệm được. Chắc có lẽ mấy cha nội hồi chánh mách cho nó chớ gì?

– Ai hồi chánh đâu?

– Ông thượng úy Bảy Huyền dắt mèo đi luôn một cặp.Cho nên khi tắt đèn bay đi xa một lúc thì nó quay trở lại . Mình vừa bị dính một phát chìm hai ghe gạo, một ghe súng đạn. Ác thiệt! Cái ngữ trực thăng soi này còn độc hơn cả pháo đó, anh ạ ! Sông rộng quá, mà nó bay mau, mình cập bến không kịp. Còn lắm khi nó đáp xuống cả ruộng nữa chớ !

– Ban đêm à?

-Dạ ban đêm ban ngày đều có hết. Nó soi, hễ gặp ai đi đường khúc trống nó đáp xuống hỏi giấy căn cước. Ai có giấy nó không nói gì, ai không có nó xúc luôn về ấp chiến lược.

– Giấy căn cước của ai?

– Của tụi quận Củ Chi cấp.

– Sao kỳ vậy? Dân của mình mà tụi nó cấp giấy căn cước !

– Dạ đâu có biết! Nhưng bà con trong này ra ngoài đó xin giấy đều đều. Nó cấp cho dễ dàng. Đem về trong này họ dấu mấy ông xã ủy. Họ lận dưới lai quần hoặc nhét kỹ trong lưng. Có nhiều người bị xét về nhà không dám ở nữa, bỏ ra luôn ngoài ấp chiến lược. Họ ở đây nhưng bụng lại ở ngoài.

Nghe thằng nhỏ nói, tôi rủng chí. Đó chính là sự thất bại của mình. Cá không có nước, cá lóc trên khô. Một cặp trực thăng bay đi đảo lại hai ba vòng. Nó không bắn. Chắc là.không đụng đuôi tôm vọt qua sông. Tôi thở phào, nằm dài trên nệm rơm. Nó chơi mình nhiều kiểu quá. Bom pháo, sự thường. Chất độc hóa học: cũng còn chịu được. Xe tăng ủi xóm làng: Ta chạy tránh đào hầm khác. Bây giờ chơi tới cái trò soi ếch này. Mình khôn nó cũng đâu có dại. Tôi hỏi:

– Mày có nghe chị Ba nói gì không?

– Nói gì?

– Nói về tao ấy mà ! .

– Không!

-Mày giấu hả?

Thằng Đỏ cười hề hề:

– Anh khôn tổ mẹ. Cái gì cũng chận đầu. Nói chơi chớ chỉ khen anh ngất trời thiên. Chỉ bảo em có ông chỉ huy bánh tẻn, còn chỉ có cậu em rể coi được quá chừng. Chỉ bảo lần tới chỉ sẽ đưa má vô coi mặt anh. Anh chịu không?

– Chịu gì?

– Anh làm bộ hoài hè, người ta ưng anh rồi đó. Chị Bảy được biệt hiệu là dũng sĩ toàn miền lại còn biết khảy đờn bài Mùa Xuân Chiến Khu may áo, nghe hay lắm. Chỉ rủ em, muốn học chỉ dạy cho một tuần thì biết. Chỉ có cho em thử mà em bấm cà trật cà duột hoài, rồi em chạy luôn.

Một tiếng từ xa vọng lại.

– Có đồng chí trưởng ban đó không Đỏ?

– Dạ có ! – Đỏ đáp xong, quay lại tôi thì thầm – ông Sáu Phấn!

Tôi vừa ngồi dậy thì Sáu Phấn đã đến miệng hầm.

– Trời ơi! Tôi mừng muốn chết. Hôm qua tôi vào trong K20 gặp ông Tám Quang, ổng bảo ông về rồi. Tôi vọt ra đây để hai đứa mình bàn tính công chuyện – Sáu Phấn nói một hơi – Hai Giả làm đơn vị này mang tiếng. Ở trên tưởng là mình bệ rạc lắm. Đâu có gì đến đổi. Bất đồ mấy ổng bảo chơi Đồng Dù vài chục quả thử coi mình có làm được không? Dù hèn cũng thể, dù bể cũng còn kêu cạch cạch chớ đâu có tịt luôn. Thôi bây giờ ông đến nhà, tôi làm bậy vài cây đón gió rồi bàn công chuyện tiện hơn.

Thằng Đỏ nghe nói nhảy lên bờ vác xe đạp chạy tới. Chúng tôi hành quân bằng hai chiếc xe đạp. Theo như ba tôi nói sĩ quan Sài gòn, thiếu úy cũng có xe ieep rồi. Tụi này đã là đại úy ở Hà Nội vẫn cuốc bộ bỏ mạng, bây giờ nhờ ân huệ của đảng nên được xe đạp mà đi. Mô Phật xe của đảng !

Sáu Phấn cũng thuộc nhà pháo nhưng không có học với tôi. Tuy vậy hắn vẫn biết tôi có phép thuật cao cường hơn hắn nên hắn rất nể. Hắn cao lớn người, ngoài bốn mươi, tốt tướng, đặc biệt có cặp mắt lộ, nên có hổn danh là Sáu ốc Bưu.

Sáu Phấn kêu vợ làm cơm. Tôi can. Bà vợ chỉ đem trà và bánh ngọt,. Sáu Phấn thanh minh ngay:

– Ổng là trưởng mà bỏ bê như vậy, tôi là phó thì làm sao được?

– Để mình gặp ông rồi bàn luận.

– Tôi đề nghị ông làm vừa vừa thôi, làm mạnh quá tôi sợ ổng quất ngựa chuối như Bảy Huyền!

– Mạnh hay nhẹ không thành vấn đề, cái chính là làm sao cho ổng thấy trách nhiệm của trưởng ban pháo binh của một quân khu.

– Ổng không chịu đến cơ quan. Còn tôi mà lơn tơn tới nhà ổng thì bả nặng mày nặng mặt. Bả sợ tôi đến rù quến bắt ổng đi kiểm thảo ! Bố tôi kiểm ông không nổi nữa là tôi ! Ông Năm Lê gọi ổng tới ổng cũng không tới mà !

– Ông Năm cũng không chấp nhất mấy vụ đó đâu!

– Không chấp sao được? Đó là kỹ luật quân đội !

– Tình trạng của mình bây giờ là bán du kích bán chính quy bởi vì mình không đủ điều kiện để thi hành kỹ luật theo chánh quy thì mình phải dùng tình cảm thay cho nguyên tằc.

Sáu Phấn nói ngang ngang với tôi, không xưng hô bằng đồng chí. .

– Nếu một đơn vị pháo binh ở doanh trại có đủ quân số và khí tài thì điều lệnh của trên ban xuống ông phải thi hành và lệnh của ông đưa ra các khẩu đội phải tuân theo. Hành quân có quân xa hoặc xe tăng kéo pháo, đâu có tình trạng chôn pháo, đâu có tình trạng cán bộ ở nhà dân mà có vụ này vụ nọ. Mình xét vấn đề phải xét nhiều mặt. Đánh giá con người cũng thế. Cái chuyện vượt Trường Sơn và chịu đựng ở đây mấy năm liền lớn hay là vụ vợ bé vợ mọn lớn?

– Ông nói đúng rồi, nhưng kẹt cái là ổng có vợ. Bả vô đây hàng tháng. Thì ta chỉ nên khoanh tròn ở chỗ đó thôi! Ôngg Năm Lê có tính nóng nảy, la ó hay đập bàn đạp ghế, nhưng tôi thấy ổng đánh giá cán bộ đúng lắm. Cho nên tổ chức đề nghị thi hành kỹ luật cả hai mặt đảng và chính quyền mà ổng chỉ thi hành về mặt chính quyền thôi, nghĩa là điều Hai Giả đi công tác một thời gian cho lắng êm dư luận rồi cho chỉ huy một đơn vị khác!

– Cho đi đâu?

– Chắc đi Dĩ An Thủ Đức để chỉ đạo các đơn vị pháo dưới đó nhằm vào các căn cứ Mỹ.

– Hổng biết ông có chịu đi hay không.

– Để mai tôi gặp ổng thử coi. Riêng các anh em khác thì anh cho hay chiều mai tất cả phải có mặt để họp toàn ban. Anh nào không đến, tôi coi như đào ngũ.

– Về đây chết bom đạn rất đông mà lọt hầm chông phèo ruột cũng không ít.

– Tại mình coi vấn đề đó quan trọng nên xử lý nặng nề chớ nào có đáng gì !

Tôi ngồi uống trà với Sáu Phấn mà tâm sự ngổn ngang. Tôi biết rất nhiều vụ lăng nhăng như thế này của các ông lớn. Từ ông Duẩn trở xuống ông Trà trở lên. Năm 1956 khi tôi ở một đơn vị, Xuân Mai nghỉ phép Hà Nội, tôi có tìm đến thăm bác Ba Lắm là dân Bình Xuyên đi theo kháng chiến từ đầu 1945. Lúc đó tóc bác đã hoa râm. Con người không to lớn nhưng khỏe mạnh gân guốc. Tôi vốn là học trò nhà quê mê truyện Tàu nên nhiễm cái tính anh hùng trong các truyện Tam Quốc, Vạn Huê Lầu… Tôi xem bác Ba Lắm như Tần Thúc Bảo hay Địch Thanh. Bác ra trận không bao giờ nằm. Súng nổ là đứng lên chạy trước. Bác còn bảo lính: “Đứa nào xung phong lên trước chiếm xe địch tao để cho chỉ huy tao. ” Đánh giặc chín năm lên chức tiểu đoàn phó. Ra Bắc, cùng cỡ bác lên Trung đoàn phó là bét, bác không nhích được chút nào. Lại còn bị tổ chức ghi trong lý lịch là thành phần lưu manh. Bác bảo: “Tôi không phải là lưu manh. Mà dù tôi có là lưu manh thì hãy xem từ khi tôi vào bộ đội tôi có lưu manl không?” Rồi buồn tình bác bỏ ra dân, lấy một bà tư sản góa chồng (Đây là lần đầu tiên ông lấy vợ, vào lúc gần năm mươi!) Tổ chức lại được dịp nhân lên tội lỗi của bác: phạm lập trường giai cấp. Bác nghỉ chơi với cách mạng luôn và đi kéo nứa mướn bằng xe ba gác ở bến phà Đen để kiếm sống. Khi tôi đến bác đã có một đứa con gái ba tuổi. Tôi nhắc lại chuyện xưa Bác khóc ròng: ” Khi cần ngực mình để đỡ đạn người ta bảo mình là anh hùng. Thắng trận xong rồi mình làm thằng lưu manh. Địt mẹ chúng nó, chúng nó lấy vợ địa chủ thì không sao cả, còn mình lấy một bà tư sản phá sản còn có cái nhà rách thì lại bị quy là phạm lập trường giai cấp!”

Hình tượng và câu chuyện của vị tướng lãnh Bình Xuyên không bao giờ phai nhạt trong tôi. Thì cũng gần như vậy cái trường hợp Hai Giả hôm nay. Khi vượt Trường Sơn thì bảo là vinh quang, khi đến Củ Chi thì bảo là Đất Thép Thành Đồng. Lấy vợ bé thì bảo là phạm kỷ luật. Còn Tổng bí thư, chánh ủy Tư lệnh lấy vợ ba thì cái lập trường vẫn cứ còn nguyên con, không sứt mẻ chút nào. .

Tôi đứng ở giữa cấp trên và tội phạm, tôi phải hành xử sao đây. Đành rằng tôi không phải là kẻ thi hành kỷ luật y nhưng phải làm sao để y thấy rằng mình không có ham hố gì- – mà lại khổ tâm – vì cái chức trưởng ban H6 này.

Vợ Sáu Phấn một người đàn bà trạc bốn mươi, vóc dáng khỏe mạnh, tay bưng dĩa tôm càng nướng đỏ rực và dĩa rau sống xanh biếc có chuối khế xắc lát rất khéo sắp quanh vành dĩa, đi ra đặt nhẹ lên bàn và nói với chồng:

– Anh mời khách uống vài ly cho vui !

Sáu Phấn cười với tôi:

– Ông thấy tôm con nào con nấy mập ú không?

– Thì hồi chiều cũng làm ở đẳng một chầu rồi.

– Tôm rẻ hơn cá và lươn. Chỉ một trăm một rổ đầy vì sao ông biết không? …Vì nó ăn thây ma, chỉ có tụi mình nuốt mà thôi. Chuột bị hóa học, tôm ăn thằng chổng đều ních tuốt.

– Ở vùng này vườn tược nhà cửa còn được tám chục phần trăm hả ông?

– Nhà cửa cũng xếp lại lấy cây cột làm hầm, còn dân thì rục rịch đi ra ấp chiến lược gần hết rồi. Hạng nhất vùng này là nhà con Bảy Mô, ông già nó có vườn sầu riêng và một trăm mẫu đất, nhà cũng vừa giở.

Vợ Hai Giả ở trong bếp nói ra:

– Anh làm mai cho cô Ba được đó . Chồng chưa cưới của cổ hi sinh hồi kháng chiến cổ thất tình, cổ không tính chuyện chồng con gì hết cho tới bây giờ.

– Bậy nào ! Có làm mai thì làm mai cho con em, chớ ông này con trai nheo nhẻo mà.

– Con em cũng đã có chồng có con rồi !

– Con em thứ Bảy dũng sĩ kia chớ không phải con thứ năm. Chắc ổng chưa gặp đâu để mai mốt tôi bàn chuyện công tác rủ cổ lại đây cho ông làm quen. Cặp gà này coi bộ đồng cựa đồng chạng đó.

Tiếng Sét Ái Tình và Tiếng Sấm Bom Đạn

Chương 51

Thằng Đỏ chở tôi đến nhà Hai Giả. Đáng lẽ y phải tới bàn giao công việc cho tôi mới phải, nhưng thôi, bạn bè hơn nhau một chút cũng chẳng mập béo gì. Ở giữa cơ quan có nhân viên lại càng bất tiện cho y. Chiếc xe đạp lọc cọc lăn trên đường gồ ghề màu đất nâu sậm như báo hiệu rằng Củ Chi Đất Thép sẽ nhuộm máu. Đạp một lúc thằng Đỏ bảo:

– Đi bộ thôi anh. Đi xe đường xấu giằn đau đít lắm! Anh đứng nép vô để đầm già nó liếc. Tôi trở về cất chiếc xe đạp.

Tôi đứng bên đường chờ nó trở lại. Tôi đưa mắt ngó chung quanh. Hầu hết những ngôi nhà lớn lợp ngói không còn nguyên, nhà cỡ trung bình cũng đều giở xuống. Người ta đã biết trước những gì sẽ xảy ra khi thấy cái Đồng Dù càng ngày càng xúc tiến mạnh. Ngày nào trực thăng cũng đeo những cục tròn tròn dài dài dưới bụng nó đem nhả xuống Đồng Dù. Còn bên trong thì nhà cửa bằng gỗ thông được dựng lên, cột điện trồng tua tủa, đường thì trải nhựa, bắt ống nước, xây lầu nước. Những người đi làm công cho Mỹ về đồn rinh tai: “Nó làm in như một thành phố! Nó ăn thua đủ với mình ! Nó mọc rễ ở luôn…”

Ngôi nhà bên vệ đường ngay trước mặt tôi chỉ còn trơ lại có cái nền. Một đống cột đầu vuông chất ngổn ngang bên cạnh với mấy cái tàu dừa che lên trên lấy lệ. Trong kháng chiến chống Pháp nhà tôi bị đốt, má tôi ngồi khóc. Nhưng tôi không thấy buồn gì cả, trái lại càng kiêu hãnh, làm thơ:

Nhà em Tây nó đốt Em ra ngủ ngoài vườn Khác gì anh chiến sĩ Quen lạnh lẽo gió sương.

Bây giờ thì khác. Cứ mỗi lần thấy một ngôi nhà bị cháy vì rốc-kết (Mỹ không đốt nhà như Tây) hoặc chủ nhà bỏ đi, tôi buồn ghê gớm. Ở cái tuổi này sau khi ở đậu trong hàng ngàn ngôi nhà của dân từ Nam ra Bắc và đã từng sống không nhà ba tháng dọc Trường Sơn, hai năm lẩn lút trong những ngôi nhà không ra nhà ở trên rừng, tôi cảm thấy tất cả sự ấm áp của một ngôi nhà trong đó có bàn thờ, có buồng ngủ, có ván gõ ván dầu, có bếp, có khói nấu cơm và hơn nữa có tiếng đàn bà, con nít vui chơi hoặc khóc ré.

Mỗi một hòn đất đắp vào nền nhà, mỗi một thanh gỗ bào đẻo trơn tru, mỗi một nuộc lạt buộc vách là một giọt mồ hôi, một tình cảm yêu thương đằm thắm. Thế mà chủ nhà phải bỏ đi, hơn thế nữa phải mất nó trong nháy mắt. Đêm qua thằng Đỏ có kể cho tôi chuyện hai vợ chồng bị một trái cà-nông ngay đêm tân hôn. Tôi luôn luôn có ý nghĩ: “thằng Mỹ ác quá!”. Nhưng Bác Đảng cũng ác chẳng kém gì. Mười năm dân Miền Nam đã tự hàn gắn laị được vết thương chống Pháp, bây giờ chính Đảng laị chọc vào đó, xé toạc nó ra. Đảng đã thọc cây vào ổ kiến lửa trách gì nó không cắn cho bầm mình. Nó đánh cả Hà Nội rồi. Cả hai miền đều ăn dưa hấu tấn.

Thằng Đỏ trở lại:

– Đi bộ 15 phút mà khoẻ. Hơn là đi xe, đầm già nó cão đùng mình nhảy không kịp.

Đỏ vừa đi vừa chỉ từng nhà cắt nghĩa cho tôi nghe:

– Đây là nhà của má Mười. Con cái chết đâu hết cả, chỉ còn một ông con trai ở nhà tên là Tám Lù. Ông ta lờ khờ, nên trong xóm gọi là Tám Lù Đù. Bà má này cỡ anh thì vô làm con ngọt, còn lính lác thì đừng hòng.

– Sao vậy?

– Hổng biết tại sao. Hễ mang K54 tới thì kể như có ưu điểm liền. Để bữa nào tôi dắt anh tới giới thiệu anh là trưởng ban H6, rồi anh sẽ thấy gà vịt đơm tới nườm nượp.

Qua ngang chiếc quán cóc ở đầu đường, Đỏ bảo:

– Quán này có bán đường, đậu, mắm, thuốc hút, xà bông thơm, nhưng không có giấy tập. Tôi thèm một mớ để chép bài hát của chị Bảy Mô cho mà chưa dám ra chợ An Nhơn.

– Sao vậy?

– Bom bỏ thường lắm. Ra đó chậm chân thì hết có về.

– Vườn tược ở đây vẫn còn y nguyên hả Đỏ?

– Lâu lâu bị pháo vài trái. Nhưng thiệt ác. Một trái pháo mồ côi trúng hai vợ chồng mới cưới tôi kể cho anh đêm qua đó. Ở ngoài lộ ngó vô thì tưởng vườn tượt còn nguyên, vô trong rồi thì toàn hố bom hố pháo.

Tôi để ý thấy có nhà còn để cây rơm, có nhà còn gà gáy,có nhiều vườn xanh tươi, măng cụt, lôm chôm, có những bụi trúc quằn ngọn đốn làm cần câu thì tốt lắm, nhưng có lẽ không ai có kiên nhẫn ngồi câu nên trúc vẫn còn đứng chôn chân đó như những cô gái đẹp chờ người tới rước về nhà chồng. Có ngỏ nhà vui hơn với ba chú trâu nằm chơi vô tư không để ý khách đi qua. Khi sắp ra đường 15 thì có một em bé gái chạy tới kêu to:

-Anh Đỏ!

Đỏ nói với tôi:

– Đó là con gái của bà Chín Kiểu, vợ ông Hai Giả.

Cô bé đi tới nói tía lia:

– Cậu tôi biểu tôi ra quán mua trà thuốc về đất khách.

– Khách nào?

– Hổng biết khách nào. Cẩu còn biểu má tôi chiên bánh xèo nữa.

Đỏ trỏ vào tôi:

– Khách đây nè! – rồi nhìn tôi, cười hí hí – Bữa nay mình có lộc ăn nữa rồi anh Hai.

Con bé có lẽ nhận ra vai trò của ông khách đối với bố dượng của nó, nên nhìn tôi bằng cặp mắt là lạ. Tôi hỏi:

– Em tên gì?

– Cậu kêu con bằng con nghe cậu Hai.

– Cậu Hai chưa có vợ sao có con được chị Gái!

Cô bé lườm Đỏ. Tôi nói ngay:

– Đã là con gái sao còn lấy tên là Gái? Tên Thơm, Thảo, Bông, Hoa, Đẹp… thiếu gì!

– Tại con không có cha nên má con không biết đặt tên gì. Thôi, cậu cho con một cái đi.

Đỏ xen vào:

– Muốn đặt tên thì phải nấu chè. Anh đặt cho nó là con Thơm đi anh Hai.

-Dạ được!

Con bé mừng nhảy chân sáo biến đi nhanh rồi trở lại với trà thuốc trên tay. Tôi nghĩ thầm: con bé như thế này chắc mẹ nó phải đẹp lắm. Hèn chi Hai Giả quên cả trời đất chớ gì. Vào đến sân nhà, Thơm kêu to:

– Má ơi, má có cậu Hai tới!

Một chiếc xe đạp mới toanh dựng ở bẹ cửa vách ván. Một người đàn ông bước ra thềm bắt tay tôi. Tôi quen Hai Giả từ ngoài Bắc, nên câu chuyện khởi đầu rất thân mật. Hai Giả giới thiệu với vợ y:

– Ông này là thầy dạy pháo của tôi ở ngoài Bắc đó Chín !

Người đàn bà có nước da trắng trẻo, tóc đen nhánh bao quanh gương mặt xương xương có vẻ không phải là nông dân, trái ngược với gương mặt hơi thô của Hai Giả. À, ra đây là bà Chín Kiểu mà lâu nay tôi nghe đồn là người bắt được hồn thư của ngài đại úy pháo binh bằng cái sắc đẹp đã vào thu của bà. Tôi ngó quanh thấy cảnh nhà rất ấm cúng. Bàn thờ chạm trổ mun đen, trên đó có cặp chân 5hờ cổ kính. Một ngọn đèn Hoa Kỳ nhỏ bằng hạt đậu xanh để dựa vách bàn thờ. Tôi mở đầu:

– Ông Tư Khanh cho tôi về đây, tôi mừng húm, xách quyết định bay đi liền. Ông nhớ không, hồi ở Sơn Tây, chiều thứ bảy nào tôi với ông cũng làm cua-rơ đua qua cầu Ái Mỗ.

Hai Giả nói giọng buồn tênh:

– Thầy.còn làm cua-rơ chớ tôi thì hết rồi. Đeo hai cái wagons còn đua sao được nữa mà đua với thầy.

Tôi nhìn Hai Giả, chờ đợi một câu mà tôi chắc là ai oán. Quả nhiên, Hai Giả thở dài:

– Ông thầy ơi ! ông cứu tôi đi ! Tôi nghe bạn bè quen nói ông giải quyết êm xuôi vụ Ái Mỗ của ông Đào. Tôi phục thầy lắm. Thầy làm dùm tình sư đệ . Thì bây giờ đến vụ này của tôi. Tôi vẫn còn là đệ tử của thầy ở E400. Thầy được cấp trên nể phục, cấp dưới sùng bái, chẳng lẽ thầy lại cầm gậy đánh gãy xương sống của đệ tử thầy hay sao?

Tôi ngồi lặng thinh, nghe da thịt ran rát như bị ngàn mũi kim châm. Tôi biết làm sao bây giờ. Hồi ở trường pháo binh trên R tôi cũng đã cứu thằng Sâm một keo. Kỳ này mọi việc đã rồi. Tôi chỉ còn có thể an ủi y thôi. Tôi cố giấu vẻ xúc động. Thiệt tình tôi thấy tội nghiệp y vô cùng. Hai Giả than thở:

– Cũng là trời khiến thầy ạ. Nếu tôi không về đây thì cần câu đâu có mắc gốc thế này. Thầy còn nhớ hồi trước không?

– Nhớ gì?

– Nhớ trận đánh xà-lan của Tây ở tại Bến Dòng Sỏi trên sông Sài gòn này ! Lúc đó tôi mới mười tám tuổi nhưng đã chỉ huy một trung đội cơ động trong chiến dịch Bến Cát, có trách nhiệm quốc lộ 13 và sông Sài gòn. Hồi đó nghĩ mình dữ thiệt! Có một trung đội mà chịu hai mặt bộ binh lẫn hải quân của Tây. Không biết sợ là gì. Gặp xe tăng cũng bắn, gặp tàu cũng chơi. Trận đó ba con Gái mới là trung đội phó, nhưng nó gan lắm. Vì gan nên mới hi sinh… – Hai Giả ngưng một chút rồi tiếp – Hi sinh để lại một bà vợ chửa mới hai mươi tuổi Là bà này đây. Còn đứa bé trong bụng là con nhỏ đó.

Hai Giả chỉ hai mẹ con đang đứng khép nép ở cửa buồng. Hai Giả cố nén giọng cảm động để kể nốt câu chuyện:

– Trời xui đất khiến gì đấy ông ạ . Hay hồn thằng bạn cũ nó hướng dẫn tôi tới cái nhà này. Một hôm tôi đi lên K10 về. Hồi đó ông Năm Lê chưa về đây. Ông Hai Phụng Phó tư lệnh còn kiêm Trường phòng tham mưu. Trời tối, tôi lại bị xẹp bánh xe. Tôi vô đại cái nhà bên đường xin tá túc. Hồi đó vùng này còn sầm uất lắm. Y như thời chín năm vậy. Tôi ngồi ở cái bàn trước kia kìa. Bỗng tôi ngó lên bàn thờ thấy cái ảnh quen quen. Tôi hỏi ra mới biết là thằng bạn đã hi sinh trong trận Dòng Sỏi. Đêm đó tôi ở lại đây, nhắc chuyện cũ cho bả nghe. Rồi hai bên thông cảm, rồi sau đó tới lui thăm viếng bàn thờ thằng bạn. Rồi… vậy đó. Con nhỏ nay đã mười bảy tuổi rồi. Hai mẹ con hủ hỉ với nhau. Ông coi, đó có phải là trời đất xui khiến không?

Tôi nghĩ : Quả là trời xui đất khiến thật. Giống y như tiểu thuyết lạ lùng. Người đàn bà có con gái lớn ngần ấy vẫn chưa lấy chồng. Nay gặp bạn cũ của chồng nên không muốn thủ tiết nữa. Chiến tranh, dù là thứ chiến tranh gì, cái hậu quả thảm khốc của nó vẫn đổ cho người mẹ, người vợ gánh chịu. Tôi đã gặp cái màn kịch vợ góa con côi khá nhiều ở cái Đất Thép này.

Tôi muốn gạt phăng mọi thứ kiểm thảo giả dối nhằm bao che một thứ đạo đức rỡm đã bị bọn lãnh tụ sơn phết từ thời kháng chiến tới giờ, như Ba Lắm chửi: “Đù mẹ tụi nó ! Tụi nó lấy vợ bé địa chủ thì không sao, còn mình thì tụi nó bảo là sai lập trường!” Tôi nhắm hớp trà thấm giọng rồi nói:

– Sự thực ở trên cũng không có định làm gì to chuyện đâu. Riêng tôi, tôi cũng thấy không có gì to tát. Tôi nhìn vào khả năng và thành tích của ông chớ! Từ 1945 tới nay đầu chúng mình đã trọc mấy thứ tóc rồi mà ! Anh cứ yên tâm, và nhớ rằng đây không phải là ý muốn.của tôi, anh cứ đi công tác xa một thời gian, thế là xong. Khi về tôi sẽ tuyên bố xóa bỏ tất cả khuyết điểm của anh. Anh sẽ không mất gì cả. (Tôi đâm ra kính trọng con người Hai Giả) Anh Hai nhé ! Chị Chín nhé !

Người đàn bà bước ra ngồi gần chồng đối diện với tôi, mắt đỏ hoe, giọng xúc động:

– Hồi nào tới bây giờ tôi mới nghe một người nói có tình có lý như cậu vậy! Xin lỗi tôi chắc cậu còn trẻ hơn tôi. Ba sắp nhỏ hi sinh nay đã mười bảy cái lễ giỗ rồi. Tôi ghi từng lễ giỗ bằng gạch vôi trên vách đó ! – Chị Chín trỏ lên vách – Tôi đếm từng cái Tết mỗi khi tôi may áo mới cho con. Tôi đã quyết định không lấy ai nữa. Con gái đã có chồng thì chỉ một lần. Chồng chết thì ở với con. May mà ảnh còn để lại cho tôi giọt máu này. Nhưng hình như trời xui đất khiến cho nên anh Hai mới ghé vào tá túc lần đó…

Hai Giả tiếp:

– Mấy thằng quận ủy đến ve vãn bả không được nên ganh ghét viết báo cáo khuếch đại gởi cho Bộ tư lệnh, làm cho mấy chả đòi khai trừ và giáng cấp tôi. Tôi thầm bảo: khai trừ như nói láo, cảnh cáo như nói chơi. Cứ làm! Tao ra dân, chẳng sao cả. Nhưng còn tụi bây thằng nào cũng ê chề một đống, ai cảnh cáo, ai khai trừ tụi mày? Ông ở đây một thời gian rồi sẽ thấy mấy thằng địa phương này khó chịu lắm!Khi cần thì nó đội mình lên, khi mình ngã thì nó đạp luôn. Hồi 60, Đồng Khởi xong chỉ có loe hoe ba cây súng ngựa trời, nếu không có bọn tập kết mình về , tụi Sài gòn nó nhai đầu cái một làm gì có Quân khu IV này, làm sao có chiến tranh chính trị nọ kia? Bây giờ có quyền, có thế, nhờ ai? Vậy mà chúng nó ghét dân tập kết ghê lắm!

Tôi biết Hai Giả có những nỗi u uất bị đè nén từ lâu, bây giờ có dịp tuôn ra. Anh tiếp:

– Còn ở trên biểu pháo kích Đồng Dù, biểu móc súng lên để trên mặt đất rồi sinh hoạt như hồi chín năm! Xì, cái đó dễ ợt. Tôi sẽ pháo kích cho mấy ổng coi. Tôi sẽ dựng pháo trong nhà đồng bào và sinh hoạt ỳ xèo cho mấy ổng khoái mắt. Nhưng chỉ trong một tuần lễ là mất cả súng lẫn người. Các ông chui vô hầm Đờ-cát-tri chỉ thị ra ngoài, nói rùm lên trên đài nào là vành đai thép, nào dũng sĩ diệt Mỹ. Có thật không? Tụi thằng Cội, con Nê bắn một phát súng bá đỏ nó pháo trả một trăm quả . Đồng bào chửi cho không dám ló mặt lên. Tôi mà bắn nó một quả là nó đem B52 và xe tăng tới. Chừng đó đồng bào sẽ đuổi mình đi như đuổi tà . Để rồi xem !

Hai Giả càng nói càng hăng:

– Thầy còn lạ gì cối 120 nòng nặng một tạ, đế hơn năm chục kí, sức người làm sao vận động nổi với trực thăng và cơ giới chớ! Mình vừa lên tiếng rống là nó đổ chụp ngay trên đầu. Tôi đã bị mấy cú ở Phú Hòa Đông rồi. Tôi đặt ở hậu cứ Cây Trôm để chi viện cho bộ binh đánh giao thông. Trận đó tôi đã nếm mùi tân khổ. May mà chưa mất khẩu nào. Chỉ bị hỏng hai khẩu 120 ly ở Láng Cát thôi. Thằng Việt đại đội trưởng hi sinh, mất xác.

– Sao vậy?

– Đang rút thì B52 đến. Tưởng nó đã vùi tất cả đơn vị rồi chớ. Chạy bò về tới Bàu Lách đứa nào đứa nấy hộc máu ra đằng đít. Mấy chả có biết đâu. Thằng Tám Quang, Liên khu nem cứ oang oang cái mõm chó sủa um: Vành đai thép, dũng sĩ diệt Mỹ. Có cái con mẹ gì. Tụi nó chỉ nhảy cóc nhảy nhái thôi, chớ tình hình căng chút nữa là trốn mất hết cho coi ! Còn tụi quận ủy hả ? Hết cái màn đấu tranh chính trị rồi, bây giờ tới lớp ngồi thum. Một bước cũng không dám rời khỏi miệng hầm. Chúng rút xuống âm đạo mắc cặp như ếch dưới đó. Có gì thì bịt kín, phá thai, nhưng ai cũng biết. Cái vành đai thép đài giải phóng la um, tôi nghe mắc cỡ quá chừng. Đó chẳng qua mấy sợi lông le the chọc cho Đồng Dù nó ngứa mắt, nó giã cho nhừ xương cấp kỳ. Bây giờ bọn thằng Cội, con Nê đã tróc hết rồi. Chúng nó bị xe tăng ủi chạy dồn xuống đây chớ bám gì được mà bám. Tôi nằm ở đây nhưng nghe nó thầy làm anh hùng pháo kích sân bay Biên Hòa, vẫn nghe thấy thằng Đồng mất hết mấy khẩu DKZ và cối 120 ở lòng sông Bé, Tư Quảnh, Ba Tô Đê rửa chân lên bàn thờ. Còn thằng Đông không biết có trở về được không?

….Vậy là xong vụ Hai Giả. Chị Chín mời tôi ở lại ăn cơm nhưng tôi từ chối vì việc nhà quá đa đoan. Thực ra tôi không muốn nghe Hai Giả tố cáo cấp trên thêm. Tố thì cũng được nhưng tôi sợ tôi đồng bịnh tương lân. Nghe y tố tôi cũng tôi theo thi bọn Bắc.kỳ xâm lược sẽ có lý do mà chơi tôi.

Lòng buồn bạc mạng, tôi cùng thằng nhỏ lủi thủi ra về. Tôi mang theo thêm một trời tâm sự của một thằng bạn đường đang gặp chuyện không may. Cứu nó ư? Bằng cách nào. Bất cứ cách nào nếu tôi có quyền có phép. Tôi sẽ bịt các cái mồm bép xép trong cơ quan và sẽ gặp thằng Một Sơn bí thư quận ủy cho nó một trận giằn mặt. Chính nó mới là kẻ đáng thi hành kỹ luật trong khi đó nó lại đi cầm kỷ luật để nện người khác. Cái cung cách muôn thuở trong đảng là như thế. Những tên vô kỷ luật, phá nát kỷ luật nhất là những tên cao cấp. Chính chúng là những tên ký những bản án kỹ luật cho đồng chí mình. Tiêu biểu nhất là tên Lê Đức Thọ. Trên đời này thằng đàn ông nào có vợ mà không quyến rủ bởi nhan sắc hoặc lời êm tiếng đẹp khác?

Cô bé Thơm (tên bé Gái tôi vừa đặt) chạy theo dặn Đỏ:

– Chừng nào rảnh anh ra đây tôi cho cá lòng tong về kho quéo .

Tôi hỏi:

– Lòng tong ở đâu mà có?

– Dạ ở dưới rạch Sơn vô đây cả bầy. Hễ nước lớn cháu chỉ cần rải cám rồi móc hột cơm vô lưỡi câu, quất trên màn nước, một lát có đủ kho cả tộ.

Dường như chưa vơi tâm sự Hai Giả đuổi theo tôi ra tận ngỏ. Y nói:

– Ở đây lúc trước có tàu đi Dầu Tiếng xuống Bình Dương. Bây giờ thì hết chỉ có giang thuyền thôi, nhưng nếu du kích không chọc nó, nó chỉ thả xuôi êm ru không xổ lên bờ viên nào!

Hai Giả nhắc lại chuyện cũ:

– Con nhỏ đó như vậy thì thằng tía nó hẳn không xấu trai phải không thầy? Tội nghiệp, lúc đó bả có hai mươi còn nó mới hăm lăm. Chết bỏ vợ bỏ con. Đau quá ! Tôi biết tôi ở với bà ta là lỗi đạo với vợ con tôi, nhưng thầy rành mà, trước một người đàn bà như vậy ai cũng mềm lòng. Thằng Út Việt ở trên xóm trên kia cà , bị một trái bom bỏ vợ mang bầu. Hầm bê tông cốt sắt cũng không chịu nổi…

Hai Giả nói câu này không ăn với câu kia, chứng tỏ tâm thần không bình thường.

Theo lời mời của Sáu Phấn, sau cuộc họp bàn tròn tay đôi, tôi và Hai Giả đến nhà y ăn bánh xèo, nhưng Hai Giả không đi lấy cớ ở nhà thu xếp công việc để đi công tác, nhưng tôi bắt ép nên phải đi. Tôi muốn an ủi và trấn tỉnh y luôn. Thực tình tôi tội nghiệp y quá:

– Đến tiệc bánh xèo thì cũng lại gặp tôm.

Hai Giả vui vẻ :

– Lại cũng tôm thằng chổng?

Sáu Phấn đem ra một lít rượu trong như mắt mèo:

– Tôm đó thì phải có rượu này mới trị nổi !

Sáu Phấn vừa nói vừa chiếc nhạo bông xanh rồi rót ra ba cái chun có in hình ông Phật và nói.

– Bữa nay coi mòi êm. Chỉ còn ngại ba thằng giang thuyền nữa thôi. Từ Bến Chùa đến Xóm Dược du kích hay chọc nên nó mới bắn ra-phan M79 hoặc đổ bộ lên bờ rượt du kích.

– Có vụ rượt du kích nữa sao anh?

– Có chớ, nó đâu có ngán thứ trường bá đỏ ! Nhưng miệt An Nhơn trở xuống Bến Mương thì không ai làm gì nên nó cũng không làm gì ai.

Tôi hỏi:

– Mình chơi nó vài phát DKZ không được sao?

Hai Giả trả lời dứt khoát.

– Chơi thì được, nhưng đồng lầy, chơi rồi chạy mắc lầy chết luôn!

Sáu Phấn cũng phụ họa:

-Tụi nó kỹ lắm. Nó đi lêu bêu như cá chết trôi như vậy nhưng hễ mình đụng tới nó là nó sừng gai ngạnh của nó lên ngay.

Đang trao đổi ý kiến về dự kiến một trận đánh giang thuyền thì một người con gái bưng bánh xèo trên cái sàng lót lá chuối xanh ra bồi thêm. Tôi nhát trông thấy đã mất hồn ngay. Nàng ta đẹp hơn tất cả những người con gái và đàn bà tôi biết từ trước đến nay. Nàng vừa khuất lưng vào bếp, Hai Giả điệu đàng nói ngay:

– Em vợ Sáu Phấn đó ông bạn trẻ à ! Có lẽ anh ta không chịu nghèo ba năm đâu?

Tôi cười:

– Chịu không anh Sáu?

– Chịu nghèo ba năm thì ăn thua gì, ngặt một điều.

– Điều gì?

Sáu Phấn khom qua bàn xầm xì với tôi. Tôi hoang mang lúc lâu nhưng dùng rượu để trấn áp sự hoang mang đó ngay . Hai Giả xua tay:

– Không sao đâu! Gái một con trông mòn con mắt. Ông Phấn nói toẹt ra cho rồi!

Sáu Phấn tớp chung rượu và gật gù:

– – Chồng nó đi công trường 9 đánh trận Đồng Xoài. Con nó đã năm tuổi rồi. Lính nhà mình cũng bủa lưới phóng lao dữ lắm nhưng phóng cây nào trớt cây nấy.

Sáu Phấn quay mặt gọi vào trong:

– Dì Mười a, còn bánh hết, đem thêm ít cái cho khách dùng!

Cô Mười duyên dáng bước ra. Má đỏ hồng hồng có lẽ vì đứng gần lửa. Nàng có đôi môi đỏ tự nhiên, làn da mặt và cổ trắng như bông bưởi, đôi vai tròn mà từ lúc gặp tôi luôn mơ tưởng được đụng vào. Mười vừa quay vô, Sáu Phấn lại bảo:

– Hết lá đọt mọt rồi dì chịu khó đi ra vượn hái thêm. Coi chừng kiến vàng đái vô mắt rồi khóc ở ngoài không có ai dỗ .

Tự nãy giờ có một ông già ngồi ăn chung mâm tứ trụ với chúng tôi mà Sáu Phấn giới thiệu là cậu Tám. Cậu Tám chỉ nói chuyện đưa đẩy chớ không nhiệt tình. Lúc chai rượu lưng quá nửa câu Tám mới khai pháo:

– Oa hồi trước cũng đi Vệ Quốc Đoàn mất sáu năm, bị thương về nhà làm xã đội luôn tới đình chiến. Sợ ở lại bị trả thù nên bán nhà cửa đồ đạc ghe xuồng dắt vợ con xuống bến Hàm Tân tập kết. Ai dè xuống đó người ta bảo thương binh cỡ tui không có tiêu chửn, cho nên đành dắt vợ con trở về. Nhà cửa bán hết rồi, phải qua bên vợ ở nhờ. Rồi lần hồi tạo lập cái khác ! Bụng làm dạ chịu, chớ kêu ca với ai. Cũng may chánh quyền Sài gòn họ bắt tố cộng sơ sơ rồi thả, không đánh đập gì. Nhờ cố công mào sắt chầy ngày nên kim. Từ 1954 đến 1960 tôi kiếm lại được gấp đôi gấp ba cái tôi đã bán. Hai vợ chồng mới yên vui được một năm thì đến Đồng Khởi. Ừ, đồng thì đồng, dân kháng chiến chống Pháp lẽ nào làm lơ, nên tôi nhảy vào hò hét đốt lửa thổi kèn đu đủ, làm tùm lum. Hồi đó thằng Một Sơn bí thư huyện ủy bây giờ mới có làm tới chức ấp đội thôi. Nó chỉ biết thiến heo chớ biết đảng là cái gì Nó đâu có biết cầm súng trở họng ra hay trở họng vô. Làm việc gì nó cũng hỏi tôi ráo nạo.

Cậu Tám vuốt bộ râu ngạnh trê chép chép cái miệng móm không còn răng và tiếp:

– Sau Đồng Khởi, mình lập được bộ đội và có cả cánh tập kết luồn về. Do đó có hậu cần. Bảy Hốt bây giờ còn đó chứng kiến cho tui . Tui phụ một tay với chả . Gạo từ Bến Chùa cho qua Đường Long Thanh An đều có tên Tám Cần này chèo chống hết. Trực thăng bắn mấy lần tưởng đã lọi giò . May nhờ nhảy xuống sông lặn. Đạn đi sém ba sườn, vết thẹo còn đây. bên Thanh An có một anh bạn già từng tham gia kháng chiến chín năm cũng làm phụ với Bảy Hốt, nhưng chẳng may bị trực thăng bắn chết trên sông Sài gòn gần Bến Chùa. Vợ thằng chả bán quán, có hai đứa con gái như là tiểu thư. Còn bà ta thì uốn tóc quăn, chân giày chân dép, quần lụa áo bông như hoàng hậu. Tôi thấy bà ta trống chân bèn dạ hành tỏ vài phát thử xem thời vận ra sao, chẳng dè cụp ngay. Tôi cũng biết cái thân phận nam nhi thê tử lùm đùm của tôi làm như vậy là sái nhưng mà con mèo thấy mỡ đời nào lại tha cho được? Đàn ông chẳng thằng nào thấy đàn bà góa mà không ve bao giờ.

Hai Giả bật cười:

– Chú Tám nói điệu lắm. Rồi sao nữa chú?

– Nhưng cá vừa cắn câu thì kỳ đả cản mủi!

Sáu Phấn hỏi.

– Kỳ đà cụt đuôi hay kỳ đà dài đuôi vậy cậu Tám?

– Không biết cụt hay dài nhưng đúng là kỳ đà . Thôi, nói gần nói xa không qua nói thiệt. Đó là mấy ông quân khu. Mấy chả tới có cảnh vệ rình rang đóng tại nhà yến tiệc tưng bừng. Tưởng nhậu nhẹt xong là rút lui. Không dè mấy chả ra sau vườn đào hầm rồi trụ luôn. Cảnh vệ gác trước canh sau. Thằng lính hậu cần này đâu có chen lọt được. Mấy lần gặp tui ngoài đường, bà ta ngoảnh ngoảnh cái đầu quăn không nhìn chi thằng lái đuôi tôm ban đêm như ăn trộm. Trên 40 mà gác máy bay thứ nặng, B26 trở lên chớ không có coi đầm già cồng cộc ra gì đâu. Thôi thì nói quách ra cho rồi. Tư lịnh đó mấy chú, không thèm phó tư lịnh đâu.

Tôi chợt nhớ đến chuyện cô xã đội phó cho biết má Hai sang bên đó ở nhà dì Ba và có lần tụi trẻ nó bắt gặp hai cặp chân ló ra vách mùng. Tôi bèn hỏi: .

– Bả thứ mấy vậy chú Tám?

– Thứ ba – Cậu Tám nói luôn – bả có bà chị làm mẹ chiến sĩ ở Phú Mỹ Hưng mình nè. B52 cày đường 15 bả sợ quá bả dông qua ở đó luôn. Nghe nói mấy đứa con gái nhắn bả về để coi mặt thằng rể mà bả còn chùng chình không dám về .

Tôi nghĩ thầm: Thôi, vậy là đích thị ông Ba Xu rồi. Tôi nói:

– Vậy ra chú mới ở bên đó về đây?

– Thì mới tháng rồi chớ lâu lắc gì. Nghe đâu thằng rể cũng là dân mùa thu như chú em vậy.

Tôi nhấp nhỏm như ngồi trên bàn chông. Cậu Tám nhấm nháp vài hớp liên tiếp rồi nói:

– Sở dĩ tôi kể chuyện vòng vo Tam Quốc vậy là vì tôi nghe nói vụ chú Hai này lâu nay. Bữa nay nghe chú về thay thế chú Hai tôi có hơi động lòng ẩn trắc. Thật cũng có đáng trách tí chút nhưng mà phải thương chú ấy nhiều. Ví như xưa kia Thúc Sinh đi học xa bỏ vợ lớn ở nhà lấy nàng Kiều làm thiếp trong khi du học để nhờ lấy sự săn sóc của bàn tay đàn bà mà lo việc đèn sách. ông bố quá nghiêm nên rầy la, nhưng chàng ta đâu có bỏ nàng Kiều. Nếu chàng yêu nàng Kiều mà bạc đãi Hoạn Thư như vua Trụ hành hạ chánh cung thì mới đáng phạt. Còn đằng này mỗi bà đều có phần riêng. Bà lớn ở xa không săn sóc được chồng, bà nhỏ ở gần bên chồng thay mặt cho bà trong việc nâng khăn sửa trấp cho chồng mình, nếu tôi là đàn bà thì tôi càng cảm ơn bà nhỏ. Tôi hỏi mấy chú ông Ba Đình có vợ chưa, ông Năm Lê có vợ chưa mà mấy ông làm như vậy? Tôi dây, tôi cũng có vợ con, có cháu ngoại cháu nội rồi, nhưng mà thấy cái quần Mỹ A nháng qua nháng lại trước mắt, làm sao chịu nổi? Sách có câu: “Vũ vô kềm tỏa năng lưu khách, sắc bắt ba đào dị nịch nhân” mà! Nếu như mấy ông muốn thi hành kỹ luật chú Hai thì mấy ổng phải tự thi hành mình trước, như vậy mới nghiêm minh!

Cả bàn tiệc ngồi im. Thấy không ai hưởng ứng cậu Tám có vẻ ức nên càng nổ máy lớn:

– Ở cơ quan của tôi, ông Bảy Hốt đã nổi tiếng là Hốt, là vì tàu hàng vừa cặp Bến Dược là ổng hốt hết dầu lửa, nước mắm, muối đường gom vô kho hậu cần, dân không còn để mua. Do đó có tên Bảy Hốt, nhưng hốt hàng hóa không đáng nói, còn cái mục hốt kia nữa chớ! Một mình ổng hốt hai ba ổ. Tiền cơ quan ông chi đều đều nên ổ nào ổng muốn là hốt được. Như cái quán mụ Sáu Tỉnh cũng lọt vô tay ổng luôn … Ở đây ông nào cũng con vòng con cỡi hết ráo. Sáu Huỳnh thì chiếm cái quán con Tư The, Chín Lộc thì xực bánh bò, còn Năm Lê thì có vợ trong kháng chiến, có vợ ngoài Bắc rồi về đây vẫn… đâu phải riêng thằng Hai Giả mà bắt tội nó. Tui không phải bà con gì của nó hết, nhưng thấy việc bất công thì lên tiếng vậy thôi.

Sáu Phấn rót nước cho cậu Tám rồi xá xá:

– Cháu lạy cậu, cậu Tám ơi ! Không phải chuyện gì cũng nói ra được đâu. Cái thằng làm lớn ngồi trên ván gõ người ta ăn giỗ, miệng chửi thề bốp trời thì được cho là bình dân, còn thằng lính lãi mà làm như vậy thì bị coi là lỗ mãng. Thằng lớn có vợ bé thì không sao cả, thằng nhỏ liếm láp chút đỉnh thi bị xét xử như kẻ mất lập trường. Đã là người lớn thì có người lớn bao che, ai làm gì được? Tôi thấy anh Hai chẳng phải tội tình gì cho lắm, nhưng vì ở trên hành hạ ảnh nên ảnh thối chí rồi từ lãng công đi đến bất chấp tổ chức. Nhưng tôi làm sao có ý kiến với người ta? Cậu cũng vậy chớ gì cậu Tám.

Cậu Tám đang nhâm nhi bỗng đưa hai tay lôi toạc hai vạt áo nút áo văng vào cả bàn tiệc, trợn mắt:

– Ê ! mày Sáu Phấn, mày nên biết tên già Cần này cũng kháng chiến hai mùa như ai nghe! Chỉ thua thiên hạ là thua cái tài chỉ huy thôi, cho nên bây giờ còn làm lính chạy đuôi tôm chở gạo, coi vậy chớ hổng có sợ ai nghe mậy. Người ta đâu dám cho tao mò tôm sông Sài gòn. Có miệng là để nói chớ ! Đâu mấy chú em khi nào có gặp Ba Tô Ký hỏi ảnh xem tao vô đảng hồi nào? Đảng có nói lấy phê bình và tự phê bình làm phương châm tiến bộ mà. Ai dám mở miệng phê bình mấy ông kẹ thì bị nhai đầu ngay. Tao không có chán công tác mà tao chán người lãnh đạo. Vậy nên tao về luôn bên này không qua Thanh An nữa. Bảy Hốt năn nỉ tao năm lần bảy lượt, tao nói vết thương cũ hành, không có thuốc nên tao xin tạm nghỉ một thời gian.

Mâm nhậu bỗng nhiên mất hứng. Nhưng cũng may con bé Hoàn khệ nệ bưng rổ đọt mọt ra. Sáu Phấn trỏ tôi và bảo:

-Đưa cho ông đó.

Bé Hoàn nhích lại gần tôi. Con bé mặt như hoa, giống in mẹ nó. Sáu Phấn hỏi:

– Cháu biết ai đó không?

– Dạ biết.

– Ai?

– Dạ cậu Hai!

– Cậu Hai nào?

– Dạ con hổng biết.

Tôi đỡ lấy rổ đọt mọt non mỡn, mướt như thoa mỡ để lên bàn. Sáu Phấn lại bảo:

– Cháu vô hỏi má cháu xem đó là ai?

Tôi ẵm bé để ngồi trên bắp vế tôi và hỏi:

– Cháu ăn bánh chưa?

– Dạ cháu ăn rồi.

– Cháu đi học chưa?

– Dạ chưa. Má cháu bảo chừng nào ra ấp chiến lược mới học được.

– Sao vậy?

– Ở trong này trường nghỉ hết rồi.

– Để cậu dạy cho cháu học.

Sáu Phấn bảo:

– Cháu hỏi cậu Hai có gặp ba cháu ở đâu không?

Bé Hoàn làm thinh một chốc rồi nói:

– Má cháu nói ba cháu đi công tác ở ngoài Phước Long.

Tôi hỏi Sáu Phấn.

– Thiệt hả, anh Sáu?

Sáu Phấn nháy tôi rồi bảo bé Hoàn:

– Cháu vô bảo mẹ cháu chiên bánh mau mau đem ra.

Con bé nhảy xuống đất nhanh nhẹn biến vào bếp. Tôi nhìn theo mái tóc đen huyền với nỗi chua xót trong lòng.

Hai Giả nãy giờ ngồi im, chỉ lâu lâu đưa ly rượu lên miệng nhắm khẽ lấy lệ. Cậu Tám quay sang tôi:

– Chú em không nhớ tôi thiệt sao?

– Dạ, xin lỗi chú Tám cháu chưa nhớ ra!

– Nhớ cái vụ chú mày xách giấy của ông Ba Tô Ký lại kho lấy đường sữa và xà bông thơm chiến lợi phẩm của trận Chơn Thành không? Nhớ kỷ xem ai phát cho chú !

– A! cháu nhớ ra rồi!

Cậu Tám không để cho tôi nói, hỏi tiếp.

– Ba Tô Ký ở đâu bây giờ? Còn ông Tám Nghệ nữa?

– Dạ anh Ba Tô Ký thì về trong này rồi, nhưng trở ra Bắc vì đau .bao tử: Còn anh Tám Nghệ thì làm kinh tài ở trên Cao Miên. Ảnh già rồi, đau yếu xề xệ đâu còn như xưa, chú Tám!

Cậu Tám thở dài rồi quay sang thấy Hai Giả trầm tư thì bảo:

-Đừng có buồn mày Hai. Con người không phải giá trị chỉ có bấy nhiêu. Hồi xưa đánh Tây, tao nổi tiếng là bán trời không mời thiên lôi. Chơi bời sái nát công tác chạy đều thì thôi. Trông đội tao, tao chỉ phục mỗi một mình Hoàng Thọ và anh Bảy Phong Vân thôi. Hai ông này.phá phách phụ nữ kinh khủng nhưng đánh giặc thì kinh hồn. Còn tao chỉ tiếc một điều là trong trận La Ngà có một con đầm sợ mình giết chết, nó tuột váy trước mặt chiến sĩ. Áy cha cha ! ăn mắm kho hoài xót ruột gặp bít-tết lại ngó lơ, uổng biết chừng nào. Nó về bên Tây, chắc nó cho rằng lính mình bị thiến hết ráo.

Hai Giả bật cười và tươi hửng lên:

– Tôi được nghe ông tân trưởng ban nói những lời chân tình hồi sáng, bây giờ lại nghe chú Tám rót thêm, thật tôi hả dạ vô cùng !

Hai Giả cầm nhạo rượu rót đầy hai chung.

– Kính chú Tám một ly – rồi quay qua tôi – Đồng chí nhỏ hơn tôi một con giáp nhưng cũng kính mời một ly tri ngộ .

Nhìn gã đại úy già rưng rưng nước mắt tôi thấy thương và thông cảm anh ta hơn bao giờ hết. Cậu Tám rót rượu tạ lại Hai Giả rồi cả bàn cùng vui vẻ cạn ly.

Tan tiệc tôi ra về. Hơi ngà ngà say, lòng buồn não nề. Không có ai bên cạnh để tâm sự. Thằng Đỏ thì nhỏ quá biết gì cuộc chiến tranh lớp trước. Những cán bộ lứa Hai Giả, Sáu Phấn, Ba Tố… đều kháng chiến hai mùa cả. Đi kháng chiến càng lâu, tâm sự càng nặng nề u uất. Thằng Đỏ mắc võng và bảo tôi:

– Anh ngủ sớm đi, mai còn họp Ban.

Tôi leo lên võng nằm lắc lư ngó sao trên trời nhấp nháy. Bỗng bật lên trong tâm trí tôi một bài hát xưa nhất trong những bài tôi thuộc, bài Nhớ Mẹ của Đức Quỳnh.

Chiều mờ trông xa rơi ngoài chân mây Lòng ngổn ngang như vơi như đầy Lòng nhớ những ai bên trời xa xăm thở than Mẹ ơi ở lại đừng buồn chi vì phải xa con. .. Xưa lúc đi lòng con đã quyết phân ly Không hề lưu luyến bao tình thê nhi Nay bởi đâu lòng con tưởng nhớ tới khi Bao người nhớ con nên nặng cơn sầu Rồi đây đến khi thân này xông pha gió sương Buồn chăng hỡi mẹ nhưng ngày vẻ vang gần về.

Tôi vừa dứt tiếng thì thằng Đỏ nói:

– Anh hát bài gì buồn dữ vậy anh? Tôi muốn khóc nè!

– Tao cũng buồn lắm.

– Phải bây giờ còn sớm tôi với anh ra nhà chị Bảy Mô biểu chỉ đờn nghe cho đỡ buồn.

– Đờn nghe còn buồn hơn nữa mày ơi ! Mà đờn đứt giây hết rồi.

Thằng Đỏ làm thinh. Một lát tôi hỏi:

– Mày có muốn về nhà không, tao cho phép mày về ít ngày.

– Không anh ạ . Lúc này cơ quan đang chấn chỉnh mà về coi sao được.

– Về phép chớ phải bỏ ngũ sao.

– Sợ ông ngoại em bắt ở nhà luôn. . . với sợ đi ngang Láng Cát.

– Láng Cát là cái gì đó mà sợ?

– B52 cày trận D8 đánh ở quốc lộ 1. Ngó thấy rùng rợn lắm anh à. Nó bào láng tè hết không còn một cái cây. Chỗ đó không đi xe đạp được.

Một loạt M79 xa xa. Thằng Đỏ ngồi dậy:

– Nó bắn ở Bến Dược. Chắc mấy ông du kích lại chọc. Ờ kìa, trực thăng soi !

Tôi nghĩ thầm: Tụi này nó chơi mình đủ 35 kiểu rồi còn một kiểu nữa là đủ trăng-xít ma-nhe. Còn mình thì trong tình trạng cố ngồi dậy để đánh trả, nhưng không biết đánh bằng cách nào. Chiều nay có lẽ là buổi chiều rảnh rang nhất trong đời thằng Lê Dương cách mạng của tôi. Không có việc gì làm. Không có ai để nói chuyện. Tôi bèn gạ chuyện thằng Đỏ :

– Mày ở nhà làm gì Đỏ?

– Dạ chăn trâu cho ông ngoại em!

– A! vậy chắc ổng muốn bắt mày về là để chăn trâu cho ổng chớ gì?

– Không phải đâu anh!

– Chứ tại sao?

– Tại vì ngoại em sợ sẩy em mất. Em là cháu nội và cháu ngoại độc nhất của hai bên.

Thằng Đỏ dùng tiếng sẩy một cách bất ngờ. Không hiểu tại sao? Đó là tiếng để dùng cho trẻ hài nhi. sẩy thai, sẩy tay trong tháng. Có lẽ vì cái chết ở đây dễ đàng và nhanh chóng quá chăng. Tôi chạnh nghĩ tới gia đình. Mẹ tôi nuôi tôi đến lớn, tôi đi hoang đàng cách mạng, tới nay chưa sẩy. Nhưng trên đất Củ Chi này lỡm chớm gai chông, tua tủa bom đạn, ngày nào đêm nào cũng có máu chảy. Không một ngày nào vắng tiếng súng … Tôi cố nén tiếng thở dài.

Tôi sực nhớ hồi tôi ở miền Tây sắp đi tập kết thì bà ngoại thằng Phước vô bắt nó về. Thằng Phước là bạn cùng ở trại Đồng Tử quân với tôi. Ba nó là Chi Đội phó chi đội Bình Xuyên thời đầu kháng chiến cùng với Sáu Hoạch lập chiến khu ở Rừng Sát. Trong lúc hỗn canh hỗn cư, ở ngoài Bắc đưa một người vào làm chính trị viên tên là Lê Hiền. Bố nó và Sáu Hoạnh không phục bị bắt giam một lúc rồi thả. Sau này khi Nguyễn Bình bị gọi về Trung ương và bị phục kích chết thì cho đội Bình Xuyên tan rã lớp bị sát nhập vào đơn vị khác, lớp bỏ về nhà, Lê Hiền lấy lại thế bắt hai kẻ cựu thù giết ngay.

Bà ngoại thằng Phước vô bảo: “Người ta ở ngoài Bắc vô trong này giết ba mày, mày còn ra ngoài Bắc làm gì?” Thế là thằng Phước ngoan ngoãn theo bà ngoại nó về nhà khỏi đi tập kết: Tôi hiểu rõ: nếu hồi đó ba má tôi vào bắt tôi về, có phải tôi khỏi cái nạn tập kết không? Cách mạng âu cũng chỉ là một chuyện may rủi chớ không phải là lập trường.

Có lẽ thằng Đỏ cũng nhớ gia đình nên nó hỏi:

– Gia đình anh đông con hôn?

– Đông.

– Anh về có móc gia đình chưa?

– Có móc rồi ! – Tôi nói luôn không đợi nó hỏi tiếp – Ba tao vô có một mình. Má tao và các em tao không vô được.

– Em của anh chắc lớn hết rồi chớ đâu cỡ tôi.

– Ừ lớn hết! – Tôi nói lướt qua chuyện khác vì sợ nó biết vụ thằng em trai Thủy Quân Lục Chiến của tôi – Đỏ à, hôm nào rảnh rỗi, mày dắt tao về nhà mày chơi. Đại khái là nhằm ngày đám giỗ… ăn no cành rồi tao ngủ trên ván gõ. Tao thèm ngủ trên ván gõ buổi trưa quá hà. Hồi năm ngoái tao công tác trên Phú Mỹ Hưng, tao ở nhà bà má Hai, tao ngủ ván gõ đã cái lưng hết sức, nhưng năm nay tao trở lại, cái nhà cháy tiêu rồi.

– Ừ để chừng nào có đám giỗ tôi với anh về . . . À mà gần tới rồi, giỗ hội anh ạ !

– Giỗ hội là giỗ gì?

– Lần đó tiểu đoàn 8 đánh ngoài quốc lộ I có 28 chiến sĩ hi sinh đem về Phú Hòa Đông chôn. Sau đó, B52 rắc bom xuống Láng Cát chết ba mươi mấy người du kích và thường dân. Do đó nhằm ngày này người ta đi ăn khắp làng chỗ nào cũng có giỗ, dân giỗ dân lẫn bộ đội. Vui lắm.

– Cái thằng! Đám giỗ mà vui gì mậy?

– Dạ vui chớ anh ! Nhà nào cũng nhậu mà không vui sao .

– Hồi chín năm cũng có giỗ hội như vậy. Tây ruồng bắt dân gom lại ở ven Rừng Sát rồi dùng FM ria chết hết. Có đến trăm người, gồm cả đàn bà con nít. Bắn xong nó rút rồi cho máy bay tới bỏ bom tan xác hết. Sau đó người ta gom xương thịt còn lại, đâu có biết của ai là của ai, cứ đào một cái hầm rồi bỏ xuống lấp đất lại gọi là Mã Chung. Hàng năm đến ngày thảm sát, người ta đem lễ vật và nhang đèn ra cúng vái. Nhưng chưa hết. Tụi Tây còn gom cả trăm con trâu lại rồi bắn hết. Dân xẻ lấy thịt lấy da, còn lại thì đào một cái hầm lớn vứt xuống, lấp đất lại, kên kên quà quạ. bay đến vần vũ đen cả một góc trời. Đó gọi là Mã Trâu.

– Ở Trảng Lớn có một hầm cơ quan gồm mười mấy người bị tụi Đại Hàn khui hầm. Tụi này ác hơn Mỹ anh ạ . Nó tìm được miệng hầm là tông lựu xuống chớ không có kêu Vi Xi như Mỹ để cho cán bộ giơ tay đầu hàng đâu! Tụi nó khui là kể như banh xác.

Tôi không muốn nghe chuyện buồn thảm nữa nên bảo thằng Đỏ kêu mấy cô cậu đến nhà bếp đánh tu-lơ-khơ chơi.

Đây là trò chơi của lính Ba Tàu. Cán bộ ta đi chỉnh huấn bên đó học được đem về bên này, rồi vào Nam đem theo luôn. Đơn vị, cơ quan nào cũng chơi. Có nơi gầy sòng đánh mê quá biệt kích tới không hay bị bắn chết hết.

Tôi sang chơi ít ván nhưng thấy nhiều cô cậu ngồi ngoài chực chờ nhảy vào, nên nhường cho họ mà về hầm nằm. Tôi tính đến chuyện rút lui cho đơn vị. Bây giờ khu giải phóng không rộng mênh mông như thời kháng chiến chống Pháp. Thời đó đi bộ tối ngày không đụng đồn bót. Riêng ở miền Tây thì có cả ba tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu giáp ranh với nhau tạo thành một căn cứ địa có lẽ còn rộng hơn Diên An ở bên Tàu. Bây giờ thì ngủ thức dậy thấy vùng giải phóng teo nhỏ lại như miếng da lừa. Củ Chi có mười lăm xã nhưng nó như một cơ thể mà mỗi khớp xương là một cái chốt đồn, tất cả gồm ba chục cái, ở trên ngực là tảng đá Đồng Dù và giữa rốn đóng lút cây cọc sắt Trung Hòa. Bộ đội nhân dân lao nhao lúc nhúc ở những vùng giải phóng hầu như bán khai, đi tới chuyện lui đụng đầu nhau lụp cụp. Đường vừa rộng thênh thang vừa ngột ngạt là địa đạo. Dù không ham chui, cuối cùng rồi cũng phải chui. Do đó tôi đã đi tìm ông xã đội Ba Xây để tìm cách làm cho địa mình thôn liền xã, xã liền thôn. Ba Xây là chủ nhà cho ông Năm Lê đóng cái hầm Đờ-cát-tri mà hôm nay tôi đến thường xuyên. Một hôm tôi gặp ông xã đội đi câu ở Rạch Sơn về. Tôi bèn gọi lại mua tôm cá của ông ta rồi tự giới thiệu luôn. Xong mới đề nghị phối hợp công tác độn thổ nghĩa là thông một trong mấy cái hầm cá trê của H6 ra địa đạo xã, cũng như rạch nhỏ chảy ra sông lớn, để tìm đường sinh lộ . Đến giờ này tôi cũng vẫn còn hơi tin rằng Địa đạo có bề dài… dài lắm và xuống dưới đó nằm vỗ bụng chơi, Mỹ có biết cũng không làm gì được. Có thể cho bộ đội dưỡng sức dưới tầng thứ ba vài tuần lễ…

Ông xã đội nói:

– Tôi còn được một khúc để tôi nói đồng chí nghe. Thấy đồng chí làm việc với ông Năm thường xuyên thì tôi biết đồng chí là người có trách nhiệm cao. Tôi không giấu giếm gì. Cái khúc còn lại đó tôi đã cho ông Năm thông nòng rồi, hễ bị kẹt thì từ hầm ông có thể bò ra đường chính. Nhưng nó ngắn lắm. Nằm đó chờ tình hình êm rồi bò ra chớ không đi xa, cũng không nằm lâu được.

Tôi gạn hỏi:

– Vậy không sang Phước Thành Phước Hiệp được à?

– Đồng chí nói gì?

– Tôi muốn nói là địa đạo xã nhà không ăn thông sang các xã bên cạnh được à?

– Ăn đâu mà ăn. Quân ngũ nào mà đào cho nổi bốn, năm cây số địa đạo. Hồi sau Đồng Khởi thì có đào, nhưng cũng đâu có được cây số nào? Hai xã An Nhơn và Nhuận Đức này đất cao và cứng nhất, muốn có nước uống phải đào mười một thước trở lên, nhưng đất pha đá ong, cuốc bổ nháng lửa chớ đâu có phải như đất mặt ruộng hay sao? Ai có đào một cái hầm bí mật thì mới biết địa đạo đào khó khăn dường nào. Đào một tấc hộc một búng máu chớ đâu có như ăn giỗ mà người ta bảo là địa đạo thôn liền thôn.:.. ờ ờ thôn liền thiệt đấy. Lâu lâu tôi cũng có nghe đài Giải phóng nói dữ quá tôi thấy hơi kỳ kỳ. Nhằm bữa hội nghị, tôi mở to ra cho ai nấy nghe chơi thì nhảy đè trúng y cái buổi phát thanh về dũng sĩ và địa đạo. Lại rủi hơn nữa có mặt tụi con Bảy Mô, Bảy Nê, Út Nhỡ, Ba Cấm ở đó . Có luôn Tư Gừng, Năm Cội anh hùng đánh xe tăng nữa. Tụi nó vừa nghe vừa bụm mặt, con Mô nó chạy ra ngoài. Nói thì nói vừa phải thôi, nói lố quá nghe hơi chổi lỗ tai. Mà không phải chỉ tụi dũng sĩ nghe thôi đâu. Còn đồng bào nữa chớ. Ở chỗ khác nghe tưởng thiệt, còn ở đây người ta cười chết! Như vụ con Bảy Mô được kêu là dũng sĩ toàn miền Nam. Thiệt ra tui biết nó có bắn sẻ đâu chừng vài chục phát CKC chớ đâu có chết thằng Mỹ nào. Giỏi lắm là bị thương một thằng Mỹ thôi. Nhưng nghe đài người ta tưởng đánh Mỹ dễ như ăn gỏi.

-Đó là lối tuyên truyền cách mạng đồng chí à! Cũng như ngoài Bắc đâu có bắn rớt hơn hai ngàn máy bay Mỹ, nhưng đài phải la lên trong các buổi phát thanh. Như vậy địch nó nghe nó mới sợ, mình nghe mình khoái.

– Địch nghe nó không sợ mà nó lại moi móc càng hung. Còn mình nghe minh không khoái mà lại mắc cỡ thấy bà. Tiên triền như vậy tụi con Bảy Mô nó hết dám nghe đài Giải phóng nữa. Còn bà con nghe rồi thì gặp tụi nó, bà con bảo: “Tụi bây giết Mỹ kiểu đó hổng có mấy tháng mà hết sạch tụi Đồng Dù.” Bác Tám Càn gặp tui, bác ghẹo: “Nghe tụi nó diệt Mỹ mà ham, tao cũng muốn môn dũng sĩ cái quá ngặt răng cỏ không còn.”

Tôi nói:

– Vừa rồi tôi có đào hầm với đội Út Nhỡ, tôi thấy phấn khởi lắm!

– Tụi nó đào ở đâu, tui biết mà. Tụi nó bị xe tăng càn tróc cho nên chạy lủi về bám ở vườn trúc ông Tư Ất chớ đâu, nhưng đào gặp xương Cao Đài rồi bỏ dỡ, hiện giờ chúng nó tính ra Đồng Mã. Nhưng ở Đồng Mã còn nhiều xương hơn nữa. Đã gọi Đồng Mã mà không hiểu đó là chỗ gì hay sao lại đi đào hầm đào hố. Mấy đứa con nít không biết gì hết. Tụi đó ham vui làm lếu vậy chớ có đào được khúc địa nào. Tụi nó còn xin chui của tôi nữa là khác. Để rồi coi, tụi nó lêu bêu, nếu có xe tăng càn, không có hang mà chui nữa là địa. Tụi nó nhảy cóc nhảy nhái vậy thôi. Tình hình mới hơi găng một chút xíu là đã có đứa lặn mất rồi. Găng chút nữa thì ông nội ai bới không ra một đứa cho mà coi.

– Bây giờ không xài địa nữa à đồng chí?

– Xài thì cũng ráng xài trong trường hợp kẹt lắm chớ còn bình thường thì thiệt ngán. Sau vụ B52 càn đường 15 và Láng Cát thì tụi tui dựng tóc gáy hết trọi trơn. Bom dùi cạn nhất cũng sáu thước, còn sâu thì mười thước, hỏi đồng chí hầm, địa nào chịu nổi? Trúng tệnh thì đã đành rồi, còn không trúng thì cũng bật nắp hoặc đội mồ lên mà chạy chớ ở đó kênh mình à ? – Ba Xây lắc đầu – Tụi B52 này hổng biết ở đâu tới vậy đồng chí?

– Ở bên đảo Gưam, Thái Lan.

– Bộ nó có mắt sao rắc ngay trân vậy? Nó rắc ngay kẽ giữa Đồng Dù và Trung Hòa, Trung Hòa và Cầu Xe, chỉ cách đồn một cây số.

– Nó có máy tính đồng chí à !

Ba Xây ngồi ngớ ra. Tôi thấy tội nghiệp người nông dân này hết sức. Anh đâu có biết Guam, Thái Lan là đâu, B52 là loại máy bay gì bay cao và nhanh cỡ nào. Cứ nghe ở trên bảo chống Mỹ là chống Mỹ . Đem cả súng ngựa trời hầm chông, chông ba lá ra chống xe tăng. Đem tóc đàn bà con gái ra giăng lưới cản nòng đại bác. Trong lúc đó bọn đĩ đực Hà Nội có cái tên rất huê mỹ Bộ Chính Trị thì chạy lăng xăng quanh mâm hút và tiệc đầu lâu. Vì dân Nam kỳ quá tin tưởng nơi bác Hồ nên bác xúi gì họ cắm đầu làm nấy, nói gì nghe nấy. Bảo đi tập kết hai năm thống nhất trở về . Đi ! Bảo lên rừng núi xây dựng nông trường xã nghĩa. Đi! Bảo quăng cuốc lội hai ngàn cây số Trường Sơn với hộp muối trong lưng. Đi ! Bảo đội bạt bom dành chiến thắng. Đội ! Bảo liều mạng đánh thành phố vào Tết Mậu Thân. Làm! Bảo cúi đầu làm nô lệ cho dân Bắc kỳ ! Ờ cúi thì cúi nhưng cúi hai, ba chục năm mỏi cổ quá, bây giờ ngẩng dậy đập thấy mẹ tụi mày.

Nhà Ba Xây đã cháy, cái nền cho Năm Lê làm hầm, vợ con đi ra ấp chiến lược còn mình thì bám trụ ở lại đi câu tôm câu cá kiếm ăn và làm xã đội chỉ huy ba đứa du kích phá phách hơn quỉ. Tôi hỏi vớt vát một câu cho mát ruột bồ nhà:

– Vậy tôi nghe nói hồi kháng chiến chống Pháp, địa đạo rộng có thể đưa dân làng và cả trâu bò xuống được, sao mình không sửa lại xài hoặc đào theo lối đó?

Ba Xây trợn mắt:

– Hồi đó ông già tôi là chủ tịch xã chớ ai. Ỏng kêu hàng xóm ráp đào dược mấy khúc. Tôi còn con nít nhưng cũng có xuống chơi một lần. Xuống dưới đó tôi ngộp, tôi khóc ré lên, ổng đẩy tôi lên liền.

-Còn người lớn không khóc à?

– Tôi hổng thấy người lớn nào xuống hết. Còn trâu bò thì làm sao mà xuống địa đạo? Nếu muốn đưa trâu bò xuống thì miệng địa đạo phải bằng nửa chiếc đệm hay sao? Cái phép làm miệng địa đạo là phải mở cho khéo và càng nhỏ càng tốt để ít bị phát hiện, làm to như vậy thằng đui cũng mò ra, vậy thì chui xuống là bị nó nắm đầu kéo lên hèn. Đây kìa, mấy đứa du kích đó , nam thì xuống tuốt nhưng nữ thì vú mớm vung nhẩy như vậy xuống bị kẹt ngang nhưng ráng chịu chớ đâu có ai làm nắp rộng đặc biệt cho tụi nó?

– Theo đồng chí trong quận mình xã nào dễ đào hầm và địa đạo nhất?

– Chỉ có vài xã như Phú Mỹ Hưng, An Phú, Phú Hòa, An Nhơn và Nhuận Đức thôi. Còn mấy xã kia đất thấp chỉ đào hầm chớ không chơi địa được. Nhưng ở đây, dầu có đào xong rồi cũng phải coi chừng coi đổi thường xuyên, nếu cứ bỏ hoang, đụng chuyện bất thình lính mà lao xuống có khi lại bị rắn cắn hoặc địa lở , sụp, bít hết, mình chui xuống là ngộp ngay.

Tôi hỏi:

– Rắn ở đâu mà có?

– Nó chui theo lỗ hơi đồng chí ơi. Có người bị rắn cắn chết luôn ở dưới, không tìm được. Mãi mấy tháng sau, người ta lại gần hầm, nghe thum thủm bèn giở nắp ra, mới biết. Giặc chưa đánh đã chết !

– Rồi làm sao?

– Thì cứ để vậy đắp nấm mả bên trên chớ quân ngũ nào mà đào móc lên cho nổi!

Tôi bèn ngồi xít lại, bẻ que cây vẽ sơ đồ dự kiến địa của H6 cho Ba Xây coi và hỏi:

– Cho tôi trổ ngách ra địa chính của đồng chí được không?

– Hồi trước thì tôi có mấy trăm thước địa công cộng ở rải rác khắp xã. Bây giờ đã sụp hết, chỉ còn mấy chục thước cá nhân thôi, tôi hiến cho ông Năm Lê rồi, có bề gì thì tôi chạy cà còng như thỏ rừng vậy.

Sau lần thương lượng với Ba Xây, tôi không tha thiết tới vụ địa nữa. Tôi biết y nói thiệt về tình trạng địa chung, còn địa cá nhân thì mở ngách ra làm gì. Đó chẳng khác nào vào nồi gọ chuột, gom lại đó để cho người ta dễ tóm. Ba Xây nói xong tôi mua tôm cá. Anh ra về.

Tôi ra đứng ngoài sân hóng gió cho mát một chút để sửa soạn xuống hầm mơ tiên. Giờ này là giờ cao điểm mà nghêu ngao trên mặt đất thì không có lợi. Không Đồng Dù thì Trung Hòa, không thì Bến Cát Lai Khê cũng giã gạo. Có khi nó giã chày đôi chày ba nhảy xuống hầm không kịp. Ba lần nhậu ở nhà Lụa Là, ở nhà bà ngoại và nhà Sáu Phấn đều bị giã hết cả .

Tôi vừa định độn thổ thì… Pháo sáng nổ lóe trên nền trời Bến Cát. Tôi quay lại, màn đen ở phía rừng Lộc Hưng lại vỡ ra, đó là bót Cầu Ván trên đường số 6 gần bót Cầu Xe, rồi pháo bông lại nổ dây chuyền liên tiếp ở Trung Hòa, Suối Cụt, Củ Chi và một dãy dài trên quốc lộ I, hình như có báo động. Cuối cùng là pháo Đồng Dù lên tiếng gầm về phía Hố Bò. Tôi thoáng nghĩ: không biết đám con chị Tám Khỏe và con Rớt có xuống hầm kịp không thì có bóng người chạy vụt tới nhủi vào mình tôi.

– Anh Hai !

– Ai vậy? Mười hả ? Em đi đâu mà bồng con nhỏ thế này.

– Xuống hầm mau để nó nện tới.

Người đàn bà vừa thở hổn hển vừa nói:

– Con Hoàn… nó đòi ra anh!

– Giờ cao điểm nguy hiểm lắm, sao đi vậy? Ơ kìa pháo sáng chỗ nào vậy Mười?

Mười đưa con cho tôi bế rồi nói: .

– Đó là Đức Hòa của Sư Đoàn 25 Sài gòn. Tụi đó hay thọc vô nhà em lắm.

Tôi bế bé đi xuống. Mười theo sau. Tôi bảo Mười ngồi trên thùng gỗ thông, để bé lên võng và ngồi xuống tấm ni-lông trải trên đống rơm thằng Đỏ mới quơ về. Căn hầm sơ sài còn nồng mùi đất mới, vách hầm lam nham, nhưng không khí bỗng nhiên ấm cúng lạ lùng: như một cặp vợ chồng với một đứa con bên ngọn đèn mờ.

Đôi mắt bé Hoàn đen lay láy hướng về tôi. Tôi chỉ làm quen với bé trong lúc ăn cơm ở nhà Sáu Phấn. Mười bảo nó tôi là ba nó, đi Phước Long mới về.

Mả Đà Sơn Cước, anh hùng tận Phước Long ra đó, mấy ai về!

Lão Hồ tặc ác thật. Lão là tội phạm lớn nhất lịch sử. Lão giết không biết bao nhiêu người Việt Nam trong Cải cách ruộng đất, ở Trường Sơn, ở Mậu Thân, lão gây ra không biết bao nhiêu cành sanh ly tử biệt. Dân Việt Nam ngày nay tan nát nhếch nhác do chính cái tên thằng cha già hại dân tộc này. Mười là em vợ Sáu Phấn. Chồng Mười là trung đội trưởng, về Nam năm 60. Cưới Mười ngay khi về quê ở Tân Phú Trung gần quốc lộ I và Cầu Bông. Nhà chồng có máy xay lúa. Nhưng gia đình đông con nên Mười không làm dâu mà về ở bên quê mình.

Bé Hoàn còn nằm trong bụng mẹ thì cha đã trở ra chiến trường miền Trung. Bé lớn lên hỏi ba đâu. Mười bảo ba đi bộ đội. Bé hỏi bộ đội là cái gì? Mười không trả lời được.

Hồi chiều khi tôi tới nhà Sáu Phấn ăn bánh xèo, chỉ thấy Mười thấp thoáng mà đã mơ. Bé Hoàn hỏi ai vậy. Mười buột miệng bảo: “Ba con đó!” Một sự nói dối tàn nhẫn nhưng không đáng trách. Thế là bé Hoàn đeo tôi, gọi tôi bằng ba ngọt. Tôi cũng gọi nó là con với tất cả tình cảm của một thằng đàn ông ngoài ba mươi chưa có vợ. Hoàn đòi học. Tôi vẽ mấy chữ cho Hoàn đánh vần. Chữ gì thì chữ, không phải chữ Staline. Tôi lấy giấy bút và tập và có hình bìa ba cô gái Nam Trung Bắc của họa sĩ Lê Trung, dở trang đầu sỗ vài sỗ đứng rồi đưa cho Hoàn bảo làm theo. Mười vuốt đầu con:

– Viết đi con rồi ba khen giỏi.

Tội nghiệp cho cả ba người . Người mẹ nói gạt con. Thằng lính Lê Dương bất ngờ được nhận làm cha. Đứa bé gọi người lạ bằng cha. Cả ba đều tự nguyện. Thật là oái oăm.

Tôi càng thấm thía bài hát của nhạc sĩ Đức Quỳnh:

Xưa lúc đi lòng con đã quyết phân ly Nay bởi đâu lòng con tưởng nhớ tới khi. . .

Đúng vậy. Khi còn trẻ thích đi cho xa nhà . Ngủ nhà người ta, ngủ ngoài bờ ngoài bụi cho có vẻ tráng sĩ. Nay mệt mỏi chán chường mới ân hận: Sao mình đi làm gì vào cái ngữ này.

Tôi thương con nít không chỉ là tính trời phú mà còn vì thèm kêu một tiếng con đúng nghĩa. Bé Rớt, bé Hà, bé Nga, đứa nào tôi cũng dạy được ít chữ rồi đi. Tôi đi đứa nào cũng ôm chân tôi mà khóc: “Cậu Hai chừng nào trở lại?” Tôi hứa sẽ trở lại nhưng chắc không bao giờ. Nếu tôi ở nhà thì Duyên đâu có đau khổ. Và chúng tôi đã có ít nhất hai, ba mặt con. Đứa lớn nhất đã mười tuổi. Nhưng vì đi lêu bêu theo ba cái cách mạng rỡm, chẳng đến đâu mà bây giờ không ngờ như cây trụi lá không hoa quả. Càng nghĩ càng thương má tôi vô cùng. Già rồi mà chưa có cháu nội đích tôn. Trẻ con khóc trẻ con cười, trẻ con học trẻ con chơi, bé gái bé trai, tất cả đối với tôi đều kỳ diệu. Tôi hỏi Mười:

– Sao đặt tên Hoàn?

– Ba nó đi hồi em có bầu ba tháng dặn đặt là Hoàn có nghĩa là ảnh hoàn hương, ảnh sẽ trở về.

-Rồi đứa tới là gì?

Mười ngồi làm thinh, mắt chớp chớp. Tôi thầm nghĩ: thằng này chọn vợ khéo thiệt. Đẹp như bức tranh. Ra đường ai nghĩ là đàn bà có con ! Bỗng nhiên nước mắt nàng chảy ròng ròng. Nàng đưa bàn tay lên quệt ngang, rồi cười ngượng:

– Đứa tới thì anh đặt.

– Bậy nào! – Tôi suýt nhảy dựng lên – Không thấy ông Hai Giả bị kẹt đó sao?

– Ổng có vợ, còn anh, em nghe anh Sáu nói …

– Nhưng chồng con em như vậy. Anh không muốn động tới hạnh phúc của đồng chí anh?

Mười không nói gì, đưa mấy ngón tay nhỏ xíu run run moi móc trong túi hồi lâu mà không lấy được vật gì ra. Bên ngoài pháo bông lẫn pháo tre Đồng Dù bắn như mừng đám cưới.

Mười đã móc được mẫu giấy cầm nơi tay. Môi nàng cắn lại nước mắt tuôn tràn. Lần này nàng không quệt nữa. Mười đưa cho tôi mẫu giấy.

– Anh xem bằng khen của em nè!

– Khen gì? Bộ em đã từng đi bộ đội. Dũng sĩ hả?

Mười cười như mếu, hít hít. Cặp môi xinh đẹp húp nước mắt.

– Anh đọc rồi biết.

Tôi dần dần mở tờ giấy ra. Nó chỉ bằng bàn tay. Chữ đánh máy, những chấm chấm đen dài dằng dặc, mấy chữ bằng mực nguyên tử. Tôi biết ngay. Không cần đọc. Đó là những chữ mang đến nỗi bất hạnh nhất cho một người đàn bà, cho một gia đình. Nó được sản xuất hàng loạt dưới thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhưng gia đình những tên Lê Dương trên Trường Sơn không nhận được cả tờ giấy tệ hại này: Giấy báo tử. Tôi bàng hoàng cả người. Một người đàn bà xinh đẹp trẻ măng như thế lại mất chồng. Một đứa bé mất cha từ khi còn trong bụng mẹ. Tôi không còn biết nói gì. Nói gì?

Hình như Mười đã qua cơn khủng hoảng tinh thần. Nàng bình tỉnh trở lại:

– Em không cho ai biết, nhưng người ta vẫn biết. Em không lập bàn thờ, không đốt nhang, sợ con hỏi. Ảnh ra đi có ba tháng thì chết. Đâu ở Phước Long. Mấy ông xã ủy cũng tới lui nói dèm. Em không dám phản đối. Chỉ mặc đồ rách rưới, để mặt mày tèm lem, tóc tai bù xù. Khổ lắm anh ạ.

Tôi thấy một thứ tai nạn lại sắp xảy đến cho tôi. Làm sao tránh. Mà có nên tránh không?

– Em buồn lắm, nhưng không muốn về bên chồng vì sợ ba má ảnh bắt con Hoàn. Mất nó rồi, em sống với ai? – Mười nói liên miên như trong cơn mê – ảnh cũng đẹp người như anh vậy, nhưng chắc không có tài bằng anh. Anh!

Mười đứng dậy đến gần bên tôi, ngồi ngã đầu vào vai tôi. Bé Hoàn đã mệt mỏi gục đầu trên trang giấy viết dở. Tôi đỡ nó lên võng, rồi loay hoay không biết ngồi đứng ở đâu cho tiện.

Mười với tay lôi tôi ngồi lại chỗ cũ, thầm thì:

– Anh ! Anh đừng khinh em tội nghiệp nghe ! Em không phải như tụi dũng sĩ cười cợt giởn hớt và lang bang rồi đi phá thai đâu. Nếu em muốn, em chỉ cần ngoắc một cái, thiếu gì người chạy tới. Nhưng em không thương ai hết. Không hiểu tại sao em thương anh ngay. Có lẽ tại anh giống ba con Hoàn .

Nàng ôm và hôn tôi như mưa và thầm thì:

– Anh! Anh cho em xin một đứa con để con Hoàn có bề gì thì em khỏi trơ trọi. .

Ôi chiến tranh ! Ôi Tây Lương Nữ Quốc ! Biết chừng nào tôi mới thoát ra khỏi cái Củ Chi Quốc đầy góa phụ và con gái sợ chết, chỉ mong có con trước khi chết này?

Tôi đã cho nàng tất cả những gì nàng mong muốn. Với nàng tôi được biết cả tình yêu xác thịt lẫn tâm hồn: Tình vợ chồng.

Tiếng Sét Ái Tình và Tiếng Sấm Bom Đạn

Chương 52 Cái chết lãng xẹt của một đại úy pháo binh.

< Tôi đi xe đạp lên ông Năm Lê để trình bày kế hoạch tác chiến. Lòng luôn luôn bị vương vấn bởi những cuộc tình bất ngờ. Vừa dứt đường tơ với Ua-Chia thì gặp Mô . Vừa tạm rời Mô thì lại rơi vào tay Mười. Mười có cái đẹp hồn nhiên, khỏe mạnh. Nàng không cần làm duyên mà cũng đã duyên dáng. Đứng trước nàng tôi luôn luôn lúng túng, còn khi vắng nàng thì tôi cứ bâng khuâng. Yêu thì đã yêu rồi, nhưng sẽ tiến tới hay chỉ làm con bướm mà thôi?

Lấy cớ là bé Hoàn đòi ra với ba, nàng đến cơ quan hầu như hằng ngày. Và tội nghiệp thay, con bé tin rằng tôi là ba của nó. Ác thật. Nhân viên cán bộ trong cơ quan cũng rất thương hai mẹ con nên để cho nàng ra vào tự do. Riêng Sáu Phấn thì cứ nói lơ lửng nhưng kỳ thật là y đốc vô để đứa chèo lái đứa chèo mũi cho vui.

Con đường dẫn đến hầm Đờ-Cát-Tri phải đi ngang cái xe nước mía . Cô xẩm bán nước đá bào năm ngoái đã cho Tư Linh mượn cuốn Buồn Nôn đã đi Trảng Bàng. Chợ An Nhơn không còn phố xá . Xe nước mía phải lui vào núp ở mé vườn. Chiếc xe còn đó nhưng người khác quay. Vẫn còn nước đá mua ngoài Trung Hòa đem về được. Hãy tưởng tượng giữa cảnh hoang tàn mà có một ly nước mía, có bỏ đá, và nguyên chất hơn ở Hà Nội ! Tôi gặp Bảy Mô lần đầu tiên ở chợ An Nhơn và lần vừa rồi ở đây. Hôm nay tôi lại qua đây nhưng lại không thấy bóng hồng thấp thoáng. Lòng man mác buồn. Ngã bịaCây Điệp càng nóng bức với những lỗ bom mới. Đó là mục tiêu của pháo và bom. Có lẽ bữa nay thời tiết được dự đoán không tốt lắm cho nên xe nước mía không xuất hiện. Do đó đường xá cũng vắng teo. Tôi thấy khát nên ngó quanh ai nhà vào xin nước. Ở trong vườn cây sầm uất thấy hiện ra một mái ngói. Chắc còn người ở nên tạt vào thì thấy một ông bà đang ngồi trên ván giữa, chấm mút sầu riêng. Nhà không còn vách, bốn bên trống lổng trống lơ. Người đàn ông nghe tiếng chuông xe đạp tôi vừa bóp quay lại.

– Ê mày thằng quỉ!

– Anh Chín làm gì đây?

Tôi và Chín Lộc kêu lên cùng một lúc như tao ngộ chiến.

– Tình. cá nước hì hì, đập cẳng nhào lên làm vài miếng.

Tôi dựng xe đạp ở thềm đá ong rêu xanh lốm đốm, giống như ở nhà Bảy Mô, rồi đi vào ngồi lên ván. Bộ ván gõ thủng mấy lỗ đạn.. Tôi ngó lên nóc nhà: một vạt ngói bay trơ mấy thanh rui gãy.

– Vô ông Thần hả ! – Chín Lộc vừa nuốt vừa hỏi rồi giới thiệu luôn – Đây là bà chủ nhà tên là chị Hai Xót. Mày cần mấy cô dũng sĩ, cứ níu áo bà khu ủy có hết. Còn đây là trưởng ban H6 trai lơ cắt chỉ trăm phần trăm – Chín Lộc xổ luôn ra-phan – Mẹ , thằng Đồng Dù lấn đất ra quá ! Nổ ủi hết Cây Sộp, dám lấn qua bên này suối bà Cả Bảy lắm.

– Rồi mình làm sao?

Chín Lộc nhướng mắt sang bà khu ủy.

– Hỏi bà này ! Đạo quân tóc dài của bả may ra chận được xe tăng chớ tụi mình là đạo quân quần ngắn làm chi được. Bà mần lẹ lẹ đi để nó bắt hết phụ nữ rải phóng ra đó làm công cho nó rồi nó đem về Mỹ luôn đó. Bà có kiểm điểm xem đã mất bao nhiêu rồi chưa? Coi chừng tới phiên bà !

Bà khu ủy trừng mắt:

– Cái ông này vô duyên quá !

– Chớ không à ! Củ Chi này cung cấp nhân vật lực cho Mỹ xây dựng cái Đồng Dù chớ ai? Tội của bà lớn lắm! Còn bà Năm Đang nữa. Tối ngày vừa ngồi thum vừa gác máy bay.

– Máy bay đâu mà gác? ở đây toàn xe bò với đuôi tôm, ai gác làm gì ba cái ngữ đó !

Chín Lộc cười rồi đưa cái hột sầu riêng lên vừa cạp vừa liếm:

– Buổi sáng mà bả đãi sầu riêng ăn xót ruột quá ! Còn gà giò gà mái gì không chị Hai?

– Còn, nhưng sang năm mới có !

– Sang năm thì Đồng Dù nó càn nhẹp hết cái Củ Chi này rồi, tụi tôi nhảy qua bên kia sông chị ở đây mà đấu tranh chánh trị với tụi nó.

Chín Lộc nghiêng đầu sang tôi, chớp chớp cặp mắt bù lạch ăn.

– Bả chê tao là xe bò, đuôi tôm của Bảy Hốt Hậu Cần mày biết hôn? Bả gác cả B52 Ba Đình, B26 Hai Phụng, B24 Năm Lê còn đuôi tôm Chín Lộc thì bả không thèm ngó. Nè, chị Hai, còn thằng thanh niên này chị cho nó là đuôi tôm hay xe bò ? Nó chưa . . .

Chị Hai Xót giơ cái vỏ sầu riêng lên vá vá:

– Mấy ông tối ngày cứ đi quanh hè bà Tư The với bà Tư Bánh Bò đâu có thấy ai.

Chín Lộc cười ré lên:

– Thấy chớ sao không chị Hai. Thấy cả chị lẫn chị Năm Đang. Thấy ưu điểm lẫn khuyết điểm của hai chị hết trơn hết trọi !

– Nói xầy hoài nên già khú không ai ưng! Xuống lỗ thành con ma chết thèm.

– Vậy chị còn gà vịt gì không, lâm đãi anh em tôi một bữa coi nào ! Vậy là chết không có thèm nữa.

Nói chuyện cù nhầy một lúc, Chín Lộc sang qua công tác :

– Ông Thần kêu mày vô phải không?

-Dạ.

– Không biết có chuyện gì mà ông sầm sầm cái mặt! Vừa gặp tao ông la hét om sòm. Hí hí ? Bộ mấy đứa con nuôi không chịu đấm lưng cho ổng chắc. Mày phải chuẩn bị kế hoạch cho tỉ mỉ, ông hỏi đâu phải nói đó cho xuôi ron rót, nếu ngắc ngứ là ông nện cho chạy không kịp.

– Tôi mới về có một tháng mà anh Chín.

– Ừ, ổng có khen mày giỏi, nhưng ổng muốn nhanh nhiều hơn nữa.

– Vậy tôi phải mọc thêm hai cái đầu bốn cánh tay nữa mới được.

– Thôi mày ơi, mọc thêm đầu thì kiểm thảo thêm tốn giấy chớ làm gì.

Hai Xót lại cự nự.

– Ông thì lúc nào cũng nói bá xàm!

Chín Lộc lôi tôi ra ngoài:

– Vụ thằng em mày ăn chắc rồi. Tao cho bắt mối xuya lắm. Hễ ngoéo vô được là mình làm một cú binh biến kiểu Bình Dương. Mày sẽ trở thành anh hùng lần thứ hai. Còn tao thì cứ tiếp tục bị chị Hai bày chẻ chê là xe bò lụp cụp. Kệ nó, miễn có thầu giêng gặm thì thôi!

Hai Xót đứng trên thềm nghe được dẫu mồm ra:

– Bộ lén vạch khuyết điểm của tôi đó hả ông?

– Tụi tôi bàn việc ủng hộ công tác đấu tranh chánh trị của bà chớ đâu có vạch cá i gì . . . khuyết của bà .

Chị Hai Xót có chồng cán bộ thời chín năm. Sau Hòa Bình bị chính quyền bắt Tố Cộng. ông ta bị ghép vào luật 10/59, đưa ra Côn Đảo tới nay mười năm không có tin tức. Chị ở nhà tham gia giải phóng và được đưa lên tới chức Khu ủy viên, cùng một ca-líp với Út Tức. Đứng về mặt Đảng thì trên cả Chín Lộc lẫn Năm Lê.

Hội ý xong, tôi và Chín Lộc trở vào nhà. Chị Hai hỏi tôi:

– Anh đi ấp Bến Mương trong hay đi Bến Mương ngoài?

– Dạ , em đi hướng đó .

– Trả dạ, trả em cho anh đó. Xưng hô vậy tội chết!

Chín Lộc cười khé khé:

– 1 Chị Hai mới có bốn mươi mấy thôi mày nhỏ, nhưng chỉ chê tao ngoài năm mươi, chỉ muốn làm em bé thôi. Hé hé ! cũng được, mày cứ kêu chỉ bằng em như em Bảy Mô, em Ba Cấm, em Bảy Nê vậy !

Rồi trở lại chuyện Bến Mương.

– Nó không thích Bến Mương trong hay Bến Mương ngoài, mà nó chỉ thích Gò Nổi.

– Gò Nổi gần Trung Hòa, ra đó có mà ăn biệt kích hả.

– Bà nội đó là Gò Nổi trên. Còn đây là nó đi Gò Nổi dưới . Hô hô . . . hô !

Chín Lộc vừa bụm miệng cười như cà nông nghẹt họng.

– Gò Nổi dưới thì ở xa Gò Nổi chên nhưng hai cái gò này có niên quan với nhâu ghê gớm. Hễ biệt kích rà vô Gò Nổi trên thì rừng Gò Nổi dưới phải chuyển động mà hễ đụng Gò Nổi dưới thì Gò Nổi trên cũng rung rinh vì giữa hai gò này có địa đạo.

Bà Khu ủy viên vốn tối dạ như những đồng chí của bà, đứng ngớ ra không hiểu cái ông mắt toét này nói theo kiểu ẩn ý. Một lát mới chạy tới đập Chín Lộc lia lịa:

– Cái ông già không nên nết.

Rồi chị quay qua tôi:

– Anh Hai đi Bến Mương cho em quá giang chút được không?

– Được niền hả anh đội? Ngồi lên anh đội nai cho đi. Anh đội còn khỏe lắm. Ba ván niền không bỏ ván nào.

– Ván gì? Ván gõ hay ván dầu?

– Ván tu lơ khơ ấy mà !

Tôi biết đây là đồng chí cốt cán của Chín Lộc nên ngần ngại không muốn liên hệ, nhưng Chín Lộc xuề xòa:

– Ở đời muôn sự của chung mày Thiên Lôi ơi ! Mày đèo bả đi một bước đàng mày sẽ học được một sàng khôn cho mày coi.

Thế là tôi đèo bà Khu ủy viên đi như bay. Để bà chị khỏi ngại ngùng tôi bảo cứ ôm eo ếch tôi cho khỏi ngã. Được đàn bà mó tới da thịt, đàn ông nào lại không run. Chị Hai Khu ủy mặc áo ni-lông màu hường, tê-tô-rông móng khé, thấy cả quai và hai cái núm xú-chen. Quần Mỹ A láng mướt, tay xách giỏ (chắc có K54 ở dưới đáy, nhưng không có trầu như bà trên kia), tay xỏ quai nón lá buông trắng như nón bài thơ, chị phải dồn hai vật này qua một tay để một tay móc ruột móc gan ông thầy pháo. Chị Hai hỏi ngay:

-Anh Hai vào trong này chắc bỏ chị hĩm ngoài Bắc hả?

Chị dùng ngôn ngữ miền Bắc do mấy ông mùa thu mang về.

– Tôi đâu có chị hĩm chị cò gì!

– Ở ngoải cả chục năm mà không bị rau muống quấn chưn sao?

– Ở lại một năm nữa chắc không tránh khỏi, chị Hai à. .

– Anh Hai đừng kêu vậy tội chết! Kêu bằng em đi! Chịu hôn?

– Dạ. .

– Nữa ! Dạ thưa hoài. Mất thân mật hết.

Chị càng siết chặt bụng tôi và hỏi tiếp. .

– Về trong này móc gia đình chưa?

– Chưa chị, ủa, chưa em à !

Tôi nghe cặp môi tôi như bị đóng băng cứng ngắt hoặc vừa áp vào một vành cốc quá nóng, không biết lẽ nào.

– Sao trễ vậy?

– Tôi cái gì cũng trễ hết.

– Chưa trễ đâu. Có nhắm nơi nào chưa, để em giúp đỡ?

Nghe tiếng em thốt ra từ miệng bà gái già, tôi cóng chưn, đạp sượng ngắt.

-Công tác mê mê bù đầu bù óc, tình hình càng lúc càng căng thẳng, còn thì giờ đâu mà tính chuyện?

– Vậy người ta đó, anh không thấy sao? Đã có rồi còn kiếm thêm. Anh sao hiền vậy?

Bà nội Khu ủy ơi ! thằng Thiên Lôi này mà hiền thì ai mới dữ? Nghĩ vậy, tôi cười thầm và không nói gì hết. Chị Hai càng xốc tới

– Cần thì em làm mối cho.

– Ở đâu?

– Có người nghe tiếng anh lâu rồi, người đó thương anh nữa.

– Ai vậy?

– Em không nói đâu.

– Thương thằng Thiên Lôi này thì chỉ có khổ thôi.

– Khổ gì mà khổ?

– Vậy không thấy con Mười, con Tám Mang, bà The, má con Ua góa chồng vì chiến tranh đó sao?

Hai Xót thở dài, hơi thở dường như chạm tới lá phổi của tôi. Chiếc xe chở quá độ nghiến ken két, khua cọc cạch, nhưng tôi cố đạp như đèo thêm một khối tâm tư của người đàn bà đau khổ theo với mình. Tôi không nỡ động tới nên nói lảng sang chuyện khác:

– Lâu nay vấn đề đấu tranh chính trị ra sao chị ủa, em?

– Vấn đề ba mũi giáp công, coi như tà hết cái mũi của em thôi!

Tôi suýt bật cười. Nếu lão mắt toét có ở đây, lão sẽ chộp lấy và nói ngay: cái mũi của bà thì phải tà chớ nhọn với ai được mà nhọn? Tôi hỏi:

– Quân đầu tóc còn lại bao nhiêu?

Chị Hai rút tay ra đập trên lưng tôi một cách thân ái.

– Còn một quân một tướng đây thôi !

– Tôi nghe nói bà ngoại con Chia rất anh dũng mà !

– Anh cũng biết chuyện đó nữa?

-Tôi ở nhà đó với ông Chín Lộc trước khi lên đây.

– Ai nói với anh vụ bà ngoại đó đấu tranh chính trị vậy?

– Con Ua .

– Ừ, nó nói thì đúng. Nó hay tía lia nhưng nó không nói láo. Bà già bể rồi. Bắt đầu từ cái lần bả bị vẽ khẩu hiệu trên lưng và bỏ lên xe chở đó mười cây số cho lội bộ về , tôi không động viên bả nổi nữa.

– Còn chị Năm Cầu Xe.

– Bà đó đâu còn nữa. Khổ quá. Bây giờ đài giải phóng vẫn cứ nói oang oang, làm như bả còn sống vậy.

– Rồi bây giờ ở trên tính sao?

– Em đâu có bắt ai được. Quân tướng cũng một mình em đây thôi.

Đến chỗ lộ đứt ngang vì hố bom đìa tôi xuống xe. Ai ném một thân cây tre đòn tay nhà bắc cầu. Tôi vác chiếc xe qua đứng chờ. Bà khu ủy cứ lựng khựng không chịu đi. Đây là kế trá hàng của bà Út Tân Biên truyền lại chắc. Tội nghiệp những người đàn bà được Đảng đưa lên mây xanh, nhưng dưới chân lại không có đất. Tôi buông xe và trở qua đưa tay cho chị Hai. Chị nắm lấy chắc cứng khi qua gần tới bên kia thì chị lủi đại vào mình tôi mà la oai oái làm như tiểu thơ nhỏ lớn chưa đi cầu tre.

Đến ngã ba gần xóm trại bà Huệ tôi thả chị xuống và đạp thẳng. Chị còn nói với theo, tôi nghe văng vẳng, nên vung tay lại sau vẫy vẫy hai ba cái. Nói cho ngay, tôi không có hiền như chị Hai tưởng, nhưng tôi không muốn đụng chạm tới ông Bắc Kỳ xâm lược đang nắm dây cương của bà.

Tôi đến hầm Đờ-Cát dễ dàng vì lúc nào cũng có sẵn kẹo thuốc để lo lót các em bảo vệ. Tám Nghi trông càng thiểu não: mặt dài ra như mặt lừa, tay nghều ngào ốm nhom như tay vượn, tóc tai như tổ quạ. Nghi bảo:

– Tao suýt đứt thở.

– Sao vậy?

– Không biết tại sao thở không ra hơi. Tụi nó phải làm hô hấp nhân tạo.

– Ổng đâu?

– Vừa mới la mấy thằng Quân lực.

– Sao la?

– Có mấy thằng nhải rau muống dông ra Sài gòn qua ngã Cầu Bông mà tụi nó không hay.

-Bao lâu rồi?

– Cả tháng nay. Đơn vị không báo cáo thì Quân Lực làm sao nắm được? Nó ra, nó lên Ti vi lên đài Sài gòn nói oang oang, đồng bào ở ấp chiến lược nhận diện được. Chả là lúc trước chúng nó ra đó mua gạo do cơ sở mình tổ chức.

– Bỏ mẹ chưa ?!

– Ổng muốn dời đi nhưng không còn chỗ nào yên ổn! Ba Xây đang chạy tìm cứ mới. Thôi, vô đi.

– Con Hiền đâu không thấy ra đòi kẹo?

Tám Nghi rỉ tai tôi. Tôi kêu lên khe khẽ:

– Thì vậy thôi. Chơi trò đó thì chạy trời không khỏi nắng

Trái hẳn với dự định của tôi, Thần Núi không la ó với tôi. Ông ta đang ngồi trước dĩa chuối chín và lột cắn từng miếng. Thấy tôi vào, ông ta trỏ tay:

– Ngồi đó mày. Ăn vài trái rồi sẽ làm việc.

Tôi vừa ngồi xuống chiếc ghế hôm nọ vừa nói:

– Hôm nay tôi trình bày và thỉnh thị ý kiến anh về đồ án tác chiến đối với điểm A và điểm B (tức là Đồng Dù và Trung Hòa).Và đề án phối hợp với quận đội Củ Chi để huấn luyện cối cho du kích..

-Tổ chức vậy là ổn chưa?

– Dạ tương đối, nhưng cần thêm nhân sự chiến đấu lại thiếu. Mấy khẩu đội DKZ xộc xệch quá.

– Không đánh được à?

– Dạ phải dồn hai thành một. Thiếu nhất là bộ phận quan trắc Không có cả máy ngắm, máy đo thì không cách nào bắn được. Còn bộ phận trinh sát thì phải tìm ra cho được vị trí sân bay, kho đạn, trại lính hoặc những bộ phận quan trọng để làm mục tiêu. Diện tích của nó rộng lắm anh à . Bắn một vài quả không nhằm gì.

Thầu Núi gật đầu lia:

– Phải! Hễ bắn là phải trúng chỗ độc. Cõng một viên đạn vô tới đây không để ? Cậu định làm gì đâu nói miệng tôi nghe, khoan trình giấy tờ.

Tôi nói ngay:

– Trước nhất tôi đã cho một trung đội trinh sát đó chuẩn bị tọa độ cối ở hai xã Phú Hòa Đông và Nhuận Đức để tập kích bọn Đồng Dù, một trung đội đi An Nhơn và Trung Lập Thượng để chuẩn bị pháo kích tụi Trung Hòa. Chuẩn bị phần tử đo đạc xong các trận địa cối tôi sẽ cho trinh sát lập hệ thống tọa độ trên toàn quận Củ Chi và Trảng Bàng, hễ nó đỗ quân cụm lại ban đêm thì mình nện tiếp!

Năm Lê lắng nghe, gật gù tán thưởng, bất thần cắt ngay:

– Chừng nào thì đánh được? Hai Giả cũng đã từng hứa với tôi, nhưng chẳng bao giờ xong cả. Cậu đã có những gì trong tay?

– Dạ pháo phiếc phải móc lên lau chùi, đạn không biết có biến chất không? Anh biết ở ngoài đó, đạn pháo phải bảo quản như thế nào, còn vô đây cứ chôn trong rừng, mưa nắng…

– Tôi biết, tôi biết. . . – Năm Lê cắt ngang – Nhưng ở trên không đếm xĩa những chuyện đó cho chúng ta. Họ cứ tưởng bắn pháo như trẻ con chơi ống thụt bố vậy, cứ nện đại,. nổ cũng được lép cũng chẳng sao. Họ có biết đâu một viên DKZ tịt, nổ trong lòng chết cả khẩu đội. Ông Ba Đình biết chút đỉnh về pháo còn ông Chánh ủy Tư Trường thì chỉ biết làm nghị quyết số 1 số 2 thôi. ông ta tưởng cứ vác pháo ra bắn là ăn gọn.

Tôi biết khả năng của Năm Lê từ trước. Ông có tài tham mưu. Trận hạ tàu rà mìn Loubert trên sông Lòng Tảo năm 1949 là do sáng kiến của Năm Lê neo thủy lôi giữa sông mà tàu không rà được, ngoài ra ông còn có sáng kiến vẽ mẫu cho Binh Công Xưởng làm FTI, FT2 tức bộc phá úp vào tường đánh tháp canh trên các trục lộ. Do đó mà ông Trà rút Năm Lê về làm tham mưu trưởng Trung Đoàn chủ lực Đồng Nai. Ra Bắc ông làm Tổng Tham Mưu phó muốn Năm Lê làm bí thư riêng nhưng Năm Lê không thích nghề xách cạc-táp lót tót chạy theo đít ông tướng, nên được cho đi Trung Quốc học pháo binh rồi về làm Trung Đoàn trướng pháo binh sư đoàn 330 của Đồng văn Cống. Tư lệnh pháo binh của sư đoàn này là Lương văn Nho, khi về Nam làm Tư lệnh Pháo Binh R lấy tên Hai Nhã, kẻ đã từng đấm lưng bộ binh nhà kha khá các trận Đồng Xoài Bình Giã mà tôi đã kể ở quyển trước trong đoạn gặp các viên chỉ huy về học chỉnh huấn ở trường Trung Sơ. Năm Lê dưới quyền Hai Nhã, nhưng lại không phục tài Hai Nhã, nay về đây làm tham mưu trưởng quân khu,thoát khỏi sự dốt nát của Hai Nhã , ông tha hồ tung hoành. Ông chỉ nể Ba Đình còn Hai Phụng, tư lệnh thì ông cho là dốt quân sự.

Tôi thiếu tất cả khí tài, nhưng phác đại một chương trình có tính cách rất pháo binh để tránh sự la ó của ông ta, kỳ thực còn lâu mới làm được. Bất thần ông ta nói:

– Thật ra trách Hai Giã cũng tội nghiệp. Tình hình này bố thằng nào cũng không làm gì được. Tôi biết khả năng pháo của cậu hơn Hai Giã nhưng muốn làm nổi đình nổi đám cũng khó lắm.

Năm Lê nhíu cặp chân mày sâu róm:

– Tôi không hiểu người ta định làm cái gì mà đem cối 120 ly kéo bằng xe xích về chiến trường này? Định đem thứ đó về hù ba thằng Mỹ à?…

Sợ ông đổ quạu với tôi, tôi trình bày tiếp.

– Hiện giờ tôi có 18 khẩu cối 82 để thay thế cho cối 81 và 120 mà R đã cấp cho từ thời ông Hai Phụng nhưng đạn thì yếu quá.

Tôi không nói đủ nghĩa: ít và xấu.

– Yếu nghĩa là sao?

– Dạ, còn ít quá.

– Yếu cũng có nghĩa là liều lượng trải qua mưa nắng bảo quản kém không còn đủ sức tống nữa cậu biết không?

– Dạ biết, nhưng làm sao với hoàn cảnh của mình bây giờ anh Năm?

– Cậu thấy pháo nó bắn không? Nổ sát vách đồn một trăm thước.

– Dạ ở trên chợ Long Hoa B kìa mới ớn anh Năm! Bên Chợ Cũ nó bắn tan tành. Cách đó một trăm thước là Chợ Mới không một lá cây rụng.

– Không phải mình tồi mà vì không có phương tiện.

– Tôi có dự kiến huấn luyện du kích sử dụng pháo…

– Úi cha chà… cậu tính làm cái món pháo binh nhân dân chớ gì? Được lắm! Nhưng cũng ngại lắm. Du kích không có khái niệm rõ về vũ khí hiện đại. Giao cho họ có thể họ làm ăn được nhưng cũng có thể họ táy máy gây tai nạn trước khi đánh địch. Nhưng không có chó phải bắt mèo… chớ sao.

Năm Lê vùng đứng dậy đi vào ngách nhỏ rồi trở ra ném lên bàn một quyển sách. Tôi liếc thấy Les Tunnels de Cu Chi. Năm Lê hất hàm:

– Tác phẩm của cậu và thằng Tư Linh đó ! Giở ra xem.

Tôi cầm quyển sách lên lật ra mấy tờ đã muốn té ngửa. Hình và tựa bài nói về các nữ dũng sĩ diệt Mỹ , địa đạo chiến và các cuộc đấu tranh chính trị mà nhà báo quốc tế đã chộp được hồi năm ngoái do sự dàn cảnh của tôi và ông phó ban Địch vận Tư Unh. Tôi nghe rung rinh tận tâm linh. Bỏ mẹ rồi. Sự nói láo của mình đã bay ra thế giới. Tôi vẫn biết trước sự thể này sẽ xảy ra, nếu ở một nơi mà tôi không biết thì chẳng ăn thua gì, ví như một kẻ ném một mồi lửa rồi vụt chạy không muốn thấy đám cháy do mình gây nên, thì dù đám cháy đó có to thế mấy cũng chẳng hề gì. Nhưng bây giờ tôi thấy cái đám cháy đó ở ngay trước mặt tôi, trên bàn: quyển sách bằng Pháp văn, in ở bên Pháp.

– Nói láo thế này có bỏ mẹ không kia chớ. Tụi bây ẩu thiệt! Đây rồi quốc tế nó tin bằng thật, nó ùn ùn kéo tới đây xin quay phim lòng địa đạo, nào chỗ nghỉ quân, nào chợ búa, nào bệnh viện, nào tầng thứ ba thì mình mới làm sao?

– Ở đâu anh chôm được cuốn sách này vậy?

– Chín Lộc mua ngoài Sài gòn.

Tôi nói:

– Tụi nó dí mình vào cái thế phải làm thế anh ạ !

– Thì cũng tại mình khua dao khua thớt mạnh quá đi cho nên chúng nó tưởng có đám to. Đọc cuốn này tao rùng mình rởn ốc! Địa đạo tầng thứ ba! Trời đất quỷ thần! Thằng nhà báo này cho cái địa đạo Củ Chi là bố của Thượng Cam Lĩnh và Maginot – Năm Lê trợn mắt – thật đấy mà . Thượng Cam Lĩnh chỉ là chiến hào thủ công nghiệp thôi. Còn chiến lũy Maginot mới đúng là phòng tuyến đào dưới đất.

Năm Lê chấm ngón tay vô cốc trà rồi vẽ lên mặt bàn:

– Để tao nói về cái Maginot cho mày nghe. Hồi đó tụi Tây nó dạy cho lính mà. Đó là một sự tự hào lớn của người Pháp. Nó nằm dọc theo sông Rhin giữa Đức và Pháp. Mày có học lịch sử nước Pháp mày biết mà. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, mày nhớ Maréchal Foch, Maréchal Joffres chớ? Hồi nhỏ tao khoái hai ông này dữ. Chiến lũy Maginot lập nên là để đề phòng quân Đức tràn qua sông Rhin chiếm nước Pháp. Ghê lắm! Trên mặt đất có pháo đài bê-tông cốt sắt, hầm hố, dây chì gai, cọc trụ xây dựng bằng máy móc chớ đâu phải bằng sức người. Còn ở dưới đất thì một hệ thống đường hầm cho xe vận tải, hầm chứa xe tăng, và cả hầm chứa máy bay nữa !

– Ghê vậy sao anh?

– Nó đào đất bằng máy chớ phải bằng cuốc chim như mày đào với tụi con Bảy Nê sao mậy! Đây, tao kể cho mày nghe rõ từng chi tiết một: nó có cả hệ thống giao thông, rạp chiếu bóng, nơi giải trí, nhà thương, kho lương thực, ga-ra, và nơi đồn trú quân lính. Một cửa ngõ thông ra phía sau. Từ đó có thể người và xe cộ ra vào thông thương với hậu phương. Có hệ thống điện thoại, truyền tin và hệ thống máy điều hòa không khí nữa. Mày biết nó có mấy tầng không?

– Mấy tầng anh?

– Bảy, tám tầng gì đó tao quên rồi.

– Sao nó làm được vậy?

– Trước nhất nó là đất núi . Kế đó nó làm bằng máy móc. Bên trong nó có trụ bằng bê-tông để chống đỡ cho khỏi sụp. Tóm lại xuống phần dưới của chiến lũy Maginot mày sẽ không biết mày ở dưới đất mà mày tưởng mày đang đi vào một thành phố. Đó là phía bên Pháp. Còn phía Đức nó cũng xây một hệ thống địa đạo đối diện như thế để chống Pháp. Pháp chẳng ngờ rằng đó chỉ là một sự dọa mà không đánh để thu hút sự chú ý của đối phương. Đùng một cái vào tháng 6 năm 1940, quân Đức tiến qua nước Bỉ và đánh vào nước Pháp trên đầu phía Bắc chiến lũy Maginot và trong 3 tuần lễ bọc hậu nó. Quân Pháp không ngờ nên trở tay không kịp. Hơn nữa, quân Đức đã vào cả nước Pháp bằng cửa ngõ Belgique.. Đó là một nghệ thuật chiến tranh.

Nhà quân sự ngồi im. ông rót trà uống hai ba chung liền,chép miệng to và nói:

– Bất ngờ là một nghệ thuật tấn côngl Trở lại địa đạo Củ Chi của thằng nhà báo này, mày thấy nó có thua gì chiến lũy Maginot. Sợ còn hơn. Vì chiến lũy Maginot không dài đến 250 cây số, như địa đạo của nó. Còn tuyệt sắc hơn nữa là địa đạo Củ Chi ăn xuyên dưới đít Đồng Dù để ông Phạm Sang biểu diễn đờn cò cho giải phóng quân nghe trong khi Bob Hope làm trò cho lính Mỹ xem trên Đồng Dù. Đụ bà thằng chó đẻ này hại mình. Mày biết ngoài cái hại nói láo khắp thế giới, nó còn làm cho Mỹ hăng tiết rắc B52 !- Năm Lê trợn mắt – Mày phải biết là Mỹ nó chở bữa ăn cho một sĩ quan của nó bằng một chuyến trực thăng. Một thằng lính Mỹ chết nó đưa về tận Mỹ chôn cất với lễ nghi quân cách đầy đủ chớ không phải chết như lính mình trên Trường Sơn. Cho nên nó mà đọc quyển sách của tên nhà báo bất lương này, nó tưởng thật, nếu trước đây nó đánh mình một bây giờ nó đánh mười. Vì địa đạo Củ Chi ghê gớm hơn cả Maginot thì nó phải diệt sớm, nếu không nó sẽ bị mình diệt. Trong nghệ thuật chiến tranh kim cổ, mày còn lạ gì cái lối tấn công để phòng ngự, phòng ngự đơn thuần là bị tấn công.

Năm Lê tự cắt ngang câu chuyện đang hào hứng:

– Thôi được rồi, mày cứ làm. Tao sẽ giúp cho. Còn cái món pháo binh nhân dân theo kiểu công xã nhân dân mà tao thấy bên Trung Quốc cũng hay lắm nhưng cũng dở lắm. Rất khó xơi

Tôi đứng dậy nai nịt súng.và các thứ lỉnh kỉnh vào lưng định chào từ giã anh thì anh giơ chân trỏ vào góc hầm bảo:

– Cầm cái xắc-cốt đó về !

– Của ai vậy anh?

– Quận đội Thủ Đức báo về nó và thằng Ba Thanh trợ lý tham mưa bị tụi Phượng Hoàng mách tinh Đại Hàn khui hầm, tong lựu đạn. Đù mẹ, mấy thằng tổ chức giết con người ta !

Tôi lặng lẽ bước lại góc hầm nhặt cái sắt cốt của thằng đồng chí, thu quai ngắn lại xách tay chứ không quàng vào vai rồi đi ra. Tôi biết nó là của ai. Đại Hàn khui hầm tong lựu đạn – Mấy tiếng đó văng vẳng bên tai tôi.- Đù mẹ . mấy thằng tổ chức! Chuyện chẳng đáng gì mà làm dằng vặt đến chết tươi một đại úy pháo binh. Lãng xẹt.

Tôi ló ra khỏi miệng hầm. Không biết hoàng hôn hay bình minh nữa. Nắng héo hắt khô khan rơi từng mảng trên mặt đất lùi xùi. Trong đầu tôi hiện lên hai người đàn bà và một lũ trẻ con đầu chít khăn tang. Và đứa bé còn trong bụng mẹ. Nó sẽ ra đời mà không biết mặt cha.

– Đù mẹ …. mấy thằng tổ chức !

Tôi nhớ hồi thời chín năm một chiến sĩ hi sinh, cả làng thương tiếc làm lễ truy điệu hết sức cung kính. Bây giờ chiến sĩ cán bộ chết như chó . Cơ quan không làm gì được, còn nhân dân thì ớn quá trời. Ngày nào cũng chết. Trường hợp này, nếu đem ra truy điệu thì sẽ có một ngàn luồng dư luận khác nhau và nó sẽ làm cho cán bộ chiến sĩ mất tinh thần. Tôi đang đạp xe, sực nhớ cái xắc-côt rất quen thuộc vùng này, bà con tinh ý lắm, thấy nó máng tòng teng ở ghi đông, sẽ hỏi ngay. Tôi bèn ngừng xe, lấy tấm ni lông bọc nó lại và buộc vào poọc-ba-ga. Về đến nhà thì gặp Sáu Phấn. Tôi ngoắc y ra ngoài. Y nói ngay:

– Con bé Hoàn nó mến ông quá đó ông thầy. Hì hì… thương con mà bỏ mẹ hay sao?

Tôi gạt ngang:

– Thôi đi cha nội! Mình đang gặp rắc rối đây.

– Rắc rối gì? Ông chưa vợ, còn chồng nó chết rồi.

– Không! Cái H6 mình đây nè.

– Bộ ông Thần Núi sạc cà-rây cái gì hả?

Hai Giả leo bàn thờ rồi .

– Hả ?

Sáu Phấn há hốc mồm, tay chụp gốc cây. Hồi lâu mới hỏi:

– Tin ở đâu vậy?

– Thì trong ổng chớ đâu. Dưới Thủ Đức báo về . Tụi Đại Hàn khui hầm và ném lựu đạn.

Sáu Phấn ngồi nhếch xuống gốc cây, lảm nhảm chửi thề một dây rồi nói:

-Tụi Đại Hàn ác hơn Mỹ. Khui được miệng hầm là nó tong lựu đạn, còn Mỹ thì kêu lên đầu hàng, chừng nào mình không lên nó mới làm tới! Bây giờ biết xác đâu mà tìm. Khổ quá! Đưa con người ta vào chỗ chết vô lý như vậy. Ảnh chỉ thua thầy thôi chớ quân khu này có ai hiểu biết pháo hơn ảnh đâu. Đù mẹ ba thằng quận đội chó má. Chúng nó có hầm riêng. Ở trên này mình xuống, chúng nhét vô mấy cái hầm bể miệng như lỗ đĩ , thằng đui nào không thấy? Tôi đã dặn ảnh rồi, nhưng ảnh không có kinh nghiệm sống ở vùng xôi đậu.

– Lúc quýnh thì người ta bảo chui đâu chui đó, chớ biết ở giữa Thủ Đức Dĩ An, biệt kích, Phượng Hoàng, gián điệp chìm nổi như rươi. Tụi nó đãi bia mình uống xong rồi nó đi mách cho cảnh sát, chánh quyền. Mình đi xuống đó mang súng ngắn lú ra khói áo là không khỏi mắt tụi nó đâu.

– Bây giờ làm sao?

– Ai biết làm sao bây giờ. Phải giấu nhẹm đừng cho hai bả biết. Bà ở Hóc Môn thì nhẹm được, còn bà trên này làm sao? Thế nào rồi tin này cũng xì ra.

– Tới đâu hay tới đó ! Hay là ông đi cho bả hay ! Được không? Chớ giấu giếm coi kỳ quá ông ạ !

– Ông đi đi ! Tôi không sợ gì. Bom đạn còn không sợ chín năm. Trường Sơn không ngán. B52 cũng coi thường, nhưng sợ là sợ giọt nước mắt của người đàn bà mất chồng. Và lần này là lần thứ… ông chưa có vợ, chắc ông không hiểu nổi giọt nước mắt đó đâu.

Đây là lần thứ nhất tôi nghe thằng bạn lớn hơn tôi một con giáp, gốc nông dân, nói văn hoa. Tôi đáp:

– Tuy tôi chưa có vợ, nhưng tôi vẫn hiểu ông à . Việc con bé Hoàn tưởng tôi là ba nó và đeo tôi làm cho tôi vui nhưng cũng đau buốt tâm can ông ơi. Về Củ Chi này tôi gặp vô số đàn bà góa trẻ măng. Chồng chết ở Bình Giả, Đồng Xoài, Phước Long, Mã Đà. Má con Hoàn mới có hai mươi hai tuổi. Có chồng không được ở bên chồng hơn một tháng, rồi con ra đời không biết mặt cha. Bây giờ tới vợ ông Giả.

– Vợ tôi cũng đang có bầu ông ạ ! Ráng chút nữa ẵm con rồi hãy lên bàn thờ. Bốn mươi ngoài rồi còn mong gì hơn. Ông lo cái thân ông gấp gấp đó. Tôi nói thiệt đấy mà!

Sáu Phấn rưng rưng nước mắt rồi bỗng òa lên. Y gục mặt xuống hai đầu gối. Rồi ngóc lên ngay, sợ tôi thấy sự yếu đuối của thằng đàn ông chăng? Tôi nói:

– Tùy ông ! ông có muốn nhẹm thì nhẹm, còn muốn truy điệu thì truy điệu tôi đều tán thành hết cả.

– Truy gì nữa mà truy. ông lên K hỏi rõ chỗ cái hầm và ngày tháng để sau này vợ con ổng biết nơi mà tìm kiếm về giỗ quảy thôi. Chớ còn truy điệu có ý nghĩa gì. Chính mình giết đồng chí mình rồi truy điệu à ? Nó đếch có thèm về hưởng hương khói của mình đâu.

Tôi mở poọc-ba-ga, tháo tấm ni lông đưa cái xắc-cốt cho Sáu Phấn. Sáu Phấn ôm chầm lấy áp vào ngực khóc nức nở.

– Anh Hai ơi! Sống khôn thác thiêng…

—->Chương 53-54-55-56

2000 NGÀY ĐÊM TRẤN THỦ CỦ CHI : QIII- (42-47)

16/08/2010 — Lê Thy

Thung catong dong hang thuốc lá caraven giá bao nhiêu năm 2024
Tiếng Sét Ái Tình và Tiếng Sấm Bom Đạn

Chương 42 Ngài Thiên Lôi rơi vào tay Tiên Cô

Chín Lộc nheo nheo cặp mắt bù lạch ăn sạch lông nheo vừa cạp xương gà nhai ngồm ngoàm vừa nói giọng ba rọi Nam Bắc:

– Năm ngoái Sư Đoàn 25 Bộ Binh tụi nó hành quân đó đây, rồi tụi Trâu Điên, Cọp Đen cũng dô, như dô nhà không cửa. Chỉ có ba cái hầm chông và lựu đạn gài nhưng đâu dính ma nào. Tụi nó không đi càn rừng càn rú như tụi Tây hồi trước mà nhảy cóc bằng trực thăng. Đang ở Bàu Trân nó nhảy qua Bàu Lách trong vòng 15 phút. Nó bay trên đầu mình, nó bọc sau lưng, nó xuyên hông, mình chạy hộc gạch. Cậu về đây đem món pháo ra trị tụi nó chút coi!

Tôi hỏi:

– Không bắn được à?

– Được chớ sao không! Nhưng mà bắn nó một phát CKC thì lập tức nó trả hoả một trăm trái cà-nông. Ruộng vườn nhà cửa tan hoang hết, đồng bào chửi và đuổi không cho ở – Sáu Huỳnh nhấm tí rượu khà một tiếng khẽ rồi tiếp – Xe tăng nó chạy như bọ hung vậy. Muốn cho bộ binh tới chỗ nào nó cho những khối thép đó càn trước. Gốc cây to cả ôm nó cho xe ủi bứng cái một. Lần nọ nó còn xúc một bụi tre.

Chín Lộc xua tay, định nói gì nhưng bị miếng xương gà trám bít nên cố cạp nhanh, trợn trắng và xua tay lia lịa.

– Thôi thôi cha non, đừng có kể cái chuyện đó, tớ ớn xương sống lấm. Nói ra ông thầy pháo sẽ mất tinh thần ngay.

Sáu Huỳnh nhướng tôi:

– Ê ngán không mày nhỏ?

– Nói nghe chơi chớ ngán gì anh Sáu! Tôi thuộc loại chì mà!

Sáu Huỳnh cười nhe răng dính đầy thịt gà :

– Để rồi coi chân chì hay chân sắt, xe ủi đất là lợi hại nhất. Nó xúc một phát là đi nửa cái nhà . Chòi con nó đưa một đường là bằng mặt đất. Bởi vật tụi du kích bây giờ cũng sợ không dám làm miệng hầm trong bụi tre bờ trúc hoặc gốc cây rừng nữa. Nó không cần thả chó đánh hơi. Nó cứ ủi. Bàu Lách, Gò Nổi hay Trung Hòa xe ủi đất xúc luôn cả du kích trong gốc bụi trúc bứng lên, giống như thuở bé tụi mình đi đào trùn câu cá bóng dừa, trong lưỡi cuốc có dính con trùn đứt làm hai khúc.

– Thằng du kích đứt làm hai à?

– Không phải vậy đâu! May mà lưỡi nó xúc hai phát, phát trước nó xúc thẳng cái nắp hầm, phát sau nó nạo luôn cái đáy hầm, chớ nếu nó xúc nửa chừng thì thằng nhỏ sẽ đứt cổ hoặc bị xắt làm hai khúc.

Sáu Cúc lắc đầu:

– Đang nhậu bắt trớn cha nội nói ba cái chuyện đó, tôi rùng mình mắc ói quá !

Tư Minh nhai miếng xương gà rau ráu và gầm gừ:

– Còn nhiều chuyện ớn hơn nữa, nhưng ăn thua chi ! Ăn thua chi ! Ta cứ anh rũng xốc tới đỡ đạn cà-nông đều đều. Củ Chi đất thép thành đồng mà lỵ!

– Mẹ, nói tới cà-nông, tôi càng ớn. Kỳ đó tôi chỉ cho thằng Cội tới đào một trái 155 lép trong cái nhà hoang. Gia đình có hầm rất chắc nhưng trái cà-nông lại xuyên qua cả nắp chui tuốt xuống giữa lòng hầm. Gia đình có tám người, may là trái cà-nông không nổ ông ạ. Nếu nó nổ thì bay hết không hốt lại được một miếng thịt. Sau đó cả gia đình dời đi tức tốc ra ấp chiến lược .

Sáu Cúc tiếp:

– Không hốt được một miếng thịt thì phải nói trận B52 ở Hố Bò. Ít nhất là mười nóc nhà trúng tệnh, mỗi nhà ăn nguyên một trái bom. Bom không có mắt mà nhểu ngay chóc như cò ỉa miệng chai vậy.

Vừa đến đó thì bỗng có tiếng hát nhí nhô từ ngoài đường:

Áo may xong tiền công khỏi tính, Anh lính mừng luýnh quýnh cầm ngay, Áo mới may mà sút hai đường chỉ, Anh lính rầu bí sị hết mê.

Tiếng hát rõ dần khi bắt leo qua bài khác:

Chiều mưa ướt át anh đi về đâu ? Sao còn đứng ngóng nơi Bàu Tròn, Kìa Đường Làng, An Nhơn khói xám Con đầm già kêu mãi điếc tai Lòng người xơ rơ bao nỗi ai hoài.

Sáu Huỳnh nháy nháy tôi. Tôi không hiểu chuyện gì cứ nhậu miết. Chín Lộc càng nhậu càng xổ nho và nó giọng ba rọi nghe đến buồn cười:

– Tiên sư mấy thằng Mỹ dô đây riết rồi chơi hết con gái Bình Dương Củ Chi làm đám mình bơ mõm. Địt mẹ bố tiên sư, mình muốn có một cái, phải o mệt mới được, còn tụi nó không thèm mất tiếng nào, chỉ rút giấy bạc ra quơ quơ là đàn bà con gái chạy theo rần rần. Cái kiểu nầy mình còn nồn non nồn già đâu mà địt.

Sáu Huỳnh bất mãn địa vị nên luôn luôn châm chọc cấp trên. Vớ được cơ hội, y cười khè khè:

– Các cha có biết ní nịch của ông công nhân ba đời Chín Nọc chưa? Để tôi xin giới thiệu sơ qua nghe chơi. Hồi trước cách mạng ổng làm ở hãng Rờ nồn đấy ạ ?

Mọi người cười ré rồi nhao nhao lên:

– Hãng gì lại có cái hãng kỳ cục vậy?

Sáu Huỳnh nhẩm xà một phát rồi nói tỉnh bơ.

– Các cha không nghe hãng xe Pháp Renault à? Đó chẳng phải Rờ Nôn hay Sờ Nôn là gì? Chỉ cần bỏ dấu nặng dấu huyền như mấy ông Huế Nghệ : năm cắc thì ra năm cặc, ở đây Rờ Nôn lại hóa ra Rờ Nồn hay Sờ Nồn chớ gì. Chín Nọc mà làm hãng Rờ Nồn thì đúng quá chớ còn gì nữa ? Hì hì ! Có đúng danh từ không lào cụ Chín?

Mọi người gật đầu và cười phun cả rượu thịt. Sáu Huỳnh kết luận:

– Bởi vậy bây giờ thằng chả nhớ cái hãng cũ, cứ mở miệng thì có cái món đó văng ra hàng loạt.

Tư Minh vuốt đuôi:

– Tại ổng cứ đi địt nên nó càng đẻ ra đông như kiến, nay mai sẽ có cái Đồng Dù thứ hai nữa là mình hết đường sống đó nghe .

Chín Lộc nổi cáu chửi oang oang:

– Địt mẹ cái thằng Sáu Gấm và thằng Bảy Tùng.

– Tôi đã bảo đừng có địt nữa mà cứ hở là địt! Ông đã có cái bánh bò gặm mỗi đêm rồi còn ức hiếp gì nữa kia chứ!

Chín Lộc trợn mắt lộn thinh trái ké, miệng há hốc như bị mắc xương hồi lâu mới nói được.

– Chúng nó làm như vậy là mất lập trường cách mạng chớ giỡn à? Ai đời, mình là cán bộ mùa thu mùa đông lại cho vợ con ra làm với Mỹ ở Đồng Dù là cái thá gì?

Thấy Chín Lộc đổ quạo thực sự, Sáu Huỳnh không trêu nữa. Cả mâm rượu cũng hết nhộn. Hắn chỉ là Trưởng ban Quân Báo loại cá kèo nhưng lại là Phó Bí Thư đảng ủy Bộ Tư Lệnh Quân Khu, còn Năm Lê là Trưởng Ban Tham Mưu nhưng vì mang cái ô của bà Hai Mặn nên không được vô cấp ủy . Chín Lộc là cấp dưới Năm Lê về mặt chánh quyền, nhưng vô họp đảng thì Năm Lê lại lấm lét sợ Chín Lộc lôi cái ô đó ra mà nện thì mất mặt bầu cua, nên Chín Lộc được mợi, ăn nói rất hiên ngang con bọ xít. Chín Lộc tiếp:

– Tôi đã bảo Năm Lê phải cảnh cáo hai thằng đó, nhưng y không chịu nói gì hết.

Sáu Huỳnh cười khè khè :

– Ổng bị cái khớp ngang cổ đó mà còn dám nói ai. Nghe nói bà Mặn bỏ công tác rồi hả anh Chín?

– Vụ đó còn nhiều chuyện linh tinh lắm chớ không có êm đâu. Còn vụ hai thằng Bảy Tùng và Sáu Gấm tôi nhất định tranh đấu tới cùng.

Tư Minh đưa cho Chín Lộc cái giò gà và bảo:

– Anh đừng có nóng, anh Chín bầy trẻ.

– Gặm hết năm cái móng gà là hạ hỏa ngay đó chú Chín Nọc.

Con bé Ua ở dưới bếp nói vọng lên. Mọi người phá lên cười Chín Lộc cũng không nhịn được, đính chính:

– Nộc chớ không phải heo nọc nghe các cha !

– Ù, thì ai nói ông là heo nọc. Ông mới có hai bà thôi mà !

Chín Lộc hết chửi Sáu Gấm và Bảy Tùng vì bị cái tiếng nọc chặn họng. Sáu Huỳnh bảo:

– Tụi nó có vợ con đi làm để kiếm tiền nuôi tụi nó. Như vậy tụi nó mới đi làm cách mạng được chớ: Bụng đói mà lội sình cuốc đất đào hầm sao nổi cha!

Chín Lộc dịu giọng:

– Nhưng phải nhớ rằng đám đàn bà con gái dô đó thì mười đứa bị rốc kết Mỹ hết cả mười . Về trong này nó đổ bệnh tiêm na cho mình.

– Ông quá lo xa ông nội ơi !

– Ông không biết chớ tôi hội nghị đảng ủy đã nghe quân y báo cáo rõ mà. Ít nhất là có ba ông mảnh bị dính đang nằm nhà thương bên Bưng Còng kia ! Pênêxilin không đủ chữa vết thương cho chiến sĩ, lấy đâu tiêm cho tụi nó. Thằng Mỹ vô đây làm đảo nộn mọi thứ không phải chỉ bằng bom đạn mà thôi đâu. Lãnh đạo thật vô cùng phức tạp.

Tư Minh hỏi, giọng tỉnh bơ:

– Bộ có vụ lính mình bị rắn hổ nữa sao ông Chín?

– Tôi nói náo cho cà nông Đồng Dù ăn tôi đi.

Tôi nghe buồn buồn sau gáy, linh cảm có việc gì nên quay lại thì bắt gặp một cặp mắt đen lay láy ở sau bẹ cửa buồng. Tôi giật mình, tướng đó là đôi mắt của Thu Hà bên gốc bàng lăng ở Trường Sơn.

Sáu Huỳnh cầm chai Anít lên lắc lắc rồi bảo:

– Mày về đây coi chỗ nào khơ khớ thì làm liền đi, ở đó mà kèn cựa thì tụi Mỹ nó xơi tái hết.

Tư Minh nói:

– Anh Sáu khéo lo ! Ông thầy pháo có ba bốn cái bánh bò rồi. Ổng còn xem xét coi cái nào có rể tre, cái nào chai rồi mới bẻ ra chấm nước cốt dừa đó !

Sáu Huỳnh vừa châm thêm rượu cho tôi vừa nói:

– Tao có một cái. ổ tốt lắm. Tao cũng muốn tòm tem ngặt sợ chị Sáu mày đổ ghè tương ra tùm lum như ông Năm Lê. Nếu mày muốn tao làm mai cho!

Chín Lộc chắp tay xá xá:

– Tôi lạy ông mai tốt số!

Sáu Huỳnh quay ngoắc xuống bếp.

– Con Ua đâu, ra bác bảo – nhưng đụng nhằm cặp mắt đen lúc nãy – Chia, ra đây ba bảo!

Tôi hỏi:

– Anh có con gái lớn vậy sao anh Sáu?

– Nó là con dâu tương lai của tao. Mày nhớ thằng Thức con trai tao hồi kháng chiến, má nó đẻ ở…

-…Kinh Bà Vụ phải không?

– Đúng đó ! Bây giờ nó lớn xộn rồi. Tao tính cưới con nhỏ này cho nó đó. Năm rồi mẹ nó ra dẫn nó theo tao bắt ở ngoài này công tác luôn. Con một bên, cha một bên khó lắm. Rủi nó ở ngoải nó đi lính quốc gia, nó nhảy dù xuống đây, nó khìa ông già tía nó, ai cản được?

Sáu Huỳnh lại ngoắc.

– Chia ! ra đây ba nhờ chuyện này chút.

Tôi nghe tiếng cười rúc rích bên trong nhưng không thấy ai ra trình diện. Chín Lộc uống ít, phá mồi nhiều, y cố nuốt miếng da gà béo ngậy, chùi mép chàm ngoạm mỡ rồi nói:

– Con cưới con, bố lấy mẹ, vậy còn ai bằng!

– Đọ! bây giờ anh Sáu ló cựa rồi nghe, tôi mé.. ét chị Sáu!

Cụp cụp…

Cả bàn tiệc đang vui vẻ bỗng lăn xuống đất.

– Phá…phá…áo!

Một tiếng kêu thất thanh. Đèn đuốc tắt đui. Mọi người nằm sát đất. Nhoài, bò, lết, trườn tới miệng hầm hoặc tới chỗ khác mà tưởng mình tới miệng hầm. Đúng là tắt đèn nhà ngói như nhà tranh, tất cả đều đen thui như lông chó mực.

Tiếng nổ nghe như ngay ngoài hè. Chát chúa lỗ tai. ầm, ầm!

– Anh Hai bò lại đây nè!

Một bàn tay quờ đụng và lôi tôi đi. Tôi bò theo như máy, không biết nó dắt tôi đi đâu. Người ngợm đụng nhau hung như cá trong chiếc rộng tre chật.

Tôi nghe tiếng thì thào đứt quãng bên tai:

– Anh đừng sợ ! Bên ngoài có vách đất.

Rồi má tôi nghe ấm hổi. Không phải một bên mà cả hai bên rồi tiếng thì thào bên tai.

– Ôm em đi cho hết sợ ! Ôm mạnh nó !

Tôi làm theo như máy. Trong khi tôi ôm thì tôi lại bị ôm.Tôi nghe ấm áp trên má và những tiếng thì thầm tiếp tục,không biết bao lâu… Ở giữa hai tiếng nổ, một phần ngàn của một tic tắc, tôi bỗng nghe rõ từng tiếng một cả hai phía bên tai. Đáng lý ra tôi phải có sáu cái lỗ tai mới nghe hết.

– Em yêu anh, em yêu anh!

Và :

– Em đâu còn nhỏ , em đâu còn nhỏ . Anh yêu em đi ! Anh yêu em đi!

Tiếng nổ đã dứt hồi nào, nhưng dư âm còn vang “e e e” trong không khí nóng bừng. Sáu Huỳnh kêu to:

– Hết chết rồi, ra đi! Nhậu tiếp!

Tôi lồm cồm bò ra. Sau tôi là hai đứa con gái: Ua và một cô khác Tôi đứng dậy phủi bụi trên quần áo. Ua đến lau tóc cho tôi bằng một cái khăn tay. Còn cô kia thì lẩn mất. Ua cười như nắc nẻ và vỗ vỗ đầu tôi:

– Ông thầy pháo bị pháo nện chui xuống đít ông táo ê ê.

Bà ngoại từ trong hầm ló đầu ra quát:

– Con Ua không được hỗn . Người ta nhỏ với mày hở? rồi bà hỏi – có đứa nào có sao không?

Ua hớt:

– Có có ngoại à ! Anh Hai u đầu vì đội đít bếp, còn con rụng hết mấy cái lông nheo.

Tôi hỏi Sáu Huỳnh:

– Tụi nó có thường chơi chầu đôi không anh Sáu?

Sáu Huỳnh đáp:

– Chuyện đó không có qui luật gì cả . Chầu đôi chầu ba, chầu năm chầu bảy cũng có.

Chín Lộc mặt như gà cắt tiết nhưng cố làm tỉnh bằng cách mở mồm địt tiên sư chúng nó không ngớt.

– Ngồi lại nhậu tiếp. Cho đi mua rịu thêm.

Sáu Huỳnh bảo:

– Để tôi ra sân xem nó nổ ở đâu.

Chín Lộc trợn mắt:

– Nó nổ ở Đồng Dù, ở Trung Hòa chớ còn ở đâu nữa mà phải xem!… Tiên sư bố nhà nó làm đổ cả chai anít và mấy tô cháo. Con Ua đâu, coi nồi chè đậu còn hay bể mất rồi?

Trong lúc hỗn canh hỗn cư, tôi lôi Sáu Huỳnh ra sân, rỉ tai ngay:

– Có gián điệp nội bộ không anh Sáu?

– Gián điệp gián điếc gì. Đêm nào nó cũng giả, không chỗ này thì chỗ kia. Không đêm nào là không có người bị thương. Bệnh xá của Tư Chuyền không còn chỗ chứa.

– Tôi lấy làm lạ sao tôi đi đâu pháo bắn theo giáng đít tới đó vậy?

– Mày đừng lo.

– Cái hột mít nào lạ hoắc kia, anh Sáu?

– Công tác viên của mình đấy. Tao định cưới cho thằng con trai tao, nhưng thằng nhỏ khờ quá không cầm cương nổi nó đâu.

Tôi nhớ lúc nãy dưới đít bếp, tôi bị những cái hôn từ cả hai phía. Tôi lấy làm lạ sao tụi thanh nữ lại yêu cuồng sống vội vậy? Tôi và Sáu Huỳnh trở vào mâm rượu. Chín Lộc lấy rượu làm nư nhưng mặt mày vẫn còn lơ láo. Sáu Huỳnh nói:

– Ba thằng Trung Hòa còn đỡ đỡ chớ tụi Đồng Dù chơi hỗn lắm. Muốn ăn chắc ta đem mồi và rượu xuống hầm, muốn cưa mấy cây thì cưa .

Nói thì nói vậy chớ không ai còn bụng dạ nào mà gặm nết mấy cái xương gà trong lúc chúng nó lại giã gạo tứ phía. Hết Bàu Lách qua tới Bến Mương đến Gót Chàng. Từ Xóm Bưng lan sang Gò Đình, từ Bàu Chưa đến Xóm Cây Sộp. Rải rác khắp nơi đất thép Củ Chi đều ăn pháo, nơi nhẹ nhất cũng vài phút. Chưa thấy Đồng Dù xài pháo 175. Pháo 105 chỉ bắn từng phát. Như vậy cũng đã động đất tới âm phủ và tận Hà Nội rồi. Đêm nay chắc Bác cũng khó ngủ như đêm nào. Nhà thơ Minh Huệ lại có thêm đề tài tốt.

Ngồi trong hầm, trước dĩa thịt gà lạnh tanh, răng cỏ mấy lão già trệu trạo sơ rồi nuốt chớ đâu còn tâm trí để nhai.

Chín Lộc buông đũa trước nhất:

– Kiểu này, mai có chụp! Mình phải chuẩn bị. Các cha, ai về chỗ nấy lo chôn đồ đi. Nãy giờ tội nghe nó nện đúng những hướng có tụi mình hết cả.

– Không sao đâu anh Chín! Đây là cữ thường đêm của tụi nó mà.

– Tôi nhảy mũi nãy giờ năm sáu cái liền đây cha ! Tôi bốc gió ngửi thấy mùi tanh tanh nữa !

Tiệc xong tôi được Sáu Huỳnh phân công ngủ chung hầm với bà ngoại và hai đứa con gái. Sáu Huỳnh nháy nháy tôi và bảo Ua:

– Hai đứa bây nằm hai bên bảo vệ anh Hai nghe. Còn để bà ngoại ngủ trong hang ếch!

Nói xong Sáu Huỳnh và Chín Lộc xuống hầm.

Ngôi nhà ngói ba gian rộng đã giỡ hết hai. Cột kèo quăng xuống vũng ngâm chờ hòa bình.sẽ vớt lên cất lại. Còn một gian và cái bếp khá rộng thì đào hai cái hầm thật sâu, nóc đất thật dày. Chín Lộc và Sáu. Huỳnh. dùng làm văn phòng và chỗ ngủ.

Bà ngoại thì đóng vai chị nuôi cho cơ quan. Con Ua làm liên lạc đi thư và quân báo ra vào Củ Chi thường xuyên.

Tôi. đi ra ngoài giếng để múc nước rửa mặt đánh răng. Nghe mùi thuốc đạn khen khét, tôi đoán chắc đạn nổ ở sau đồng. Vừa nặn kem anh Bảy Chà Hynos vào bàn chải thì tôi nghe một bàn tay vỗ lên vai:

– Mơ mộng gì đó ông anh cả?

– Đâu có mơ giống gì?

– Thiệt hổng mơ hả ? Thề đi ! Hề hề . Em biết anh đã rung rinh trái tim rồi mà. Hổng sao đâu! Em làm mai cho. Đó là con Chia, con của dì Tư em, em bạn dì của em, học ở Sài gòn, bỏ trường về đó. Má em thứ ba. Rõ chưa nào? Nó nghe em nói hồi chiều em qua quán nó mua rượu trà thuốc nên nó muốn qua coi mặt ông giải phóng mùa thu. Nó cũng mê ông giải phóng tít thò lò rồi. Hồi pháo nổ nó hun ông ha ha phải không? – Ua nói một hơi vừa pha trò vừa tỏ vẻ bực tức – Nó đọc tiểu thuyết thành, ăn mặc kiểu thành, uốn tóc, nói tiếng ăng-lê chút đỉnh và đẹ …ẹp. Vậy là đủ tiêu chuẩn chưa nào ông tân Trưởng ban H6?

– Em ăn nói kiểu gì vậy Ua?

– Anh coi chừng chớ nó hốt hồn anh cái một. Nó không ăn nói lách chách cái miệng như em đâu. Nó chỉ nhìn anh chăm chắm rồi thở dài thườn thượt.

– Con nhỏ này!

Tôi quay sang vỗ đầu Ua.

– Hồi nãy nó núp trong buồng lén coi anh nhậu. Em hỏi nó: Cỡ đó bằng sĩ quan Sài gòn chưa? Nó nhéo em mấy cái bầm da đây này.

Ua cầm tay tôi ấn vào bả vai nàng:

– Tạ i anh ! Bắt thường anh đó .

– Ừ, thì bắt thường ! – Tôi bất thần hôn trên má Ua – Vậy được chưa?

– Xí, cứ coi người ta là con nít hoài !

– Bộ lớn lắm hả?

– Em biết chuyện còn hơn người lớn nữa đó.

– Chuyện gì, nói nghe coi!

– Mấy ông nội này tưởng em không biết gì hết. Sự thực không có chuyện gì lọt qua mắt em. Ông nào cũng thúi rùm, không có ông nào là nhà cách mạng chơn chánh như hồi ở ngoài thành em tưởng tượng hết. Ông Bắc Kỳ mắt bù lạch ăn có tới hai bà. ông Sáu Huỳnh có vợ ngoài thành vô ra hoài mà cũng có bồ tèo là má con Chia.

– Ai?

– Má con Chia chớ ai.

– Người ta công tác mà !

– Tác hoác thì có . – Bỗng nhiên Ua quay ngang – Em nói cho anh biết. Em không còn nhỏ nữa đâu. Em yêu anh rồi đó. Đừng có chê em là con nít.

– Trời đất !

– Không có giỡn đâu. Anh mà lăng nhăng với người khác a lê hấp lựu đạn da láng rút chốt chia hai.

– Em học ở đâu cái thứ du côn đó Ua?

– Ở thành chớ đâu ! Tối nay ngủ, anh nằm giữa, phải nằm ngay ngắn, nếu có trở mình thì không được trở qua phía con Chia nghe chưa?

– Sao nó không về nhà mà ở đây?

– Nó lấy cớ pháo bắn không dám về, nhưng em đi guốc trong bụng nó. Nhà có hai cái hầm. Cái của ông Chín Lộc không ai được xuống ngoài Tư Minh và Sáu Huỳnh. Vậy anh ngủ ở đâu? Nó ở lại thì ngủ ở đâu? Không chung một hầm với ngoại và em thì ngủ với ai? Em em hổng chịu thu…

– Chị em chưa chi đã xích mích nhau rồi.

Tôi cắt ngang tiếng nói của cô bé bằng một cái hôn môi.

Hai tay Ua ôm quặp lấy tôi. Tất cả những cao điểm nóng trên người Ua chạm vào tôi như sự đối kháng của những vũ khí chực nổ. Tôi bảo:

– Buông ra, ngoại thấy chết!

– Xí ngoại chịu gả em cho anh rồi! Mai em ra nói với má ngoài Củ Chi. Má về làm đám cưới luôn, con Chia hết có dòm dèm.

Tôi đi vào nhà. Sáu Huỳnh nói ngay:

-Đi ngủ sớm đi! Mai không yên ổn đâu.

Tôi xuống hầm. Lòng hầm chiếm trọn một căn nhà. Cột và đà ngang làm bằng gỗ lấy từ ngôi nhà lớn nên rất chắc chắn. Nóc đất dày hơn một thước tây. Trên nóc còn chất vô số cây gỗ, ván và các thứ lặt vặt khác nhằm chặn sức xoi của đầu đạn cà nông.

Hồi kháng chiến chống Pháp tôi cũng từng đi năm sông bảy núi nhưng chưa bao giờ phải chui vô một cái hầm kiên cố như thế này. Cao lắm là loại hầm gọi là hố một cạn như lỗ mèo quào và ít khi có nắp. Nhưng đánh với Mỹ kỳ này toàn dân ở hang. Nhưng không phải thứ hang lơ mơ đâu, phải là hang Pắc Pó mới bảo đảm. Tôi đã từng trốn máy bay Mỹ ở trong đường hầm khoét trong núi Quyết ở gần Phà Bến Thủy. Bom bỏ trên đầu không ăn thua.

Cái thứ hầm này tuy coi thì chắc vậy, nhưng nếu một trái cà nông 175 rơi ngay thì người trong hầm lãnh đủ. Trường hợp cò ỉa miệng chai cũng thường xảy ra. Bạn cứ nghĩ: hết một nắm lúa vẫy vào bụi tre thì không trúng cây này cũng trúng cây khác chớ làm thế nào không ngơ được. Ở trên R thì chuyện đào hầm hố ít quan trọng. Vì trên đó hễ ăn thì ăn dưa hấu bầy rãi thảm không có nắp hầm nào chịu nổi (họa may hầm của Sadam) nên người ta sống trong sự thấp thỏm, may rủi nhờ trời, không có cách gì chống được, nhưng ở Củ Chi, ngoài B52 còn pháo. Pháo bắn bất cứ lúc nào. Có khi chỉ vài trái. Có khi hàng trăm hàng ngàn trái. Cán bộ, bộ đội, dân chúng chết trên đường đi công tác hoặc trên đồng rất nhiều không thể nào biết hết. Cho nên cái việc đầu tiên của cán bộ khi đến địa phương công tác là hỏi: “Có hầm không? Có hang chui không?” Không có hai thứ này thì kể như tam phân mạng nghĩa là chỉ sống một phần ba thôi, cũng như hành thuyền kỵ mã vậy.

Bà ngoại, sau trận pháo, vô nằm trong ngách, chừa cái giường ở giữa hầm cho tôi và hai đứa cháu gái. Nghe Ua nói, tôi hiểu tại sao một bà già phong kiến lại thả lỏng cháu gái mình như vậy. Tôi đoán biết tâm lý của những người có con gái là muốn chúng nó có nơi có chỗ cho rồi, để lớ huớ lại tránh không khỏi cái cảnh bị sau là bị tương lai, bị trước là bị anh Hai gởi về. Mang ba lô sau lưng ít lâu rồi lại mang một cái ba lô trước bụng. Trường hợp nữ chiến sĩ thi đua Tư Gừng lừng danh dũng sĩ diệt Mỹ rồi cũng thế thôi. Sau khi bỏ được cái bị trước thì mặt mũi cũng không còn. Do đó, bà ngoại muốn cho con nhỏ bồng chanh bốc chách này có nơi có chỗ sớm đi, để có ngày cái bị của cháu bà là của mấy tên già dơ xưng bác bác chú chú này thì mang nhục cả dòng họ . Chuyện này cũng xảy ra rồi ở Phú Hòa Đông, một ông cán đầu bạc quơ một đứa cháu nuôi mười sáu tuổi. Và nói chi xa, Năm Lê cũng hát cái tuồng đó với con gái nuôi (sẽ kể tới). Hai đứa con gái nằm hai bên. Chúng bắt tôi chép bài hát ở trên R, cô Ba Ánh cũng bắt tôi chép bài hát. Rồi các cô Tiến, cô Huê ở trường pháo cũng bắt tôi chép bài hát. Mọi việc bắt đầu bằng chép bài hát… Hát là hỏng! R là rờ mà !

Hai cái đầu nom sát vào tờ giấy. Chữ hiện ra dưới ánh đèn cầy mát rợi. Ua bảo dưới hầm phải xài đèn cầy, nếu xài đèn dầu lửa thì sáng ngày hai lỗ mũi trở thành hai cái ống khói tàu. Tôi nghe cả hai luồng hơi ấm phả vào mặt tôi từ cả hai phía.

Ban đầu tôi chép Bài ca may áo cho Chia, kế đó tôi chép bài Xuân chiến sĩ cho Ua . Nhưng cả hai đều chê bài hát không mùi và cũ mèm. Tôi hỏi hai em muốn bài gì? Hai em bảo bài gì cũng được, nhưng không phải bài kháng chiến, giải phóng vì những bài đó đoàn văn công của huyện hát nhàm hết rồi. Tôi ngạc nhiên hỏi:

– Quận có đoàn văn công nữa à?

– Đoàn đờn cò đờn gáo của ông Phạm Sang đó mà, anh muốn coi không?

– Phạm Sang nào?

– Thằng cha bị vợ bỏ rầu rỉ kéo đờn cò tối ngày bà con trong xóm nhức xương, hơn nữa, tiếng ò e làm cho lối xóm không nghe được tiếng đề-pa của pháo, nên bà con đòi chụm ba cây đờn, giải tán cái đám nhảy cóc nhảy nhái và khóa mấy cái miệng ca Kim Tiền, Bình Bán đó đi!

– Rồi bây giờ nó còn hoạt động không?

– Còn vài đứa con gái và vài ba cậu thanh niên loại gà rót không dám đi chiến đấu lủi trốn ở nhà vô đoàn văn công của ổng.

Tôi nằm giữa hai nàng tiên, nghe trong người ngứa ngáy vô cùng nhưng bóp bụng làm như mình là gỗ đá . Mới vừa ăn chè đậu làm anh Hai của cô bé bây giờ lại hát tuồng tơ xe lộn mối hay sao? Thực tình tôi không có ý bỏ ngón cái cây đờn tì bà tí hon này, nhưng chính nó tự lên dây và khiêu khích tôi hoài, nên tôi mới dạo sơ sơ mấy đoản khúc. Coi bộ nó không hài lòng. Nó cứ rà sát vào cả hai vú . . . chì cau vào hông, cọ chân đụng đùi, còn má thì áp vào cổ tôi khiêu khích. Chắc tôi khó bề nhẫn nại được. Còn cô bé Chia thì chiến tranh lạnh. Cô nàng chỉ xem tôi viết, lâu lâu lại khen:

– Anh viết chữ đẹp quá hà !

Hoặc hỏi:

– Anh có biết đàn không? Anh về , đã móc gia đình chưa? Má em sẽ móc dùm cho!

Mỗi lần Chia hỏi, Ua đều nghễnh đầu trừng mắt sau gáy tôi Tôi nhìn thấy cả những gì ở sau lưng tôi và tôi linh cảm trước những gì có thể xảy ra cho tôi nữa.

Ua làm như tôi là vật sỡ hữu của nàng rồi. Sự thực từ lúc tôi thấy cô bé Chia thì tôi bớt để ý đến Ua. Ua cũng nhận ra điều đó nên nàng bực tức và lồng lộn.

Chép xong bài hát, tôi bảo Ua:

– Nếu em muốn hát đúng giọng em ghé lại nhà chị Bảy Mô, chị ấy sẽ dạy cho em thêm đờn.

– Em không cần hát đúng giọng, em chỉ cần có nét bút của anh để giữ làm kỷ niệm.

– Nay mai pháo bắn, kỷ niệm gì rồi cũng bay hết thôi.

Chia không nói gì. Chỉ cầm tờ giấy lên đọc nhẩm rồi kê lên mũi hít hít. Ua kêu lên:

– Mày làm gì vậy, Chia?

– Giấy thơm quá !

– In là con khùng!

Bà ngoại đang nằm trong hang ếch ló đầu ra cười:

– Bà có đứa cháu gái đó, cháu chấm đứa nào, bà gã đứa ngay.

Ua ngồi chồm dậy cong cớn cặp môi:

– Bà chịu gã cháu rồi, bà nói vậy ảnh thay đổi làm sao?

– Nếu hai đứa bây chịu thì tao gã hết cho cậu ấy!

Ua ứng khẩu liền:

– Vậy thì con Chia phải làm bé; vì nó tới sau cháu!

Chia vẫn lặng thinh. Ua biết Chia hơn mình về nhiều mặt nên nói lại ngay:

– Ý mà không được, làm vậy ảnh bị kỹ luật chết.

Bà ngoại cười xòa:

– Con nhỏ lúc nào cũng bồng chanh bốc chách, miệng bằng tay, tay bằng miệng.

Tôi nằm ở giữa, bên trái là Ua, bên phải là Chia. Ua bảo:

– Bên trái có trái tim, bên phải không có trái tim, chỉ có cái cùi chỏ !

Chia vẫn im lặng. Ua để ngọn đèn vào một ngách hầm. Bên trong trở nên mờ như đêm trăng lu.

Tôi tưởng mình trở thành con cá muối cứng ngắt và đồng thời như một thanh sắt nung. Tôi không dám xê qua nhích lại lằn ranh nóng mà hai nàng dành cho tôi. Riêng Ua thì thọc tay dọc xuống hông tôi cứ nhéo khẽ như có ý nhắc chừng: đừng có vi phạm luật giang hồ. Còn Chia thì có lẽ tự tin mình hơn hơn đối thủ nên giữ tư thế nghiêm trang, không khiêu khích.

Tôi giả bộ ngủ. Tôi nghe Ua chồm lên thổi tắt ngọn đèn rồi lặng lẽ nằm trở lại chỗ cũ . Nhưng lần này thì nàng bỏ một tay qua ngực tôi. Tôi vờ không hay biết. Nàng hôn tôi khe khẽ Tôi trân mình như khúc gỗ. Nàng càng hôn bạo. Nàng hôn vai tôi cố làm cho tôi quay mặt sang nàng đưa lưng cho Chia. Tôi bất thần quờ tay Chia cầm lấy và nối vòng tay lớn hai chị em trong đêm tối. Ua giật ra đạp mạnh, nhưng Chia đã rút nhanh nên tay Ua chạm vào bụng tôi đánh bịch. Ua cười khúc khích. Chia giữ im lặng như cũ.

Chao ôi là khổ. Tôi chỉ cần một mà lại có đến hai, ba bốn. Ở trên R tôi đã khổ vì các cô tiểu thư con cháu các ông trời, về trường pháo tôi khổ vì Huê, Tiến, Mai Khanh rồi bà khu ủy viên. Rồi đến Củ Chi tôi bị hai chị em cô Lụa Là bắt xác. Sau đó hai cô Nguyệt Nga, cô nào cũng sẵn sàng dâng dưa cả Đó là chưa kể mấy nàng độc chiến như Bảy Mô, Tư Bé…rải rác dọc đường Thiên Lôi. Và bây giờ thì hai nàng tiên nhỏ cặp hông. Cầu thủ bị chèn nghẹt thở suýt không được quả nào. Củ Chi này phải chăng là Tây Lương Nữ Quốc, một nước gồm toàn đàn bà. Từ Vua chúa triều đình cho đến thứ dân đều là hạng quần vận yếm mang. Cái nước này làm khổ ông thầy tu chín kiếp Tam Tạng không ít. Nhưng Tam Tạng là nhà chân tu..Còn tôi là tu hú. Tôi tu cái đạo của ông Trượng ghẹo Tiên Bửu tân thời:

Tu đâu cho bằng tu đây Tu chùa một cột đá xây hai hòn.

Gây chiến tranh với Mỹ, bác Hồ độc thân đã biến Củ Chi này thành một Tây Lương Tiểu Nữ Quốc. Thanh niên vắng bóng trong làng. Họ ra đi dân công ở Bình Long, Phước Long, Bình Giã, nơi quân Bắc kỳ xâm lược nghênh ngang muốn đọ sức với Mỹ: một ra đi là không trở về. Chồng của Là, của Mười, của Tư Mai. của Hai Hương (người đàn bà đến giúp vui cho nhà báo quốc tế Bọ Chét) đã nằm lại ở nơi xó rừng sâu núi thẳm nào đó, để vợ yếu con thơ… lãnh cái giấy báo tử nát nhàu.

Những gái một con thiếu chồng lâu năm, những cô gái đang học ngoài thành bỏ trường vào khu giải phóng vì nghe tiếng tăm Mặt Trận. Vào đây thấy không như người ta nói trên đài nhưng không dám chạy trở ra đành phải sống giữa cảnh chết chóc yêu cuồng sống vội. Hai cô bé này giống y như cô bé Thanh Tuyền, con gái rượu ông Lê Đức Anh.

Tôi bị kèm chặt quá, mặc dù được phép bà ngoại, vẫn không hoạt động được. Muốn xoay qua một bên để cho cái thớt lưng đỡ tê mà sợ mếch lòng. Một cử chỉ nhỏ cả hai đều biết. Cả hai đều giả vờ ngủ, nhưng lại muốn đối thủ của mình tin rằng mình ngủ say. Cả tôi nữa cũng ngáy bằng mũi lẫn mồm rất to để được hai nàng tin rằng tôi ngủ và khẩu pháo nằm ụ, không có pháo kích vùng đất cấm nào. Sự thực chẳng có ai chợp mắt.

Nghĩ thầm một chút mà tự cười mình. Tên Thiên Lôi này là loại người gì mà các bà các cô đều thích lấy giống vậy. Đẹp trai như Tam Tạng chăng? Sức mạnh phi thường như Hạng Võ chăng? Văn chương sánh cùng Lê Qui Đôn chăng? Quyền cao lộc cả chăng?

Không! không có dèm nào cả. Mặt mũi vêu vao lấy gì mà đẹp, nọc sốt rét còn mang trong người, cái lá lách sưng lên không biết lúc nào làm gì cử đảnh nổi như Hạng Võ . Văn chương thì mới làm vài bài thơ con cóc, và đàn dăm bản măng-đô. Quyền hành ư? Tiếng là thượng úy trưởng ban pháo binh (H6) nhưng đó chỉ là một đơn vị rã bèng như mẽ thúng rách. Vậy giới nữ lấy giống thằng Thiên Lôi này để làm gì mới được chứ!

Đó chẳng qua là họ túng chất nhờn của giống đực nên họ thấy tôi tóc chưa bạc ắt còn nhiều dự trữ xăng nhớt trong người mà bắt xác đó thôi. Còn tôi cũng vậy, của cải tồn kho quốc doanh mười mấy năm, nay có nơi phân phối thì đâu có ngại ngùng gì cắt ô phiếu cho ai, chỉ sợ một nỗi là mấy em mang cái bị của anh Hai gởi về thì khốn cho chàng Thiên Lôi này lắm.

Tôi sực nhớ cô bé liếng thoắng Thanh Tuyền, cô em chấc phát Ba ánh, cô nàng thùy mị Huỳnh Mai, nhớ nàng Mai Khanh đa tình, cô khu ủy say đắm nếm mùi tình lần thứ nhất, rồi gần đây là cô xã đội phó rắn mắc. Không biết có nường nào đã mang mầm mống hủy thể của hủy thể của chàng Thiên Lôi này chưa? Dám lắm. Tôi sợ, rồi hết lần này đến lần khác, lòng dặn lòng, đây là lần chót, nhưng rồi không lần nào chót cả.

Tôi ớn nhất là cô xã đội phó. Kỳ đó tôi đã phải rơi vào bẫy của cô rất tự nguyện. Cô nàng thiệt cao tay ấn chứ chẳng phải chơi. Ai đời lại gạt mình leo lên bẻ dừa rồi vô nhà tắm thoát y và kêu: Anh Hai ơi, dừa có. . . nạo không . Tôi bất thần ngó xuống, suýt nữa như dơi bị đạn giàn thung trúng ngay chính giữa ức, buông tay rơi xuống đất!

Cô ta tính tình như bé Ua. Nói chuyện ân ái như chuyện bình thường vừa ngây thơ vừa ngô nghê nghe mà rợn cả người. Ua thì tiểu tư sản và bạo miệng hơn. Tuy con bướm nhà tôi chưa bỏ vòi vào cái nhụy chắc còn phong kín kia, nhưng cô nàng tự coi như là chuyện đã rồi. Chỉ chờ hoàn cảnh thuận lợi hơn. Tôi nghĩ vậy nên ghìm cương con ngựa đang lồng lên trong tôi. Bất thần tôi nghiêng mình xoay mặt về phía nàng. Nàng lập tức ôm choàng cổ tôi áp riết mặt tôi vào mặt nàng mà hôn thật mạnh để cho đối thủ biết rằng nàng đã đoạt chiến thắng vẻ vang. Tôi đành phải làm việc theo sự điều khiển của nàng. Nàng càng hấp tấp bắt tôi phải cho nàng biết rằng tôi là của nàng và nàng đã là của tôi… từ lâu, tôi không phải dè dặt gì nữa. Tuy vậy cái hồng tâm vẫn còn che kín, chưa muốn nhận vết thương do xạ thủ gây nên.

Chia quay lưng lại tôi quay mặt ra mép giường. Tôi nghe một tiếng thở dài tự kềm chế. .

Chương 43 Thế Cờ Lật Ngược Bất Ngờ

< Sáng thức dậy, nàng Ua hát nghêu ngao lúc nấu nước để mấy bác pha trà. Sáu Huỳnh đi xuống, vỗ đầu cô bé:

– Ngủ thẳng giấc không nhỏ?

– Thẳng chớ sao không thẳng. Ôm anh Hai ngủ ngon thấy mồ !

Tôi mọc da gà khắp người. Chia cũng ngồi gần đó đang bỏ trà vào bình, cúi mặt với vẻ chịu đựng phi thường. Sáu Huỳnh bảo Chia:

– Mày về bển bảo má mày sửa soạn đi Sài gòn ngay.

– Chi vậy chú?

– Móc gia đình ông nhà pháo.

– Chưa có sửa soạn gì hết làm sao đi ngay được chú?

– Công chuyện cần kíp không thể chần chờ !

– Còn con nhỏ kia – Sáu Huỳnh chỉ vào Ua – sửa soạn cặp giò đưa má con Chia đi Củ Chi.

Ua nguých ngang:

– Ai đèo cho nổi cái bà mập ú đó!

Bà ngoại đang lọ mọ xuống bếp nghe cháu nói thì quay lại rầy.

– Con nhỏ này hỗn quá . Chú Sáu không dạy nó, để riết nó quen. Nó không có cha…

– Sao không có cha? Không cha làm sao má con có bầu được? Ngoại phải nói là không còn cha hoặc mồ côi cha!

Ua nói tươm tướp một hơi. Bà ngoại cười hiền từ với tôi:

– Thằng cháu cưới nó thì phải biết tánh mà thể tất cho nó đừng có bắt lỗi mẹ nó không biết dạy con nghe chưa?

Ua lại nghênh mặt:

– Con hỗn với ai chớ đâu có hỗn với ảnh.

Uống trà xong, Chín Lộc và Tư Minh đi công tác. Tôi và Sáu Huỳnh xuống hầm của ngoại bàn công chuyện, Chia về nhà còn Ua đi bôm xe đạp để chở cái bà mập ú kia.

Sáu Huỳnh nói với tôi bằng giọng chân tình của một người anh và của một đồng hương. Anh đã là quân đội trưởng quận Trung Huyện, tỉnh Chợ Lớn từ năm 1947. Tập kết ra Bắc mười năm không thăng một cấp nào lại bị chê là thành phần không cơ bản và lớn tuổi nên cho đi đào than ở Mõ Hòn Gai.. Rồi được kêu về Nam cho mặc lại áo lính với cấp bậc thượng úy (ngang với tôi). Tôi đoán là ông anh mang đầy một bụng bất mãn. Quả thật, bất mãn phọt ra từ câu đầu:

– Mày thấy không? Bắc kỳ vô tràn ngập hết cả rồi!

– Hai trung đoàn chiến thắng ở Điện Biên Phủ cũng đã tới đây, tôi gặp ở gần trường Trung Sơ. .

– Tao biết hơn thế nữa. Thằng còng làm thằng ngay ăn. Đó là qui luật xưa nay. Huỳnh văn Nghệ, Tư lệnh khu 7 mà ra Bắc lãnh lon thượng tá còn Trần văn Trà , Nguyễn văn Vịnh cũng cấp đó mà lãnh lon Trung Tướng là sao??

Tôi trỏ trỏ về phía hầm Chín Lộc. Sáu Huỳnh gạt tay tôi:

– Tao nói tạt mặt hắn chớ sợ hắn sao mầy. Ấy hổng ấy tao về ba vụ nuôi vịt Tàu hốt trứng.

Rồi anh bắt ngay qua chuyện của tôi:

– Sao mày dại vậy? Ai lại đi khai có em trai làm đại úy Sài gòn?

-Không khai làm sao được anh Sáu! Người ta nắm hết ráo mà. Anh không biết anh Ba Thạnh hiện giờ là Cục phó Chính Trị sao? Anh nuôi tôi hồi kháng chiến đó ! Chính ảnh biết và đặt vấn đề.

– Anh nuôi cái con khỉ gì vậy? Mày kẹt rồi, tao cho mày biết để mà đề phòng.

Tôi hơi rối trong bụng. Khi ở trên R, nhận lời với Ba Thạnh (tức Ba Thắng) tôi chưa kịp nghĩ sâu xa nên chưa thấy hết tầm quan trọng. Về Phú Mỹ Hưng gặp Tư Linh cũng nói thế kẹt của tôi. Sáu Huỳnh hỏi:

– Bây giờ mày định thế nào?

– Theo anh thì sao?

– Chỗ anh em tao phân tích lợi hại cho mày nghe nè!

Bỗng tiếng rí rố bên ngoài. Sáu Huỳnh bước ra hầm và quát:

– Cái gì đó Ua?

– Súng du kích báo động.

– Ba cái thằng du kích nứng c. .. đạo lộ bắn bậy chớ động gì mà báo. Xe tăng có vô thì phải kèm trực thăng và pháo bầy, chớ nó đi êm rơ vậy à?

Ua nói oang oang:

– Ông già nói bậy rồi. Tụi nó thả biệt kích đi đêm đó. Chú không nhớ ở Bàu Trăn chúng nó tóm gọn một tiểu đội du kích cũng vì ỷ y nó không đi hay sao?

Sáu Huỳnh nói cứng nhưng mặt mày dớn dác. Y bảo tôi:

– Tao với mày đi qua nhà con Chia bàn vụ cho má nó đi móc gia đình mày.

Vừa đi, Sáu Huỳnh nói tiếp:

– Mày có muốn thằng em đại úy của mày cộng tác với mình không?

Tôi ngần ngừ chưa kịp đáp thì y hạ giọng:

– Tao với mày đã rơi xuống vũng cứt trâu Hợp tác xã ngọ ngậy cả chục năm không thoát ra được, bây giờ không có lẽ mày lại lôi thằng em rớt xuống với mày? Nó đi, bỏ vợ bỏ con ai nuôi? Ra đây làm cái gì? Mày có thấy thằng Phùng Văn Mười cháu ông Cung không?

– Tôi có gặp… nó đang nuôi heo.

– Nhưng chắc có được yên thân mà nuôi heo không? Cái đó là không chắc, chắc là không!

Chúng tôi đi len qua những giồng mì lá còn đẫm sương ướt mẹp. Sáu Huỳnh vừa đi vừa khịt khịt mũi như chó đánh hơi hang chuột:

– Hồi hôm pháo nổ gần đâu đây,. ít nhất là vài chục.

Tôi nói:

– Trời sương mù dày đặc, khó nhận ra địa vật quá anh Sáu, rủi đụng tụi nó thình lình làm sao?

– Ở đây là năm ăn năm thua thôi chú em ạ . Chết pháo, chết xe tăng, chết biệt kích, chết bom, chết tàu, rồi chết hầm chông lựu đạn của du kích, một trăm thứ chết. Mạng mình ở đây như chuông treo chỉ mành vậy. Mày về đơn vị ít bữa rồi xem.

– Hồi chín năm (*) tôi công tác ở đại đội địa phương 1085 Ô Mô Cần Thơ, tối tối bộ đội vác nóp ra đồng ngủ. Sáng vác nóp vô nhà dân nấu cơm nhờ. Dọc đường đụng commandos, hai bên vật lộn. Nó hô Phơ, tôi cũng hô Phơ. Nó hô ăng na văng, tôi cũng nạt ăng na văng trả lại. Rốt cuộc hai bên đều cắm đầu chạy về nhà, không có phơ phát nào cả . Nhưng tụi tôi phải ớn chúng nó. Chúng nó toàn đi dưới nước, đội lục bình trên đầu, mò vô tận địa điểm đóng quân của mình. May mà mình đã ra đồng, nếu ở đó như bữa trước thì cúng mụ hết cả đơn vị rồi.

(*) chín năm: Danh từ để gọi thời gian chiến tranh Việt Pháp từ tháng 9-45 đến tháng 7-54.

Sáu Huỳnh nói:

– Tụi commandos Pháp tao cũng từng đụng ở Trung Huyện hồi chín năm nhưng chẳng ăn thua mẹ gì với tụi biệt kích Mỹ đâu ? Tụi này nhảy trực thăng nằm ém trong rừng có khi cả tháng. Nó ăn mặc nói tiếng giống hệt mình. Nó đào hầm ở trong rừng. Ban đêm mò ra xóm tìm cơ quan và chấm điểm cho máy bay bỏ bom. Nó còn bắt cóc người. Bà con sợ đồn là rừng có cọp

– Hồi chín năm có cọp ba móng ở Rừng Sát, Long Nguyên, An Thành…!

– Ừ. Đó là loại thám báo mặc quần áo giống da cọp. Cho nên tiếng đồn rừng có cọp là vậy đó.

Sáu Huỳnh trở lại vụ thằng em tôi:

– Mày viết thơ chưa?

– Viết lâu rồi.

– Kẹp theo tấm hình nghe !

– Có đủ cả anh à !

Sáu Huỳnh đứng lại rỉ tai tôi:

– Chừng nào Thầy có vô (tức ba tôi) nếu tao không có ở nhà thì mày bảo ông là đừng có cho thằng em mày bắt liên lạc với đầu mối của tao tức là má con Chia, chút nữa mày sẽ gặp tại nhà.

– Vậy anh làm sao hoàn thành công tác? Và tôi báo cáo lên trên thế nào?

– Hoàn thành cái chó gì. Tao sẽ giao lại việc này cho thằng Bắc kỳ mắt toét. Nói đúng ra ở trên không tín nhiệm tao đâu. Họ nghi tao bất mãn. Hơn nữa thằng đó có đi học tình báo Liên Xô ba năm. Mày coi chừng nó. Nó làm bộ xổ bầu tâm sự để mình hùa theo, cuối cùng nó nắm thóp hết ráo. Nó là quân báo thì cái nghề của nó thực hành ngay cả trong nội bộ. Nó hiện là Phó bí thư đảng ủy các cơ quan Bộ Tư Lệnh Quân Khu. Năm Lê chức cao hơn nó nhưng không có chân trong đảng ủy nên phải ngán nó.

Tôi hỏi ngang:

– Sao mình không di chuyển qua Bến Cát cho gần chiến khu Long Nguyên cũ, anh Sáu? Ở đây sát nách Đồng Dù tôi phập phồng lắm. Mấy ổng lại giao cho tôi cái H6 toàn đồ nặng. Đánh thì không dám đánh, còn giấu thì súng lẫn người đều rỉ hết.

– Biết làm sao bây giờ! Mấy năm trước còn sinh hoạt ì-xèo, bây giờ lặng trang như tờ. Tối ngủ đến sáng, thức dậy mới chắc mình còn sống. Sống tới chiều cơm nước xong xuống hầm ngủ mới chắc mình chưa chết. Qua Bến.Cát cũng được nhưng làm như vậy có nghĩa là bỏ đất bỏ dân ở lại đây, tuy sẽ không giữ được đất được dân, nhưng dân còn trông thấy mặt mình họ chưa ra ấp chiến lược vội. Mình đi hết, tụi nó sẽ lập ấp chiến lược ngay trong rốn mình để mở rộng vành đai an toàn cho Đồng Dù . Tụi Anh Cả Đỏ ổn định các ụ pháo chắc chắn sẽ càn một trận để quét sạch các căn cứ của mình ở cận Đồng Dù như Bàu Cạp, Truông Viết, Bến Mương, Ngã Ba Cây Trắc v.v… Xong rồi, nó sẽ cho B52 cày khắp từ Bàu Cạp đến Gò Nổi, Gò Đình. Thế là sạch láng.

– Sao anh đặt kế hoạch trước cho tụi nó vậy?

– Thằng nào cầm quân mà có phương tiện đầy đủ trong tay cũng sẽ làm như vậy cả. Chặt khúc, rồi băm nát. Băm xong cho lính nhảy xuống bắt sống, như cái kiểu mình tát đìa xong để phơi bùn cá chạch ló mỏ lên thở, chỉ nắm mỏ xách đầu lên vậy.

– Anh tính xem mình không có kế hoạch tấn công để phòng ngự à?

– Chiến thuật Mao Trạch Đông trong Luân Trì Cửu Chiến của tao học ngày xưa bây giờ hóa ra vô dụng hết ráo. Chiến thuật trực thăng vận của Mỹ đảo lộn tất cả ý niệm tác chiến hồi chín năm của mình. Từ Đồng Dù đến đây chưa đầy bốn cây số. Mình xách giò chạy bộ hộc máu mồm ít nhất một tiếng đồng hồ, trong khi nó bay không mất năm phút, lính không mệt chút nào. Đó là chưa nói các thứ râu ria khác yểm trợ bộ binh như pháo, trực thăng cá lẹp. Ối giào, mày phải bị một trận cá lẹp bắn thì mày mới biết đá biết vàng. Nó phóng một phát bốn rốc kết chụp xuống đất thành một vòng tròn. Sắt thép nằm giữa vòng tròn đó cũng bị tiêu diệt hết, nữa là người.

– Anh nói nghe bi quan quá vậy, anh Sáu!

– Chớ lạc quan sao được mà lạc chú em! Để mai mốt mày về H6, ở trên giao cho mày lập kế hoạch pháo kích Đồng Dù rồi tao sẽ cho mày biết hỏa lực của nó.

– Làm sao anh nắm được giỏi vậy anh Sáu?

– Đó là nghề của tao mà mày! Cái gì cũng chẳng qua tiền. Tiền mua tiên cũng được mà mua Tướng tá thì càng dễ hơn. Hình của L10 chụp bộ đội mình hành quân rõ từng dấu chân trên bờ suối và từng cái lá ngụy trang, thế mà nó báo cáo không có gì cả. Cho nên Tướng vùng thả xuống một đại đội thám báo. Mình quất sạch gồm cả cố vấn Mỹ. Trả cho thằng báo cáo ba triệu.

– Tiền đâu mà dữ vậy?

– Hai Tốt mang mười triệu bạc chiêu hồi ăn thua gì ? Lính chỉ đói sơ sơ vài bữa. Công tác viên của mình vô Chợ Lớn vài hôm cho ra một xe lam Đức Thánh Trần. Ba triệu bạc mua đứt một đại đội thám báo sừng sỏ, mắc lắm sao? Không phải thằng nào mình cũng mua được. Phải chọn đúng mặt gởi vàng. Chọn trật nó nắm đầu là bể hết. Ví dụ thằng em của mày chịu đèn với tụi tao rồi, nếu nó đang ở đơn vị tác chiến, tao có thể điều động nó về văn phòng, nó đang là Đại úy, tao chạy cho nó lên Trung tá dễ ợt. Tất cả đều nhờ tay anh Ba Tàu! Tụi này có thể mua cả Tỉnh trường mà mậ! (Việt Cộng đang đi trên con đường tráng nhựa thênh thang này gấp mười lần.)

Tôi ngớ ra, không ngờ cái sự đời nó lại như thế. Sáu Huỳnh tiếp:

– Do công tác điệp báo quan trọng như vậy cho nên lão Tư Khanh chánh ủy U80 mới cho mày về Cục Chính Trị để Ba Thạnh đưa mày xuống đây làm đầu cầu móc nối em mày. Nếu mày không có thằng em sĩ quan dễ gì thằng chả cho mày đi trong lúc trường pháo binh không có thầy giáo toàn năng như mày. Mày rõ chưa nào?

Sáu Huỳnh ngưng ngang và hỏi.

– Mày ở ngoải có nghe hai trận Ấp Bắc và Bầu Bàng không?

– Có nghe. Bộ Tổng đã cho học chiến lệ của hai trận này nữa.

– Chiến lệ nói gì?

– Nói ta đại thắng, địch đại bại. Anh biết cái lối sáng tác thành tích của Cục tác chiến mà ?

– Lê Đức Anh là Cục phó tao còn lạ gì. Có cái chiến lệ nào bằng cái. . . của má con Thanh Tuyền không? Bả đem giao con nhỏ cho ổng rồi trở về thành, không nói một tiếng.

– Tôi suýt làm phò mã của ổng đó nghe anh Sáu?

– Rồi sao không làm?

Tôi kể chuyện cho Sáu Huỳnh nghe. Nghe xong y bảo:

– Tao như mày tao vô ngàm cái cụp. Ở lại trên đó khỏe ru như cu bà bóng.

– Ở trên đó ớn B52 quá anh à. Hội nghị vừa xong, tôi dông liền. Về tới trường Trung Sơ, đang chỉnh huấn thì trên đó ăn dưa hấu tơi bời.

– Tao biết! Nhưng mày về dưới này lại thoát B52 sao?

– Đã đành rồi, nhưng về dưới này không phải nổi ghen với ba con khỉ làm tình. Anh thấy không, tay tôi quờ tới đâu hoa hồng rơi tới đó.

– Mày biết Bầu Bàng ở đâu không?

– Đó là một ấp nhỏ từ Bến Cát lên ấp Lai Khê xã Lai Hưng theo quốc lộ 13. Từ ấp Lai Khê đến ấp Bến Cần, ấp Đồng Sở mới đụng ấp Bầu Bàng. Từ Bàu Bàng lên ngã ba Chơn Thành còn hơn chục cây số. Bàu Bàng nằm giữa Lai Khê với Chơn Thành nhưng cách Lại Khê chừng tám cây số, toàn rừng cao su.

– Mày đi đâu đó mà rành vậy?

– Tôi có thằng bạn sống sót từ trận Bầu Bàng về.

– Chiến thắng đó to không bằng Ấp Bắc đâu. To nhờ đài Giải Phóng la rồi Hà Nội la rờ le chớ có gì. Tao rành mà. Công tác viên của tao nằm lềnh khênh ngoài thành nắm hết sự kiện.

– Ấp Bắc có phải nằm ở xã Bình Hòa tỉnh Tân An không anh?

– Chớ còn đâu nữa. Nhưng đó thuộc trào Ngô Đình Diệm. Để tao nói về cái chiến thắng này cho mày nghe. Hồi đó Mỹ mới viện trợ một số trực thăng. Lính Sài gòn chưa quen nhảy dò, nên nó đem trực thăng ra mà thực tập đổ quân theo chiến thuật gọi là Phượng Hoàng vồ mồi và Bủa lưới phóng lao.

– Trên Trường Sơn tôi đã được giao liên gốc đồng bằng Nam kỳ kể cho nghe rồi. Cái tên nghe ác thật!

– Nó ác thật chớ không phải chơi đâu. Thằng Mỹ khi đã làm việc gì thì làm tới gáo không có chơi cái kiểu một lon muối cho đắp đầu gối vượt Trường Sơn như mình… Hồi đó sau Đồng Khởi mình mới tập trung du kích được tới cấp đại đội và võ trang bằng súng trường bá đỏ thôi. Tệ hơn nữa là loại oảnh tầm sào thời Nga hoàng đồng chí đầu trọc xỏ lá viện trợ cho mình đánh với M13 của Mỹ . Ở Bàu Bàng thì lính khá hơn, vì được 2 tiểu đoàn Phú Lợi và Bình Dương.

Tôi chắn ngang:

– Để tôi hỏi anh về vụ thảm sát Phú Lợi chút.

– Thảm sát nào?

– Hồi còn ở ngoải tôi nghe có vụ thảm sát một ngàn tù nhân bằng thuốc độc trong trại Phú Lợi.

– Đầu cặc! Toàn láo. Thuốc độc gì mà giết một ngàn tù. Tù đui hết à? Có thuốc độc bỏ vô nước ngọt ở Quốc Hội Ba Đình giết Dương Bạch Mai thì có.

– Anh nói bừa vậy không sợ thằng bù lạch Bắc kỳ à? Nay mai nó thưởng anh chai nước ngọt Hồng Hà đó !

Sáu Huỳnh nói tiếp:

– Mình nói láo quá sức rồi chính mình cũng không còn phân biệt đâu là láo đâu là thật nữa. Tao cho công tác viên của tao điều tra hết cả. Đéo mẹ, tù Phú Lợi ăn cơm trắng với thịt heo chớ không ăn chè trôi nước không nhân làm bằng bột mì Liên Xô và cơm độn sắn như dân xã nghĩa mình ngoài đó đâu. Đài Giải Phóng la oang oang không biết mắc cỡ miệng chút nào hết. Cái trận Ấp Bắc chỉ hạ vài chiếc trực thăng mà nó phóng đại, nghe qua tưởng chừng quân ta tiêu diệt hết phân nửa lính Sài gòn. Sự thực sau trận Bàu Bàng, hai tiểu đoàn Phú Lợi và Bình Dương nằm liệt giường không có quân số bổ sung, hai cái mê rỗ nhập lại làm một để đi xúc cá hủn hỉn. Còn sau chiến thắng Ấp Bắc thì hai đại đội Đồng Khởi phần đông là lính mới của Ba Đào ở Bến Tre đưa lên mất tên luôn. Số còn sống trốn về quê hết sạch. Hai ban chỉ huy chỉ sống sót một đại đội phó nhưng cũng bị thương cưa cụt chân. Mày nghĩ xem, lính cỡ tụi mình đầu có sạn gặp bom đạn của Mỹ còn nhợn thay huống gì ba thằng thanh niên vườn bốc tếu tưởng thổi kèn bằng tàu đu đủ là địch cuốn ró chạy rài. Nay mai mày có ra chỉ huy Bộ binh rồi mày sẽ thấy hỏa lực của nó mạnh gấp chục lần các tiểu đoàn thiện chiến BMEO của Pháp hồi trước.

Tôi thở dài:

– Anh nói tôi nghe bi quan quá anh Sáu!

– Có còn gì lạc quan! Chỉ ông Giáp ở ngoài đó là lạc quan thôi, chớ ông Sáu Vi vô đây thì không thể lạc quan được.

– Vừa rồi ổng nói ở đại hội mừng công, trước mặt cả dân trí thức Sài gòn: Nắm thắt lưng Mỹ mà đánh.

– Đó là cách nói, cũng như hợp tác xã bị hạn không có nước, vác xe gỗ, gàu sòng ra tát nước mà báo Nhân Dân cho là Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa, còn ruộng bị úng thì kêu là nghiêng đồng đổ nước ra sông vậy mà !

Tôi hỏi ngang xương:

– Vụ dưa hấu đổ xuống R kỳ rồi ra sao anh Sáu?

Sáu Huỳnh cười khè khè quay lại nhìn tôi:

– Thì ta vẫn đại thắng như ở Bầu Bàng Ấp Bắc chớ R đâu có chết con nhái nào. Chỉ có diều tao lo là thằng con trai tao gởi trên đó không biết ra sao. Đến nay chưa dò ra tin tức.

– Tại sao anh lại gởi trên đó?

– Nó đang sửa soạn thi Tú Tài, vợ tao sợ nó thi trợt sẽ bị bắt lính nên hộc tốc đưa thằng nhỏ vô đây không hỏi ý kiến tao trước vì tin tưởng Mặt Trận đã giải phóng 3/4 đất đai và 4/5 dân số miền Nam. Thằng nhỏ tha hồ mà rong chơi. Chẳng dè vô đây khu giải phóng chó ngồi ló đuôi. Trở ra không được nên tao đưa lên đó hồi chưa có B52 kia. Bây giờ thì không ổn nữa ! Cũng kiểu như thằng em mày vậy. Tao lấy tình anh em khuyên mày nên suy nghĩ cho kỹ. Đáng lẽ ở cương vị công tác của tao, tao xúi mày thừa thắng xông lên mới phải… Nhưng lương tâm tao không nỡ nhìn mày bị kẹt đạn.

– Tôi hiểu anh, anh Sáu. Xin thành thật cám ơn anh.

– Dính vô đây rồi là tấn thối lưỡng nan cả một đời chớ không có dễ đâu!

Câu chuyện tạm ngưng khi Sáu Huỳnh dừng lại, trỏ tay vào một hố pháo nám đen bên đường:

– Mày thấy không? Má con Chia chắc phải lủi xuống tận đất cái hồi hôm này !

Từ ngoài đường quẹo vô một quảng là tới nhà Chia. Sáu Huỳnh rỉ tai tôi:

– Đây là cơ sở bí mật của tao nghe !

– Các cha đi đâu cũng có cơ sở hết cả !

– Mày nghĩ, ra Bắc mười năm thằng nhỏ chỉ làm cái nhiệm vụ chiến lược thứ yếu thôi. Còn nhiệm vụ chiến lược chính yếu lại không động tới. Bây giờ phải cho nó lãnh phụ trội chớ. Để nó làm cây pháo vô dụng sao được mậy ! Nường bốn mươi tuổi nhưng không đi cấy nên còn mướt lắm.

– Anh coi chừng, không khéo rồi như Hai Giả đó .

– Đồ thằng ngu! Ăn vụng mà không biết tém cho sạch mép.

– Tém sao được khi cái bị của anh Hai đã gởi về ?

– Tao đã ngâm kín cái cơ sở này ba năm mà không lộ tẩy là nhờ cái bửu bối này.

Sáu Huỳnh thọc tay vào túi quần sau móc bóp. Tôi xua tay:

– Tôi biết rồi anh ơi ! Thằng Tư Linh đã cho tôi một mớ . Hôm đi đại hội mừng công về ghé Xóm Mới gặp thằng Hùng Cối nó bổ sung cho một mớ, tôi mua tăng cường một mớ nữa, tất cả chừng ba chục hiện nằm trong sắc-cốt tôi đây.

– Mày khá lắm! Nhưng trong mình là một chuyện còn đeo cho thằng nhỏ là một chuyện khác. Tuổi trẻ của mày lúc sắp xáp chiến mày hăng-xờ-máu, cương-xờ-quyết quá đi nên mày quên mất cái việc quan trọng đó . Nhớ lại coi có lần nào mày quên không?

– Bỏ mạng rồi anh Sáu ơi? Có, có hai ba lần.

– Với ai?

– Với bà khu ủy ở quân Tân Lập, Tân Biên gì đó !

– Sao phạm thượng dữ vậy?

Từ trong nhà có tiếng bà nói vọng ra:

– Cái ông già mắc dịch bày chuyện cho thanh niên hư hỏng.

Tôi ngó vào bên trong. Một người đàn bà mập mạp tóc đen. Tôi biết đó là má con Chia. Sáu Huỳnh nói ngay:

– Mày muốn mua gì cũng có trong cái quán này. Có thể bà chủ quán là nhạc mẫu của mày đó. Tạm thời mày kêu bà bằng dì Tư cho ngọt trước đi, sau kêu bằng má . – Sáu Huỳnh đi vào vừa nói oang oang – Tuổi tác có hơi chõi một chút, nhưng không sao, không sao ! Tình không kén tuổi. Con Chia đâu rồi, pha hai ly cà phê sữa đem ra đây liền coi! Rồi tao làm chủ hôn cho. Tao biết hai đứa bây khứng với nhau rồi!

Dì Tư kêu oai oái:

– Ông làm như mua gà mua vịt vậy, miệng trả giá tay chộp liền.

Sáu Huỳnh nói:

– Nội đàn ông mùa thu mùa đông không thằng nào bằng thằng này về mọi phương diện, học hành cấp bực và hình thức Còn nội con gái dân thứ, du kích, cơ quan vùng này cũng không đứa nào bằng con Chia. Như vậy là Dâu Nam Giáng Rể Đông Sàn, còn chờ gì nữa? Bà không chịu thì con Ua, con Bảy Mô, Tám Mang, Sáu Nga, con xã đội phó Phú Mỹ Hưng đua nhau giành mất đấy. Rồi đừng có tiếc nghe?

Dì Tư ngập ngọng nói líu lưỡi:

– Thì để thong thả đã chớ làm gì như chạy giặc vậy?

– Chạy giặc chớ không à? Nó sắp càn tới nơi rồi đó, tôi cho bà hay! Nào, bà sửa soạn đi Sài gòn mau lên. Móc gia đình cho thằng này và công tác luôn tôi sẽ nói sau. Cố gắng đem ông già hoặc bà già nó vô để bàn việc đám cưới luôn. Gia đình nó phong kiến dữ lắm. Tôi biết rành hồi chín năm. Bà thấy có ai như nó không? Đến tuổi này rồi, con gái bu rần rần mà không bị một tiếng xấu. Bà tìm ở đâu ra một thằng rể như vậy?

Sáu Huỳnh vừa uống cà phê vừa nói mâm trên liên tục rồi giao công tác cho dì Tư. Tôi và anh vừa đứng dậy định đi về thì nàng Ua phóng xe đạp tới thềm la oang oang:

– Rồi chưa dì Tư! Mau đi cho kịp chuyến sáng. – rồi nói với tôi – Anh về ngoại biểu gì ở bển.

Tôi biết là con sư tử Hà Đông tí hon này sắp nổi trận lôi đình nên bước ra cửa ngay. Ua đi lẽo đẽo sau lưng tôi. Tôi cố đi nhanh, Ua chạy vụt theo:

– Anh đứng lại em nói chuyện này chút.

– Em đi công tác rồi về sẽ nói !

Ua thở hỗn hễn.

– Em là vợ anh rồi nghe chưa? Anh mà léng phéng với con Chia là em rút chốt lựu đạn.

Tôi bịt miệng cô bé bằng một cái hôn. Nàng ta vít đầu tôi xuống, ghì mãi vào má nàng. Tôi biết Sáu Huỳnh và dì Tư ngó theo nên dãn ra. Ua nói tiếp:

– Em ra ngoài đó nói với má cho anh đồ đạc. Em sẽ ghé chợ Bắc Hà mua xanh-tuya-rông và vải dù cho anh.

– Các thứ đó anh có đủ rồi !

– Vứt hết đi. Em muốn anh đắp tấm của em như đắp em vậy; em muốn anh nịt xanh-tuya-rông của em như đeo niềng kim cô để lúc nào cũng nhắc anh nhớ rằng em là vợ của anh.

– Thôi được rồi, em vô lãnh công tác đi!

– Anh nhớ đấy. Kể từ đêm qua em là vợ của anh rồi.

Ua nói rồi quày trở vô. Trời ơi! đã có bao nhiêu người con gái nói với tôi câu đó ! Thế mà tới bây giờ ba mươi bốn tuổi rồi tôi vẫn chân không. Sáu Huỳnh đi ra, vừa nhìn tôi vừa lắc đầu:

– Tao hết biết cho mày !

– Tôi mệt còn hơn leo cây dừa lão anh Sáu ơi!

Vừa đi trở về, Sáu Huỳnh nói:

– Chờ cho nó chở bả đi thì mày trở lại. Phải chơi cái miếng hồi mã tam thương mới thắng địch.

– Tuổi tác chênh lệch quá anh Sáu ạ ! Tụi nó còn con nít biết cách làm vợ ra sao?

– Chị Sáu mày lấy tao hồi mười sáu tuổi. Vẫn ở tới bây giờ, có sao đâu. Đối với con gái mới lớn lên, thằng con trai phải biết điệu nghệ , để phát đầu tiên cho nó lên tận mây xanh là nó đội bàn thờ theo mày. Bởi vậy mấy tên già dơ đều quơ được con gái nõn nà, còn mấy thằng thanh niên chạy xớ rớ cứ hụt giò hoài. Mày không phải o mà tụi nó tới nộp thịt thì cứ xơi tái, bỏ đi rất uổng!

– Tôi có hứa với người ta rồi anh Sáu ạ !

– Hứa thì hứa, ăn thua gì. Thời buổi này không có gì chắc. Con Tám Mang ở An Nhơn Tây cũng hứa với một thằng tiểu đội trưởng ở tiểu đoàn Quyết Thắng , anh chàng bị thương cụt hai giò, con bé ngãng ra. Ai tránh được? Mày hứa như vậy chừng nào cưới? Lỡ một bên bị thương nặng thì sao? Chuối lột tới đâu ăn tới đó, đừng có treo đó mà mất ăn. Nếu con nhỏ cằn nhằn thì cứ đổ thừa cho gia đình cưới đem vô cho mày. Rồi nó đi lấy thằng khác chớ ế ẫm gì mà lo. Đời này không có ai chung thủy với ai hoàn toàn. Tao có cơ sở ở đây nhưng vẫn chung thủy với chị Sáu mày như thường. Mày năm nay ba mươi bốn rồi phải không? Ở đó mà chung với thủy!

Sáu Huỳnh lôi tôi nép vào bên bụi trúc và thuyết một hồi nữa, mắt thì ngó về phía mối đường. Thấy Ua đạp chiếc xe ra quẹo phải, Sáu Huỳnh vẫy vẫy tay. Dì Tư ngồi sau poọc-ba-ga vẫy đáp lại và trỏ tay vào nhà. Sáu Huỳnh nói.

– Bả chịu mày làm rể rồi. Trở lại đi!

Thấy tôi chần chờ, Sáu Huỳnh đẫy sau lưng tôi và nói:

– Đây ra Củ Chi mà đi ngã Bào Tre thì mất hai tiếng, về mất hai tiếng nữa. Ở ngoài đó với má nó mất hai tiếng. Vị chi là sáu tiếng. Chừng ba giờ nó về tới nhà . Nó đang điên trong bụng nên đạp bạt mạng có thể về sớm hơn. Mày trù trừ mất hết thời giờ . Phát đầu tiên kể như mới lấy cự ly. Phát thứ hai mới đúng đích. Mau lên ông thầy pháo. A ông con rể !

Nói xong Sáu Huỳnh quay lưng đi. Tôi trở lại nhà Chia. Chia đang đứng ở cửa ngó ra. Tôi nói để che giấu tội lỗi sắp phạm phải:

– Anh bỏ quên…

-…cái chỗ ngồi phải không?

Chia vừa nói vừa quay vô nhà. Tôi đi theo bén gót. Qua khỏi quày hàng, đến miệng hầm, nàng dừng lại bảo tôi:

– Anh xuống hầm đi, ở trên này ớn lắm. Để em ra đóng cửa .

– Rồi người ta tới mua hàng làm sao?

– Không có bán buôn gì hết!

Nàng trở ra đóng cửa cài then rồi trở vào, đi xuống hầm đốt đèn. Lòng hầm kiến trúc cũng giống như hầm bên nhà của Ua nhưng chỉ có một cái giường không có hầm khoét và dưới gầm giường chất đầy những hàng hóa. Nàng nói:

– Bây giờ anh là của em.

Tôi bị đặt trước việc đã rồi. Không rõ ở ngoài đó Thu Hà ra sao? Những lần đi với bà khu ủy, Mai Khanh, Huỳnh Mai, Thanh Tuyền, Ba Ánh tôi không suy nghĩ đắn đo gì hết, coi như bánh ngon dâng tới miệng trong lúc mình đói thì cứ ăn. Và sau khi ăn xong, chẳng có nợ nần gì. Tôi sẽ xa họ ngày hôm sau, dù ai có muốn níu tôi lại cũng không thể được. Còn lần này tôi phải sợ vì tôi công tác ở tại đây, gia đình Chia cũng ở tại đây và nếu ba hoặc má tôi vào thì thành chuyện chính thức. Chia cũng rất vừa ý tôi. Ngoài ra cô xã đội phó, Bảy Mô và nàng Ua sẽ là những trở ngại. Bảy Mô sẽ không phản ứng như cô xã đội và Ua, nhưng tôi cũng cảm thấy mình bạc tình. Do đó, tôi ngồi im trước câu nói trùm phé của cô bé . Nàng cũng đứng dựa thanh giường nhìn tôi chớ không đến gần, thủ thỉ:

– Em đọc tiểu thuyết, thấy anh đúng là người trong mộng của em.

– Sao lạ vậy?

– : Em không hiểu tại sao. Hôm qua khi con Ua….

– Nó vai chị nghe !

– Em coi nó như con nít ! Hôm qua nó cho em hay và rủ em qua coi mắt anh, em qua đến nơi thấy anh em thương liền ! … Đêm qua em khóc hết nước mắt… Nhưng em biết thế nào em cũng được anh yêu.

– Tại sao em biết vậy?

– Người như anh không thể yêu con Ua. Nó đáng lẽ phải là con trai. Ngoại em thường nói mụ bà nắn lộn.

Que sera sera thật rồi. Tôi đến gần bên Chia. Chia nói:

– Em tên Châu, nhưng hồi nhỏ má em sợ xấu hái nên đặt tên Châu mà lại gọi Chia. Tên đẹp sợ quỉ bắt mất.

Chia nhìn tôi với cặp mắt như nói:

– Em thế này mà anh không yêu sao?

Tôi chưa kịp đưa tay ra thì nàng đã ôm quàng lấy tôi. Chúng tôi lăn lóc trên giường như hai thỏi sắt nướng. Chia rên rĩ:

– Chắc em chết quá . Chắc em đứng tim quá !

Rồi nàng chồm lên thổi tắt đèn.

– Em là ánh sáng của anh.

Tôi không nói thành lời. Môi thay thế. Tay phụ họa thêm. Ngọn suối nhỏ của khu thần tiên đã dâng tràn. Nhớ lời Sáu Huỳnh dặn lúc nãy. Tôi ngồi lên để lấy bửu bối.

Chia kêu lên và nằm co rúm lại. Một mãng tuyết lồ lộ trên bãi cỏ xanh, một nàng tiên rơi vào trần tục. Chia liếc mắt thấy và kêu lên.

– Anh làm gì vậy?… Không ! em không chịu thứ đó đâu!

– Em không sợ có con à ?

– Chính em muốn có con với anh.

– Sao em biết cái thứ đó?

– Ông Sáu Huỳnh ngủ ở đây với má em, bỏ tùm lum em lượm vứt đi hoài.

Tôi còn đang lưỡng lự chưa biết có nên nghe lời cô bé hay không thì bỗng có tiếng đập cửa rầm rầm. Tôi nhìn Chia:

– Người ta đến mua hàng?

– Kệ họ ! Không có buôn bán gì hết.

Rồi tiếng kêu tiếp tục. Tôi trợn mắt với Chia.

– Rõ ràng là tiếng con Ua.

Chia vẫn lắc:

– Kệ nó.

– Nó tông vô được làm sao?

– Cho nó thấy luôn chớ sao !

– Chia, Chia ơi! Cho tao vô lấy đồ bỏ quên.

Tiếng kêu lẫn tiếng rung lắc cửa. Một chập, tiếng lằm bằm:

– Con nhỏ quỉ này đóng cửa quán qua bển rồi !

Rồi im bặt. Chia lấy mền cuộn vào người rồi rón rén đi lên. Một lát, trở lại:

– Con quỉ đi rồi.

– Nó quên cái gì vậy?

– Nó làm bộ để coi anh có quay lại đây không chớ quên cái gì?

– Nó về bên ngoại không thấy anh chắc nó la ầm lên.

– Nó biết anh đi đâu mà la ầm?

Nói xong Chia đưa cánh tay ngà ra như một búp hoa huệ, quạt khẽ. Cái đốm sáng ngoan ngoãn biến đi như con mắt thần nhắm lại. Tôi để nàng trãi lên tôi như một dãi lụa và nghe mọi cảm giác dâng lên trong người.

Với cô xã đội vừa rồi, vì ở giữa rừng trống trải nên tôi hấp tấp. Lần trước đó vì ngủ chung hầm với cô chị, nên tôi cũng tốc chiến tốc thắng để rút lui. Còn hôm nay một mình tôi một cõi, tôi cứ nhỡn nha như các ông đạo uống trà, hớp từng hớp khẽ như sợ hết miếng ngon. Bây giờ tôi mới nghiệm ra, con gái thích đàn ông vì đàn ông có ngón nghề, biết huyệt nào là tử huyệt. Chỉ cần khảy một cái nhẹ thì bệnh nhân rã rời tứ chi lung lay nhật nguyệt. Tôi vừa đi nhẹ vào nàng và hỏi:

– Rủi có con đừng làm rùm nghe.

– Ư ư…

– Anh cũng muốn có con. Già cái đầu rồi, cứ hun con nít khính của người ta.

– Ư ư …

Bỗng nàng kêu lên the thé : Anh ơi! rồi quào loạn xạ trên lưng tôi.

…. Nàng đưa cho tôi xem chiếc khăn trắng mà nàng lót dưới chiếu trước khi tôi yêu nàng, cho tôi xem và gục đầu vào vai tôi mà nức nở.

– Anh tin rằng em yêu anh là người đầu tiên chưa?

Tôi làm thinh. Nàng nói tiếp:

– Để em giữ làm kỹ niệm.

Tôi nhìn thấy mấy cánh hoa hồng tươi mà tự hào cho cái kiếp giang hồ bạt búa của mình. Nàng tiếp:

– Nhưng chắc kỳ này không có con đâu anh.

– Sao em biết?

– Em biết luật Ogino mà. Sau khi có kinh một tuần lễ hoặc mười ngày thì ăn ở với chồng mới có con. Em vừa sạch kinh mới có hai ba ngày thôi. Anh phải yêu em tuần tới.

– Biết anh còn ở đây không?

– Anh đi đâu em cũng tìm cho được.

– Rủi anh chết làm sao…

Chia bịt miệng tôi bằng nguyên cái gò má nóng bừng của nàng.

Như thói quen của thầy pháo, phát thứ nhất chỉ là phát lấy tọa độ . Phát thứ hai mới là phát tàn sát kẻ thù . Tôi lẽ nào không theo cái nguyên tắc pháo binh đó. Hình như hôm nay tôi đã vượt chỉ tiêu.

o O o

Tôi giật mình thức dậy và xem đồng hồ. Con Ua sắp về. Tôi khoác lại y phục và bảo nàng tôi phải về bên ngoại. Chia biết ý tôi sợ Ua về bắt gặp nên trừng mắt:

– Bộ anh sợ nó bắt gặp anh ở đây hả?

– …..

– Em cần nó biết anh đã yêu em. Nếu nó không biết em sẽ nói cho nó biết.

– Thôi đi em ơi, làm đổ bể tùm lum anh trốn khỏi đất này luôn.

Chia cười ngất, vuốt má tôi:

– Coi vậy mà nhát gan!

Tôi ra ngoài nhà mở cửa. Khách tới mua hàng. Không có ai quen. Toàn là lính và cán bộ . Tôi cứ hốt đậu, đường muối, thuốc lá… đưa cho họ và chỉ lấy tiền tượng trưng. Họ mừng quýnh không kịp cám ơn nhận hàng rồi rút đi. Một người quay lại nói:

– Cầu trời cho ông mở thêm một vài cái quán nữa !

Tôi vừa quay vô thì có tiếng hỏi:

– Quán có bán thuốc rê Gò Vấp không?

Nghe giọng quen quen, tôi quay lại và kêu lên:

– Chú Tư! Chú đi đâu xuống đây?

– Đi họp! Sao chú ở đây?

– Dạ cháu về nhận công tác.. . Mời chú Tư ngồi. Để cháu nấu miếng nước pha trà quạu chú uống chơi.

Chú Tư Thiên trông gầy tọp. Râu ria như chổi chà tua tủa, tóc dựng đứng như bó rơm, mắt sâu như hai cái hố bom đìa.

– Tình hình ở trển có yên không chú Tư?

– Yên gì mà yên? Đêm pháo, ngày máy bay. Lúc này chú về trển tìm không ra ai hết. Thằng Tư Thuận dông luôn rồi. Tôi đã biết cái dèo nó cho vợ con đi ra ấp chiến lược trước mà !

– Má Hai có về không chú?

– Về đâu được mà về . Con Lụa có tin buồn. Để tôi kêu con Là lại gặp chú.

– A cổ cũng ở đây nữa à?

– Bây giờ ở trển chỉ còn hai chú cháu hôm sớm với nhau thôi. Đi họp huyện mà tình hình động quá. Chú với con Là tới Xóm Bưng mà huyện đội huyện ủy đi đâu mất tiêu. Hai chú cháu đang tính tới tính lui xem có nên đi tìm hay trở về. Cuối cùng tọt xuống tới dưới này. Ăn ở lêu bêu thế này nó chụp một cái là bị hết nguyên con.

Chú Tư đứng dậy đi. Nhìn chú ra tới đường tôi mới thấy sự có mặt của nàng xã đội là nguy hiểm vô cùng nhưng chẳng lẽ lại ngăn chú hoặc mình lánh mặt?

Chập sau, cô xã đội phó tới, chân bước loăng quăng, mặt mũi hớt hãi, cây trường bá đỏ chĩa họng lên trời.

– Anh Hai tôi đâu, anh Hai tôi đâu?

Chú Tư đi phía sau, cười khoe hai hàm răng xếu xáo:

– Ai đứng sầm sầm một đống kia?

Là chạy nhào tới ôm choàng lấy tôi rồi úp mặt vào ngực tôi mà òa lên khóc. Tôi đứng chết trân. Đợi chờ nàng bớt cơn mưa giông tôi mới hỏi:

– Gia đình mạnh hết hả em?

– Ba con Rớt hi sinh rồi.

Tôi nghe rụng rời tay chân. Hiện lên trước mặt tôi con bé mồ côi và người mẹ trẻ góa bụa dưới một cái hầm đất hôi hám. Bé Rớt lúc nào cũng.quấn quít bên tôi. Lần nào tôi đi, nó cũng hỏi: Cậu Hai chừng nào về? Nhớ tới bé tôi không cầm được nước mắt. Nay ba nó hi sinh thì nó sống làm sao. Mấy dòng chữ tôi phóng cho nó đời nào nó mới học thuộc?

– Má có về không em?

– Anh đi đâu mất biệt vậy?

-Thì đi công tác chớ đi đâu!

– Anh hứa rước gia đình vô để gặp má , làm em chờ hoài.

– Anh có cho đi móc nhưng không kết quả em ạ ! Anh mới vừa nhờ người đi hồi sáng này.

Mắt Là sáng rực lên.

– Người ta đi, chừng nào về, anh?

Tôi thấy tội nghiệp cô gái quê chân thành đến mức độ khờ dại. Tôi thật tình không muốn đi sâu vào tình cảm của Là vì tôi biết tôi không thể lấy một người vợ như vậy. Cũng như với Ua, bị Là ép tôi phải nhận. Tôi cho nàng những gì nàng đòi hỏi, nhưng tôi không hứa hẹn gì. Chuyện tôi rước gia đình vào để gặp má Là do nàng mơ ước chớ không phải thoát ra từ quyết định của tôi. Nàng quay sang chú Tư Thiên:

– Mình ở loanh quanh đây tìm huyện ủy chú Tư à !

Chú Tư biết ý cô nàng muốn ở nán lại chờ tin vui do cây móc mang về, nên nói:

-Tao ở mấy ngày cũng được ! Trâu già đâu nại dao phay, nhưng sợ cho cái thân gái của bây lang bang như chuột không hang rủi có chuyện gì thì khổ.

Là cười như mếu và quệt nước mắt:

– Không sao đâu chú ! Chẳng lẽ lại xui dữ vậy sao?

– Năm may ngày rủi biết đâu ! Ừ, ở thì ở, nhưng để tao tìm thằng ấp đội trưởng để nếu có bị chụp hai chú cháu có hầm mà chui. Cháu ở đây nghe ? Chú đi xế xế thì trở lại.

Nói xong chú xách rựa ngoéo, đội mê nón lên đầu vai vác khúc cây cò ke lúc nào cũng sẵn sàng đẽo cây đòn gánh để đổi rượu, thuốc rê hay vật dùng khác.

Chia từ trong bếp bưng mâm trà đi ra. Là nhìn Chia, Chia nhìn Là bằng những cặp mắt của tử thù sẵn sàng ăn gan uống máu nhau. Nhưng Chia đặt mâm trà lên kệ hàng rồi nhã nhặn mời: Anh chị giải khát và lui vào. Còn Là thì quắc mắt ngó theo rồi quay sang hỏi tôi bằng một giọng mát mẻ:

– Ai vậy anh Hai?

– Con của chủ nhà đi móc dùm anh!

Biết Là không tin (như lần vô quân y của Tư Chuyền bắt gặp hai cô Hằng Nga đang ăn khoai mì với tôi), tôi thêm:

– Đó là vợ của một chiến sĩ ở cơ quan anh mà . Khổ quá !

– Ừ ! cho nhớ đa nghe !

Tôi xoay sang hỏi thăm công tác. Là chỉ đáp nhát gừng và kết luận:

– Kỳ này lên quận tôi trả chức.

– Sao em nói kỳ vậy?

– Dân ra ấp chiến lược, du kích lẫn tránh, cán bộ nằm nóp hoặc ngồi thum, còn các bà Hai Xót, Năm Đang thì biến mất, muốn xin chỉ thị chỉ biết vô rừng cao su tìm cái miếu thổ thần, nhưng ông thần cũng ra ấp chiến lược rồi.

– Em đã hoàn thành ba cái hang cho ông Ba Xu chưa?

– Đào nửa chừng thì bỏ mứa. Tụi thằng Trương thằng Hiếu cõng vợ con chiêu hồi rồi.

– Trời đất! Còn hai thằng Mã Tử và Đầu Ban?

– Còn đó nhưng chỉ có xác, không có hồn!

– Con Rớt….

– Nó nhắc anh hàng ngày. Tụi con chị Tám Khỏe cũng vậy. Ngày nào cũng hỏi cậu Hai chừng nào về?

Tôi ngồi nói chuyện với Là mà trong bụng rối bời. Chắc nàng Chia đã biết Là là ai rồi. Nếu đổ bể ra không biết tôi sẽ giải thích như thế nào cho cả hai bên để cái ngòi nổ tịt đi.

Đang ngổn ngang trăm mối tơ vò thì một chiếc xe đạp vọt vào sân: bà chằng lửa về tới. Giống như một màn kịch tới hồi quyết hệt. Trông thấy tôi, Ua quát ngay với giọng hằn học:

– Anh qua đây làm gì?

– Đón em chớ làm gì nữa.

– Sao không ở nhà chờ mà đón ở đây?

– Sao em không về nhà mà lại vô đây?

– Má con Chia gởi hàng lụa về cho nó !

Ua vừa nói vừa mở lấy mấy gói ở poọc-ba-ga đem vô, vừa đi vừa kêu:

– Chia ơi ra lấy đồ .

Rồi banh một gói hàng nói tía lia.

– Cái này má gởi vô cho anh. Một bộ ni-lông dầu. Cái này là vải dù và xanh-tuya-rông em mua ở chợ Bắc Hà cho anh. Má nói má đồng ý hết trơn . Bảo cơ quan lo liệu, khi xong má sẽ về. Má hỏi chú Sáu Huỳnh làm chủ hôn bên đàng trai được không?

Là lõ mắt nhìn tôi. Tôi làm cầu thủ nhanh nhẹn gạt bóng văng ra khỏi vùng cấm địa:

– Còn vụ rước gia đình anh tới đâu?

– Dì Tư lên chuyến xe sớm nhất đi Sài gòn. Chắc bây giờ bả đang bước vô cửa nhà anh.

– Tình hình Đồng Dù thế nào?

– Ở trong này anh cũng biết cần gì phải hỏi em. Lính Anh Cả Đỏ vô ngập cả Đồng Dù rồi. Trực thăng sâu rọm câu pháo từ Long Bình xuống đó liên tục. Xe tăng chạy có bầy như trâu. xanh-tuya-rông rẻ rề. Bình toong hạ giá. Tụi Mỹ ném bỏ nhiều quá mà. Người mình ở Củ Chi ra làm cho tụi nó đông như kiến cỏ. Quần là áo lượt cười nói toe toét không còn coi các chú các anh trong này ra cái gì. Có mấy con nhỏ du kích của Bảy Mô trong đám làm công nữa. Vừa thấy tụi nó em lánh mặt rồi dông luôn. Nó rành em mà.

– Cái cổng chính ra vào ở Ngả Tư Trùm Tri còn mở hay đã đóng lại rồi?

– Chuyện đó nói sau t Anh đi qua đây bao lâu rồi?

– Mới ngồi chưa nóng đít mà, cạch hỏi làm gì gắt vậy?

– Thôi đi về . Em có chụp hình để anh cất trong bóp, lúc nào cũng có em bên anh luôn.

Là trợn mắt:

– Nè, con đỉ! Tao nói cho mày biết. Đây là chồng của tao.

– Ơ kìa! Chồng gì, chồng ngồng hả?

(Nãy giờ Ua tưởng Là ở trong đội du kích ấp nên không để ý.)

Là đứng chồm dậy trỏ mặt Ua và chụp lấy súng.

– Tao bắn…

Ua hụp xuống và núp sau lưng tôi. Tôi giật cây súng trong tay Là. Tôi chưa kịp nói gì thì Sáu Huỳnh bước vô:

– Bây làm cái trò gì đó hả tụi con nít quỉ?

Ua thò đầu bên vai tôi run run nói.

– Con nhỏ này định bắn cháu.

Sáu Huỳnh vốn quen Là từ trước vụ tiếp đón thằng Bọ Chét, nay đụng bất ngờ, anh điểm mặt:

– Làm bậy tao trói đầu hết hai đứa.

Là phân trần:

– Chồng của em mà con nhỏ này nó nói…

– Cưới hỏi hồi nào, nó là cán bộ của tao, sao tao không biết?

– Dạ má em đồng ý rồi, nay mai má ảnh ra gặp má em.

– Cơ quan chưa cho phép!

– Chú Sáu nghe bà ngoại nói chịu gả cháu cho ảnh, nên hồi sáng này em ra Củ Chi gặp má em, má em cũng đồng ý rồi.

Sáu Huỳnh gạt phắc:

– Không có thành chuyện gì hết nếu tao chưa cho phép. Bây làm sao nó mất chức như Hai Giả thì làm.

Là không chịu thua:

– Ảnh hứa với em trước rồi mà anh Sáu?

– Ảnh cũng cũng…

Sáu Huỳnh quát vào trong.

– Con Chia đâu? Ra đây tao bảo.

Chia lẵng lặng bước ra đứng nép vào mép kệ . Sáu Huỳnh hất hàm.

– Nó có hứa gì với mày không?

– Dạ.. cháu… cháu…

– Tao nói cho bay biết là cán bộ muốn lập gia đình đều phải báo cáo, cơ quan có chấp nhận thì mới được cưới chớ không có ai dám tự ý quyết định hết. Cấp bậc của ông trưởng ban H6 này là phải được khu ủy duyệt xét chớ không phải tao thông qua là xong đâu.

Ba cô nàng nhóc mỏ cá kèo nghe chấn chỉnh tư tưởng. Nàng Ua có vẻ cương lý :

– Cháu thấy thiếu gì ông có vợ rồi mà vẫn léng phéng, sao không có kỷ luật gì hả chú?

Sáu Huỳnh hơi nhột vì vụ lẹo tẹo với cái cơ sở má con Chia, nhưng vốn nghề quân báo lẽo mép, y quát:

– Ai đâu?

– Như ông Hai Giả, ông Năm Tiều, Năm Cai, Sáu Nâu, Năm Ngó… ông nào cũng con vòng con cỡi hết á ?

Sáu Huỳnh trợn mắt:

– Sao bây biết họ không bị kỷ luật? Kỷ luật phải tuyên bố ra cho bây nghe để họ mất uy tín thì làm sao công tác?

Ua vẫn xon xỏn đối đáp:

– Cháu biết có người… lẹo tẹo.

Sáu Huỳnh biết con nhỏ ám chỉ mình nên quạt mạnh.

– Đó là cần thiết cho công tác! Khi cần công tác hoặc để che mắt địch, hai chú cháu còn phải đóng trò vợ chồng như con Thanh và chú nó là thằng Nam, tụi bây con nít biết gì. Đến mày nay mai nếu cần tao cũng bắt mày làm kiểu đó .

– Ừ cho cháu đóng với anh Hai thì cháu chịu bền.

Sáu Huỳnh nghiêm sắc mặt:

– Nào, nói sơ về tình hình Đồng Dù nghe coi!

– Người trong mình ra làm công như kiến cỏ. Mỹ đi đụng đầu lộp cộp Xe tăng chạy rung đất. Trực thăng bay đen trời. Cà-nông câu tới liên tục. Chợ Bắc Hà bán đồ rẻ mạt.

– Nay mai rồi mày vào bên trong điều tra rành rẽ hơn.

Sáu Huỳnh đứng dậy bảo ba cô:

– Thôi giải tán đi. Cô xã đội phó đi về hoàn thành cái vụ hôm trước cho sớm. Sắp có việc cần đến nơi rồi. Con Ua chuẩn bị đi Sài gòn bây giờ nè. Tình hình như nước sôi ở đó mà giành chồng.

Rồi anh khều tôi ra đường bảo nhỏ:

– Tao biết ba con gà dò này mày chỉ xé phay tạm cơn đói lòng thôi chớ chắc mày chẳng lấy làm vợ được. Một đứa thì cục mịch, đứa lại quá nông nổi. Con Chia, mùi mẫn thì được còn đóng vai hiền nội thì cũng hụt tiêu chuẩn. Mày cứ việc bứt dây oánh tuất. Nhưng nhớ giàn xếp cho khéo đừng để nó làm bể bạc tùm lum. Con Ua nó biết mày ở đây cả ngày với con Chia chớ hổng không đâu, nó lém lắm.

– Nó bảo nó chịu cho con Chia chung chồng với nó, nhưng con Chia phải làm bé.

Sáu Huỳnh cười phì:

– Con quỉ hón đó ghê lắm. Chuyện gì của ai nó cũng biết hết. Mày vô bảo nó về đằng nhà thăm bà ngoại. Từ hồi sáng tới giờ tao không có về nhà. Có chuyện rắc rối lắm!

– Gì đó anh Sáu?

– Bí mật, nhưng tao xì một chút cho mày nghe. Vợ thằng Tư Minh là cơ sở của mình ở Sài gòn. Mụ ta làm thợ may nhưng trong nhà có súng đại liên và vài chục trái mìn. Công tác viên vừa ra cho biết là tụi cảnh sát Sài gòn có vẻ như đánh thấy hơi. Tao và Chín Lộc muốn cho dời đi, nhưng không có chỗ. Một tên sĩ quan cấp tá từng là tay trong của mình lâu năm ngỏ ý muốn nhận số vũ khí đó đem cất giấu một nơi đặc biệt, nhưng tao ngại loại rắn trung hai đầu, nó chích một cái là trời cứu, nên tao chưa quyết định. Đem bấy nhiêu vũ khí đó được vô thành phải trầy vi tróc vẫy chớ đâu có dễ . Rủi bị tụi nó biết thì khóc không ra tiếng.

– Tôi nghe nói tụi tướng cũng móc với mình hả anh Sáu?

– Có, nhưng ít lắm.

– Sao mà có loại người như vậy hả anh, tôi thực tình không hiểu nổi.

– Đời này chẳng có cái lương tâm nào là không biến thành hàng hóa. Mày không đọc thơ Giao Thừa của cụ Tố nhà ta đăng trên báo Nhân Dân Xuân 61 à?

– Có ! Hàng hóa lương tâm cũng thiếu thừa !

Sáu Huỳnh làm dấu.

– Đưa cái này và cái này ra, không có lương tâm nào không chảy ra nước. Mày nghĩ coi, một tấm hình L19 một lời báo cáo láo giá ba triệu, khó gì mà không xơi? Công tác này mệt lắm mày ơi!

Sáu Huỳnh mở sắc-cốt móc một cọc bạc giấy mới cước cạnh dúi vào tay tôi và bảo:

– Lấy xài. Tao mới được tụi Tàu Chợ Lớn đóng thuế. Mày có về H6 ráng cẩn thận nghe. Biệt kích như rươi đấy. Việc vợ con tính mau mau đi. Đừng có cầu toán. Ông già bà già mày cần có cháu để trên đầu trên cổ với người ta. Tao đi công tác vài bữa rồi về, chắc gặp ổng.

Sáu Huỳnh vừa đi thì Là tới. Tôi móc đưa cho nàng năm ngàn (với số tiền này có thể mua được một cái radio Sony) bảo:

– Em về lo thu xếp cho cô Lụa và bé Rớt qua Bến Chùa với má. Ở đó có trường cho nó học. Tội nghiệp cô Lụa, mới ngần ấy tuổi mà đã góa chồng. Anh thương bé Rớt quá chừng. Nếu dễ dàng thì anh đem nó theo anh để dạy dỗ.

Là bắt ngay câu nói của tôi để buộc chặt.

– Anh thương con nít mà không chịu có con?

– Anh không biết sống chết ngày nào. Do đó anh không muốn để khổ cho ai hết. Em thấy không, như bé Rớt bây giờ ai nuôi nấng?

Là đứng lặng thinh. Tôi hỏi:

– Cái hầm cho ông Ba Xu em đã làm xong chưa?

Là vùn vằn:

– Ổng ở miết bên Bến Chùa Thanh An ăn dầm nằm dề tại nhà dì Ba chớ đâu có ở bên này mà cần hầm hố?

Là cười ngượng ngập:

– Bộ anh nhớ cái … gì ở trên nắp hầm đó hả?

– Nhớ chớ sao quên được.

– Anh mà lang thang thì em đi vành đai cho anh coi.

Tưởng Là nói về thành nhưng Là lại nói vành đai, nên tôi hỏi:

– Đi vành đai là sao?

– Là đi với mấy ông du kích ra hàm ếch bắn tỉa Đồng Dù cho nó pháo lại chết ngủm chớ sao nữa?

Tôi thấy tội nghiệp cô bé quá, định hôn một cái để vuốt giận cô nàng, nhưng nàng Ua lại phóng xe đạp ra, la oang oang:

– Em vừa chấn cho con Chia một mách cho bỏ thói giựt chồng kẻ khác! – Ua đạp ngang chầm chậm – Còn bà xã đội này nữa, không có được rù quến người ta nghe! Và anh nữa, anh lớ quớ em phăng teo anh luôn đó . Chút nữa về nhà, em tặng cho tấm ảnh mới chớp.

Nhìn theo cô gái đạp xe với chân hơi ngắn nên phải dùng mũi chân, cặp mông trệu qua trệu lại tôi phát tức cười. Là gắt hỏi.

– Anh quen với cô ta hồi nào vậy?

– Vài hôm thôi.

– Sao cổ gọi anh là chồng?

Anh không biết.

– Bộ anh có gì với người ta nên người ta mới dám nói vậy. Lúc nãy cổ xôm lên là em để cho một phát bá đỏ.

– Chịp! Em nói bậy quá ? Không thể làm như vậy được. Nếu anh yêu cô ta thì cô ta có chết anh cũng yêu, còn không yêu thì cô ta có ở bên cạnh anh vẫn không mà.

– Còn con nhỏ chủ quán là ai?

– Má cô ta đi móc gia đình cho anh. Cứ tra hạch hoài.

– Trở về trên lại có cô Ba Phi, cô Thanh Tuyền hả ? Anh nói thiệt đi, chừng nào anh làm đám cưới.

– Anh không cưới ai hết. ở trên đó mới bị B52, biết có còn không mà cưới.

– Không, em hỏi chừng nào cưới em kia !

– Để gia đình vào xem !

– Em ở đây chờ ba má anh vô .

– Rồi còn cơ quan nữa. Em không nghe ông thủ trưởng của anh nói hồi nãy à?

Có tiếng Chia từ trong nhà vọng ra:

– Mời anh chị vô ăn cơm để đói bụng.

– Đi vô ăn cơm, em!

– Không có ăn uống gì hết. Em thấy mặt nó là em muốn trào máu họng em lên rồi !

– Cô đó tốt lắm.

– Cô nào đẹp đẹp anh cũng cho là tốt hết. Sao anh không khen bà Hai Xót, bà Năm Đang, con Út Nhở, bà Năm Cầu Xe tốt dùm chút?

Tôi cười trừ:

– Thôi, trên đời này chỉ có mình em là đáng được anh khen thôi.

Như không nghe tôi nói, nàng tiếp:

– Ở bên Thanh An người ta định bỏ vòi qua đây coi mắt em, do dì Ba làm mối. Má nói má nghe em đã hứa với ai rồi, nên người ta thụt.

– Anh khuyên em nên sang bên đó sống bên cạnh má để săn sóc má tốt hơn, ở bên này công tác chẳng được bao lâu nữa.

– Em cũng muốn như vậy, nhưng em còn nấn ná ở đây là vì anh !

– Em không nên vì anh một chút nào hết.

Là trừng trừng nhìn tôi. Tôi nói luôn:

– Anh bảo thật đấy. Em thấy chị Lụa em đó không? Nay mai anh sẽ chỉ huy đơn vị chiến đấu, bom đạn gấp trăm lần công tác dân công của ba con Rớt. Anh không sống để cưới em đâu. Để rồi em xem anh sẽ không có cưới ai hết, không thể cưới ai hết trên cái đất Củ Chi này.

Tôi chưa bao giờ thấy Là trầm tĩnh như hôm nay. Nàng không nói gì mà nước mắt chảy ròng ròng trên đôi má. Tôi muốn lau cho nàng nhưng sợ con bé ác ôn hiện tới thình lình. Tôi buồn thật sự. Và tôi cũng chưa bao giờ nghe nỗi buồn thấm thía đến như hôm nay. Chiến tranh đã động tới tất cả mọi người. Thằng Trần Chánh Lý chết ngồi ở gốc cây rừng Trường Sơn, trên đó những chiếc võng giăng, người nằm không bao giờ dậy nữa. Thu Hà, Huỳnh Mai. Những người yêu mình cứ xa dần hoặc biến mất. Rồi lại có thêm, nhưng cũng như trước, xa rồi biến mất. Bé Rớt giờ đây không còn gặp lại ba được nữa, nhưng nó không biết điều đó. Bỗng nhiên Là bảo tôi:

– Anh đi với em lại đằng này chút.

– Nhà ai? Có hầm hố gì không đã ?

– Không, vô rừng thôi. .

– !!

Tôi ngó Là kinh ngạc. Là hồn nhiên:

– May ra kỳ này em có con với anh.

Có thể nào tôi từ chối một ý định như vậy không? Tôi đi theo Là đến nơi nàng dắt. Tôi đứng nhìn quanh. Nhờ Là hướng đạo cho tôi kỳ trước mà tôi quen thuộc được nhiều địa hình. Kìa là gân dứa xanh giữa đồng ăn liền với con suối chảy thông tới cầu Lào Táo ở đường số 7 bót Trung Hòa. Nọ là xóm Mới dính liề với sở cao su Ba Lăng gối đầu lên đường số 1 đi Trảng Bàng. Nếu không có Xóm Bò Cạp thì có thể nhìn thấy đường một làng, ở đó có ấp Phú Hiệp ăn ra xóm Cây Sộp sát bên Đồng Dù. Xe tăng chạy, trực thăng bay rầm rì mà hai đứa coi như pha. Một lùm cây ở giữa đồng không đủ kín, nhưng vì dân làng đã bỏ đi hết nên không lo có người qua lại. Bên trong có một cái chòi, loại chòi của chăn trâu chăn vịt. Chắc các ông bà du kích từng trú ngụ ở đây.

Một bộ vạt tre xệu xạo. Là ngồi xuống và nói ngay:

– Anh yêu em đi. Có lẽ đây là lần cuối cùng.

– Tại sao?

– Em sẽ đi Thanh An hoặc sẽ chết.

– Lấy chồng làm ăn, nuôi má hay hơn em ạ ! Em thấy thằng Tư Thuận không không? Đám thanh niên đã đi hết rồi. Nơi anh đóng cơ quan bây giờ cũng không còn ai. Nếu không chết trận thì cũng vô thành đạp xích lô, làm thợ mộc thợ hồ kiếm ăn và kiếm sống. Ở vùng Mặt trận thì đói và chết dễ dàng.

Tôi phân tích tình hình địch ta cho cô nàng nghe. Cô chăm chú nhìn tôi và tôi cũng có cảm tưởng là tôi nói cho tôi nghe nữa ! Ngày xưa kháng chiến, toàn dân căm thù thực dân Pháp nên có câu khẩu hiệu Bất hợp tác với giặc, Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Em bé tự tẩm dầu làm đuốc sống đốt kho xăng Thị Nghè, ba em bé vô danh leo lên lầu nước treo cờ độc lập ! Nguyễn Bình đã vào Sài gòn Chợ Lớn như cơm bữa mà mật thám Tây không động được lông chân. Chúng treo giải thưởng mười ngàn bạc Đông Dương cho ai bắt được ông ta… nhưng chẳng ma nào hưởng ứng trái lại còn cất giấu ông. Một anh thợ hớt tóc ở đốc cầu Bình Điền chuyên môn cạo đầu tụi lính Lê Dương gác cầu này. Một hôm có thằng Tây vác súng ngất nghễu đi tới đưa đầu cho anh cúp. Thằng tây được anh lấy ráy tai đã ngứa nên lim dim ngủ. Anh lấy con dao cạo ra cạo râu, rồi đưa một nhát. . . Mười lãm phút sau anh xuống xuồng với khẩu súng mi-trây-dết và cái thủ cấp thằng Tây mắt còn nháy nháy (đồng bào kể cho nhau nghe thêm thắt cái chi tiết lý thú này) bơi tuốt vô khu nạp cho ông Bảy Trấn Trưởng Ty Quốc Gia Tự Vệ Cuộc Tỉnh đang đóng ở kinh Lý Văn Mạnh. Còn bây giờ ? Mỹ tới người ta theo rần rần. Người mình không xem Mỹ như Tây ngày trước. Số người thù ghét Mỹ không bằng 1/100 số người ghét Tây . Người ta không coi việc hợp tác với Mỹ là phản quốc, là Việt gian, là quên non sông gì cả Mỹ nó vô đây để giúp mình giữ nền độc lập. Cán bộ cỡ như bà khu ủy, bà Năm Đang, Hai Xót, Là v.v… và cả tôi nữa cũng khó lòng mà bẻ lại lý luận đó. Hà hà… thì đó, vợ con cán bộ đi làm cho Mỹ ở Đồng Dù nhờ đó mà cán bộ mới có tiền ăn mà chống Mỹ . Thì đó, ngày nào lại chẳng có người hồi chánh?

– Anh làm gì mà ngồi nói lảm nhảm vậy hả?

Tôi đang bị cuốn hút vào những ý nghĩ miên man thì bị Là đập tay lên vai. Tôi quay lại. Nàng đã trải xong tấm vải dù trên bộ vạt. Bãi đã dọn sẵn. Chỉ còn đổ quân. Nàng hứng lấy mọi sự tấn công của tôi với một sự khao khát của một vạt đất khô nẻ được mưa đầm đìa. Còn tôi thì tôi xả thân một cách hết lòng như để chuộc tội phản bội trái tim yêu của nàng, để bảo nàng rằng: “Anh có yêu ai đâu! Tất cả anh chỉ dành cho em! ” Mà thật vậy, khi yêu người đàn bà con gái nào tôi cũng cảm thấy tôi mới yêu lần đầu. Quyết tâm chiến thắng đối phương của tôi lần nào cũng được biểu hiệu một cách rõ rệt. Hơn thế nữa tôi tự nhủ: đây là lần cuối cùng, mai mình chết. Hãy tận hưởng. Nàng như con suối bị đắp ngăn, chỉ một nhát cuốc vừa bỗ là nó đã tràn trề tuôn chảy. Chúng tôi không còn thì giờ ôm ấp và trò chuyện lâu lắc như tôi với Chia.

Nàng buồn rầu bảo:

– Anh có thương ai thì thương, đừng quên em là đủ.

– Anh có thương ai đâu!

– Anh! – Nàng kêu lên rất khẽ và nhào tới bá cổ tôi – Em ước mong em được một đứa con với anh. Cho em và cho anh nữa. Nếu anh hi sinh thì em cũng còn mang anh trong òng.

Chúng tôi trở ra đường. Là trở nên trầm tĩnh như một anh línhh trước phút lao vào trận địa bịt lỗ châu mai. Nàng chấp nhận cái đau khổ không tránh được: Sự cách biệt với tôi.

Chúng tôi đứng trước một gốc cây cành lá gãy cụp che nửa mặt đường. Trời đã ngã chiều, không khí vắng lặng như chết.

– Anh vô đi, em đi tìm chú Tư!

Tôi không nỡ rời nàng. Nàng quay lưng. Tôi gọi một tiếng to như trăn trối. Nhưng nàng cắm cúi đi, không quay lại. Tôi thấy tất cả đều tan vỡ trong tôi nhưng tình yêu của một cô gái quê còn đọng mãi.

Tôi trở lại quán thì thấy Chia đang đứng ngơ ngáo ở trước thềm. Trong nhà, vài ba ông lính đang uống rượu với khô cá kèo, cá mực. Lúc nào hễ có dịp ăn uống nhậu nhẹt là nhà lính ta ăn uống nhậu nhẹt. Cuộc sống ở đây quá mong manh, người ta cố níu lấy được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ngày mai sẽ đội B52, pháo, rốc kết, sẽ bị xe tăng khui hầm, bị bom chôn sống.

Tôi đi thẳng vào sau nhà. Chia đi theo tôi, đẩy tôi xuống hầm. Tôi nằm lên giường. Nàng chạy lên một chốc rồi trở xuống với ly sữa trên tay.

– Anh uống đi rồi ngủ một giấc cho khỏe.

Tôi ngoan ngoãn vâng lời bà tiên.

Tôi giật mình khi nghe hơi mát lướt trên mặt. Tôi mở mắt ra. Trong ánh sáng lờ mờ của lòng hầm tôi nhận ra bà tiên đang ngồi cầm chiếc quạt nan phe phẩy.

– Ngủ đi anh !

Tôi vít đầu nàng xuống và bà tiên trở thành phàm tục trong đôi tay phàm tục của tôi. Tôi lại tự nhủ : đây là mâm cỗ ân huệ của tên tử tù. Sau đây sẽ không có gì khác hơn là lưỡi gươm máy. Tôi đi vào tâm hồn nàng một cách chậm chạp nhưng tận tình và đến nơi. Nòng súng của người chiến sĩ sau khi đã khai hỏa lần đầu thép có phần lạnh hơn nhưng vô cùng chính xác. Anh ta tỏ ra là người xạ thủ có kinh nghiệm ở trường bia. Nàng như một khúc đuôi thằn lằn đứt run rẩy tíu tít. Chính nàng cũng chất lưỡi như chú thằn lằn ở trong xó tối nào kia đang nhìn thấy cảnh này. Nàng rủ rỉ bên tai tôi:

– Anh thua em rồi !

– Em thua thì có .

– Thua trí cơ !

-Trí gì?

– Buổi sáng em nói dối anh.

– Dối gì?

– Em nói là em vừa sạch kinh không thể đậu thai. Nhưng không phải. Em đang trong thời kỳ có khả năng thọ thai nhất.

Tôi cười:

– Em tưởng anh sợ có con à ? – Tôi hôn nàng nơi vành tai và bảo – Chính anh đang rất muốn có con. Ngày mai em đẻ cho anh một…

– … Bầy Thiên Lôi nghe !… À này, cho em hỏi anh câu này được không?

– Sao không hỏi từ đầu. Bây giờ muộn rồi. Hỏi có bao nhiêu cô đeo anh chớ gì?

– Không bao giờ !

– Vậy hỏi gì?

– Sao anh lấy tên Lôi. Bộ bị người ta kéo lôi hoài hả?

– Vì anh là Thiên Lôi.

– Anh có đánh ai đâu?

– Anh chỉ vâng lịnh người khác xách búa chạy rong hai chục năm trời. Không bao giờ tự chủ được.

– Bây giờ là chủ rồi.

– Chủ ai?

-Em!

Tôi bật cười:

– Chủ quán!

– Anh mà chủ quán thì vài ngày quán đóng cửa.

– Tại sao?

– Vì anh cho không chớ sao.

– Kẻ thắt ruột thương người ruột thắt, mắt châu rơi khóc mắt rơi châu.

– Em chỉ đùa thôi, anh đừng giận em.

– Anh không giận em.

– Anh có thể cho hết cả quán, chỉ chừa…

– …em.

– Không! chừa anh.

– Anh cho anh nốt.

– Không!

– Cho em! Anh cho em tất cả anh!

Nàng hôn tôi như một tiếng cám ơn. Chúng tôi nói với nhau những chuyện vớ vẫn như thế. Nói bất tận, như một mẫu nhạc nhẹ một màn hoạt kê giữa hai lớp hát. Xong lại trở về tuồng chính với lớp hát kéo dài. Nàng bảo:

– Chắc em có thai.

– Sao chắc?

– Đúng luật Ogino Knaus mà anh ! – Nàng lại hôn tôi – Anh sẽ có một thằng Thiên Lôi con giống hệt cha.

Có tiếng la oang oang ngoài trước: Bỏ mạng rồi. Lúc nãy không đóng cửa. Chạy ngõ nào?

– Anh Hai đâu, sao chưa về?

Biết bà chằng lửa tới, tôi kéo tay Chia giật giật và quơ quần áo đắp lên nàng. Nhưng nàng cứ nằm im. Tôi ngồi dậy, nàng kéo tôi nằm xuống.

– Kệ nó, cho nó thấy.

Tiếng chân bước thẳng xuống hầm. Tôi khoác vội y phục và bật dậy. Ua trỏ mặt Chia.

– Hén! Anh Hai vậy hén! Mày giật của tao há Chia.

Chia quát trả dữ dội.

– Rồi sao?

– Không sao hết ! Mày giành thì tao cho, nhưng mày phải làm bé .

– Xí! Mặt này mà làm bé mày?

– Chớ tới sau mà đòi làm lớn hả? Anh Hai, đi về ngoại biểu !

– Ảnh không về !

– Không về, tao ở đây luôn, mày nuôi cơm tao. Tao ra mét dì Tư cho mày coi ?

– Mét mét tao hổng sợ !

Tôi lên tiếng:

– Hai em làm vậy, anh bỏ về R ngay cho coi.

Đúng là cảnh ông Tam Tạng lọt vào triều đình của Tây Lương nữ quốc. Chỉ khác là tôi không thể là Tam Tạng được thôi. Câu nói của tôi như một gáo nước tạt vào hai ngọn lửa. Tôi quay lại Ua:

-Đi về để ngoại chờ, em!

.Ua chở tôi trên ngọc ba ga chạy rào rào. Vừa đạp nàng vừa nói tía lia:

– Em đẹp hơn nó, nó thùy mị hơn em. Anh thích đứa nào?

– Thích cả hai hoặc không thích đứa nào hết.

– Em biết anh thích ai mà . Nhưng mặc kệ . Nó làm gì làm, em vẫn là vợ chưa cưới của anh.

Ua bất thần nói ngang:

– Mấy thằng Mỹ to như trâu cui, con gái đi ngang nách nó.

– Em thấy ở đâu?

– Ở gần ngả Tư Trùm Tri, chỗ cổng chính vào Đồng Dù . Ở đó mới ký hai chiếc xe tăng chĩa họng về phía mình. Khi cần là nó khạc vô . Đạn bay qua đầu xóm Phú Hiệp, dân chúng đang làm ruộng ắt phải té đái.

– Sao em không báo cáo với anh Sáu?

– Báo thì cũng như không. Mấy ổng có làm gì mà báo cho mất công.

Ua không chở tôi về mà đưa tôi tới một ngôi nhà hoang cách ven đường không xa. Chủ nhà đi ra ấp chiến lược lâu rồi. Cột kèo bị cơ quan lấy làm hầm. Vườn tược du kích tha hồ đốn cây hái trái. Ua dựng xe vào gốc bưởi trước sân. Tôi nhìn quanh thấy nhiều vết đạn trên thân cây. Ua bảo:

– Con nhỏ xã đội, con Chia lui rồi, bây giờ anh là của em.

Tôi nói như giật mình:

– Để tối không được sao nhỏ?

– Chút nữa… mà không chút nữa gì, ngay bây giờ một trái cà nông có thể rớt ngay đây nè. Ở đó mà tối với sáng. Anh không biết ở Bầu Trăn có một đám cưới của một anh chiến sĩ công trường 9 ăn một.trái 155. Cả hai họ bay như lá.

Ua vừa nói vừa đi xăm xăm vào một chái nhà xiêu xiêu còn sót ở bên trái nền nhà. Nàng ôm quàng lấy tôi như giằn nén khao khát từ lâu.

– Cho anh tất cả đấy.

Tôi hơi run. Nàng giục:

– Hoặc của anh, hoặc của lính Đồng Dù .

– Sao vậy?

– Em đi qua đi lại trước mắt nó, nó tha cho à? Chừng đó anh đừng tiếc.

Tôi không thể mà cũng không muốn từ chối. Tôi muốn thành thật với tôi với nàng như mọi người khác thành thực với chính mình khi đứng trước một vệ nữ thần như hôm nay. Ánh chiều đã tắt hẳn. Hoàng hôn xuống khuyến khích cho việc thiện lẫn ác. Tôi đã uống cạn hai nguồn suối tiên trong khoảnh khắc, bây giờ vẫn thấy còn khát.

– Anh muốn được thì được, anh muốn mất thì mất. Chắc anh có nghe con Chia hát bài Que sera sera chớ . Nó thích bài đó lắm và nó muốn thả lỏng đời nó tới đâu tới. Thí dụ bữa nay anh yêu nó, mai bỏ nó, nó cũng chẳng màng. Còn em thì khác. Em phải nắm được những gì em muốn. Cho nên khi em yêu anh thì em yêu tới cùng. Em có cách làm cho anh không thể bỏ em để đi với người khác. Con nhỏ xã đội đó định chơi ác với em? Vì bất ngờ em không có phương tiện đối phó. Chứ bây giờ, em chấp nó!

Nói xong Ua rút trong túi quần tây một khẩu súng nhỏ xíu. Tôi nhìn mà không biết hiệu gì.

– Súng bắn ruồi ở đâu vậy?

– Mua.

– Mua ở đâu?

– Ở chợ Bắc Hà chớ đâu. Ở đó anh mua xe tăng đại bác gì cũng có, thứ này là đồ bỏ. Công tác của em cần món này, em lận lưng luôn.

Ua có vẻ như rửa được cái nhục trước cô xã đội.

– Lần sau nó có đến, anh đừng cho nó chạm trán em nghe. Nó đừng có tưởng cây bá đỏ của nó là ngon. Em không để nó bóp cò trước.

(Lợi dụng tính ngỗ ngáo của cô gái, Chín Lộc đã dùng Ua như một nữ điệp báo cụm 20 ở ven Quốc lộ 1 và sau này nhờ bàn tay Ua đánh lính Đồng Dù bằng mìn đặt trong hộp coca. )

Tôi lại phải ngoan ngoãn làm theo lệnh nữ hoàng Tây Lương. Đêm qua vì cô công chúa Chia kềm kẹp nên tôi không dở được độc thủ với Ua. Bây giờ thì tôi tha hồ đấu tranh chánh trị lẫn quân sự, dùng chiến thuật phượng hoàng vồ mồi của Mỹ hay chiến thuật lấy thịt đè người của cụ Mao đều tốt cả. Vồ mồi trước rồi lấy thịt đè người sau, hay vừa lấy thịt đè người vừa làm phượng hoàng vồ mồi càng tuyệt sắc.

Trên một cánh cửa ván kê trên mấy chồng gạch gập ghềnh tôi càng có cảm giác lượn trên sóng biển bềnh bồng vô tận. Để kết thúc trận địa, tôi phải dùng đến chiến thuật bủa lưới phóng lao. Lưới thì đã bủa xong rồi, còn bước cuối cùng: phóng lao. Nhưng nàng cự tuyệt Tôi dụ hổ ly sơn để đạt yêu cầu, nàng nhất định vườn xuân có lối nhưng chưa cho vào:

– Bao giờ em là vợ anh thì mới được!

Con nhỏ này học nghề tình báo của Chín Lộc chăng? Tôi thầm nghĩ. Hay là cánh cửa vườn xuân của nàng đã bị mấy tên già dềnh mở toang rồi nên không muốn cho mình biết cái điều bí mật đó. Tôi lên nằm ghé bên nàng và rủ rỉ:

– Sao em bảo em là vợ của anh?

– Vợ chưa cưới !

– Vợ chưa cưới thì cũng là vợ chớ khác gì?

– Vợ chưa cưới là vợ chưa cưới, sao không khác ! Chỉ khi nào cưới hỏi xong anh mới được hưởng cái ân huệ đó. Anh có đọc quyển Les demi-vìerges của Marcel Prévost không?

– Em đọc bấng Pháp được à?

– Quyển đó đã dịch ra tiếng Việt lâu rồi. Tụi học sinh em đều áp dụng theo đó cả nghĩa là cho cả, trừ một.

– Đối với anh thì em nên trừ cả, cho một.

Nàng tát yêu tôi:

– Anh quỉ lắm! Nhưng em vẫn yêu anh.

– Yêu mà thế à ?

– Yêu mới thế chứ.

Tôi đành chịu rút quân trong danh dự. Nàng ôm đầu tôi , rủ rỉ:

– Em dành cho chồng em tất cả !

– Nếu chồng em không phải là anh?

Ua chớp chớp mắt vài cái rồi đáp:

– Nếu không phải là anh… ờ ờ… thì chỉ khi anh cũng không còn trên đời.

– Chuyện đó cần gì phải nói!

– Hoặc anh còn mà em lấy người khác làm chồng… nhưng chuyện đó chắc không thể có đâu!

Con bé này không phải thông minh vặt mà nó khôn ngoan mà khẩu khí thật chớ chẳng phải thường. Chín Lộc đã chọn đúng người để giao công tác. Chỉ tiếc cho nó là không được đi học để dính vào ba cái chuyện nguy hiểm này. Cuộc đời nó rồi sẽ không tránh khỏi bi kịch. Thấy tôi làm thinh, Ua hỏi:

– Anh suy nghĩ gì vậy?

– Số phận của em!

– Nó sẽ như thế nào?

– Chắc em sẽ thành công rực rỡ trong công tác.

– Khỉ mốc !

Ua ngồi dậy mặc quần áo vào không chút ngượng ngùng, vừa cài nút áo vừa tiếp.

– Dưới sự chỉ đạo của ông Hói và ông Tét em chỉ là một tên quân chạy hiệu, thành công gì ! Hôm nọ anh có kể với em là anh có hụ hợ trong việc tiếp đón nhà báo quốc tế nào đó anh nói có một cô chiêu đãi tên Bốn, nhớ không?

– Cô Bốn của anh Sáu Huỳnh đưa tới.

– Em rồi cũng sẽ như Bốn thôi.

– Nghĩa là sao?

– Họ sẽ cấy em vào đám ruộng Mỹ Đồng Dù. Lúa nào sẽ trổ bông? Bốn trước kia cũng là… -Ua ngưng ngang – Thôi bỏ đi.

Ua giận dỗi rồi xách xe đạp chạy một mình, tôi gọi cách gì nàng cũng không trở lại. Tôi sợ nàng quẩn trí rồi làm bậy mang khốn. Tôi bắt đầu sợ và tìm cách lánh xa nàng, nhưng luẩn quẩn rồi cũng không khỏi.

Chương 44 Phụ Tử Trùng Phùng

Hôm sau tôi đang ngồi ăn cơm tối với Sáu Huỳnh, Tư Minh và Chín Lộc thì Chia xuất hiện. Nàng nói lắp bắp:

– Anh Hai! Bác… tới!

Sáu Huỳnh trêu.

– Bác nào? Bác Hồ hả?

– Bác tía anh Hai !

Tôi đang ăn bỗng no ngang, buông đũa đứng dậy:

– Để tôi đi gặp ba tôi, anh Sáu!

Tôi xuống hầm quơ ba lô nịt súng và chạy đi. Ua quát:

– Anh lấy xe kìa đi cho mau!

Tôi xách chiếc xe vừa chạy vừa nhảy lên yên, đạp trật hai ba phát mới phóng được . Nhưng Chia chạy theo kêu quang quác:

– Anh Hai, anh Hai bỏ em sao?

Tôi phải dừng lại. Chia nhảy phóc lên ngồi trên pọc-ba-ga ôm ngang eo ếch tôi chặt cứng. .

– Anh với ba như cắt mặt để qua. Em thấy là biết liền!

– Em thấy ba anh già nhiều hôn?

Chia đấm lưng tôi thụi thụi.

– Ba chớ không phải ba anh nghe chưa? Riết đi.. . để con Ua nó giành.

– Ừ, em thấy ba già nhiều hôn?

Chia nũng nịu.

– Em đâu có gặp ba lần nào mà biết già nhiều hay ít. Đám cưới liền anh nghe. Sau đám cưới em theo ba về nhà luôn.

Nàng nói như công việc đã được quyết định.

-Về à?

– Em ghét ở trong này quá hà !

– Vậy hồi nào tới giờ sao ở được?

– Hồi nào tới giờ không có anh, sao cũng được.

– Em về rồi bỏ anh trong này một mình hay sao?

– Đừng bỏ anh một mình, đừng bỏ em một mình.

Tôi hỏi:

– Em lảm nhảm cái gì vậy?

– Hình như có ai nói với em như vậy rồi. Ý mà không ! Bài hát!

– Bài gì?

– Bài Đừng bỏ em một mình.

– Ở đâu?

– Hồi em đi học, em nghe bài đó.

– Em về ngoải thì anh ở trong này một mình mà em ở ngoải cũng một mình.

– Ờ thôi em không về một mình.

– Thì ở lại trong này chớ sao !

– Không ! Em không muốn ở trong này nữa. Cái gì cũng kỳ cục hết, em không chịu nổi.

– Vậy thì làm sao?

– Anh với em về ngoải luôn!

– Ý! Bậy nào. Anh đâu có đi như vậy được?

– Tại sao không? Có ông thượng tá còn đi đấy! Đài Sài gòn nói mà.

Cô bé này không bộp chộp như Ua nhưng lãng mạn hơn.

Cô nói nhiều câu như dùi sắt chọc vào tim tôi. Ở giữa cái vùng bom đạn lại được tiếp xúc với vùng thành thị bình yên có nếp sống khác hẳn, ắt cô nàng phải suy nghĩ. Như vậy cũng hợp với luật liên quan của duy vật biện chứng pháp lắm.

Tôi hỏi:

– Em có ý nghĩ như vậy hồi nào?

Chia ôm chặt tôi lúc chiếc xe xốc mạnh.

– Hôm anh yêu em!

– Tại sao?

– Vì em nghĩ, nếu ở trong này em sẽ mất anh.

– Sao lại mất?

– Anh biết mà, cần gì phải hỏi.

Tôi biết nàng nghĩ xa nhưng không rõ là mất với ý nghĩa nào? Bom đạn hay sự cấu xé giữa các cô mà nàng đã chứng kiến, rồi tôi bỏ nàng. Ai yêu tôi cũng bằng tấm tình chân thật cả. Dù tình dài hay ngắn, suông sẻ hay gút mắc, khi yêu tôi cũng yêu chân thành, nhưng tôi không thể đáp lại tấm tình của họ như họ mong ước. Tôi biết cuộc chiến này đã để lại góa phụ khắp nơi từ miền Bắc tới miền Nam, trên R cũng như ở Củ Chi. Tôi sẽ là một chiến tướng da ngựa bọc thây. Tôi cũng yêu mọi người như yêu tôi, còn lấy ai làm vợ trong lúc này quả là điều tôi do dự hoặc không dám quyết định.

Chia có vẻ quả quyết tiến tới trong kỳ này với sự có mặt của ba tôi. Biết vậy nhưng tôi không ngăn cản hoặc chiều theo ý định của nàng. Tôi cứ làm như một đám lục bình trôi trên sông. Ngừng lại đâu hay trôi đến đâu cũng thế. Một trở ngại trước mắt là Thu Hà, người con gái độc nhất mà tôi đã hứa từ trước đến nay. Nếu ba tôi ưng cưới Chia cho tôi thì…

Tôi hỏi khi chiếc xe đến khúc quanh sắp rẽ vào nhà .

– Em thấy tóc ba đã bạc hết chưa?

– Gần hết!

– Ba mặc quần áo gì?

– Áo trắng quần trắng.

– Có đội nón không?

– Có đội nón nỉ. Tướng mạo của ba không giống người nào ở đây hết.

Tôi quẹo vô sân nhà. Chia bảo:

– Ba đứng trước hàng ba ! Để coi ba có biết anh không.- Chia cười rúc rích và buông eo ếch tôi ra.

– Sao không biết?

Tôi buông xe nhảy xuống chạy ào tới.

– Con đó hả con?

Ba tôi bình thản hỏi. Một sự bình thản cố làm ra, không phải tự nhiên. Tôi nhào tới ôm lấy ba tôi. Không nói gì hết. Nức nở nghẹn ngào. Hai mươi năm nay tôi mới được nghe tiếng nói của ông già.

Tôi đã đi đâu, làm gì, sống chết ra sao. Cha mẹ ở nhà đau yếu đói no ra sao tôi bất biết. Lắm lúc ham vui tôi cũng không nhớ rằng tôi còn có cha mẹ trên đời nữa. Đi làm cách mạng ! Cách mạng là cái gì? Việc nước không xong, việc nhà bỏ phế! Đó là cách mạng. Đánh giết cho nhiều, phá phách cho hung. Đó là cách mạng. Thay tên đổi họ, lén lút mò mẫm đêm, chui trốn trong rừng. Đó là cách mạng. Còn gì nữa, cách mạng? Tất cả những gì đẫm máu, đểu cáng, bịp bợm, dâm dục thối tha nhất có thể gọi là cách mạng. Nhưng tới hôm nay, đứng trước mặt ba tôi, tôi mới nhận ra chân lý đó . Nhận rồi để làm gì? Tôi muốn phủi bỏ hết tất cả các thứ hào quang rởm lâu nay thiên hạ gán cho tôi để trở về với gia đình, làm một người thường sống với những hạnh phúc bình thường của nó: săn sóc cha mẹ, cưới vợ sinh con, cơm nước hàng ngày.

Đảng lẽ ra tôi đã có trong tay tất cả hạnh phúc đó từ lâu nhưng vì say mê lý tưởng mà bây giờ đầu chẳng đội trời chân chẳng đạp đất, muốn lùi không được, còn đi tới thì tới đâu? Ba tôi rơi nước mắt, nghẹn ngào:

– Má mày nhớ mày dữ lắm ! Còn con Duyên nó chờ mày không được…

Chia dọn cơm tươm tất mời ba tôi và tôi, còn dì Tư chỉ đóng vai hụ hợ, tiếp tế mời mọc lăng xăng. Ăn xong Chia mời ba tôi xuống hầm nghỉ. Tôi cũng đi theo. Tôi bảo ba tôi nằm cho khỏe, ba tôi nói ba không mệt. Ba tôi nhìn tôi:

– Mày nay ba mươi bốn rồi, con!

Hai cha con im lặng một chập rồi ba tôi trở lại chuyện hồi nãy:

– Con Duyên chờ mày không được…

– Cổ còn chờ con sao ba?

Trời đất, nếu Duyên còn chờ tôi thì tôi sẽ cưới nàng, chỉ nàng thôi, không ai khác. Tôi đã mang hình ảnh của Duyên trong tim tôi từ hồi còn đi học trường quận. Chúng tôi từng hứa hẹn với nhau sẽ nên vợ nên chồng. Những mơ ước thời thơ ấu có thể thành sự thật nếu không có cách mạng tháng tám xảy ra. Nhưng ngược lại, một điều không ai mơ ước lại xảy ra: Đó là cách mạng tháng tám. Mới đầu ai cũng tưởng đó là một sự ly kỳ … ngờ đâu lại kỳ cục.

Ba tôi tiếp:

– Nó ở trên Sài gòn với cô Ba nó, phụ tiếp bán vàng bạc và hột xoàn. Nó thường chạy lên chạy xuống nhà mình hỏi thăm tin mày. Mười năm liền. Cho đến khi tao cho biết mày đã đi tập kết, nó cũng còn chờ. Lúc đám tang bà ngoại, không biết ai cho nó hay mà nó đến. Thiệt bất ngờ. Đó là lần cuối cùng. Nó xin phép tao với má mà để tang cho ngoại. Sau đám tang, nó xin má mày cho nó bộ đồ tây và đôi giày của mày để mang về cất làm kỷ niệm. Má mày khóc với nó một đêm ròng. Từ đó về sau không thấy nó tới nữa. Mấy đứa bạn nó bảo nó luôn luôn mặc đồ đen. Hỏi tại sao? Nó nói nó để tang cho mối tình đầu của nó !

Ba tôi thở dài. Trán ông răn lên sâu như những đường rảnh trong lòng súng cối. Ông tiếp:

– Tao nghe nói nó lấy chồng hay đi tu… một trong hai lẽ đó.

Tôi kêu lên như chim bị trúng thương.

– Đi tu hả ba?

– Tao không rõ.lắm. Mày đã ở chân trời góc bể thì sự trùng phùng đâu có thể có được. Do đó tao không tìm hiểu cho rõ làm chi. Cứ để mập mờ như vậy mà còn ít buồn.

Tôi ngậm ngùi nhớ lại quãng đời tươi đẹp nên thơ và đầy hy vọng của tuổi trẻ. Cách mạng tới tất cả thay đổi và trở thành mây khói. Bây giờ đây tôi vẫn còn là sinh vật sống trong mây khói le lói tí hào quang… giả tạo. Tôi không nói lời tạ tội với ba tôi, nhưng trong thâm tâm, tôi tự nhận là đứa con bất hiếu.

Độ quá mười giờ thì Sáu Cúc và Sáu Huỳnh đến. Tôi biết hai trự này đến bàn việc móc thằng em tôi. Ba tôi không hay biết gì về chuyện đó, nên lại hướng về tình cảm quê hương.

Ông nói với hai người:

– Xứ mình lâu nay cũng bình yên. Mấy ông quận trưởng, xã trưởng biết những gia đình có con em tập kết và giải phóng hết, nhưng không khó dễ. Ở xã cũng có mấy cái ấp chiến lược nhưng viên chức đều là bà con nên có việc gì họ cũng bỏ qua.

Sáu Huỳnh hỏi:

– Họ không làm gì gia đình anh, là vì anh có thằng nhỏ đi sĩ quan, còn gia đình tôi?

– Gia đình nào cũng vậy thôn Thím Sáu vô trong này thăm chú vừa rồi, họ cũng biết, nhưng đâu có làm gì. Tôi đi ra ngoài này thình tinh, chớ nếu tôi biết trước, thì tôi bảo sấp nhỏ chạy qua cho thím Sáu hay, chắc thế nào thím cũng gởi cho chú nhấm mớ xài.

Sáu Huỳnh là người địa phương với tôi nên anh không muốn dính và chuyện móc ngoéo, để cho Sáu Cúc mở đề. Nghề quân báo là nghề nhổ râu ông này cặm cầm bà kia, nghề đá cá lăn dưa, ngồi cầu tàu thổi ống kêu. Sáu Cúc khai mào bằng một màn dạ hành tỏ rất giựt gân. Y nói với tôi nhưng cốt ý để cho ba tôi nghe:

– Tao mới nghe đài BBC nói mình đã tấn công Phước Long đồng thời tập kích chi khu Đồng Xoài. BBC nói Đồng Xoài cố tử thủ chờ viện binh. Còn ở Quảng Ngãi thì nghe đài Hà Nội nói mình vừa diệt gọn hai tiểu đoàn bộ binh…

Sáu Huỳnh phụ họa:

– Hèn chi hổm rày các loại máy bay hít về phía đó, dưới này đỡ đỡ.

– Đài BBC còn cho biết tụi Mỹ đang ồ ạt đổ quân lên Khe Sanh, thung lũng Đa Drăng và Pleiku.

Sáu Cúc nói xong, quay sang ba tôi:

– Hổng biết thằng em nó có đi ra miệt đó không anh Chín?

Ba tôi lắc đầu:

– Nó đi liên miên nay chỗ này mai chỗ khác, tôi đâu có biết được.

Sáu Cúc nói.

– Tôi cho rước anh vô đây trước là gặp em Lôi, sau là bàn với anh một chuyện.

Tôi dư biết các trận Phước Long Đồng Xoài đã xảy ra từ lâu và kết quả như thế nào rồi. Nhưng Sáu Cúc moi móc lại để hù ba tôi. Ở ngoài thành tin tức nhanh chóng và xác thực hơn cái đài giải phóng của mặt trận ông Thọ nhiều, có lý gì ba tôi không nghe để mắc mưu tên ma cô này. Thấy ba tôi đáp không vô vòng của hắn, Sáu Cúc bèn vỡ giọng tâm tình:

– Cây cùng một gốc, mà một nhánh rẽ sang bên trái, một nhánh bên phải như vậy. .. không tốt. Súng đạn là thứ vô tình. Rủi ra trận mạc đụng nhau rồi làm sao? Theo tôi đứa nhỏ phải theo đứa lớn thì coi mới phải. Vậy anh Chín nghĩ lẽ nào?

– Sanh con há dễ sanh lòng mấy chú à. Tuy là hai anh em nhưng mỗi đứa lớn lên trong một hoàn cảnh, trí óc khác nhau cho nên chí hướng khác nhau.

– Nhưng anh là người cựu kháng chiến, con cái phải theo con đường của anh mới phải.

– Mấy chú nói sao tôi hay vậy. Còn như chuyện mấy chú muốn em theo anh, thì mấy chú cứ nói thẳng với nó hoặc nếu mấy chú tin tôi thì tôi chuyển lời đùm, còn kết quả hay không tôi không hứa.

Sáu Huỳnh thấy vậy là đã đạt yêu cầu, nên nói loanh quanh vài câu chuyện mưa nắng rồi rút lui, còn Sáu Cúc ở lại tiếp tục địch vận ông già . Y mở xắc-cốt lấy ra một xấp hình cỡ 6×9 đưa cho tôi xem. Tôi cầm hình trong khi y giải thích một cách hứng thú:

– Đây là cơ sở của mình. Anh này là đại tá không quân đấy. Anh ta vô đây tiếp xúc với chúng tôi vài bữa trước khi cậu về. Cậu là người đặc biệt lắm tôi mới cho xem.

Tôi biết đây là những tấm hình láo toét. Chẳng có đại tá nào hết. Y đem ra đây để khoe và nhử ba tôi thôi. Tôi không làm nghề quân báo nhưng tôi thừa biết là những cơ sở đại tá như thế này, dù tôi có đặc biệt như thế mấy cũng không được xem. Vì nguyên tắc của quân báo là bí mật.

Y lấy ngón tay trỏ vào từng điểm trên mấy tấm hình và tiếp :

– Cái hình này là do máy bay L19 chụp được anh Sáu Huỳnh nói với cậu hôm trước đó. Lính mình đang đào công sự trong rừng cao su ở Bình Giả. Nếu anh ta báo cáo thật thì mình ăn bom chết hết rồi. Nhưng anh ta lại tráo tấm ảnh khác, đưa tấm này cho mình. Cậu biết một tấm như vầy mấy triệu không? Thằng Sài gòn bỏ mạng là ở chỗ đó. Nó ỷ nó có khí tài máy móc, nhưng lại dòi trong xương dòi ra, nó đâu có biết. Chỗ có nói không, chỗ không nói có. Cho nên súng nhiều bom lớn mà không thắng là vì vậy.

Thấy ba tôi có vẻ lắng nghe, y hùng hồn nói tiếp:

-Tôi hứa chắc với anh Chín nếu mà thằng nhỏ chịu cộng tác với chúng tôi, nó muốn gì được nấy. Nó đang ở bộ binh, nếu sợ nguy hiểm muốn về văn phòng, tôi chạy cho nó về văn phòng, muốn ở chính trị tôi cho chính trị, muốn làm tham mưu tôi cho vô tham mưu. Trong vòng hai năm tôi cho nó mang lon tướng cho anh Chín coi. Tôi nói thiệt. Nếu không có vậy tôi sẽ chịu cho đàn bà Củ Chi này đái trên đầu tôi sôi bọt.

Ba tôi cười hưởng ứng:

– Mấy chú quả quyền hạn mênh mông vô tận.

– Thiệt mà anh Chín. Tôi còn có thể đưa nó vô làm ở phủ Tổng Thống nữa cơ. Lên Tướng mả khó khăn gì. Hễ nó móc với tụi tôi, trong vòng sáu tháng nó sẽ đóng lon Thiếu tá. Sáu tháng nữa lên Đại tá. Một năm sau lên Tướng ít lắm là Tiểu khu trưởng. Rồi muốn làm chúa tỉnh nào tôi cho về tỉnh nấy. Chừng đó tha hồ bán gạo, bán súng cho chúng tôi. Bạc chất đâu cho hết !

Y leo qua cả lý luận Mác:

– Tụi tư bản hễ nghe tới hơi tiền là tít mắt. Bàn thờ ông vải cũng bán mà !

Y ngồi hút hết nửa gói Capstan, không khí trong hầm khét nghẹt khói thuốc. Y bắt tay ba tôi dặn dò, tâm sự to nhỏ, chúc tụng đủ điều rồi mới ra về. Tôi đưa y lên ra tận cửa, đóng cửa lại, cài then kỷ rồi mới vào nhà ngó loanh quanh không thấy ai cả, yên trí rằng dì Tư và Chia đã ngủ nên chui xuống hầm. Ba tôi vẫn còn ngồi đó. Lúc chiều khi vừa gặp ông tôi đã nói tóm tắt mấy điều, cho nên dù Sáu Cúc có tụng bao nhiêu thì ba tôi vẫn không thấm bài.

Tôi từng biết vụ tên Phạm Ngọc Thảo làm đội trưởng đội tình báo lấy tên là đoàn công tác đặc biệt của cộng sản trong thời kháng chiến. Đội này thành lập ở tỉnh Bến Tre. Lúc đó tôi từ miền Đông xuống miền Tây với bác sĩ Du. Khi đoàn tới Đồng Tháp Mười thì bác sĩ Du bị Tây ruồng bắt, tôi đi theo phái đoàn đến Tường Đa (Bến Tre) thì gặp đội tình báo này. Phan Triêm dân Quảng Nam mặt chuột môi thâm đang làm tỉnh ủy Bến Tre được cắt sang làm chính trị viên.

Sau đó tôi xuống miền Tây học trường Lục Quân thì Thảo về cất nhà ở với vợ là Phạm thị Nhiệm (em gái của Phạm Thiều giám đốc sở tuyên truyền Nam Bộ) bên bờ kinh xáng Chắc Băng. Rồi khi tôi ra công tác ở các đơn vị chiến đấu thì Thảo làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 410 trong trung đoàn Tây Đô của Huỳnh Thủ cũng người Quảng Nam. Thảo nhỏ con, mặt thỏn, hai mắt bất đồng nên anh gọi là Thảo Lé.

1954 Hòa Bình thành lập lại, Thảo Lé tọt về Sài gòn, ít lâu đầu quân dưới trướng ông Diệm và được ông Diệm tin dùng ngay. Khi ra Bắc tôi còn nghe tiếng đồn rằng Thảo làm cố vấn chống du kích toàn Đông Nam Á. Ít lâu sau Thảo được ông Diệm bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa. Đây là thời kỳ Thảo Lé công tác rất đắc lực với Cộng Sản. Hắn thả tù binh chính trị môtcách bừa bãi. Tệ hại hơn nữa, bãi biển Cồn Chim trở thành bến đổ vũ khí cho tàu Bắc Việt, mạnh hơn cả Vũng Rô.

Sau đó Thảo Lé đảo chánh hụt bị bắn trọng thương và bị rượt nà. Thảo chui vô nhà thương giả bệnh nhân, nhưng công an tóm được, giết một cách bí mật ngay trên giường bệnh..

Tôi nhớ lại câu chuyện của một tên tình báo Cộng Sản mà rùng mình. Quá nhiều phiêu lưu và nguy hiểm. Tôi không muốn cho em tôi làm chuyện đó.

Ba tôi chờ đợi ở tôi một câu. Nhưng tôi không nói gì. Một tiếng nói phát ra lúc này có thể bị dính vô máy móc của đám Sáu Cúc cài sẵn trong vách hầm trước khi cho ba tôi và tôi vào đây, nếu không, có thể một kẻ đang rình bên ngoài. Chia biết đâu chẳng là tay trong của tụi nó và là mỹ nhân kế. Tôi đã khôn rồi. Tôi không tin ai cả . Tôi chỉ nói những chuyện không dính tới em tôi rồi ra dấu bảo ba tôi ngủ để sáng mai tôi đưa về. Vượt qua bao nhiêu đồn bót và những cặp mắt cú vọ, ba tôi đến, tôi được nhìn thấy mặt là đủ rồi. Ở nán lại nếu có việc gì tôi sẽ ân hận suốt đời.

Tôi lấy gối để lên đầu giường cho ba tôi nằm rồi đi lên nấu được pha trà. Định bụng sẽ trở xuống viết một bức thư về thăm má tôi rồi nằm bên ba tôi ngủ như một đứa bé thơ thuở nào.

Nhưng khi tôi vừa lên khỏi miệng hầm thì một cánh tay nắm vai tôi. Không suy nghĩ cũng biết đó là Chia.

– Sao anh không nói gì với ba hết vậy?

Thì ra cô nàng đã rình nghe hết cả buổi nói chuyện.

– Nói gì?

– Chuyện anh và em.

– À bận quá. Hơn nữa có mặt mấy chú.

– Mấy chú đã về lâu rồi! Chừng nào anh mới nói?

– Chừng ba sửa soạn đi về .

– Chừng nào ba về?

– Sáng mai!

– Sao gấp vậy? Mấy chục năm trời anh mới gặp ba, sao anh không giữ ba ở lại chơi?

– Có công chuyện khẩn cấp.

Chia coi như việc đã rồi. Chỉ còn thưa qua ông già nữa là tiến hành đám cưới. Nàng có ngờ đâu bụng tôi ngổn ngang trăm mối tơ vò. Nàng vùng vằng:

– Để ba ở lại chơi vài bữa. Có chuyện gì em chịu trách nhiệm cho.

– Không có chuyện gì cả , nhưng công tác khẩn nên phải về .

Tôi và Chia ngồi co ro sau bếp, nói chuyện thì thào như vịt xiêm. Nàng hôn tôi, tôi hôn nàng không ngừng, không buông nhau ra phút nào. Mấy ông táo trên bếp mà ngó thấy chắc cũng phát ghen. Chia bảo:

– Anh yêu em đi.

– Để mai mốt đã . Anh ở đây chớ đi đâu mà sợ !

– Em sợ con Ua nó giật mất anh.

– Anh đâu phải cái chén cái tô mà nó giật dễ vậy.

– Nó dọa em: “Đừng có mó vào chồng nó mà không toàn mạng.” Con nhỏ dữ lắm. Em không muốn ở đây, em chỉ muốn ba gật đầu một cái là em về luôn với ba thôi.

. Tôi trở lại hầm. Ba tôi vẫn nằm, tay gác trên trán có vẻ suy nghĩ chớ nào đã ngủ. Tôi khe khẽ nằm xuống bên cạnh thì ba tôi hỏi. Ba tôi kể một dọc.

– Mấy anh Bảy Trấn, Trần văn Giàu, Hoàng Xuân Nhị, Tô Ký, Trần Thắng Minh, Sáu Của, Huỳnh văn Nghệ , Dương Bạch Mai … ra ngoải làm tới chức gì con?

Đây là câu hỏi tôi không thể trả lời nếu trả lời thì phải nói láo. Tôi suy nghĩ mãi không biết trả lời thế nào cho phải, thì ba tôi hỏi thêm:

– Mấy ông đó còn sống hết hôn, hay là có ông nào mãn phần.

– Dạ có ông chết ông sống ba à ! Nhưng nói chung thì coi như đã chết hết. Nếu ba đi tập kết thì chắc nằm ở ngoài đó luôn chớ về gì nổi mà về .

Ba tôi không để ý câu nói chua chát của tôi.

– Dạ, con đi trên Trường Sơn . Gặp nhiều ông trên năm mươi thảm lắm ba à ! Vừa đi vừa bò vừa lết. Giao liên thấy tội nghiệp mang dùm ba-lô, nhưng cũng không đi nổi.

– Rồi làm sao con?

– Lớp trở ra, lớp nằm lại dọc đường. Có người ráng vô tới Bà Rịa thì chết.

– Chết à?

– Dạ trẻ cũng chết chớ không phải chỉ có già ! Trên đường Trường Sơn có đến một trăm kiểu chết ba ơi.

Ba tôi ngưng một lúc lâu rồi mới tiếp.

– Nhờ ông bà thánh thần phụ hộ nên con mới về tới xứ. Ba má tưởng con hi sinh lâu rồi!

Tôi nghe trong tiếng của ba tôi có pha nước mắt. Tôi chưa bao giờ thấy ba tôi khóc. Ông thuộc loại người ít nói, trầm ngâm và cương nghị. Khi kháng chiến nổ ra, ông theo hết lòng. Bỏ nhà cửa, mặc cho má tôi nuôi dưỡng đàn con. Nhưng sau đó, hình như ông thấy việc gì, nên bỏ về nhà. Lúc đình chiến, tập kết, ủy ban tỉnh mời ông, ông từ chối không đi. Sự thực trong lòng ông như thế nào tôi không rõ. Đêm nay chỉ có hai cha con trong gian hầm vắng lặng, tôi định hỏi mấy lần nhưng lại ngập ngừng để so sánh những ý nghĩ của ông hồi đó với tôi bây giờ. Rồi thôi, bỏ hẳn ý định. Tôi tự nhủ:

– Cứ xem cái kiểu thiên hạ bỏ kháng chiến đều đều từ miền Đông xuống miền Tây thì rõ chứ gì.

Ông cứ thở dài. Tôi biết ông gặp lại tôi ông mừng lắm. Nhưng sau đó niềm vui lại nhường chỗ cho những lo âu và sầu muộn. Hai đứa con trai, mỗi đứa một đường. Có lẽ từ sau lúc tiếp xúc với hai ông cán gộc, ông càng buồn hơn chăng?

Tính lẽ nào cho phải? Cuộc xum họp hóa thành éo le. Ông bất ngờ nhắc lại vụ Duyên. Có lẽ đây là một nỗi buồn day dứt của gia đình tôi.

– Con nhỏ nó gầy tọp đi. Mỗi lần nó đến, tao thấy mà xót xa. Nó đem tiền tới cho má. mày. Má mày không chịu lấy. Nó bảo: má coi như của ảnh gửi về. Tao đứt ruột đứt gan, nhưng làm sao bây giờ? Nếu như mày ở trong miền Nam thì đâu có như vậy. Cái giới tuyến ác thiệt.

Ngưng một chốc, ông lại tiếp:

– Lần cuối cùng nó đến nó mặc đồ đen. Nó xin phép má mày nó đi lấy chồng.

– Hồi nào ba?

– Sau đình chiến. Sau khi hai bên Bắc Nam không chịu Tổng Tuyển Cử.

– Vậy sao ba nói cô ấy đi tu?

– Sau đó nghe đồn như vậy, không biết lẽ nào. Nó nói một câu tới chết tao không quên được.

– Câu gì ba?

Ba tôi không đáp. Tôi nghe ông nuốt ực mấy lần. Ông cố nén nhưng tôi vẫn nghe. Tôi hỏi gặng lần nữa, ông mới nói:

– Nó nói nếu nó dè phân cách duyên nợ như vầy, thà hồi đó nó liều thân với mày cho xong, nhụy đào thà bẻ cho người tình chung, để bây giờ nó không thể lấy chồng nữa. Nó chờ mày tới già.

Tôi chỉ còn biết kêu trời!

– Con đừng buồn ! Đó chẳng qua là duyên kiếp con à !

Ông ít gọi tôi bằng con, trừ những trường hợp nghiêm trọng, tiếng con thắm thía vô cùng. Tôi đón nhận tất cả yêu thương của một người cha.

Sáng dậy tôi tưởng đã qua một giấc ngủ mười năm. Vâng, giấc ngủ hai mươi năm! Giấc ngủ của nhà văn Trần Lực tôi từng đọc từ đầu kháng chiến. Giấc ngủ này được mô tả trong tiểu thuyết theo trí tưởng tượng của tác giả, thì người thức dậy thấy một cảnh thiên đường mặt đất lúc thóc đầy bồ, dân chúng hạnh phúc, hoa thơm cỏ lạ khắp nơi. Thế nhưng, cái giấc ngủ ấy, tôi đã ngủ đến hai lần. Lần thứ nhất mở mắt ra thấy cải cách ruộng đất ở miền Bắc. Lần thứ hai mở mắt ra thấy nằm giữa Củ Chi bom đạn bời bời và sắp chia ly với gia đỉnh.

o O o

Con Ua phóng xe đạp tới, ghếch chân lên thềm nhà, Sáu Huỳnh cho nó sang chở ba tôi sang bển để thết đãi. Nó nhìn tôi với cặp mắt xoi mói điều tra: đêm qua anh ngủ ở đâu, nói gì với ai …v..v… Nhưng tôi gạt ngang:

– Em về sửa soạn đi rồi đưa ba anh về .

Tôi không dùng tiếng ba đơn độc như với Chia. Ua chưng hửng, không hiểu. Tôi quát.

– Mau đi! Tình hình động tới nơi rồi.

– Nếu động em đưa ba ra Củ Chi tạm trú, yên lại trở vô.

– Không được. Có công tác gấp.

Nghe nói công tác Ua không cãi nữa, nhưng bộ mặt ỉu xìu. Ua bước xuống xe, định vô nhà, nhưng tôi gạt ra. Cực chẳng đã, Ua phải dắt xe đi. Nàng hỏi:

– Anh đã nói gì với ba chưa ?

– Thưa chớ không phải nói với ba.

– Ừ thôi thưa. Anh đã thưa với ba chưa?

– Chưa .

Ua trợn mắt:

– Sao còn neo hoài vậy?

– Chờ má anh vô mới được.

– Má chớ không phải má anh nghe chưa ông mãnh!

– Thưa chớ không phải nói với ông già nghe chưa? Ba nghe được là hỏng hết.

Ua rụt cổ lè lưỡi, nói nhỏ rí:

– Chết! Ba có nghe không anh? Em ăn nói ngang tàng với mấy ổng quen cái miệng rồi. Ba nghe chắc ba chê em quá !

– Không, có anh ! Hễ anh khen thì ba không chê . Em về nói với chú Sáu Huỳnh rồi trở qua đưa ba ra Củ Chi ngay.

– Ừ đưa ba, chớ nói ba anh thì em bịt miệng bây giờ. Anh nên nhớ ba của anh cũng là ba của em. Em không để ai kêu như em đâu.

Tôi đi với ba tôi ra đường. Nét mặt ba tôi buồn dàu dàu.

Ba tôi móc chiếc bóp da lớn trong túi áo trên ra lấy tiền cho tôi:

– Tiền của má mày. Ba ngàn, còn hai ngàn là của mấy em mày góp lại.

– Con không cần ba ạ ! Từ lâu con đã không làm gì cho gia đình nhờ, bây giờ lại rút rỉa, con thẹn lắm.

– Lấy xài chớ, để cặp tàu anh em hoài sao!

Tôi suýt bật cười. Tiếng cặp tàu này xưa lắm. Đâu hồi trước 45 kia. Ba tôi có tật đọc báo. Bữa nào cũng mua tờ báo sang quán uống cà phê ngồi đọc và bàn bạc với mấy người bên quán. Người quen đến cặp tàu ba tôi luôn, thành ra uống một tách phải trả ba bốn tách.

– Con không cặp tàu ai đâu ba à !

– Không cặp người ta, thì để cho anh em cặp tàu con. Khi mình, khi người. Anh em thì phải chia cơm xẻ áo cho nhau. Như vậy có tình thân mới ở chung với nhau được.

Đi một quãng, ba tôi hỏi:

– Còn vụ vợ con, mày tính sao?

– Con chưa tính gì được hết ba à !

– Má mày muốn có cháu bồng. .

– Mấy em con có thiếu gì đó ba !

– Má mày muốn con của mày chớ nói gì của tụi nó !

Đi một quãng nữa, ba tôi hỏi:

– Con tính cụ Hồ có thắng được Mỹ không?

– Dạ thì phải thắng chớ ba !

– Cụ làm vầy chết dân. Lính Quốc gia chết, anh giải phóng chết. Ngoài ra thì ai đi miền Bắc không thấy về, lớp nhỏ tấn lên không lấp được lỗ trống! Làng xóm ngó eo sèo xác xơ còn hơn thời kháng chiến.

Tôi dặn ba tôi mấy việc về thằng em. Vừa xong thì Ua phóng xe tới. Tôi bảo:

– Em đi đến ngã ba chờ. Để anh nói chuyện với ba chút nữa .

Thật ra tôi chẳng nói thêm câu nào. Hai cha con lẳng lặng đi song song với nhau. Mặt trời lên cao. Nắng sáng ấm áp. Tôi bước đi thong dong. Tôi sực nhớ rằng từ ngày về Nam tới giờ tôi chưa bao giờ đi đứng khoan thai như hôm nay. Lúc nào cũng hối hả, chụp giựt, chạy tuôn, lủi trốn, la hét v.v… Những sự bất thường đều trở nên bình thường. Con người thay đổi về tâm lý lẩn tánh tình hồi nào cũng không hay nữa.

– Con Duyên có đến thăm mộ ngoại con nữa chớ ! Chút nữa ba quên nói với con.

– Mộ ngoại ở đâu ba?

– Ở trong đất nhà, bên mộ cậu Tám con.

– Cô Duyên không có tới nữa hả ba?

– Sau lần đó, nó biệt luôn.

– Nếu biết được . . . .

– Trên mười năm rồi ! Má mày khuyên nó đừng có đi tu. Nó nói nó không còn ham muốn gì nữa hết.

– Con không ngờ cổ thương con đến như vậy.

Ba tôi lặng thinh. Bước chân ông chậm chạp, dường như ông sợ đến ngã ba. Ở chỗ đó cha con lại phải xa nhau như cái bến tàu Chắc Băng hai mươi năm trước. Trong cách mạng cái gì đã xa rồi không trở lại được. Từ xa tới xa….

Đột nhiên ông hỏi:

– Con chấm cô nào?

Tôi biết ý ông hỏi tôi về Ua và Chia. Tôi đáp:

– Con chưa có ý gì hết ba à. Ba thấy cô nào được ba?

– Tùy ý con.

Đã đến ngã ba. Ua vừa giục vừa rề xe lại:

– Anh Hai, mau lên. Chỗ ngã ba pháo hay bắn lắm. Mời bác ngồi lên.

Tôi đứng khựng lại. Phút chia tay đột ngột. Tôi không cầm được nước mắt. Chiếc xe chở ông già đi sẽ mang cả ruột gan tôi theo. Ba tôi ngồi lên chiếc poọc-ba-ga. Tôi bước lại cầm tay ba tôi, bàn tay gầy xương xẩu từng bồng bế, nựng nịu và từng đánh đòn tôi. Ua quay đầu lại, liếng thoắng:

– Anh về đi. Ba sẽ đi chuyến mười hai giờ trưa. Sáu giờ chiều ba ăn cơm nhà .

Tôi nghẹn ngào.

– Ba về nghe ba !

– Ba gởi lời thăm hết thảy anh em. Gấp quá ba không gặp mặt chú Trầm (tên thật của Sáu Huỳnh) để từ giã.

Ua nhấc chân lên pê-đan, đạp. Tôi đứng trân trân, mắt ngó theo. Bộ đồ lụa trắng của ba tôi xa dần. Tôi đứng nhìn theo cho đến khuất mới trở bước về . Cứ đi một quãng tôi quay lại nhìn. Nhưng tôi không còn thấy gì nữa ngoài cái mặt đường lởm chởm nằm phơi dưới nắng buồn tênh.

Tôi muốn kêu lên một tiếng ba thật lớn rồi vứt tất cả súng ống ba lô, cả hai mươi năm thành tích để chạy về nhà. Tôi không thấy cách mạng còn hấp dẫn đối với tôi nữa. Cái gì mông lung nhất, đó là cách mạng. Cái bịp bợm nhất cũng lại là cách mạng. Nhưng sở dĩ nó cứ lôi cuốn con người Việt Nam hoài hoài là vì nó khéo khoác áo ngụy trang dân tộc. Bao giờ nó cũng bô bô cái miệng là vì dân. Sự thực tôi đã thấy rõ mười năm Miền Bắc rồi. Vì dân nhưng dân ăn rau muống, củ chuối và cám lợn. Còn lãnh tụ nhân dân thì ăn cơm tấm giò chả , ăn không hết đem đổ. Vì dân nhưng dân ở nhà tranh vách đất như ổ lợn còn lãnh tụ thì quơ mỗi ông một cái villa thượng hạng, chưa đủ quơ thêm vài cái để dành cho con đi học Liên Xô chưa về, thậm chí cho cháu chưa đẻ.

Vì dân kiểu đó thằng này xin vì dân suốt đời.

Trong lúc tâm sự với tôi, ba tôi mỗi khi nhắc đến thời chín năm là ông than phiền hoặc chê bai. Ông đã nhìn thấy rõ bọn Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Tô Ký, Nguyễn Văn Trấn, Hà Huy Giáp. Ông bảo mấy người đó không có tư cách mà lãnh đạo gì. “Gia đình nào không dính với cách mạng là gia đình đó khỏe nhất.” Đó là ý nghĩ của ba tôi mà tôi tổng kết được qua câu chuyện với tôi.

Ông kể cho tôi nghe những gia đình nào đi theo kháng chiến mà bỏ về sớm bây giờ có sự nghiệp hết cả. Như mấy đứa em cô cậu của tôi hiện giờ là chủ bốn năm chiếc xe đò đưa khách đường Nhà Bè – Sài gòn, hoặc chủ tiệm tạp hóa.

Còn gia đình tôi đi kháng chiến mút mùa, đến khi trở về tài sản bỏ bê mất mát, nhà cửa tiêu tan hết. Ba tôi bỏ cả đàn em tôi cho má tôi nuôi, nhờ tiền bên ngoại giúp đỡ và cô Duyên cũng tiếp tế mất mấy năm nên không đến đổi nghèo hèn quá, nhưng so với thiên hạ thì chẳng bằng ai.

Ba tôi còn khui ba cái vụ công khố phiếu hồi kháng chiến ra làm cho tôi không còn cách nào bao che cho cách mạng được. Tôi biết gia đình tôi hiến rất nhiều mâm thau, lư đồng và vàng bạc cho tuần lễ vàng. Ngoài ra mỗi lần có đấu giá ảnh cụ Hồ thì ba tôi móc tiền túi ra đua tranh để lấy cho được bức ảnh đem về treo ở cơ quan. Cái loại ảnh gắn bằng kén tằm nhuộm đỏ và vàng coi đẹp lắm nhưng chỉ vài tháng con nít bảo mặt cụ Hồ có lác nên phải gỡ xuống đút vô kho. Ba tôi còn mua công phố phiếu. Ba tôi còn tuyên truyền cho bà con mua: “Có thực mới vực được đạo, có tiền bộ đội mới có gạo, có gạo ăn mới đánh được Tây.” Vì yêu nước những nhà điền chủ ùn ùn đi mua. Kẻ nghèo cắt củm được một ít cũng hiến cho công khố. Không mua công khố phiếu là Việt Gian. Ai chịu mang tiếng ác nghiệt đó? Sau hòa bình ba tôi bỏ nó vô tỉn nước mắm khằn lại và giấu chui giấu nhủi cả chục năm nay. Bây giờ nghe nói có Mặt Trận, có khu Giải Phóng nên đem vô đổi lấy lại tiền, để cho tôi xài, nhưng vô đây mới vỡ lẽ ra là Mặt Trận đang đào khoai mì lén của dân bỏ nhà đi ra ấp chiến lược mà ăn. May mà ba tôi có bỏ phòng hờ theo, nên đã cho tôi năm ngàn đồng. (Sánh sao nổi với bà già địa chủ của ông Trưởng phòng Chính trị Quân khu và bà vợ thầu cà-phê của ông Trưởng phòng Huấn học Cục Chính trị R). Số tiền đó là sự ki cỏm của má tôi chớ đâu phải của tôi. Tôi thực tình xấu hổ. Tôi không muốn lấy. Cha mẹ già đã không nuôi dưỡng lại đi lấy tiền là nghĩa gì?

Tôi biết ba tôi là người khí khái. Khi đã say mê thì say mê hết lòng, dốc hết sức để đạt được mục đích, nhưng khi đã hết mê thì bỏ ngay. Và đã bỏ thì không có quay lại. Sở dĩ ba tôi ra khu giải phóng là vì tôi chứ không phải muốn xem khu giải phóng. Ba tôi dư biết nó là cái gì rồi. Ba tôi nói nhỏ :

– Ở trong thành ba cũng biết rõ ngoài này ra sao rồi con ạ. Cũng y như thời 12 đội công tác thành của Nguyễn Bình vậy thôi, nghĩa là thu thuế lén, thuế tiệm chệt, thuế xe bộ hành, thuế những sòng bạc, thuế tiệm hút v.v. ..

Mấy người trí thức ở thành ra khu, ba tôi đều nghe nói. Ba tôi chỉ phán một câu:

– Đó là những người bất tài và có tâm địa ăn không được khuấy cho hôi.

Ba tôi còn biết vụ kỹ sư Cao Văn Bổn chết vì bịnh sốt rét, Phạm Ngọc Thạch (trong kháng chiến là người quen thân với ba tôi) chết vì đau ruột, Trần Hữu Trang chết vì B52 v.v. . . Ông còn biết Mặt trận giải phóng bắt cóc Trình Đình Thảo khiêng ra khu giải phóng, và giải cứu Nguyễn Hữu Thọ từ nhà lao Ban Mê Thuột. Ông có lạ gì tướng tá và quân đội miền Bắc vô trong Nam. Trần Văn Trà ông biết quá rõ mà ! Năm 54, ông lấy cớ gánh nặng gia đình nên không đi tập kết, chứ kỳ thực ông đã chán ngán vì trông rõ cái sự thực mà hai mươi năm nay, nghĩa là hôm nay, tôi vẫn chưa trông thấy.

– Con nhớ không, thời chống Pháp, bộ đội đi tới đâu gà vịt heo bò ngã liệt địa tới đó, dân nhường nhà cho bộ đội, cán bộ và dân quân…

Ba tôi không nói hết câu, nhưng vế sau tôi vẫn hiểu. Ông bảo tôi:

– Cụ Hồ có đem vô đây một hột muối hột gạo nào, rốt cuộc vẫn củi đậu nấu đậu.

Biết mình nói những câu đó, thằng con trai đi theo Việt Cộng sẽ không vui, ba tôi cười gượng:

– Trời không cho mình giàu con ạ. Đó là phần số Thiên định, mình không cãi được, nhưng qua chín năm kháng chiến mà gia đình mình còn nguyên vẹn thì phước lớn lắm rồi. Đó cũng là do trời. Con nghĩ coi. Lần đó máy bay bỏ bom, má con với mấy em chui xuống hầm, một trái bom rơi giữa hầm, không trúng ai mà cũng không nổ. Phần số mình lớn cỡ nào?

Lúc sắp chia tay, ba tôi cố tìm những câu chuyện vui nói với tôi ông muốn để lại cho tôi một dư âm tốt đẹp về cuộc viếng thăm ngắn ngủi. Nhưng bây giờ ông đã xa tôi rồi. Nỗi buồn đổ ập lên tôi. Trên đường về, tôi cơ hồ cất chân lên không nổi nữa. Tôi không dám quay lại nhìn ba tôi nữa, nhưng vẫn thấy chiếc xe đạp như con vật tha ông già đi xa dần. Đã xa hai mươi năm bây giờ lại xa.

Phá nát đất nước: Đó là cách mạng.

Đang xum họp bỗng chia ly: Đó cũng là cách mạng.

Đang vui hóa buồn: Không gì khác hơn là cách mạng.

Đang giàu trở thành nghèo: Đó là bước tiến của cách mạng.

Ôi cách cái mạng!

Chương 45

Tây Lưong Nữ Quốc

< Tôi lịm đi trong mệt mỏi và đau buồn. Tôi thức dậy khi nghe có hơi người bên cạnh: Chia . Chia vừa xốc tôi dậy vừa nói .

– Anh lên ăn cơm đi !

Tôi vuốt tóc nàng và hỏi.

– Anh ngủ lâu chưa?

2000 NGÀY ĐÊM TRẤN THỦ CỦ CHI : QII – (36-41)

13/08/2010 — Lê Thy

Thung catong dong hang thuốc lá caraven giá bao nhiêu năm 2024
Đây CỦ CHI! Đất Sét Sắp Thành Bùn

Chương 36 Trên miệng hầm ông Ba Xu

Thấy nắng rọi nghiêng tôi giục Là về trong lúc tiệc còn đang vui. Chúng tôi đi trên con đường mòn. Đi được một quãng, Là quay lại nhìn tôi và hất hàm:

– Có đi cày nổi không?

– Nổi chớ. Hồi ở nhà anh vẫn theo trâu cày ruộng nhà, bắt cá lóc trong lúc cày khoái lắm.

– Ở đây cày gặp miểng cà-nông chớ không có cá đâu.

– Nhưng sao em hỏi anh chuyện đó?

Là quay lưng đi không nói. Một chập mới lằm bằm:

– Nhìn gì dữ vậy?

– Nhìn gì đâu?

– Hai chị em ruột giống nhau như đúc, coi chừng lầm đó.

– Gì mà phải lầm.

Là cười sặc sặc và nói:

– Cô em có cái bớt trên cổ, nhớ nghe thầy Hai!

À ra thế, cô nàng lại lên cơn. Biết thế, tôi móc túi ra đưa cho nàng một gói giấy nhỏ:

– Cái gì đây? Của cô em kỷ niệm hả?

– Mở ra coi!

Là mở ra và kêu lên:

– Ớt! ớt ở đâu vậy?

– Bên góc chuồng trâu. Anh hái hồi lúc em vô nhà.

– Ớt này là ớt hiểm cay hơn ớt sừng trâu.

– Ớt nào mà lại chẳng ca… ay !

– Anh nói móc em há ? Được rồi !

Tôi cười dã lã. Nàng nghiêng mặt sát tôi:

– Anh là anh… của em không ai có quyền…

Tôi ngắt ngang.

– Quyền gì?

– Không ai có quyền động tới.

– Ai động tới anh đâu nào.

– Xí mới con nhỏ Nhã Nam Bắc kỳ lai, lại đến hai bà kiện tướng.

– Anh làm gì mà em la.

– Tụi nó nhìn anh chớ làm gì.

– Nhìn mà cũng cấm nữa à ?

– Tại sao anh nhìn lại?

– Có mắt để làm gì?

Là bí lối đành quay đi với vẻ giận dỗi. Đi được một khúc, Là trỏ tay vào một lùm tre:

– Dượng Chín mua rượu trong quán này ! (Là gọi Chín Nữa bằng dượng cũng như tôi). Quán thằng cha Hai Trâu.

– Tên gì kỳ vậy?

– Thằng chả đánh xe trâu mà ăn tiền mắc hơn các chủ khác nên người ta đặt tên vậy đó. Em ghét thằng chả lắm.

– Anh thấy ai em cũng ghét cả.

– Ừ em chỉ thương có một người thôi. Ai làm gì em nào?

– Em thương người nào chắc người đó phải sợ mất vía.

Là bật cười rồi nói:

– Thằng chả chỉ là cán bộ an ninh xã . Ở Sa Nhỏ này có bốn, năm cái quán, nhưng ổng cứ hạch sách làm khó làm dễ hoài. Ổng bảo chủ quán có liên hệ với lính bót Trung Hòa. Ai ổng cũng nghi ngờ. Vì vậy ổng không cho buôn bán. Để một mình ổng thôi. Vợ ổng ra vô chợ thì không sao cả! Trời bất dung gian đảng, có ngày vợ ổng bị lính bắt vô đồn cho coi. Vậy cho hết nghi ngờ người khác.

Đi với cô xã đội tôi hiểu thêm dân tình và địa vật. (Về sau khi chỉ huy Tiểu đoàn Quyết Thắng tôi rất rành đường quanh nẻo tắt của các thôn ấp.) Tôi hỏi:

– Bà con ở đây làm nghề gì em?

– Cũng ruộng rẩy thôi. Nhiều nhà làm nghề đươn đát, một số khác thì đánh xe trâu. Xe trâu thì cũng như xe bò. Nhưng trâu kéo được xe trong lúc trời mưa, còn bò hễ gặp mưa là phải nằm nhà mất công mất việc.

– Sao bò lại không chịu mưa được?

– Vậy anh không biết là bò sợ mưa à? Vậy mà lúc nào cũng quan điểm nhân dân, quan điểm quần chúng.

Là chỉ tay ra giữa cánh đồng bên phải có mấy cây sộp đứng lơ thơ cô độc, bảo:

– Anh nhớ nhé ! Suối Lộc Thuận ăn ra tới đó. Phía bên kia là Cỏ Ống thuộc xã Lộc Hưng quân Trảng Bàng. Tây Ninh, xứ của bà kiện tướng áo hồng và của bà Bảy Bề cũng kiện tướng áo hồng. Bà này cũng chuyên môn đi thành mua thuốc Tây cho mấy ông Tám Lê, Tư Chuyền, tụi thằng Quỷnh. Chà chà, anh mà gặp bà này thì anh nháy lia thôi.

– Cũng vậy nữa!

(Tuy Là nói chận vậy mà đúng thật. Sau này tôi gặp nàng Bề, một người đẹp.)

Tôi hỏi tiếp:

– Má không quen ai ở ngoài này à?

– Không, Bà con bên ngoại bên nội đều ở bên Bến Cát bên kia sông Sài gòn.

– Rồi sao sang bên này?

– Em không hiểu. Hỗm rày má đi về thăm bà con bên đó. Má đang ở nhà dì Ba… hí hí…

Đang nói bỗng Là bụm miệng cười.

– Cười gì anh vậy?

– Không, em cười ông Ba Xu.

– Ổng làm gì mà em cười.

– Em cười Dì Ba khi không mà được làm bà Tư lệnh Quân khu.

– Sao vậy?

– Thì ông Ba Xu mết dỉ chớ sao!

– Nói bậy đi. Đồn tầm bậy rồi có dư luận, ổng bị kỷ luật không làm việc được. Nghe ai nói, em phải cúp ngay.

Là vẫn lặng thinh, đi nhanh. Hai đứa vừa đi vừa nói chuyện. Ai không biết, tưởng là vợ chồng. Vùng này vườn tược còn xanh. Mít, ổi, vú sữa sai oằn. Chỉ vài dấu đạn rãi rác trên thân cây cau cây dừa. Bên đường, một ngôi nhà lá xập xệ trong đó có bàn ghế. Là bảo tôi vào nghỉ chân. Đây là trường học. Nền đất đã mọc rong và mặt bàn đã lên meo. Xung quanh khu rừng chồi phía sau có một đoạn giao thông hào sâu tới bụng. Có nơi đất sụp lấp lại gần đầy trên mặt.

Là bảo với giọng bất mãn:

– Ông thầy giáo vô ấp chiến lược rồi. Hở là họ chạy ra đó. Mà nếu ở đây cũng chẳng có học trò đâu mà dạy. Ba bốn cái trường nữa cũng y như vậy. Anh thấy con Rớt đó không? Mới bây lớn mà cho đi học rủi có đổ chụp, bố ráp thì thầy giáo làm sao mà cõng cho hết.

– Anh nghe nói Bàn Sõi, vậy nó đâu?

– Kia kìa. Cũng là địa hạt Đồng Lớn đó thôi, nhưng ở rìa Đồng Lớn về phía xóm Tầm Lanh có một cái bàn và ven bàn có nhiều đá sõi nên gọi là Bàn Sõi. Vùng này còn xanh tươi hơn miệt Hố Bò mình. Nhưng em đoán là chỉ nay mai thôi, nó cũng sẽ như Hố Bò. Ở đây chỉ cách bót Trung Hòa đường chim bay bốn cây số thôi, nếu không có vườn cây che khuất thì mình sẽ nhìn thấy cái chuồng cu của nó.

– Còn Đồng Dù?

– Đồng Dù ở phía dưới này, cách nhà mình chừng sáu cây số là cùng. Anh thấy chỗ trực thăng lên xuống là Đồng Dù đó. Cối cũng dư sức bắn tới đây mà. Cần gì đến pháo.

Tôi đứng trên vùng đất này nhìn bốn phía thấy đất khô dễ dàng di chuyển pháo. Có thể dùng xe trâu xe bò, không khổ sở như ở Trường Sơn. Bắn thì dễ rồi, nhưng bắn xong chôn giấu pháo ở đâu cho kịp? Chúng nó phản pháo chỉ trong vòng nửa phút. Và phản công bằng bộ binh trực thăng vận thì mười phút là cùng. Vườn ở đây mỏng và sạch sẽ. Chúng nó chỉ cần chấm tọa độ rồi đổ quân lục soát là tìm ra vũ khí của mình ngay. Tôi ngồi hút thuốc mà suy nghĩ miên man.

– Anh mơ cô nào vậy?

– Cô Hòa. Nhưng anh chán cô Hòa rồi.

– Nữ… a! Hòa nào?

– Anh mơ cô Đồng Dù !

Là cười khoe hai hàm răng trắng đều. Là cũng có duyên. Chỉ phải cái tánh bộp chộp và xốc nỗi như trẻ con. Là đến ngồi gần tôi:

– Anh làm sao oánh cho tiêu cái Đồng Dù thì mình mới sống được.

– Ừ để coi.

– Nếu không thì anh cũng phải quét thằng Trung Hòa. Để nó cứ đâm hông mình hoài khó làm ăn quá !

Nàng hỏi nhỏ.

– Anh cho ông ầm xuống đây em giấu cho.

– Ừ để xem đã !

Tội nghiệp cô bé mộc mạc ngây thơ này và các nường dũng sĩ. Các cô tưởng pháo bắn dễ lắm. Học sói đầu chưa biết có hiểu nỗi cái binh chủng pháo này chưa. Các cô mới đánh dăm trận làm rụng vài cái lông chân thằng Mỹ thì đã tưởng diệt được nó dễ dàng. Bởi thế bọn Hà Nội mới lợi dụng sự ngây ngô này mà đốt đít các cô các chú thừa thắng xông lên, chết bi nhiêu bi, miễn sao mấy thằng Trung ương cơm gà cá gỏi đều đều, Volga chạy tét mắt, vợ bé tì tì, miễn sao con cháu của họ đứa đi Đông Đức đứa đi Tiệp Khắc thì được rồi. Chồng cô Lụa, cô Tư Mai, và bao nhiêu thanh niên khác bỏ vợ con, ra đi biền biệt Phước Long, Bình Long không thấy về bởi họ tin rằng Trung ương yêu mến họ lắm lắm.

Tôi sắp châm điếu Capstan khác thì Là giục đi. Đi mút xóm Sa Nhỏ thì đụng một ngôi nhà đứng giữa vườn cau tơ. Đó là quán của Chín Khuân, con gái của Dì Hai tổ trưởng xe bò Sa Nhỏ chuyên môn tải gạo cho Hậu Cần R. (Tụi này hễ đi tới đâu là tổ chức người tới đó để nắm cổ họng không cho nhúc nhích) . Tuổi độ ngoài bốn mươi, Dì Hai người cao lớn tốt tướng quân sự hơn bà Ba Định nhưng chỉ làm chỉ huy trưởng mấy chiếc xe bò, Chín Khuân chừng mười sáu tuổi nhưng cao lớn như gái hai mươi. Đêm đêm tổ vận tải của dì hoạt động không nghỉ. Xe của dì đi đầu kế đó là một đoàn năm, sáu chiếc nối theo. Hai bên vài anh giải phóng vác súng đi theo hộ tống. Chúng sợ ăn cướp hay sợ máy bay? Chính chúng là một lũ ăn cướp còn sợ ăn cướp nào nữa. Còn nếu máy bay đến thì ba cây súng này bảo vệ được đoàn xe, hay chờ cho bò bị đạn rồi nhào tới xẻ ? Ghé vào quán Dì Hai, tôi mua đủ thứ. Như để trả thù những ngày mua phiếu ở ngoài Bắc. Cái quán cóc bị đe dọa hằng ngày mà mua gì có nấy. Chỉ thiếu máy bay tàu lặn là không có thôi.

Chín Khuân thấy Là cầm không hết bèn tìm cho một chiếc giỏ xách để đựng. Thoạt nghe radio nói oang oang, tôi lắng tai nghe. Thì ra đài giải phóng. Là cũng lắng tai một chút rồi nhăn mặt:

– Cũng ba cái US gô hôm nữa. Phát lúc này ai rảnh mà nghe. .

– Mấy ông bà trong Sài gòn đang uống cà phê buổi trưa nghe chớ !

– Uống cà phê thì phải nghe cải lương Minh Vương Lệ Thủy chớ nghe cái đó, uống mắc cổ chết.

Chín Khuân khịa vào hỏi Là. .

– Bộ miểng cà nông sao mắc cổ. Ông này ở đâu mới tới, coi bộ lạ hả chị Là ?

– Anh Hai tôi đó.

Tôi mua hai chai nước cam uống nước cho mát bụng, hút hết một điếu thuốc mới rời quán.

Ra đến đường, Là hất hàm:

– Coi được không?

– Cái gì được không?

– Con nhỏ mới lớn, anh kêu dì Hai bằng má không xứng đâu.

– Lúc nào em cũng coi anh là hạm đội cả.

Là cười hả hả .

– Anh vô nhà này vừa bán quán vừa đánh xe bò làm nhân viên của ông Bảy Hốt ở Xóm Dược được đó

– Ổng còn ở đó không?

– Đặng anh đến mua bình toong của bà Sáu Tiệm hả? Ổng nhảy qua Thanh An rồi. Bỏ bà Sáu lại đó còn trống chân, ủa, mà không phải, có một ông mùa thu khác trám vô rồi.

Đi hết xóm Sa Nhỏ chúng tôi đi vòng sang phía sở cao su Sinna, một hồi thì đụng con lộ đá ong đỏ chạch. Mỗi cơn gió qua làm dấy lên một ít bụi hồng. Đứng xa nhìn màu hồng đẹp mà xông đó thì hôi hám dơ dáy quá chừng. Mặt mũi quần áo đều đẫm bụi. Là kéo tay tôi đứng nép vào một gốc me, trỏ tay về phía bót Trung Hòa:

– Anh nhìn kỹ thì thấy lính ngồi trên chòi gác.

Tôi núp vào bụi lấy ống dòm ra nhìn thì độ chừng khoảng cách là bốn cây số.

– Gì mà sợ vậy anh ! Tụi em cứ đi nhan nhản như thường.

Tôi bảo:

– Mình thấy nó là nó thấy mình. Cũng có thể nó thấy mình rõ hơn mình thấy nó .

– Sao vậy?

– Vì nó có ống dòm, còn em không có .

– Pháo 105 của Trung Hòa bắn tới Bùng Binh, nhưng chỉ khi nào có trực thăng đổ chụp, pháo mới bắn dọn bãi. Còn súng cối nó chỉ thụt tới Ba Sòng, Gò Nổi, Tầm Lang, Bàu Sỏi hay Ràng, Trung Hưng.

Là vừa nói vừa chỉ tay các xóm trước mặt.

Nhìn thấy những người lom khom dưới ruộng thấp, kẻ cuốc người cày. Tôi hỏi:

– Đó là dân trong xóm này hả em?

– Họ gốc ở trong này, nhưng gần đây chạy ra ấp chiến lược Trung Hòa, Lào Táo, ban ngày về làm ruộng, ban đêm ngủ ở ngoải.

– Dân mình khổ quá. Ở ngoài kia thì bị cải cách ruộng đất ở trong này thì bị chiến tranh.

– Anh đem ông ầm, ký ở đây nã vào bót đó được không?

– Được chớ.

– Đó là bót lớn nhất ở vùng này. Nó có nhà việc cho hội tề các xã làm việc. Dân trong này ra, xã nào tìm hội tề xã nấy. Đến đó xin giấy tờ, xin tôn làm nhà, xin gì cũng được. Nó còn phát cho đài để bắt tin tức.

– Radio mà cho không à?

– Radio một làn sóng chỉ bắt được đài Sài gòn thôi. Nhưng bà con chê, không lấy, để đi mua Sony, Hitachi bắt được cả BBC và VOA.

(Vậy ta giải phóng Miền Nam làm cái gì?)

Đi một quãng nữa, Là bảo:

– Đây là xóm Trại Giàn Bầu. Có lẽ ở đây trồng nhiều bầu bí, nhà nào cũng có một giàn trước hoặc sau nhà.

Đi qua những lô cao su, tôi thấy tiếc vô cùng. Nhớ thằng giáo sư Liên Xô nó rươm rướm nước mắt hôm nó từ giã Củ Chi: “Các đồng chí phá cao su như thế này uổng quá . Nước tôi không trồng được”. Uổng con mẹ gì giáo sư ơi ? Bác Hồ không biết cả quý trọng con người. (Ông không thấy thanh niên phơi xác trắng Trường Sơn đó sao?) Cây cỏ thì sá gì? Đốn lớp này Bác trồng lớp khác. Có điều là chẳng ai thèm trồng, vì trồng xong Bác lại chặt phá. Là bảo tôi:

– Hồi sáng tới giờ anh em mình đi thành vòng chữ O. Bây giờ đi thẳng đường này vô Bàu Đứng.

– Anh biết rồi. Huỳnh Nga có chỉ cho anh.

– Anh đi với con nhỏ đó hồi nào?

– Thì hôm bữa anh vô bệnh xá ông Tư Chuyền rồi em vô kêu anh đi luôn Bò Cạp chớ hồi nào!

– Anh đi một mình với nó à?

– Thì cũng đi như đi với em bây giờ chớ mấy mình.

– Hứ! Đi với nó là khác, đi với em là khác chớ sao như đi với em được.

– Ừ, thì khác !

– Con nhỏ đó là con quỉ. Đừng có thấy nó làm bộ con nít mà tưởng nó hổng biết gì.

– Anh có nói nó hổng biết gì đâu ?

Là quay mặt nhìn tôi và dừng lại.

– Hả ? . . . Bộ . . . bộ anh mê nó rồi hả ?

– Anh không mê ai hết, ai có mê anh thì mê !

– Cả xóm Hố Bò đều biết nó léng phéng với thằng cha Tám Lê y sĩ. Mụ Thắm vợ thằng chả ghen bỏ ăn bỏ uống, ốm xanh ốm xao như con mắm trở. Em thấy mòi cả hai con yêu tinh đó chíp anh rồi. Một ngày vô hai lần tìm anh. Trưa vô chiều vô. Làm bộ công tác dân vận. Ai cầu mà tới dân vận tôi? Em bắt thóp tụi nó mà.

– Còn ai bắt thóp em?

Là bật cười:

– Em hổng có thóp thép gì hết.

– Để anh nói cái thóp của em cho em nghe.

– Thôi đi em không muốn nghe.

Đến ngả ba Bàu Đứng, Là bảo:

– Hồi 62 ở đây có cái trường học. Xóm này vui lắm. Bây giờ tản lạc hết.

– Từ đây có đường về Hố Bò không?

– Có chớ! Vùng này chỗ nào em cũng lội tới. Bây giờ còn ghé một chặng nữa rồi về nhà. Em phải tìm cho được thằng Tư Ếch và con Út Nào. Hai đứa đều là kiện tướng đào hầm cả . Em bắt tụi nó ngay. Nếu không, làm xong ruộng, tụi nó sẽ ra ấp chiến lược Trung Hoà, trời kêu không về !

Tôi kêu mỏi chân. Là bảo ngồi nghỉ, để một mình nàng vô nhà kiếm Tư ếch. Một lát trở ra, nàng bảo Tư Ếch không có ở nhà Vừa quay ra thì gặp Út Nào.

Út Nào đon đả hỏi:

– Đi đâu đây ta? Lại hầm với hố phải không?

– Lần này thì hầm to mày ơi.

– Ai vậy?

– Anh Hai tao ở R mới về .

Người con gái nguýt ngang cười, che miệng rồi quay sang tôi giọng dí dỏm:

– Chào anh Hai ! Thôi mời anh chị vô nhà .

Là càu nhàu và đấm lưng bạn:

– Tao đã nói là anh Hai tao mà mày hổng tin thật hả con quỉ?

– Ái uôi da! Mày đấm tróc phổi tao! Tin chớ sao hổng tin. Đào hầm gì nữa đây ông nội?

– Ông Ếch lặn ở đâu?

– Ổng đi lò rèn gần bìa sở Đất Thịt lấy cái lưỡi hái về cắt cỏ cho bò ăn.

– Hỗôm rày xe có hoạt động không?

– Tổ của dì Năm sắp rã rồi.

– Sao rã vậy.

– Ông Bảy Hốt trả tiền thấp quá. Ba chủ xe đã vô ấp chiến lược Cầu Ván rồi. Còn một chủ thì bò bị chặt chân. Còn lại một mình dì Năm. ..Ối mà thôi, .nhiều chuyện lẹo tẹo lắm.

– Vận tải gạo thì ông Bảy ổng trả tiền, nếu thấp thì đòi thêm. Cách mạng thì phải hi sinh mỗi người một chút, tiền đâu có nhiều mà trả nhiều như thời trước.

– Thôi đi bà nội. Bà lập trường cao thì đi xe vài chuyến thử coi. Ngồi xe chai đít, lại còn bom pháo dội trên đầu, trả một đêm hai trăm, coi được không? Nhưng cũng không phải chuyện đó mà tổ xe bò rã đâu.

– Vậy chuyện gì nữa.

– Mày hỏi con Chín Khuân, nó nói cho nghe.

– Thôi thôi tao biết rồi. Xếp nào lính nấy. Bữa nào rảnh mình xốc một bữa lo xong cái hầm cho…

Là kề tai nói nhỏ. :

-Được không?

– Hổng được đâu. Vùng này nhiều người ra ấp chiến lược dữ lắm. Họ nói tùm lum ra tụi Trung Hoà biết nó gởi đạn vô đây cũng đủ tiêu rồi. Lại nữa đang lúc mùa mưa, ai lại đi đào hầm?

– Khẩn cấp mà mậy !

– Hễ công tác thì cái nào ở trên cũng khẩn cấp. Ông Trâu ở nhà bán quán cũng khẩn cấp như thường.

– Nói vậy rồi mày không tiếp tao một tay à cô kiện tướng.

– Tiếp thì tiếp nhưng phải có ông Ếch chớ hai đứa mình làm sao thấu. Mày cụp xương sống rồi, bây giờ đâu có kéo đất nổi nữa.

Là bàn bạc với bạn một lúc rồi về. Ra đường, nàng sừng sộ với tôi:

– Anh thấy không? Ở trên đổ xuống cho em. Cái gì cũng em hết. Nhưng em đâu có chỉ huy được ai?

– Nhưng tại sao ở trên bắt em phải đào hầm cho ông Tư Lịnh?

Là cười khúc khích:

– Vụ này cũng tại Dì Ba.

– Dì Ba nào?

– Dì Ba Tư lịnh quân khu.

Tôi ngớ ra một lúc rồi nhớ ra. Là nói tiếp:

– Các ông lớn đều như thế cả . Có ông nào thiếu bà nhỏ đâu. Ông Ba Xu ở với Dì Ba lâu rồi.

– Sao em biết rõ vậy.

– Mấy đứa cháu trong nhà nó bắt gặp ổng bả nằm dưới hầm ló hai cặp chân ra.

Tôi lặng người ra, không nói gì được. Là búa thêm:

– Em thấy chỉ có mình anh là đàng hoàng thôi đó. Bởi vậy nên em thương anh!

Một chập Là tiếp:

– Dì Ba nói em làm xã đội bên này. Ổng bảo: hiện giờ đồng chí cũng không dám tin. Nay đồng chí mai chiêu hồi. Nó về khui hầm bỏ mẹ. Chỉ có bà con, cha mẹ không phản mình thôi. Do đó ổng bảo em tìm hầm cho ổng.

Đó là một chân lý mới trong gian khổ chết chóc ở Củ Chi. Là tiếp:

– Ổng có nói với Dì Ba cái vụ Hai Tốt ôm cả chục triệu bạc ra Sài gòn nữa. Dì Ba phải bỏ tiền ra cho ổng nuôi cơ quan. Làm bà Tư lịnh để nay mai sạt nghiệp cho coi.

Cái chân lý của ông Ba Xu nêu ra có khi đúng. Cô xã đội phó Là có thể chiêu hồi trở về chỉ hầm của ông Tư lệnh Quân khu nhưng mà cháu Là không thể chỉ hầm bắt Dượng Ba mình. Chân lý đã rõ ràng, Cộng sản còn tìm đâu cho mệt. Sách vở nào hơn. Dượng cháu là quốc gia. Đồng chí là quốc tế . Cái quốc nào cao hơn đáng tin cậy hơn?

Đến lúc mặt trời xuống thấp ngang ngọn Rừng Chồi, Là mới rẽ vào rừng. Nàng cho tôi xem một cái hầm cũ và hỏi:

– Anh còn nhớ cái hầm này không?

– Có chớ. Nay cũ quá rồi. Làm sao ở được.

– Hổng sao đâu. Các ổng bắt đào vậy thôi chớ không bao giờ xuống.

(Chẳng ngờ Là đoán sai. Về sau bị đuổi nột quá Ba Xu phải chui xuống hầm. Rủi thay bị Mỹ trên đầu. Chính Là phải vượt qua sông Sài gòn kêu tôi đem quân về nhử cho Mỹ ra khỏi chốt. Thầy Xu Ba Đình bò lên được ngất ngư. Chuyện này tôi sẽ kể sau.)

Trời chiều mát mẻ, lá rừng lao xao. Là kêu:

– Em mỏi chân quá trời.

– Ngồi nghỉ một lát rồi về.

– Em đi hết nổi rồi.

Tôi móc tấm ni lông trong lưng ra trải xuống đất. Là để cái giỏ xách đầy những hàng hóa mua ở quán Dì Hai. Nàng lấy bánh in ra đưa cho tôi. Chúng tôi ăn và uống nước chung một bi đông. Là rủ tóc, lau mồ hôi, thấm một ít nước trong bi đông vào chiếc khăn nhỏ lau mặt. Bỗng nàng nhìn tôi:

– Em sượng quá trời.

– Ai làm gì mà sượng?

-Đứa nào gặp anh cũng tưởng anh là…

– Gì… của em phải không?

– Dượng chớ không phải là dì.

Rồi Là kề mặt nàng sát mặt tôi, nghiến răng nói.

– Em móc mắt anh mới được!

– Em không cho anh lấy cự ly bắn pháo à?

– Em cho anh bắn pháo nhưng không cho nhìn ai hết.

– Nhìn có chết ai đâu mà em làm dữ vậy.

-Trong cái nhìn còn có cái khác nữa chớ phải nhìn suông thôi sao?

– Cái khác là cái gì?

– Em ghét con Nhã Nam nói bóng nói gió… ơ gặp lại anh sau. Sau là chừng nào? không có gặp gì nữa hết.

Là nói như có Nhã Nam trước mặt.

– Con nhỏ Bắc kỳ lại nói láo tổ bà . Chín Nhan mà tưng lên làm kiện tướng hứ! Rồi hai chị em con nhỏ Năm Biên nữa. Làm gì mà nhìn anh dữ vậy, như muốn hốt hồn người ta ấy. Bộ hồi đó tới giờ không gặp Mùa Thu sao? Rồi đến cái con Út Nào nữa.

– Em nghi tất cả mọi người.

– Ừ, đúng đó . Em dè gặp nhiều đứa như vậy thì em nhốt anh ở nhà đóng cửa hầm luôn, không cho đi một bước.

Rồi nàng ngã lên ngực tôi, rủ rỉ:

– Anh biết chị Lụa cũng thương anh không?

– Tầm bậy nào!

Tôi quát khẽ và muốn quay ra nhưng nàng càng giữ riết.

– Em thấy mà .

– Thấy gì?

– Em thấy hồi sáng chỉ nhìn theo anh đi.

– Nhìn thì sao? Con Rớt cũng nhìn vậy.

– Trong cái nhìn có cái khác.

– Nói bậy, cái miệng cứ lãi nhãi không để kéo da non.

– Em còn thấy chuyện khác nữa.

– Chuyện gì?

– Em thấy chị Lụa giặt quần áo anh. Chỉ vò thiệt lâu. Xong rồi chỉ đem phơi, chỉ căng ra thật kỹ. Khi quần áo khô chỉ lấy vô chỉ xếp rồi chỉ đưa lên mũi chỉ hít hít hai ba lần.

Tôi biết Là nói đúng, nhưng tôi gạt ngang:

– Đó là tình cảm của một người em đối với người anh cả trong gia đình thôi.

Là càng dựa hẳn vào tôi ôm chằm lấy tôi là như nàng là… của tôi vậy. Tội cố tránh né, nhưng da thịt con gái quá ư hấp dẫn. Tôi chỉ có thể ngăn tôi một cách ất vả trước những chuyện Là đòi hỏi. Nàng lục túi áo và ví của tôi lôi ra những chứng minh thư nhân dân tôi mua và thằng Hùng tặng ở Xóm Giữa. Nàng vứt tung và nói trong hơi thở dồn dập:

– Em không sợ có con với anh. Em muốn có con với anh.

– Anh có vợ rồi.

Là như không nghe, nàng cứ trườn lên người tôi và làm mọi cử chỉ táo bạo rồi hỏi:

– Anh muốn con trai hay con gái đầu lòng?

– Khoan! Để chờ cưới hỏi đã, em!

Chương 37 Hội ve chai chống Mỹ: Hai ngày ba tiệc lớn.

Tôi vừa bước vào sân thì thằng Lũy, con Lượm, con của chị Tám chạy ra kêu:

– Gớt ơi Gớt! ! Cậu Hai mày về kìa !

Thằng Lũy nói:

– Tao thấy trước.

Con Lượm cãi lại.

– Tao thấy trước mày.

Bé Rớt chạy vấp ngạch cửa té, nhưng không khóc lồm cồm đứng dậy chạy nhào ra ôm lấy tôi và khóc mùi làm như tôi đi vắng lâu lắm. Là lững thững theo sau với cái xách hàng, với vẻ mệt mỏi và chán nản. Nàng nạt con Rớt:

– Làm gì dữ vậy hả?

Tôi giơ tay lấy chiếc giỏ, lấy bánh kẹo ra phân phát cho đám trẻ. Lụa đứng trong cửa nói vọng ra:

– Rớt để cậu Hai vô nhà con!

Tôi bế bé vào. Thấy cái radio trên vai tôi, Lụa hỏi. Tôi thuật lại chuyện gặp dượng Chín Nữa . Ổng chê cái radio cồng kềnh, nên cho tôi. Kỳ tới sẽ bảo vợ mua cái khác. Bé Rớt cầm bánh kẹo nhưng không ăn. Nó vừa quệt nước mắt vừa nói lia lia:

– Ở nhà có người đi kiếm cậu, một ông có một mắt, còn ông kia đầu bạc. Hai ông chờ.

– Chờ lâu chưa?

– Chờ hồi còn nắng. Vừa mới đi.

Con Lượm đáp. Lụa bảo:

– Một Sơn và Út Tiêu chớ ai ! Mấy ông dưới Gót Chàng nghe anh về cho người lên đón.

Vừa đến đó thì hai người lót tót vào. Là nạt ngay:

– Đây xuống đó ảnh đi lấy không được sao mà phải rước?

Một Sơn nói:

– Bà nội không biết chuyện nhà binh, đừng có xía vô !

– Nhà binh thì nhà chớ. Ảnh mới về, ảnh ở nhà chờ má tôi gặp mặt rồi đi đâu mới đi. Anh đi đánh giặc mấy chục năm rồi không phải mới đi. Mấy ông không coi tình mẫu tử ra cái gì hết sao lại lập Hội Mẹ Chiến sĩ làm gì? – Là quen mặt mấy người này nên nói càn ngang – Mấy ông làm quá đáng, tôi giấu đồ đạc của ảnh hết cho ảnh đi mình không.

Tôi không nói gì, bảo Lụa nấu nước châm trà. Và tôi rút gói Capstan ra mời khách. Vừa rót trà thì một ông khác tới. Một Sơn giới thiệu là Chín Tiền, người ốm ốm, mặt thỏn, dân mùa Đông được rút vào, làm trợ lý Ban Cán bộ. Chín Tiền xoa xoa tay nói:

– Thưa anh, ở trên nghe nói U80 gởi người xuống đây khẩn cấp, nên cho tôi ra trạm đón. May quá, gặp anh vừa tới.

– Tôi tới hôm qua nhưng nhân dịp chờ giao liên, tôi đi với cô xã đội phó một vòng xem thực địa và giúp cô ấy mấy ý kiến bố phòng thôn ấp.

Chín Tiền nói:

– Dạ, anh Tám Quang Trưởng phòng Chánh trị Quân khu đã nhận được điện trên R báo cách đây một tuần rồi. Anh Tám chưa thấy anh xuống thì rất sốt ruột định cho người đi đón khúc trên Trảng Cỏ. Anh Tám dặn anh Bảy Tùng cho người ra hờ sẵn ở đây hễ anh đến thì rước về liền để mười giờ sáng mai anh làm việc với anh Tám.

Là nói ngang ngang:

– Đây đó đạp xe chỉ một tiếng, còn cuốc bộ thì hai tiếng. Tôi đã nhờ anh Tư Thêu qua Bến Chùa rước má tôi chắc cũng sắp về tới. Để anh tôi ở lại một đêm cho má con gặp nhau hổng được sao? Có gì quan trọng dữ lắm sao anh Chín?

– Gì thì tôi không biết chớ tình hình này căng lắm. Bên anh Chín Lộc cho hay, tụi Sâu Rọm đã câu vô Đồng Dù năm khẩu 155 và 175.

Lụa biết tâm lý mấy ông cán hễ gặp là nhậu, nên không năn nỉ thêm Chín Tiền mà cứ tự nhiên bày tiệc ra và mời mọi người. Lụa còn bảo Một Sơn mời chú Tư Thiên qua chứng đám nữa. Chú Tư đi ba đồng bảy đổi về nhà hồi xế. Vừa bước tới cửa chú đã nói:

– Rượu chưa đi hết mùi lại rượu tới.

Tôi ngồi tránh qua một bên dành chỗ cho chú.

– Hai ngày ba tiệc phải không chú? Không cần mồi nhiều có ba cái nước cay là đủ rồi.

Chú Tư cười khè khè :

– Nuốt ba cái thứ đó vô rồi, cà-nông nổ bên hè cũng không chạy.

Chín Tiền hít vô rồi, nhưng làm bộ than:

– Chà, kiểu này thì khuya mới đi được đó anh Hai.

– Khuya mấy tôi cũng đi!

Vừa nói tôi liếc mắt nhìn Là đứng ở gốc cột. Là hỏi ngay:

– Bên nhà chú còn cây dầu vuông nào không chú Tư, cho cháu mượn đỡ đi. Anh Chín bắt gắt quá chắc anh Hai cháu không nán lại chờ má cháu về được. Bữa tiệc này coi như bữa tiệc tiễn chân anh cháu.

Chú Tư đáp ứng ngay:

– Đứa nào giỏi giò vọt qua nhà tao lấy luôn một cây với một xị đem qua đây mình đánh úp luôn. Để dành đến mai biết có còn sống mà uống hay không? Leo lên bàn thờ rồi, ai có rót ngự tửu vua ban mình cũng đâu có uống được.

Đốn ngã mấy cây của chú Tư, Chín Tiền nằm tại mâm. Một Sơn ôm gốc cột cho chó ăn chè. Chú Tư đi ba xí ba tú về nhà, vừa đi vừa nói thơ Lục Vân Tiên, coi pháo Đồng Dù Trung Hoà Bến Cát chẳng ra cái dem nào.

Tôi định đi nghỉ cho khỏe để ngày mai áo mão vào chầu thì bốn trự nữa kéo tới. Toàn là học trò pháo vừa mới vừa cũ của tôi. Ba Tố, Năm Đừng, Hai Chi, Út Lộc. Trường pháo vừa bãi khóa, họ về địa phương hoạt động bằng AK, CKC chớ pháo tép cũng không có, lấy gì mà hoạt động. Mỗi người mang một cái radio, Năm Đừng và Hai Chi mỗi người xách một con gà. Radio thì hát, gà thì kêu rùm trời. Lụa quát.

– Vặn nhô lại để nghe tiếng pháo đề pa các chú ơi !

– Đề pa đề bốn gì mặc kệ. Cải lương Sài gòn buổi tối nghe mùi rệu, bỏ uổng.

Ba Tố vỗ vai, bắt tay tôi, cười hắc hắc, nói như la:

– Nghe thầy về dưới này tôi khoái quá ! Ở đây, người ta chê pháo binh mình mạt cọng. Có thầy về mần vài cú cho thiên hạ lát mắt coi!

Năm Đừng tắt radio máng trên đầu cột rồi nghiêng mặt nhìn vào miệng hầm:

– Có đủ chỗ chứa không?

Tôi nói.

– Dư sức mà . Hổng ấy tôi quay lưng ra. chiu cho !

– Hồi kháng chiến thì thầy đã chịu một phát che đạn cho nhị tẩu Tô Ký và Ba Xu rồi, bây giờ tính làm phát nữa hả.

Hai Chi vừa cởi súng để lên nắp hầm vừa nói:

– Kỳ này thì mình phải đỡ đạn cho thầy. Ông Tố dày cơm dùng làm cửa hầm được lắm. Còn mỏng cơm như tôi đạn

xuyên tuốt.

Là háy:

– Người chớ bộ dừa khô hay sao mà mỏng cơm dày cơm.

Chi chập sau là khói lửa lại mịt trời. Tôi phải chầu ba (Chín Nữa, vừa xong tiệc, bây giờ lại tiếp) có hơi khẳm, nhưng cũng ráng múa để học trò cười. Ba Tố hỏi tôi:

– Bùi Khanh đã tuyên bố với ai chưa thầy?

– Khi tôi sắp đi thì ổng vô bệnh viện rồi. Trường mình tản lạc hết. Sắp sát nhập với trường Trung Sơ (Trường Lục quân của Giải phóng). Tôi kể lại chuyện anh em ăn dưa hấu hụt, ai nấy nghe đều cười lăn.

– Còn bà Mai Khanh đã thành bà Chánh ủy pháo chưa?

– Chuyện đó còn trong vòng bí mật.

– Bí mật cỡ vụ Ái Mỗ không? Nó nổ ra, thầy lại phải đi điều đình.

– Kỳ này nếu sắp nổ thì ổng cho bả đi Sài gòn đánh đặc..công.

Tôi nói với Ba Tố:

– Bữa nay tôi đi một vòng để quan sát địa thế. Bào Cạp, Sa Nhỏ, Bàu Đứng tiêu điều quá. Dân đi gần hết Củ Chi.

– Nó vẫn đó thầy. Không giống hồi thầy về lần trước hụ hợ với Tư Linh trong việc đón tiếp ông nhà báo. Hồi đó tàu chạy từ Dầu Tiếng xuống Bình Dương hàng ngày. Bây giờ chỉ có tụi Giang thuyền thôi. Nó chơi cú độc nghe. Lơ mơ vọt qua sông là bị nó đấy. Cán nhà mình bị rồi. Còn tụi Trung Hòa ỷ có Đồng Dù đã dám bung ra tới Gò Nốc, Tầm Lanh, Ràng, phục kích rượt bắt du kích giữa ban ngày. Còn trên trời thì đầm già khu trục chơi đều đều từ Phú Hòa Đông trở lên Bùng Binh. Vụ pháo kích Biên Hòa coi bộ không đủ làm cho nó bớt đi các vụ oanh tạc.

Ba Tố gặp tôi như được dịp xổ bầu tâm sự, nên tuôn thêm:

– Ông đầu hói Năm Thủ bị ông Năm Lê nạo sát ván, đi đâu không dám ngó mặt ai, cái Ban Dân Quân của ông già Sáu Nâu và Năm Cai có làm rụng lông thằng Mỹ nào, nhưng nhờ ba cái hầm chông ẩu, địa đạo láo, lựu đạn gài suông cựa mà báo cáo được một số thành tít, nên không đến nổi gục mặt dọc đường 15 chứ cái H6 của mình lâu nay mọc rễ ở Bến Mương bị coi là đơn vị co cụm số 1 Quân khu.

– Chớ mấy ông mình ở đâu?

– Ông Sáu Phấn thì tối tối đạp xe về nhà vợ, còn Hai Giả thì ăn dầm nằm dề ở nhà bà Má Mười vì con dâu của bả mới góa chồng. Vậy đó. Đại đội phòng không 12/8 của tôichui kỹ chớ dám ló ra bắn máy bay à? Muốn bắn một chiếc máy bay phải có pháo yểm trợ dập tụi Trung Hòa và Đồng Dù, thì mới dám khai hỏa, chứ nếu để nó rảnh tay thì nó nện mình tan tành xí quách ngay. Tụi này bắn ác hơn bất cứ tụi nào từ trước tới nay. Du kích Bến Mương nổ có một phát vào chiếc trực thăng bay qua mà nó gởi một trăm trái pháo.

– Sao ông biết một trăm?

– Thì dân họ đếm từng lỗ pháo, tính hết mọi thiệt hại để thưa xã ủy tụi du kích…

– Ê, ông đừng có kêu tụi này tụi nọ nghe, mai mốt có chuyện cần đừng có kêu.

Thấy cô xã đội sân si, tôi quắc mắt:

– Anh Ba nói sự thực để rút kinh nghiệm nội bộ em à. Làm người lãnh đạo, em cũng nên lắng nghe nhân dân phản ảnh chớ. Đây là những người có 15-20 năm cầm súng không mà!

Tôi vụt nhớ và kêu lên:

– Tôi quên cho bồ nhà pháo mình hay. Một ông thượng tá su hào mới được đưa vào làm phó tư lệnh bên cạnh ông Hai Nhã và Tư Khanh.

Ba Tố nói:

– Bọn Nam kỳ mình bao giờ cũng đóng vai trò dọn ổ sẵn cho người ta đẻ. Mấy năm trước dân mình lót đường. Năm nay đường suông tụi nó mang lon mang gáo vô ào ào. Mấy ông không nhớ hồi ở ngoài F330 à . Một thằng su hào trẻ măng hai sao hai gạch đại diện Bộ Tổng vào truyền lệnh gì đó. Ông Hai Nhã nhà mình hồi đó là Hai Nho tóc bạc tuổi đáng bố nó lại phải đến chào nó cái cụp và nhận lịnh cái rụp.

– Thì nhà binh phải vậy chớ kêu cái gì.

Ba Tố hăng hái hầm hàm hậm hực xổ nguyên ra phang:

– Thì phải thế rồi. Nhưng coi chướng mắt quá. Nó là trung tá hồi nào? Còn ông Hai Nho quần với Tây chín năm mới lãnh lon Trung tá? Đây rồi khi cách mạng thành công Bắc kỳ sẽ ngồi hết các ghế từ Thủ Tướng cho tới tổ trưởng Hợp tác xã không trống cái nào. Còn dân Nam kỳ mình thì càng ngày càng bất mãn càng chưỡi thề càng bỏ về nhà, rốt cuộc thằng còng làm thằng ngay ăn.

Tôi gạt ngang vì sợ mâm rượu trở thành cuộc họp chống Bắc kỳ và chết vì Bắc kỳ . Cũng may, giữa lúc đó có tiếng hò nghêu ngao từ phía nhà chú Tư vọng lại:

Sông Sài gòn vừa trong vừa mát. Đất Hố Bò thơm ngát sầu riêng Ai về tới xóm chú Tư Thiên. Hò xem cô xã đội còn trùm mền đợi ai. . . ơ. .ơ

Bé Rớt chạy ra cửa nhìn rồi vỗ tay reo:

– Chú Tư chăn bò! Chú Tư chăn bò !

Lụa rầy con hỗn. Là ngó ra:

– Bộ chưa ăn cơm chiều hay sao mà hát như bò rống vậy ông thiếu úy đánh xe bò?

– Nè đừng bắt chước con nít hỗn với người lớn nghe ! Dù sao tôi cũng là bạn với ông anh Ha… ai của cô nghe ! Tôi đến đây để cho cô biết bà già không có về được vì giang thuyền hàn ngay khúc Bến Dược.

– Tụi nó ngăn cả bà già sáu mươi nữa hay sao?

– Cô biểu bà Năm Đang đem đạo quân đầu tóc của bả ra mà đánh trâu chí trạnh đòi tụi nó rút về chớ tui hổng mần gì được. Gạo của ông Bảy Hốt mua xong rồi mà còn nằm ỳ đây không chở về bên đó được ! Ủa mà quên chớ ! -Tư Thêu giơ cái cà-ròn lên – Bà Sáu Tiệm (hay Sáu Tĩnh cũng thế) nghe thầy Hai về, bả nhắc lên lấy cái bình toong của bả tặng.

Là trố mắt:

– Thứ bình toong bể, hổng thèm!

– Còn đây là hai kí lươn bông bả gởi cho thầy um sả nước cốt dừa tẩm bổ.

Là phóng tới giật chiếc bao ném ra giữa sân và hét:

– Trả cho bả ? Bộ ở đây không mua nổi ba thứ đó sao?

Tư Thêu cười hắc hắc nhìn tôi nháy mắt. Tôi hiểu ý nói:

– Ông thiếu úy giỡn chơi đó mà ?

Tư Thêu cười:

– Ba trăm đồng lương của tôi tháng này đó bà cô !Tôi mới lãnh xong định gởi về cho mẹ đĩ đang ở cữ, nhưng thấy lươn vàng nên mua xách lên đóng góp nhậu chơi chớ bà sáu đâu có thơm thảo dữ vậy mà cô em nổi tam bành?

Ba Tố xoa tay:

– Vậy ra thằng em mày có một cục để trên đầu trên cổ rồi hả? Bẹp hay ngỏng? Đặt tên gì chưa? Nhớ lớn lên đừng có cho đi tập kết như bố nó nghe. Chết cũng ôm gốc dưa mà chết ở trong này.

Bị Ba Tố dồn một hơi chới với:

– Tên thì tôi đề nghị đặt là Thùa nếu gái . Bố Thêu con Thùa thì vô đề rồi. Còn nếu trai thì đặt là Chui, Phóng, Dông, Sảy… !

Mỗi người góp một câu làm bữa tiệc vui loạn. Ba Tố nói:

– Bữa nay mình thành lập hội Ve Chai Chống Mỹ như hồi ở Sơn Tây được đó ông Thầy.

– Phải ! Nhưng thiếu quán bà Ba Cạo và thiếu tá Phụng!

Tôi kêu lên:

– Tôi gặp ổng ở trên R. Ổng đang đi giải quyết vụ Phùng Văn Mười. Bữa đó, tụi này với Bùi Khanh đi bắn thực tập DKZ ở Bổ Túc. Lính của tôi thấy bầy heo, tưởng là heo rừng. Nó để một phát con heo mẹ nằm ngay chừ. Xách dao tới xẻ thịt thì té ngửa ra. Đó là heo của cơ quan tự túc. Thằng thủ trưởng đến khóc, cái miệng méo xẹo như cái 1…bị bão. Tôi rút tiền ra thường. Thì ông Phụng tới. Hỏi ra cớ sự, ổng bảo: Tụi này cũng thèm thịt bỏ bố. Đem về chia ra nhậu rịu chớ thường bồi cái đếch gì. Thế là thay vì mất tiền lại được bữa thịt no tới cạnh tai.

– Ổng là thủ trưởng cơ đó à?

– Ổng không phải là thủ trướng nhưng ổng cao cấp hơn thằng thủ trưởng.

– Tàng dân Bắc cờ tôi chỉ chấm có thằng cha đó là chơi được thôi !

– Bậy nào! Nói vậy sai chánh sách Nam Bắc một nhà.

– Nình bà con gái Bắc kỳ bỏ cho ai? Há há…

Tiệc rượu lại bùng lên với đề nghị lập Hội Ve Chai chống Mỹ, mỗi người một câu, mỗi kiểu ca ngợi cái tổ chức bán hợp pháp này mà tiền thân nó là Hội Nhậu trường Pháo Sơn Tây gồm những chiến tướng của làng nước ngược và trụ sở đặt tại quán bà Ba Cạo. Tôi hỏi Ba Tố:

– Ông nhớ hồi mãn khóa “I” mình liên hoan ở quán bà Cạo, ông nội nào say rồi vô mùng bả không?

– Nhớ chứ sao không. Bả đâu có la lối gì. Một tiểu đội dzô bả còn không la nữa là một đứa. Hừ hừ! Thời Pháp bả cũng bán quán, bán cả nọ kia với tụi sĩ quan Pháp nữa mà.

Năm Đùng bỗng rót rượu tràn ly cối và chắp tay nói với giọng run run không biết cảm động giả hay thiệt:

– Ông Ngai ông Địa vong hồn Tư Quảnh và Ba Tô Đê sống khôn thác thiêng về phò hộ anh em.

– Hai thằng trưởng phòng leo bàn thờ một lượt không kịp nhắn nhủ gì lại hết với vợ con.

Ba Tố gạt phắc:

– Ê! Hội của mình phải ra điều lệ mới là khi tác chiến không được nói chuyện buồn nghe. Hể nổ là xốc tới không có khóc khóc mếu mếu nghe.

Hai Chí tán thành:

– Ừ đúng! Hội của mình chiến đấu tới gục thôi, không có la áo áo như gà rót.

– Nay mai rồi cũng tới phiên mình thôi.

– Nữa xin các bạn cúng tôi một cặp giò gà nghe !

– Giò gà cạp không đã bằng đùi…

– Ê, đừng khai ra chuyện bê em cu ếch (BMQS) nghe cha. Thằng Chín Tiền nó ghi vô lý lịch bỏ mẹ !

Chín Tiền đã tỉnh dậy ngồi tóp ve bên góc cột, khúm núm:

– Dạ, mấy anh nói vậy chớ em đâu dám ạ !

– Ghi thì ghi nhiều nhiều một chút. Đổ luôn lọ mực Ba-ke (Parker) lên đó cũng được.

– Ê cậu nào có đi đắp đê kể lại chuyện tắm sông nghe chơi ta !

Ba Tố bảo:

– Cậu đi chớ ai nữa.

Út Lộc bảo:

– Tôi đi có một lần, ông đi thường xuyên! Đê vỡ cũng đắp. Đê không vỡ cũng đắp. Đắp đê là phụ, tắm sông mới là chánh, phải không ông Tố.

– Ừ, tắm sông lặn mò cá rô mới đã . Hễ bữa nào mò trúng thì bữa sau bắn pháo đạt 100%.

– Mấy cô nàng cũng thích tắm sông với anh đội miền Nam rữ rội chớ hả . Há há . . .

– Anh đội khỏe ngư… ời lại xinh trai, ba ván liền không bỏa ván lào!

– Xạ giàn ngoài vậy thôi chớ có cậu nào đột nhập vào trong thâm được đâu.

– Thôi dẹp đi ! Nhắc mấy cái chuyện xa vời đó uống rượu gắt cổ lắm. Chuyện hiện giờ mới hay.

– Chuyện bây giờ phải rữ Bem!

– Ông nào có xuống địa đạo chưa?

– Hà hà… Bây giờ tới phiên ông thầy khai pháo hả?

– Cái địa đạo nó ra nàm thao thầy tỏa cho tụi này nghe với để rút kinh ng…ẹm.

Cả mâm rượu cười rần. Là đứng nghe lóm chuyện BM nãy giờ, ra miệng:

– Anh Hai đừng có bị mấy ổng kích nghe chưa?

– Anh Hai không có bị kích thích đâu cô xã đội. – Ba Tố gật gù – hay là . . .

– Chắc ổng bị kích thích nên mới xuống địa đạo đó chớ. Thiệt là hay. Ngoài Bắc thì đi đắp đê, còn trong này thì đi đào địa đạo. Toàn là chữ đê.

Là quát:

– Mấy ông say rồi nói bậy nghe !

– Hổng phải toàn là chữ “đ” à?

Đắp đê đã đời đi đào địa đạo đã đời.

– Ai mà nói cho lợi mấy cái miệng của mấy ông pháo.

– Miệng pháo cũng là miệng sao nói không lợi?

– Thôi thầy Hai kể chuyện xuống địa đạo đi!

– Tôi mới coi hồi chiều chưa có xuống.

– Địa đạo của ai mà thầy coi được, giỏi vậy hả?

– Của cô xã đội chớ còn của ai!

– Nói vậy thầy được cô cho xuống địa….

– Không mới coi thôi!

Cả thiên hạ cười rầm lên. Út Lộc phun cả rượu ra ngoài.

– Há há.. . Thế là thầy biết cái địa đạo của cô xã đội rồi !

– Ừ ừ cổ giữ kín lắm! Không ai biết nổi đâu. Thiên hạ chỉ đoán chừng thôi.

Là gắt yêu:

– Anh Hai ! Bộ anh nói gì với mấy ông trời đó hả ?

– Anh đâu có nói gì đâu.

– Hổng nói sao mấy ổng… cười em?

– Thì anh chỉ nói là em cho anh coi…

– Mới có coi thôi mà, cô xã..ã.. đội! Đừng sợ mất màu.

Tôi nhìn Là:

– Em giỡ ra cho anh coi hồi chiều không có à?

– Anh đòi coi chớ không phải em….

– Ừ thì anh đòi coi rồi em cho… coi chớ sao.

Mọi người cười ngắc ngơ. Bàn tay đập vào vế, vỗ vào mặt ván ly chén nhảy tưng lên. Một chập, im lại. Ba Tố hỏi:

– Thế nà thầy đã thấy cái miệng địa đạo rồi phải không?

– Thấy rõ rồi !

– Nó ra nàm thao thì thầy phải nhớ nghe.

– Nhớ chớ đâu có quên.

– Anh Hai ! Là thét – Em có một cái đó thôi. Lâu nay em giấu biệt. Chỉ mình anh biết thôi. Lần trước anh đòi coi, nhưng rắp quá em không cho coi, lần này mới cho…

– À, vậy ra thầy Hai đòi coi hồi năm ngoái kìa à?

– Ừ, lúc nào ảnh cũng muốn coi cho được mới nghe.

– Vậy mà thầy Hai giấu tụi tôi nghe.

– Chưa có kết quả nói ra làm gì.

– Năm nay thì có kết… ỏa rồi. Hí hí…

Lụa đứng ở bếp nghe ngóng nãy giờ. Nàng bưng dĩa lươn um lên nói:

– Đây là um sả ớt nước cốt dừa ! Mời mấy anh.

Là vẫn còn trả treo với Ba Tố về vụ địa đạo. Lụa quát:

– Đồ khùng. Người ta nói chuyện khác, hiểu không? Ở đó mà cãi giống!

Là cứ cãi giống:

– Anh Hai đòi xem địa đạo thì em cho coi địa đạo chớ chuyện khác nào?

– Thôi, đi xuống múc thêm dĩa lươn um đem lên đây.

Là đang đi xuống bếp, bỗng quay lại:

– Nhưng mà em quên, em chỉ cho ảnh xem cái hầm cá nhân của em chớ đâu có cho cái gì khác.

Ba Tố chụp lấy câu nói:

– Vậy là hay lắm rồi. Cô em cho xem cái… cái cá nhân của cô chớ không cho xem cái của tập thể.

– Em chỉ cho xem thôi chớ ảnh chưa có dùng, anh nghe chưa?

Năm Đùng gật gù:

– Thì mới có xem thôi, chừng nào gặp hoàn cảnh thuận tiện ổng sẽ dùng.

Hai Chí tiếp:

– Từ coi tới dùng mấy hồi.

– Ảnh chê !

– Chê sao?

– Chê là hầm hẹp ngột ngạt, ảnh không thích.

Cả mâm tiệc lại cười ré lên. Lụa đẫy Là đi xuống bếp.

– Đi đi bà ơi ! Người ta nói lóng mà cứ rống lên cãi !

– Lóng gì?

Tôi bảo:

– Để bữa nào anh nói cho nghe cô xã !

Ba Tố nói:

-Thôi dẹp địa đạo đi nghe thầy Pháo. Bây giờ xoay qua Hội Ve Chai chống Mỹ của mình. Chiến đấu cho đúng luật. Không được chạy làng. Bỏ trận địa thình lình phải phạt.

– Phạt cách nào?

– Uống ba cống một phát.

– Chưa ngon! Uống bằng lỗ mũi! Để trong bình toong mà trút!

Tiếng nói của ai từ ngoài của vọng vào.

– Không được ! làm như vậy mất sức khỏe…

À ! ông bác sĩ nhảy phóng Tư Chuyền với một bầy ết coọc: hai cô Nga, thằng Quỹnh, thằng Bốn. Năm Đùng tuyên bố:

– Đi đến trễ phải phạt.

Tư Chuyền cười:

– Phạt gì thì phạt! Sợ gì!

– Hổng sợ thì tui cho ông phải sợ !

Năm Đùng và út Lộc nhảy xuống ôm đè Tư Chuyền, đầu ngửa trên cạnh ván. Hai Chi đè chân. Ba Tố lấy bình toong rút nút đổ vô miệng. Tư Chuyền nuốt ực hai ba cái rồi sặc phun tứ tung. Y quặc đầu qua một bên làm rượu tràn ra ngoài ván. Ba Tố chìa bình toong cho tôi bảo:

– Thầy Hai đổ dùm. Tôi kềm cái đầu y.

Tôi cầm bình toong:

– Thằng chả chết, ai săn sóc thương binh?

– Thằng chả sống thằng chả cũng không săn sóc được vì hổng có thuốc men. .

– Làm như vậy thằng chả thù, nay mai bọn mình bị trặc tay trầy chân sơ sơ, vô bệnh xá thằng chả cưa bỏ mẹ!

Mấy người nghe tôi nói cười ồ và thả ông bác sĩ ra. Tư Chuyền ngồi dậy, nước mắt nước mũi ròng ròng, tóc tai xơ xài, vừa quệt lia vừa ho:

– Các cha chơi ác hơn tụi ma-rốc hồi kháng chiến.

– Tha vụ này, còn phạt vụ khác. .

– Ừ, phạt đi.

– Ông phải nộp hailít đế.

Tư Chuyền cười khảy:

– Đế tui không có. Tui thế rượu cồn 90 chữ được không?

– Rượu cồn là rượu gì? Rượu 1… hay rượu cồn? Cồn nào Cồn Lớn hay Cồn Lăng?

– Rượu cồn là rượu dùng trong nhà thương để sát trùng, chứ cồn lớn cồn lăng gì ?

– Có cay không cha nội!

– Cay rách phổi chớ sao không cay. Tui sẽ mang ra nộp cho bữa tiệc một tĩn bốn lít.

– Ừ được rượu gì cũng uống, miễn cay thì thôi.

Một ông già đột ngột ló vô ngực trần với sợi dây nịt to bản, tay cặp nách cái chai. Hai Chí reo lên:

– Chú Tư! Mời chú vô! Bữa nay có đủ mặt quân dân chánh đảng đủ hết.

Tôi hỏi:

– Bộ chú hết chết rồi hả .

– Cũng đang ngất ngư thôi, nghe bên này hát bội thì mang qua một lít giúp vui. Cái này tui trữ lâu lắm. Để dành chống bịnh thời khí.

– Bịnh đó, đừng lo. Cà-nông bắn chạy mất hết rồi. Đem vô đây cho Hội Nhậu chống Mỹ.

– Tụi mình bầu chú Tư mần chủ tịch Hội Nhậu đi!

Út Lộc đứng lên cao gần đụng nóc nhà vung tay.

– Ừ chủ tịt ranh rự hội nhậu chống Mỹ muôn năm.

– Chủ tịch rêm xương oải cốt lắm, chỉ muốn nằm thôi.

– Ừ nằm lãnh đạo cũng được. Đề nghị hoan hô ông chủ tịch nằm bằng cách cụngn ly úp gàu cho cạn nè!… Hội Nhậu chống Mỹ muôn năm muôn năm!

– Muôn năm! Muôn năm!

Lụa bảo:

– Các chú la nho nhỏ để nghe pháo đề-pa mà lủi!

Chín Đùng quát:

– Đả bảo là Hội Nhậu chống Mỹ mà pháo thụt thì lủi là cái gì?

Lụa bảo thằng Quỹnh và Bốn:

– Hai em ra ngoài sân ngồi canh dùm chị. Rồi chốc nữa vô ăn sau. Chị để dành lươn um cho. Quỹnh canh pháo Đồng Dù, Bốn canh pháo Trung Hòa. Hễ nghe nó đề-pa thì la lên cho trong này lủi mới kịp.

– Dạ ! Mấy ông cứ việc nhậu chống Mỹ đi ! Để tụi em canh cho.

– Phải sánh tai nghe.

Lụa vừa dứt tiếng thì… Hụp! Hụp!… Hụp.

– Chun hầm! Chun! Nó thụt.

Mọi người nhào lăn xuống đất. Vài người chui vô hầm.

Tiếng nổ rung rinh mặt đất. Đèn bị đạp đổ. Trời đất tối om. Đầu đụng cột lộp cộp. Trẻ con khóc như ri. Lụa kêu:

– Rớt ơi ! Rớt !

Mấy tiếng nổ không xa lắm, nhưng đủ làm cho mọi người rối loạn. Tôi ngồi nép bên mình hầm nhìn lửa lóe qua kẹt vách. Tôi quát:

– Chui vô hết đi. Nó đang thay đổi tầm hướng khác đó.

– Thầy Hai khóa chốt à?

– Bậy nào, để thầy vô trong.

Tiếng nổ ngưng. Trong không khí có tiếng e e e kéo dài.

Trời như vỡ ra từng mãnh. Một tiếng hỏi.

– Đồng Dù hay Trung Hòa.

– Trung Hòa. Đây là pháo 105 không phải cà nông của Đồng Dù.

Một loạt tiếp rơi xa hơn. Tôi bấm đèn pin và đốt đèn lên.

Lụa bảo:

-Nó quay họng lên Bùng Binh, Rừng Tre rồi!

Tư Thêu chép miệng:

– Hổng biết mấy con bò tôi có sao không.

– Chắc là đạn đi trớt lớt lên tới đường số 6.

– Nó có bề gì thì không có xe tải gạo, lính đói cả bầy.

Chập sau, sóng lặn gió im. Mọi người lóp ngóp bò lên.

Chú Tư Thiên cười khoe cái miệng móm:

-Thôi dẹp đi cái Hội Nhậu chống Mỹ ! Tại các cha thành lập nên nó chào mừng đó.

Ba Tố phủi đất trên đầu:

– Dẹp sao được mà dẹp chú ? Nó làm cữ này rồi là mình tha hồ múa lân tới sáng. Bắt gà làm thêm chớ.

– Ba con lươn bò lển nghển ra ván kìa.

– Ai có u đầu chảy máu gì thì kêu bác sĩ có sẵn ở đây.

Là nói giọng quạu đeo:

– U đầu chảy máu gì. Nó cho một trái ngay nhà…

– Thì hốt thịt xương về làm ruốc, lo dữ hôn cô xã đội ?

Một giọng nào phát ra từ hầm, giống như giọng Năm Đùng.

– Ê lên! tiếp tục chiến đấu chớ nằm vạ ở dưới đó sao cha!

– Hổng giỏi hô Hội Nhậu muôn năm nữa đi !

Chương 38 Vành đai thép: Chục rưỡi hang ếch!

Qua một đêm thức trắng, tôi ngồi sau bọt-ba-ga như một bao cát cho Một Sơn đèo đi. Con đường ngoằn ngoèo vạch qua rừng Hố Bò rồi ra Trảng Bàu Bưng băng xuyên Sở Đất Thịt tới Xóm Trại Bà Huệ . Hai đứa ngồi nghỉ tại bìa Rừng Làng gần chợ An Nhơn. Một Sơn chỉ vào lùm tre dọc đường lộ 7, bảo nhỏ:

– K10 của ông Năm Lê nằm ở chỗ đó, anh Hai!

– Sao ổng ở gần đường lớn quá vậy? Ổng không sợ tụi Trung Hòa thọc huyết sao?

Một Sơn lắc:

– Tụi Trung Hòa chỉ bung tới bìa ruộng Gò Nổi, ít khi đi xa hơn. Ở Lô Sáu vững lắm. Ở vùng này chỉ sợ Mỹ đổ chụp mà thôi. Ở đó mấy ông dựa vào địa đạo của thằng Ba Xây xã đội phó xã An Nhơn.

– Nó có địa đạo khá lắm à?

– Thì cũng dăm ba hang, mỗi hang vài chục thước. Nếu gặp trường hợp cấp bách thì chui xuống đỡ chừng mười người trong vòng nhiều lắm là một ngày thì được.

– Rủi nó chốt trên miệng thì sao?

– Chưa bị lần nào nên chưa biết anh à ?

Hút tàn điếu thuốc, hai anh em lại tiếp tục cuộc hành quân. Một Sơn đạp băng qua đường 7 xe hố qua đường xe dứa Gót Chàng tới nhà má Ba là phòng thường trực của Ban Cán Bộ. Chín Tiền đã vọt về trước báo cáo rằng đêm qua tôi ốm nên không thể đi được. Chín Tiền lật đật đưa tôi đi ngay:

– Nếu ổng có hỏi tại sao về trễ thì anh cứ nói như thế nghen!

– Công tác gì mà gấp dữ vậy?

– Tôi không biết nhưng thấy ổng có vẻ sốt ruột lắm.

Vừa đạp xe, Chín Tiền vừa kể chuyện:

– Phải chi anh về sớm sớm thì còn ăn sầu riêng măng cụt xứ Gót Chàng đã đời! Bây giờ anh thấy không, toàn là cây cụt đọt, một trái dừa khô cũng khó kiếm. Dân đi hết. Người nào gan góc lắm thì đứng lại nhưng dỡ nhà lấy cột làm hầm. Như vậy mới chịu nổi cà-nông. Nói thì nói vậy thôi vì chưa có hầm nào bị đạn nhểu ngay, chứ rủi nó nhểu trúng thì không biết thế nào !

Chín Tiền dắt xe đi vòng vo qua nhiều mương vũng, dưới nước còn lều phều những mảng chất cháy của bom na-pan kho như bọt nước vàng khè hoặc đen thui thì đến một túp lều.

Chín Tiền rỉ tai tôi:

– Ổng kia kìa.

– Ai ?

– Ông Tám Quang.

Coi cái vẻ khúm núm của ông cán bộ mùa đông mà tôi suýt bật cười. Từ trong lều chui ra một ông nữa. Thế là hai ông. Một béo phị, một gầy như khô cá lẹp. Tôi bước tới đứng nghiêm xưng tên chức vụ nhưng không giơ tay chào theo lối chánh qui. Ai lại chánh qui nửa mùa như vầy được. Hai ông đều mặc đồ bà ba mốc cời. Không có quân đội nào ăn mặc như vậy. Tám Quang vỗ vai tôi cười hắc hắc:

– Cậu còn mang tác phong chánh qui quá hả. Tốt lắm! Tôi đang chờ cậu sốt cả ruột đây.

Tôi nhớ ông hồi 47 trẻ quá. Giảng viên trường chánh trị mê chị Dưỡng, con gái ông Ba Dương… Bây giờ đầu bạc trắng! Đứng bên cạnh ông là một ông già gầy gò lưng khom khom, miệng móm mặt mũi hom hem. Tám Quang giới thiệu với tôi:

– Đây là anh Tám Hà, phó phòng, mới về nhận trách nhiệm. Cậu ở đây một chốc Chín Lộc sẽ đến rước cậu về làm việc. Cậu có quen Chín Lộc không?

– Dạ có nghe tên.

– Ổng là chính trị viên kiêm Trưởng ban Quân Báo. Còn Sáu Huỳnh là Phó Ban.

Tám Hà cũng vỗ vai tôi:

– Bỏ ba lô trong hầm đó nghỉ chút. Có động thì hầm ngoài vườn kia. Còn nếu nó chụp thì có người dắt mình đến chỗ lặn. Vậy là yên tâm rồi chứ?

– Dạ, mấy anh sao tôi vậy. Tôi cũng quen vùng này ít nhiều từ 1946.

– Ủa, dữ vậy lận à.

– Dạ hồi đó tôi đi với anh Ba Tô Ký . Hồi năm ngoái tôi cũng có về đây một thời gian ngắn.

Tôi đứng hầu chuyện với ông Phó phòng chưa ráo mồ hôi thì một cô bưng mâm trà đi qua mặt. Tám Hà bảo:

-Đi xuống hầm uống trà.

Tám Quang đã ngồi sẵn ở bàn. Ông hỏi tôi ngay:

– Cậu coi tôi có khác trước nhiều không?

– Dạ không khác bao nhiêu. Tôi thấy anh là nhận ra thủ trưởng liền!

(Đã tiếp xúc nhiều lần với mấy ông lớn, nên tôi thuộc tâm lý của các cha. Ông nào cũng già khú rồi nhưng muốn cho mình nói trẻ, để các ổng tưởng rằng mình còn có khả năng với các bà Bành.)

Tôi tiếp:

– Hồi ở Rừng Sát thủ trưởng khoảng ba mươi.

– Gọi bằng anh cho thân mật!

– Lúc đó anh Hai Huy làm chính trị viên Phân khu miền Duyên Hải còn ông Năm Hà, tức Dương văn Hà em ruột ông Ba Dương, tức là Dương văn Dương làm Tư Lịnh. Anh làm giảng viên Trường Quân Chính đóng ở Chiến khu Bà Bông Vũng Gấm. Lúc đó anh hay mặc áo ba bà, tay rộng theo kiểu các nhà chính trị thời bây giờ. Còn tôi ở trong Ban Rùm Beng của Trung Đoàn 300 Dương văn Dương đi lưu động khắp miền Duyên Hải để diễn kịch và hát cho Vệ quốc đoàn nghe. Ban này có đến hát ở Bệnh Viện ông Bảy Viễn, trường Quân Chính của anh và các Chi Đội thuộc Bình Xuyên. Hồi đó anh Ba Thắng làm tiểu đoàn trưởng trong trung đoàn 300.

Tôi dẫn chuyện đến chỗ giáp mối giữa hai ông Thắng và Quang thì ngừng lại. Tám Quang tiếp ngay:

– Ảnh đã điện cho tôi cách đây một tuần lễ, nói tóm tất về công tác của cậu. Cậu sẽ móc thằng em làm đại úy Thủy Quân Lục Chiến. Chắc cậu rõ rồi chứ gì?

– Dạ rõ .

Tám Hà đã rót trà, Tám Quang vừa dứt lời thì ông mời ngay. Ông nói ngang ngang không có vẻ tôn trọng cấp trên là Tám Quang trẻ tuổi hơn ông:

– Mời bà con làm liền cho ấm bụng!

Tám Quang cũng lễ độ mời lại. Cả ba uống trà. Tám Quang chép miệng:

– Gần hai mươi năm mới gặp lại cậu. Nếu không có thơ Ba Thắng thì tôi không nhận ra cậu. Mới là Đồng Tử Quân nhõng nhẽo mà bây giờ đã là giáo viên sĩ quan Pháo Binh.

– Thì cũng bằng tuổi anh hồi đó, anh Tám.

Tám Quang ló đầu ra hầm la:

-Mấy đứa con gái coi chừng khói lên um đó.

– Ủa, ở Trường Sơn sợ khói, ở đây cũng sợ khói nữa sao anh Tám?

– Ở đây còn sợ hơn ở Trường Sơn nhiều vì Đồng Dù và Trung Hòa gần lắm! – Rồi ông la – Cơm nước có gì dọn lên đi, trưa rồi. Nó có đổ chụp mang bụng đói.

Hai cô gái mặt tròn nhưng xanh xao bưng cơm lên. Tôi liếc sơ thấy có đậu phụ và đậu phộng kho. Hai thứ đậu họp lại chẳng ra cái thứ gì.

Tôi ngồi trước mâm cơm cầm đủa mà ngẩn ngơ. Không phải vì sự gian khổ trong thời chiến (ăn thế này có gì là khổ. Còn sướng hơn dân xã nghĩa miền Bắc bội phần là cơm trắng.) mà vì cái sự bịp đời của ông Trưởng Phòng Chính Trị Quân Khu. Ai ai cũng biết rằng bà má của ông vừa vô thăm và cho con tạm 80 ngàn đồng, vì chưa kịp thu lúa ruộng. Ngoài ra các thứ cầm tay khác, như xe đạp Pờ-rô, đồng hồ, radio, bút máy và vàng lá… Cái xắc-cốt của ông Trưởng phòng treo trong góc hầm kia không chỉ đựng kế hoạch chính trị mà còn đựng bạc Sàigòn. Vừa rồi, để thi hành công tác đón tiếp các nhà báo Liên Xô, Pháp, Úc, ông trưởng phòng đã phải đứt từng đoạn ruột đưa cho Tư Linh chiếc xe Pờ-rô mới tinh để đèo thằng Bọ Chét nặng tạ hai, và xùy ra một số bạc chiêu đãi các em dũng sĩ để Tư Linh và tôi đạo diễn cái màn địa đạo chiến cho hắn quay phim trình bày ra quốc tế.

Thế nhưng cơm nước đãi chú em đồng tử quân thì toàn là đậu kho. Nhìn mâm cơm này ắt hẳn những xấp bạc Sàigòn trong xắc-cốt ngứa ngáy lắm thì phải. Nuốt những miếng cơm nhai với đậu phụ đậu phộng như kéo chà tre qua cổ mà tôi nhớ bữa tiệc của Hội Nhậu chống Mỹ tối qua. Thịt gà, lươn um còn thừa bộn bàng. Rượu thì đủ để đổ lỗ mũi năm ông bác sĩ như Tư Chuyền .

Và tôi liên tưởng tới bác Hù vô giàn kính yêu. Bác có hai loại thuốc bỏ túi: một là Craven A, hai là thuốc lá quốc doanh sợi đen như cứt chó. Thằng nào khỏe mấy hút hết một gói cũng phải đi nhà thương ho lao. Craven A thì dùng để hút trong nhà sau, còn quốc doanh thì để dành mời cán bộ. Cũng như thằng nhà thơ bịp Tố Hữu, thằng phê bình mạ kền Hoài Thanh ca ngợi bữa cơm đạm bạc của bác chỉ có bát canh rau và hai con cá lòng tong kho! Vâng, bác ăn xong rồi thì nốc nước sâm đặc Triều Tiên và xơi “bòi” cừu dái bò Mông Cổ, Hoài Thanh và Tố Hữu làm sao ngửi được?

Tám Quang cũng thế. Cháu của bác mà ! Có điều lạ (nhưng rất thông thường) là ở Các Cơ quan từ R xuống khu, các ông thủ trưởng đều dùng thiếu nữ để phục vụ cho mình. Đám nữ sinh Sàigòn ham theo Cách mạng vô khu bị nhốt trong cái chuồng đầy những cọp già và đói thịt mông thịt đùi. Xuống đến trường Trung Sơ cũng thế. Bây giờ lại cũng thế, cũng cứ muôn năm như thế.

Để tỏ vẻ biệt đãi ông cán bộ trẻ và quen biết cựu trào, Tám Quang lấy cái nhạo kiểu (chắc của chủ nhà bỏ lại) và mấy cái ly pha lê (không rõ lượm ở đâu) rót rượu mời:

– Anh Tám và chú em làm chút. Có thứ này tôi mới bớt oải gân mà làm việc và chạy mà lủi và ăn cơm thấy ngon hơn.

– Anh Tư Khanh đi đâu cần vụ cũng mang theo trong ba lô cho ảnh.

– Cậu còn trẻ uống vô coi chừng nguy hiểm.

– Dạ không sao ! Rượu của anh Tư ngâm cả lộc nai bao tử nhím mật gấu tôi uống vô cũng không thấy nguy hiểm gì hết.

Tám Quang cười:

– Thứ lộc nai, trẻ như cậu uống vô coi chừng nứt da đấy.

Tám Hà cười khẩy:

– Cậu ta không có em nuôi hay chị nuôi thì lấy gì mà nguy hiểm.

Tám Quang có lẽ hơi thấm rượu nên đỏ mặt làm thinh. Đang cưa qua cứa lại thì có tiếng đờn cò của con đầm già lửng lơ trên không trên mé sông Sàigòn. Tám Hà chưa quen thủy thổ hỏi .

– Nó ở đâu tới vậy?

Tám Quang buông chén cơm đứng dậy ló đầu ra miệng hầm rồi thụt vô bảo.

– Chắc từ Đồng Dù ! Hổng tốt rồi anh Tám! Nó phăng phăng đâm thẳng tới đây.

– Mấy đứa có coi chừng khói kỹ không?

Tám Hà tái mặt hỏi. Tám Quang không đáp. Ông ta quơ súng ống và xắc-cốt chui ra hầm.

– Dông anh Tám và chú Lôi !

Tám Hà cũng nhanh tay lẹ chân không kém, tóm thu đồ đạc và vọt theo. Ba người chạy ngang bếp, thấy bếp còn bốc khói, Tám Quang dậm chân:

– Dập đi..i!

Tôi lót tót theo sau, tay còn bưng chén và cơm, mắt ngó con đầm già trên trời. Một tiếng quát không biết của ai.

– Nó quần trên đầu không thấy sao?

Tôi đi tới cái hầm ở bên gốc me thì thấy hai cô đang đứng nép vào thân cây và cười khúc khích:

– Bộ chưa ăn hỏa tiễn lần nào sao ông rờ?

Tôi vẫn ăn cơm như thường, cười đáp:

– Hoả tiển thì chưa ăn còn rờ thì cũng chưa!

– Bộ ở trển không có đầm già à?

– Toàn là đầm trẻ .

Tiếng hỏa tiễn xé không khí khào…ào…khào…ào nghe hơi gần. Một cô hỏi.

– Nó bắn đâu vậy?

– Đâu phía ngoài Cây Điệp – Cô kia đáp – Xa lắc !

– Chỉ hơn hai cây số, xa gì ! Mình ở đây hay lên hầm bác Tám?

– Ở đây thí thân với nó. Bom đìa thì hầm nào cũng vậy thôi.

Thấy tôi lua hết chén cơm, một cô hỏi:

– Anh ăn nữa hông, em xúc thêm cho.

Tôi gật. Cô gái đến lấy chén chạy vô bếp rồi trở ra với cơm và thức ăn đưa cho tôi. Tôi vừa ăn vừa ngó chừng. Hai chiếc thần sấm lao xuống, tiếng rít xé trời. Bom nổ rung rinh vách hầm. Bụi đất đổ rào rào. Tôi ném ba lô xuống đất ngồi lên, hỏi:

– Hai cô không sợ à?

– Kêu bằng em coi được không? Em tên Thảo, con nhỏ đó tên Thơi. Bị hoài nên cũng bớt sợ.

– Nhà này sao còn có cái nền trơ vậy?

– Chủ nhà dỡ xuống, bỏ cột kèo dưới mương, rồi ra ấp chiến lược. Cả Xóm Gót Chàng dài ra Xóm Bưng hễ thấy nhà là đầm già phóng hoả tiễn. Có người chỉ dỡ nhà trên, còn giữ lại nhà dưới để ở nhưng lại không ở được rồi cũng ra ấp chiến lược luôn.

Thảo thấy tôi tém chén, hỏi:

– Ăn nữa thôi, đưa em bới.

– Tôi ăn hết nồi không còn cho mấy em.

– Ừ ăn hết thì ăn. Tụi em nhịn cho eo eo cái mình một chút.

Tôi để chén đũa xuống đất, quệt miệng rồi lấy thuốc rê ra hút (chơi theo kiểu cụ Hồ. Gói Capstan tôi còn trong túi nhưng trước mặt thượng cấp thì tỏ vẻ đạo đức.)

Phì phá khói thuốc, nhìn hai cô em, tôi sực nhớ đến Ba Ánh trên R. Dân Bình Khánh, em của Nguyệt đồng tử quân. Thời gian đi nhanh quá. Cô Nguyệt đã có chồng con đùm đề . Cô em giống hệt chị. Không biết bao giờ mới gặp lại nhau và về nhà ăn tôm nướng với nàng. Tôi lại nhớ vụ khi Tà Bon ăn B52 hôm nọ mà đau lòng. Bức thư Ba Ánh tôi nhận được sau bức thư Thanh Tuyền hai ngày. Ánh cũng nói cái kiểu đi công tác xa, vô bệnh xá. .. Sau vụ đó, không ai được gởi thơ. Ngoài phong bì đề người gởi là Ba Thắng. Bên trong, Ánh nhắc lại công tác. Dưới cùng có mấy dòng chữ của Ánh. Bức thư tôi vẫn còn giữ trong ba lô, bao nhiêu chữ của Ánh tôi thuộc lòng… Anh ơi, em buồn lắm! Không biết anh ở đâu?…Tôi cũng không biết tại sao Ánh thoát chết và ở đâu bây giờ.

Thảo hỏi tôi:

– Anh về công tác văn phòng hay ra đơn vị chiến đấu?

– Anh chưa biết. Tôi đáp và hỏi lại – Cây Điệp có gì mà nó ném bom?

Thơi đáp:

– Nó có nhiều bom nên đụng đâu thả đó. Tại ngả ba đâu có nhà cửa gì. Chỉ có con đường đi thẳng xuống Sở Cao Su Bàu Lách rồi có lối rẽ ra đường 15 xóm Bà Thiên gần Sở Cao Su Đỗ Cao Lụa toàn là cây cao su già . Có lẽ nó thấy cây cối um tùm ở bìa Xóm Bưng gần nhà chị Bảy Mô nên nó muốn cào cho trống. Bên này bây giờ cũng y như An Thành. Ở bển lớp khu trục, lớp bị trực thăng chuồn chuồn lồng kẽm (trực thăng của Tân Tây Lan) chỉ huy pháo bắn tan nát hết. Bà con chạy xuống Bình Dương không còn nhà nào.

– Sao em biết rành vậy?

– Em ở bên đó chớ đâu phải dân Củ Chi.

– Ở bên đó mà vùng nào?

– Gần tiệm Dì Ba Láng, anh biết không?

– À! Dì Ba của tôi đó.

– Nói thiệt chơi đó ông Rờ?

– Thiệt mà ? Má tôi là má Hai ở Hố Bò .

Thơi đấm lưng Thảo. Hai cô cười khúc khích. Thảo nói:

– Vậy thì anh mau lên chân lắm.

– Tại sao?

– Anh hổng biết tại sao à?

– Không – Tôi ngơ ngác.

– Vậy anh kêu ông Ba Xu bằng gì?

– Bằng Thầy Xu.

– Chớ hổng phải là Dượng Ba à ?

Tôi vỡ lẽ ra rồi. Thơi cãi lại:

– Anh này không phải con má Hai ở Hố Bò đâu.

Tôi nói.

– Con nuôi chớ không phải con ruột.

Thơi “A ? ” lên một tiếng to rồi im bặt. Tôi ngạc nhiên nên hỏi gặn. Hồi lâu Thơi mới nói:

– Anh vừa đi với cô xã đội Là tới nhà Chín Khuân phải không?

– Phải.

– Chín Khuân bà con với tôi, ủa với anh cô cậu của tôi. Ảnh về phép gặp Chín Khuân hôm qua. Chín Khuân bảo ảnh: con xã đội nó đi cặp kè với ông nào bảnh lắm. Nói vậy ông đó là anh đây chớ gì. Hèn chi ! – Rồi Thơi tiếp – Chị Nhã Nam cũng quen với anh hả? Chị ấy ở đây mà. Chỉ tới đây làm việc với bác Tám rồi đi. Ít ngày lại trở về.

Tôi nghe hơi bất ổn trong lòng. Những chuyện dọc đường dọc sá của mình đều có đường dây móc nối với nhau hết. Không khéo đây rồi dư luận lan ra. Tôi nói:

– Hôm qua tôi đi quan sát địa hình với cô xã đội phó, dọc đường có gặp nhà báo Nhã Nam, chớ đâu có chuyện gì mà hai cô hỏi gắt vậy?

– Thì tụi em đâu có nói chuyện gì..ì!

Thảo quay lại hỏi:

– Anh coi con gái An Thành có khác con gái Củ Chi không?

– Khác khác nhưng không biết khác chỗ nào.

Thơi cướp lời:

– Chỗ nào cũng khác hết. Con gái Củ Chi đẹp hơn con gái Bình Dương.

-Thiệt à?

– Để khi nào anh gặp chị Bảy Mô, Tám Phụng, Tám Mang coi anh có lé con mắt không mà ?

Tôi đóng kịch:

– Tôi nghe đồn nữ dũng sĩ Bảy Mô lâu rồi mà chưa gặp.

– Chỉ biết đờn nghe anh, không phải lủi vô đít ông Táo như tụi này đâu. – Thơi tiếp – Anh mà xuống Phú Hòa thì anh phải biết. Con gái ở đó…

– … đẹp như con Thơi vầy nè.

– Ủa Thơi ở Phú Hòa à ?

– Dạ. Công trường 9, d7, d2 về đóng ở đó mắc rể bộn hè ! Sụp hầm chông cũng kha khá . Anh muốn đi em chỉ đường cho, em giới thiệu cho nữa.

– Thôi ! Anh có vợ rồi !

– Láo đi ông nội! Anh có vợ thì má Hai nhận anh làm con nuôi để làm chi?

– Con nuôi là con nuôi chớ để chi?

– Con nuôi hóa ra con rể mấy hồi phải không?

– Nếu anh không chịu thì em giới thiệu cho chị Bảy Mô hay chị Tám Mang.

– Bậy nào, chị Tám Mang người ta có chồng rồi.

– Chỉ vừa hứa với anh Sáu Hoa, anh của chị Nga bệnh xá của ông Tư Chuyền thì bị thương cụt hai chân về R an dưỡng còn chỉ ở lại đây tìm mối khác. Vậy anh vô cũng tốt chớ có sao.

Câu chuyện hào hứng làm cho chúng tôi quên cả phản lực nhào lộn trên trời. Không biết nó đã ném hết bom chưa mà con đầm già cun cút lủi đi trong mây xám.

Một chú bé chạy đến:

– Bác Tám bảo anh ra ngoài hầm làm việc, còn chị Thảo nấu nước đem ra.

Tôi đứng dậy theo chú bé, Thơi nói vói theo:

– Nhà em ở xóm Phú Mỹ gần thất Cao Đài kế bên nhà chị Bảy Mô đội trưởng dũng sĩ nghe! Khi nào có dịp ghé đó.

Cậu bé quay lại:

– Chị ở đây mà bảo ảnh ghé nhà làm gì? Há há…

– Cái thằng lãng dang nà !

Cậu bé nói với tôi:

– Bác Tám Quang cưng hai bả dữ lắm. Bà Má của bác mới vô cho tiền, bác xuất ra mua may cho hai bả mỗi người hai bộ đồ láng mướt còn em chạy hiệu mòn chân chỉ có cái quần tiều và cái áo thung ba lỗ. Toàn phòng này có hơn hai chục bà , bác lựa hai bà số dách đem về đây. Anh chưa có chị thì đặc cọc với bác Tám trước đi. Con gái nuôi của ổng đó. Ở đây ông lớn nào cũng có con nuôi mà con gái mới nuôi, còn trai như tụi em là con ghẻ. Hí hí…

Tôi đỡ đòn dùm cho thượng cấp:

– Mấy ổng đáng chú đáng bác cả rồi, đừng nói vậy, em!

– Anh khéo che đậy. Bên K10 Tham mưu còn động trời hơn nữa.

– Chuyện gì động trời?

– Mấy bác hay vỗ mông mấy chị lắm. Mấy chị lom khom thổi lửa mấy bác đi qua là vỗ bép một cái. Mấy chị bất mãn nhưng không dám nói. Có một chị đi nói tùm lum ra, tức thì bị đưa đi phục vụ chiến tường (cậu bé nói đớt) Phước Long. Đi ga đó là kể như hết có thấy mặt tía má ông nội bà nội ông ngoại bà ngoại nữa đi! – thằng bé lãi nhãi – Có bác nói: cha con nhỏ này làm dâu tao được đó. Mai mốt tao gã con tai tao cho.

Rồi thằng bé đọc một lô danh sách các con dê cụ! Tôi nghe mà té ngửa. Trong số đó có lắm ông quen. Đứng đầu bảng là Năm Lê tức là Sơn Tiêu chồng bà Hai Mặn tôi gặp ở trạm 66 R hôm nọ . Bị Sư Tử Hà Đông quơ hụt, xuống đây với chức trưởng phòng, me xừ vẫn chứng nào tật nấy. Kế đó là ông Bê Ka Hai Phán, ông dưa hấu Bảy Thành, xếp kế là ông Năm Eo, Ba Hải (không phải Ba Hải ở U80 đi R với tôi) Cầm đèn đỏ là Sáu Nâu và Năm Cai đều là những chú bác đáng kính của các chá… au cả !

Thằng bé giao tôi cho hai bác xong thì trở ra. Tôi khom người để chui vào hầm. Cái này rộng hơn cái trong nhà lại có lỗ thông hơi. Vào bên trong không đến nổi tối lắm. Lại có ngách trổ ra, đề phòng khi hầm sụp thì có lối thoát thân.

Tám Quang trỏ cái ghế mời tôi ngồi còn hai ông thì ngồi ngang nhau trên chiếc vạt cau để sát vách hầm. Ở góc hầm dựng chiếc xe Pờ-Rô trên cao ngay đó máng cái xắc-cốt. Ông hỏi tôi:

– Cậu là dân nhà pháo, cậu xem cái hầm này có chắc không?

Tôi nói ngay:

– Không chắc đâu anh Tám.

Tám Quang nhảy nhổm lên.

– Tại sao?

– Không chịu nổi pháo 155 và 175 đâu.

– Tôi cho lót tre, trúc trên nóc rồi đổ trên một thước đất. Thấy chưa an toàn tôi cho thêm năm tấc nữa.

– Nhưng cột và đà ngang toàn là cây dừa cây cau là hai loại cây ruột rổng xốp mau mục.

– Ờ ! ờ cậu nói tôi có ý gẩm. Nhưng mà ở đây tìm không ra cột nhà, nên dùng ba cái cây bị bom pháo phạt ngã. Chỉ mấy ông Tư lịnhh ở An Phú mới dám móc cột nhà của dân lên cưa ra làm cột hầm rồi trả tiền chớ tụi này đâu có tiền? (Tám chục ngàn để làm gì?)

Tám Hà lúc nào cũng châm chọc hoặc chỏi Tám Quang, cười:

– Hầm là để che chở khỏi ba cái miểng thôi anh ạ. Chứ khi bom rớt ngay thì chẳng có hầm nào chịu nổi. Trái 50 ký cũng khoan xuống ít nhất hai thước, bom đìa thì bê tông cũng không ăn thua.

Tám Quang ngồi im. Thấy thế tôi gỡ gạt cho ông:

– Anh dán giấy nhật trình trên vách coi sạch sẽ giống tường quá !

– Ừ! nhưng mà lũ bò cạp núp trong đó chơi tôi mấy phát đau điếng. Mấy đứa con gái cũng bắt chước tôi nhưng thấy tôi bị nạn, tụi nó gỡ hết ráo. Chắc tôi cũng sẽ gỡ.

Tám Hà trỏ vào tấm giấy ở đầu giường, cười:

– Gỡ thì gỡ nhưng chắc ông chừa tấm đó để giải trí.

Tôi ngó kỹ thì thấy tấm hình con đầm mặc xì líp xú chiên lòi cả ngực cả đùi. Tôi phục tài châm biếm móc ngoéo của ông Tám Móm lắm lắm. (Có lẽ ông không ưng ngồi ghế thấp hơn anh chàng trẻ tuổi hơn ông. Khi ra Bắc ông đã là chánh ủy Trung đoàn bây giờ phải ít nhất là Tư lệnh hoặc chánh ủy Sư đoàn như Năm Sàigòn hoặc Sáu Khâm, đằng này ở trên chỉ cho chức phó Phòng chánh trị!)

Tám Quang quay qua gọi thằng nhỏ bảo:

– Cháu xuống bếp hỏi mấy đứa nhỏ coi còn kẹo bánh gì không đem lên uống nước.

Tám Hà rót nước hớp liền, không mời tôi lẫn Tám Quang. Tám Quang vô đề ngay:

– Chốc nữa Chín Lộc sẽ bàn với cậu. Còn vấn đề tôi muốn nói với cậu bức thiết lúc này là vấn đề đạo đức của người cán bộ. Cậu nên biết là mấy ông khu ủy khu này đều là dân ở lại sau 54. Họ thành kiến với Mùa Thu ghê lắm. Ở trên R không có bị cái nạn đó vì toàn là Mùa Thu nên trong sự sắp xếp cán bộ không có ai phân bua mùa thu mùa đông. Ở đây Mùa Thu đụng nhằm Mùa Đông mệt lắm. Các ông ấy cho rằng các ổng dọn ổ, mình về đẻ.

Tôi kêu lên:

– Có vậy nữa à anh?

– Ở trên R thì có vấn đề gốc Dưa và gốc Rau, nhưng không rõ lắm vì Rau nắm cả ngọn ngành. Tôi và anh Tám là gốc Eo nhưng eo tôi chiến đấu ở Nam Bộ thành ra anh em coi tôi là gốc Dưa. Đọ ! Rau và Dưa ở đây vẫn thành vấn đề. Bên cạnh đó lại còn vấn đề Thu-đông. Điều qua tiếng lại rầy tai mệt óc lắm chớ không khỏe đâu. Lệnh ở đây đưa ra cấp dưới chỉ thi hành chừng 50% có khi bỏ quên luôn. Hỏi tại sao, họ bảo là hoàn cảnh khó khăn không khắc phục được. – Anh nói lan man quên cả vấn đề nêu ra lúc đầu – Cũng may, anh Ba Xu phó bí thư khu ủy là phu cao su lại sinh sống ở đồn điền thời trước và chiến đấu ở Nam Bộ nên tiếng nói của anh coi như trung dung hai miền.

Tám Hà chêm vào.

– Trung dung không phải là ba phải nghe !

Câu nói làm cho Tám Quang nhớ rằng mình đi xa đề . Anh trở lại:

– Mùa Thu đi về làm tiếng xấu nhiều quá. Dân mất tín nhiệm. Còn bên mùa Đông thì nhân đó mà củng cố thêm thành kiến. Vụ Sơn Tiêu trên R ở đây giữ kỹ lắm, nhưng rồi cũng không bụm được. Tánh quân phiệt là đánh lính bớt đi nhiều nhưng vụ kia lại tái phát.

Tám Hà lại chọt:

– Thời khí mà tái phát là kể như đi luôn theo ông bà .

Tám Quang làm như không nghe:

– Tôi tin cậu, tuy còn trẻ nhưng không vô Ê kíp của ông Tiêu. Tình hình này căng lắm. Giặc đánh mình văng không đau, mình tự làm mình ngã mới đau. Thời kỳ chiến tranh đặc biệt đã qua rồi. Bây giờ là chiến tranh cục bộ. Đảng chủ trương giữ triệt Mỹ ở miền Nam không cho thò ra Bắc. Ở ngoải, chúng chỉ leo thang bằng không quân là cùng. Nếu chúng đưa quân ra Bắc thì ông anh Ba mình sẽ vu hồi đưa đại quân xuống vùng tam biên cắt ngang đường về của chúng. Chắc chắn chúng không dám liều lĩnh, đúng y như anh Sáu (Vi) nhận định. Tháng ba vừa rồi, Mỹ vô Đà Năng. Thằng chỉ huy của tụi nó tuyên bố sẽ kéo dài biên giới Mỹ đến vĩ tuyến 17. Riêng ở cửa ngỏ Sàigòn thì chúng đóng chốt Đồng Dù và Dĩ An đưa hai Sư đoàn Bộ binh vào Nam Bộ để giữ chặt cửa vào Sàigòn. Quân khu ta là tuyến đầu đánh Mỹ, là nơi chạm trán với lực lượng Mỹ ác liệt nhất. Chúng ta đã không chụp được thời cơ năm 63 hai anh em Ngô Đình Diệm bị giết.

Tám Hà lại đâm hông:

– Lúc đó nếu ở trên sáng suốt thì bọn tôi chạy việt dã chắc là khỏe cặp giò nhái lắm.

Tám Quang chữa ngượng:

– Dám lắm chớ anh Tám. Các cơ quan đoàn bộ đã quảy soong chão nồi ơ chạy ra đường nhựa rồi kia mà . Còn bộ đội khu thì đã phóng tới Suối ông Hùng rồi kia mà. Các Q 761 – 762 – 763 của công trường 9 (Q là Trung đoàn) đã thọc về tới Củ Chi, Bến Cát, Dầu Tiếng rồi chớ đâu có đùa. Đã tới quốc lộ 1 và đường 8 rồi, nhưng được lệnh trên R ngưng ngay và quay trở về căn cứ cũ cấp tốc. Và phải ém quân kỹ hơn trước.

Tám Hà không nói gì, chỉ cầm cái tách hắt cặn trà ngang qua mặt Tám Quang. Tám Quang tiếp.

– Các Q này nằm lại Củ Chi giúp đỡ địa phương mất một năm. Cho đến cuối 64 mới kéo ra đánh Phước Long, Đồng Xoài Bình Giả .

– Bị tiêu hao quá nặng ở các trận này cho đến bây giờ còn choáng váng. Nếu hôm nay có một vụ như thế ở Sàigòn thì có còn ai mà..chạy nước rút nữa. – Tám Hà mở nút chiếc bình thủy rót nước vào bình, rót trà ra và tiếp – Cơ hội như vậy khó bề có nữa.

– Mình phải tạo ra chớ anh Tám.

Hèn chi hồi mới về trường pháo, tôi cũng đã nghe con Tiến con Huê kể chuyện vác soong chảo chạy về Sàigòn, tôi không tin, tôi cho rằng chúng nó châm biếm cách mạng. Tôi dọa phê bình chẳng ngờ chúng nói thật.

Tám Hà đưa ra nhận định nghiêm chỉnh, lần đầu từ sáng đến giờ:

– So với tụi BMEO (Brigade Mobile Est-ouest: Lữ đoàn ứng chiến Miền Đông và Miền Tây) thì quân đội Mỹ cũng không tinh nhuệ hơn đâu, nhưng so về mặt vũ khí thì Mỹ hơn cả trăm lần. Cho nên anh Sáu chủ trương nắm thắt lưng Mỹ mà đánh là vậy. Chứ nếu vạt ra xa thì sẽ ăn bom pháo của nó mà chết ngay. Cậu về đây nếu chưa thấy thì sẽ thấy, nội cái nó dùng bom pháo thôi chúng ta cũng đã rất gian nan trong việc đóng quân, chuyển quân rồi, chưa nói đến tác chiến. Cậu rồi đây sẽ chỉ huy bộ binh. Sự khôn ngoan của người chỉ huy trên đất Củ Chi này không nằm trong sách Trì Cửu Chiến, Du Kích Chiến của Mao Trạch Đông nữa. Chiến thuật Dao mổ bò, lấy thịt đè người, chặt đứt ngón tay hơn đánh dập một bàn tay đều không thể áp dụng được với chiến thuật trực thăng của Mỹ được nữa. Đây, tôi lấy ví dụ: Chúng ta tấn công căn cứ X. Nó không cần đối phó mà nó cho đổ quân bằng trực thăng ngay sau lưng ta. – Tám Hà cười khẹc khẹc – Ngay như Hoàng Thọ có tái sinh cũng không dám liều nữa. Hồi đánh Tây, Hoàng Thọ nướng sạch quân rồi trở về ngồi ăn cơm tỉnh bơ. Mấy bà má hỏi bộ đội đâu hết rồi. Thọ bảo còn nằm ngoài trận. Sao không kêu chúng nó về. Thọ bảo: không về được. Có nghĩa là rụi tèng hen cả đơn vị. Nhưng y không nao vì y còn sống. Chứ bây giờ gặp Mỹ thì y cũng nằm luôn ngoài trận với lính chớ đừng hòng về ăn cơm.

Tám Quang định sửa mũ mấn Tám Hà, nhưng ông này nói tiếp một cách hùng hồn:

– Các nhân tố lớn nhất của chiến tranh du kích là Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân hòa, cậu rõ quá rồi. Nhưng về đây cậu sẽ chỉ thấy một bất lợi thôi, cái bất lợi lớn nhất là Nhân Hòa. Dân vùng Giải Phóng ra ấp chiến lược hết trơn rồi ! Tôi gặp ông chủ nhà này. Ổng ra ấp chiến lược rồi trở về nhà lấy đồ đạc để trở ra. Thấy tụi tôi khổ sở quá, ổng khóc, ổng nói: “Tôi thương mấy em lắm, nhưng tôi phải ra ngoài kia. Trong này bom đạn bời bời, tôi không sống nổi. Chừng nào mấy em giải phóng xong thì tôi trở về . ” – Tám Hà cười chua chát – Như thế đó !

Rồi lặng im. Tôi giả đò hỏi:

– Mình còn địa… lợi là địa đạo, anh Tám.

Tám Hà phì cười:

– Địa đạo không phải là địa lợi của ta đâu cậu à.

– Tại sao vậy, thưa anh.

– Trước nhất mình không dám xài nó nữa. Mà cũng đâu có nhiều như trên đài giải phóng và đài Hà Nội ! Kẹt lắm mới phải chui. Nhưng Bộ Tư Lệnh sẽ ra một quyết định cho các lực lượng võ trang không được xuống địa đạo nữa.

– Ủa, tại sao vậy anh? Mình không dùng địa đạo chiến nữa à ?

Tám Hà tiếc Tám Quang. Tám Quang nói ngay:

– Địa đạo chiến thì giỏi lắm cũng như các trận Tư Linh đạo diễn cho thằng Bọ Chét quay phim lần trước. Nay mai cậu sẽ biết địa đạo là cái gì. (Tôi cười thầm: con đã nắm chắc lâu rồi các bố ơi!) :

– Xã đội bảo họ đưa cả làng xuống dưới đó được. Trâu bò cũng lùa xuống tuốt.

– Ừ, có đấy ! Xã đội đó đáng được bác Hồ tặng cho huân chương! Mà cậu nghe ai tuyên truyền vậy?

– Ông Hai Thi.

Tám Hà hỏi.

– Hai Thi nào?

Tám Quang trả lời.

– Anh không biết Hai Thi đâu, anh Tám. Hai Thi tức là Nguyễn Văn Thi thời kháng Pháp làm trung đoàn trưởng Trung đoàn đặc công gồm có 12 ban công tác thành lừng danh trong các vụ ám sát hồi 1946-47. Một trong những công tác viên xuất sắc là Chín Heo bị bắt và kết án tử hình. Sau vụ đó Hai Thi định nhảy ra khu bằng xe jeep nhưng trên đường đi, tên tài xế ruột của ảnh lại lái thẳng vô bót Ca-ti-na nộp cho phòng nhì Pháp. Ông ta lên đài Sàigòn nói om om ba cái vụ địa đạo thời bây giờ là như thế.

– Còn vụ địa đạo bây giờ?

– Dạ bây giờ thì tôi chi nghe trên đài Giải phóng và đài Hà Nội.

Tám Hà nhìn thẳng mặt tôi:

– Nếu cậu tin, tôi cũng không trách gì vì đó là đảng nói. Nhưng nếu cậu có sang vùng Bến Cát, Dầu Tiếng, Trảng Bàng là những vùng đất rừng cao hơn mặt Thủy Bình từ 15 đến 25 thước thì cậu sẽ thấy. – Tám Hà móc trong xắc-cốt lấy bản đồ trải ra trên bàn, bảo – Cậu xem đây, một vùng rộng lớn cao ráo như thế sao cấp ủy không động viên dân chúng đào địa đạo, mà chỉ có Củ Chi mới làm. Sự thực, mảnh đất Củ Chi là cái cửa ngỏ án ngữ Sàigòn nên tụi Hà Nội đề cao đủ mọi cách làm cho dân, quân đảng vùng này hăng hái lên, nhào vô xốc tới. . . đưa ngực ra hứng đạn để sau này chúng vào ăn cổ. Chứ đám anh hùng dũng sĩ rởm có được cái xơ múi gì.

Tôi nhìn xuống bàn đồ để có khái niệm về mảnh đất được gọi là I-4 tức Quân Khu 4.

(Cái quân khu này hình thành từ sau cái gọi là Đồng Khởi năm 1960 do bộ ba ông Pháo Huỳnh Tấn Phát phụ trách Hành chánh, Trần Hải Phụng cũng còn gọi là Hai Phụng tức là hai Phón vì ông này sợ Mỹ kinh khủng và Trần Bạch Đằng xếp về đảng. Chưa có Bộ Tư lệnh nào vì không đủ người. Lãnh thổ thì gồm có các quận ven đô Sàigòn Chợ Lớn và nội đô. Các quận ven đô gồm có Củ Chi, Bến Cát, Dầu Tiếng, Nhà Bè, Bình Tân, Thủ Đức, Gò Vấp, Hốc Môn và Dĩ An. Cho đến 1964 mới manh nha thành Bộ Tư Lệnh gồm có ba phòng Tham mưu, Chính trị, Hậu cần do Tư Trường làm Bí thư khu ủy. Mãi đến nay (65) mới có đủ Bộ Tư Lệnh gồm : Trần Đình Xu (tức là Ba Xu) Tư lệnh, Trần Hải Phụng (Hai Phẩm Phó Tư lệnh, Tư Trường Chánh ủy. Toàn bộ là dân Bê Ka, thủ giềng mối lãnh đạo.)

Tám Hà là cán bộ của đơn vị chiến đấu nên có nhiều kinh nghiệm thực tế, còn Tám Quang là tay chánh trị thuần túy, ra Bắc được đi học Trung Quốc, về được đề bạt Chánh ủy một Trung đoàn xe tăng ở hai tỉnh Vĩnh Yên và Phú Yên nên không thực tế bằng Tám Hà . Vì thế khi Tám Hà nói, y không thêm thắt hoặc thọc ngang được.

– Chúng ta sống rất tiếp cận địch. Đây là một tình thế hiểm nghèo. Có thể di chuyển nhanh để tránh biệt kích, nhưng không mang theo những cái hầm như thế này được, cho nên không thể tự bảo vệ mình chống bom pháo. Cho nên đành ở trụ một chỗ, thà bị biệt kích còn bom pháo. Quân khu có phê bình cái H6 của ông Hai Giả rằng ông ta không triển khai được lực lượng. Nhưng khi tôi đến tận nơi thì thấy quả thật là tội nghiệp ông ấy vô cùng. DKZ 75 cối 120, trọng liên 12/8 mà đóng trong vùng này, gián điệp biết được thì chi mười lăm phút là tất cả đều bị hết về Đồng Dù. Do đó họ phải vô thùng rồi đút xuống địa đạo, loại địa đạo miệng rộng không dùng cho người. Cứ chôn miết. Nếu cần chiến đấu cấp thời thì không thể nào đáp ứng được. Mà có đánh rồi vác chạy sao cho kịp trực thăng? Đến đổi bộ binh nhẹ nhàng mà cũng phải phân tán ém quân trong rừng. Lính bị bệnh yếu sức không vận động được, bị thương không có cách cứu chữa hoặc bảo vệ được chiến thương… – Tám Hà đang nói bỗng thở dài – Thằng Tư Chuyền xin có một cái dù Mỹ để che nóc hầm khi mổ xẻ, nhưng ba tháng nay Hậu Cần chưa cung cấp được nói chi các thứ khác?

(Vậy mà Trung ương cứ thúc giục thừa thông xông lên! Có thắng đâu mà thừa!)

– Vậy trước đây tôi nghe danh từ Tam Giác Sắt và mật khu Hố Bò tôi tưởng là ghê lắm.

– Đó là những cái tên do tụi Sàigòn đặt chớ đâu phải do mình. Rồi từ đó mình mới la lên và hù trở lại tụi nó chớ nếu tụi nó làm già thì mình đã nhảy qua hết bên kia sông Sàigòn rồi

Tôi hỏi tiếp:

– Còn cái vành đai Đồng Dù nữa. Nó là cái gì vậy anh Tám? Dân trên R nghe phục sát đất.

– Tôi mới về, để anh Tám trả lời cho cậu.

Tám Hà quay sang Tám Quang nói.. Tám Quang hớp ngụm trà rồi cười tủm:

– Đó cũng lại là cái mồm đánh giặc, cũng như kịch Mượn Mỹ của Văn Công R vậy mà.

Tám Hà trở lại bản tính móc lò.

– Ông này là chú đánh giặc mồm, cậu chưa biết à?

Tôi nói:

– Nghe đài Giải Phóng tôi mường tượng như những chiến hào của Giải Phóng quân Trung Quốc ở Thương Cam Lĩnh.

– Ở đây, trong nội bộ tôi nói cho cậu nghe để cậu học tập cái nghề mần chính trị theo kiểu ông Bảy Phong Vân nghe. Cậu nên rút kinh nghiệm, chớ có lộ bí mật! – Tám Quang tằng hắng kỹ càng rồi cất giọng – Đó là tôi bày đặt cho bọn con Tư Gừng, Bảy Mô – ông rút bút khoanh vòng đỏ rồi tiếp – Đây là Đồng Dù. Cậu xem đây: Từ Truông Viết thuộc xã Phước Hiệp đến Bàu Tròn thuộc xã Nhuận Đức rồi qua ấp Cây Sộp thuộc xã Phú Hòa Đông là bao xa. Nếu động viên du kích thanh niên ba xã đào một vành đai giao thông hào quanh Đồng Dù thì mất mấy chục năm? Ấy là chưa kể các vụ đánh bom pháo làm ngưng trệ sự đào đấp. Tôi biết là từ cái vành đai mồm bay lên thành vành đai thép trên đài Giải Phóng. Ai nghe qua cũng nghĩ là địa đạo bao quanh Đồng Dù dài 200 dậm là vậy đó. Ai cũng tưởng là các dũng sĩ du kích Củ Chi bao vây chặt đến nổi lính Mỹ đi đái đi ỉa cũng phải núp lén. Thật ra đó chỉ là vài ba cái hang ếch thôi ! Mà hễ ếch kêu một tiếng nó dộng một trăm trái cà nông.

Tám Quang cười đắc chí:

– Tôi bảo cậu là phải chú ý khai thác tâm lý địch. Chúng nó hay la hoảng để cường điệu hóa sự gian khổ của chúng, cậu hiểu không? Để tôi kể gốc ngọn cho nghe. Có nước lã mới khuấy được hồ . Số là hồi trước cái Sân Dù này là bãi tập của tụi Sàigòn từ thời Pháp cơ. Du kích thấy chúng nó nhảy dù lơ lửng trên trời thì vác súng ra khía bậy vài phát. Không ngờ đạn trúng một cây dù, một thằng Tây rơi vắt trên bụi tre. Chẳng chết chóc gì, nhưng thói đời nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột cậu hiểu không. Chỉ có mỗi một việc là móc thằng lính xuống đem nó về Sàigòn cho nó uống bia, mai trở lên nhảy tiếp, nhưng chúng nó lại đem xe nồi đồng thiết giáp càn quét và báo Sàigòn được dịp la ong ỏng lên. Thế là một phát súng vu vơ của du kích là náo động tới bên Tây. Chúng nó đem một trung đoàn càn quét khắp các xã chu vi. Nào có tìm ra cóc nhái gì.

Tám Quang thích thú kể ron rót:

– Rồi tới thời Mỹ vô chốt Đồng Dù. Mới tới, các chàng chưa có nhà trại nên căng tăng ra sống tạm, thì gặp tụi thằng Năm Cội con Tư Gừng, Bảy Mô vác CKC ra khía, khuấy rối. CKC làm sao bắn tới Đồng Dù, nhưng trúng mấy thằng Mỹ o gái đem ra bìa rừng mần ăn. Tụi con gái đi dân công, làm du kích nửa chừng bỏ về nhào vô đó làm công kiếm mỗi ngày từ 500 đến 1000. Đôi khi quơ được đồ đạc đem ra bán bừa cho chợ Bắc Hà ngay cửa Đồng Dù đó, lắm cô móc được một anh công tử bột rồi đem nhau ra ngoài rừng. Chẳng may bị bọn mình phục kích, chúng xách quần vừa chạy vừa la vi xi, vi xi. Thế là một vài phút sau pháo bắn, trực thăng quần, có khi một tên Mỹ trầy da thì nó đổ chụp. Tụi du kích mình cứ nổ súng như gởi đạn về làng là thích rồi, không cần biết trúng trật cứ đem vỏ đạn về báo công. Bắn lẻ tẻ không có tiếng vang, ba xã Nhuận Đức Phú Hòa, Phước Hiệp, có khi lôi được cả Phước Vĩnh Ninh phối hợp, cùng nổ một lúc. Phước Vĩnh Ninh bị ấp chiến lược Cây Bài áng phía ngoài Đồng Dù nên không bắn được. Thế là Mỹ la to: Việt cộng đã lập vành đai thép, mấy tiếng súng nhép vang tới bên Mỹ . Nhà báo Mỹ sang điều tra và trương luôn lên đài một cái vành đai thép. Thế là đài ta chụp lấy phóng đại ra 500%. Cái vành đai mồm phút chốc trở thành sự hãi hùng cho nhà báo Mỹ và gia đình tụi nó bên Mỹ . Nhờ vậy mà mình mới vận động phản chiến được. Rồi mới có tự thiêu, mới có con đào lộn hột sang tận Hà Nội gặp tù binh Mỹ chớ. Nếu không nhờ tụi nó mình la làm sao thấu bên kia?

Tám Hà cười khoe bộ răng mất trật tự:

– Bao giờ cũng vậy, tụi nó đánh tụi nó khỏe hơn mình đánh nó. Thời Tây có Raymondienne Henry Martin nằm lăn ra đường cản quân xa, thời này có đào hát bóng và tên Mỹ khùng tự thiêu. Con Phổng đá Phổng điếc và thằng Ê mi Ê miếc gì đó .

Tám Quang tiếp:

– Bây giờ mình mới thấy tác dụng của tuyên truyền. Sự thực bốn xã chỉ đào có chục rưỡi cái hang ếch thôi. Nhưng bây giờ không còn nữa. Xe tăng càn nhẹp cả rồi. Bây giờ chính chúng nó lập vành đai trắng bao vây mình đấy. Chúng nó phát quang tất cả rừng rú chung quanh Đồng Dù, cây cỏ thì rắc hóa học, người thì bốc hết ra ấp chiến lược. Đây mới là vàng đai nguy hiểm cho mình.

Tôi nhắc lại:

– Vậy là tôi tưởng như vành đai ở vĩ tuyến 38 ở Thượng Cam Lĩnh bên Triều Tiên bao vây quân Mỹ.

Tám Quang tiếp:

– Vụ ném bom vừa rồi ở Ngã Ba Cây Điệp là nằm trong kế hoạch lập vành đai. Đồng Dù đây – Tám Quang trỏ xuống bản đồ – Mình đây, nó đây. Mình với nó cách nhau không quá năm cây số nhưng nhờ con Suối Bà Cả Bảy mà mình dám trụ ở đây. Xe tăng có càn cũng phái vòng lên Ngã Ba Cây Trắc rồi mới xuống đây được. Như vậy mình có đủ thời giờ cuốn gói. Còn nếu nó đổ chụp thì trên núi nó cũng đổ được ở đâu cũng thế thôi. Cứ mười lăm phút là nó đến nơi.

Tám Hà nói:

– Bây giờ cậu về đây đem áp dụng pháo nhẹ thử coi. Đó là hi vọng của ở trên. Nếu khống chế khuấy phá được tụi Đồng Dù thì Củ Chi mới mong ngóc đầu nổi. Chỉ ngóc đầu thôi, còn tiêu diệt nó thì không thể.

Tôi hỏi:

– Vậy còn đạo quân đầu tóc của bà Năm Đang, anh?

– Xù lâu rồi. Cậu đã từng đạo diễn cái đạo quân hồi năm ngoái cho thẳng Bọ Chét quay phim, cậu biết nó như thế nào rồi. Sau vụ Đồng Khởi 1960 tụi nó đang choáng váng mình mới được đám quân vận yếm mang ra chận đại bác, nhưng chỉ vài tháng là tụi nó tỉnh lại, tụi nó đối phó hữu hiệu ngay. Đàn bà con gái láng cháng ra đó nó bắt nhốt bỏ đói một ngày, rồi trước khi thả, nó vẽ khẩu hiệu trên áo trên nón cho về.

– Khẩu hiệu gì anh?

Tám Quang lắc lư, Tám Hà bảo:

– Thì anh cứ nói cho cậu ấy nghe chớ có gì mà giấu?

Nhưng Tám Quang vẫn lặng thinh. Chuyện đánh trâu của các bà các cô tôi đã nghe cô Là nói đầy tai rồi. Chúng nó kẻ khẩu hiệu bằng dầu hắc Đả đảo Hồ Chí Minh. Đả đảo Mặt Trận côn đồ, nhưng tôi làm bộ ngớ ngẩn chơi thôi. Đi với cô xã đội tôi còn được nghe nhiều việc lạ hơn nữa cơ!

Tám Quang bắt sang chuyện công tác:

– Tôi đã bàn với Năm Lê tức là Sơn Tiêu, cậu nghe lâu rồi mà !

-Dạ!

– Tạm thời cậu về nhận trách nhiệm ở H6 tức là Ban Pháo binh. Hai Giã trưởng ban đang bị kỷ luật, đưa về R cũng khó coi cho ổng, nhưng để ở lại chỉ huy thì lính không phục, nên Năm Lê cho ổng đi công tác các quận một thời gian nguôi nguôi rồi sẽ tính sau. Cậu về đó tuy với trách nhiệm phó ban nhưng thực ra là Trưởng ban vì ông Sáu Phấn chỉ làm công tác đảng chứ không biết pháo binh. Tôi chắc cậu không thắc mắc gì!

– Dạ không.

– Cậu về ráng quậy cho H6 lên lên một chút, để ông Ba Xu ổng rằn ri quá sá. Còn vụ móc thằng em thì có Chín Lộc Sáu Huỳnh tiếp sức. Cậu chỉ phụ một tay thôi.

Chương 39 Con chích choè liếng khỉ

Ra đường xe dứa, Chín Lộc chở tôi phăng phăng chạy về hướng Xóm Bưng. Tưởng ai đâu lạ, ai dè cũng là dân Rừng Sát. Hồi đó Tám Quang mê chị Dưỡng con gái ông Ba Dương nhưng có lẽ vì ông ta nói chuyện chính trị nhiều quá nên chị không chú ý mà lại đi yêu một anh vốn là lính Nhựt. Còn Chín Lộc thì ở trong tổ chức Liên Hiệp nghiệp đoàn của ông Mười Thìn. Chín Lộc còn có biệt hiệu là Chín Rổ hoặc Chín té thùng đinh vì anh bị đậu mùa hồi nhỏ.

Tôi ngồi sau poọc-ba-ga ôm ngang eo ếch anh. Anh vừa đạp vừa nhắc chuyện cũ với tôi. Một chập, khi chạy ngang qua một vùng đất còn mùi cháy khét, tôi hỏi:

– Hồi sáng này nó đánh ở đâu vậy anh Chín?

– Gần Gót Chàng, chỗ nhà con Bảy Mô ?

– Cô ấy có sao không?

Có lẽ nghe giọng hoảng hốt của tôi, anh Chín đoán là tôi có quen, nên hỏi:

– Bộ cậu biết Bảy Mô à?

– Dạ… ạ, có quen.

– Nó đánh gần đó thôi, nhưng miểng văng vô tới chỗ tôi ở nghe rẹc rẹc.

Rồi anh nói ngay không giữ miếng thủ thế gì cả :

– Cậu là Trưởng ban Pháo binh, tôi là Trưởng ban Quân báo, ngang cấp với nhau. Coi bộ cô Thảo có cảm tình với cậu lắm.

– Dạ, tôi mới về đây đâu có quen nhiều anh Chín!

– Nó là con nuôi của ông Eo đó, đừng có mó vào mà bị thịt.

– Eo nào?

– Tám Quang là dân khu nem. Nghe nói tiếng mà không biết à ?

Chín Lộc đưa tôi vào một ngôi nhà trống hốc không còn vách phên, bên trong chỉ thấy một bộ ván gõ ba, kiểu ván gõ nhà má Hai tôi nằm ngủ năm ngoái, nhưng chỉ còn hai tấm. Một tám chắc bị khênh đi làm nắp hầm. Mái ngói đã bay hết một phần trông thê thảm quá.

– Có quen với Sơn Tiêu, F300 ở Thọ Xuân không?

– Tôi biết ổng lâu hơn nữa mà !

– Lủy và Tám Eo có vẻ không ăn giơ với nhau. Một tay là quân sự, một tay là chánh trị, tôi là quân báo bị kẹp ở giữa lắm lúc không biết ai là xếp của mình.

– Về mặt tổ chức thì anh ở bên ông Năm Lê chứ!

– Phải rồi, nhưng Tám Quang thì có chân trong khu ủy, còn Năm Lê bị một cái ô đeo trên cổ nên đứng giàn ngoài, bị lép vế hơn Tám Quang.

– Vậy anh đi hàng hai bẹt giò mệt quá hả?

– Tháng nào cũng họp nghe báo cáo tình hình nội bộ mà nhức cả óc, toàn ô một không thôi. Cậu biết vụ vợ Năm Lê làm rùng beng trên R chứ?

Tôi chối bức.

– Bà ta đi về thành một mạch, tuột bỏ chức khu ủy viên, lấy sĩ quan Sàigòn ngay và cho hai thằng con trai đi học Thiếu Sinh Quân ở vũng Tàu. Có lẽ để chúng nó trả thù cho má chúng chắc.

Vừa đến đó thì xuất hiện một cô gái xinh xinh loắt choắt như con chích chòe, đạp xe tới. Chín Lộc hỏi:

– Con Ua đó hả? Có công tác đây nè. Chuẩn bị đi mau lên.

– Ai biểu chú đi lâu quá, cháu đợi hoài không được, nên cháu qua nhà chị Mô chơi.

Cô gái dựng xe nhảy xuống rứt một trái trong nải chuối máng trên ghi đông xe đạp, lột võ đút vô miệng nhai nhồm nhoàm vừa hất hàm với tôi:

– Ông thầy pháo là ông này đây hả?

– Người ta về thay ông Hai Giả đó nghe con, đừng có giỡn mặt!

– Coi như con ổng vậy!

– Ủa! Tuổi trẻ tài cao mà con!

– À phải phải. Tài không đợi tuổi. Napoléon làm xếp mấy ông già dềnh lúc mới ba mươi hai tuổi. Napoléon về đây cũng trở thành Nã-pồ-lê-dông thôi!

Cô ta phát âm rất đúng. Chín Lộc bảo tôi:

– Nó như con trai vậy, cậu đừng chấp nhứt! – Rồi quay lại cô bé, – Mày đèo ông này về nhà trước. Tao còn phải đi qua ông Năm Lê . Nè , chở cẩn thận nghe ! Có chuyện gì mười cái đầu mày cũng đi đứt. Trường ban H6 đó !

– Bự quá dzậy, con không có dám đèo đâu.

– Để tôi chở cho.

– Xí bộ coi thường con nhỏ này hả?

Chín Lộc ra góc nhà cầm cái gáo múc nước trong khạp da bò ực một hơi rồi bảo:

– Nay mai mày là nhân viên của ổng đó !

Chín Lộc nói rồi quay đi. Cô bé tên Ua đưa nải chuối cho tôi bảo:

– Đói bụng ăn vài trái đi. Chị Bảy Mô cho… đó.

– Bữa nào chở … qua đó làm quen được không?

Cả cô gái lẫn tôi đều không biết xưng hô như thế nào cho đúng vai vế nên cứ nói ngang ngang.

Tôi móc trong xắc-cốt ra một gói kẹo (của Thảo cho lúc nãy chưa kịp ăn)

– Ăn kẹo đậu phọng không ?

– Ừ đưa coi! Bộ người ta không có tên sao mà phang trơn trơn vậy?

– Tên gì?

– Không nghe ông Chín kêu hồi nãy à? Nhắc lại nè: Ua! Thôi Ua ăn một miếng thôi.

Bỗng nhiên Ua kêu tôi bằng cậu.

– Cậu dìa hồi nào vậy? Chắc là Mùa Thu thứ dữ.

– Có ăn thịt ai không mà dữ?

– Mấy ông Mùa Thu về trước cậu, ông nào ông nấy đầu bạc phếu hoặc sói sọi còn cậu sao mà tóc đen mun vậy? Mà Ua coi cậu hơi giống…

– Giống ai? Giống má Ua hả?

– Giống sĩ quan Sàigòn!

– Trời! giải phóng mà bảo giống sĩ quan Sàigòn!

Ua bước tới đập vai tôi:

– Ua nói vậy tức là nói cậu coi đẹp như người Sàigòn.

– Bộ Ua ở Sàigòn mới vô hả?

– Ua có đi học ở ngoải. À, mà cậu có mợ chưa?

– Mợ gì mà mợ?

– Nếu chưa Ua dắt cậu qua nhà chị Bảy Mô. Hai bên coi bộ xứng dữ.

Nghe Ua nói, tôi như thấy góc vườn sầu riêng thơm bát ngát, bờ suối róc rách hai đứa ngồi ăn sầu riêng mà đờn măng-đô. Ừ, cách đây không lâu, lúc Tư Linh tiếp thằng Bọ Chét.

– Chỉ có nhà không?

– Ở bển chớ đâu. Muốn qua không ? Ua tạt qua đó rồi hãy đi không trễ.

– Thôi, để khi khác.

– Khi khác là khi nào. Tình hình này hễ nói là làm, cho cái kiểu khi khác là đi tuốt. Nói cho cậu biết người Rờ, người Khu, người Công trường bu chỉ dữ lắm!

– Bu thì bu chớ Ua bảo tôi làm gì?

– Thì cưới liền đi! Rồi dắt đi chỗ khác chứ ở đây không có thọ được đâu.

Tôi cười ha hả, rồi tôi dắt xe ra đường, và nói.

– Thôi đi. Đừng có ở đó mà nói bá láp.

– Cậu thứ mấy ! Chắc là thứ Hai. Cậu Hai nhận Ua làm cháu được không?

– Thì cũng được nhưng tôi không có tiền đâu mà cho.

– Ua không cần ba cái quần áo, đồng hồ gì đâu. Ua chỉ cần cậu thương cháu như ba cháu thôi.

– Vậy thì được .

Ua đưa tay cho tôi.

– Được thì ngoéo tay đi, không có quác nghe!

Ra khỏi mối đường Ua nhảy lên xe gọn gàng, tôi ngồi lên poọc-ba-ga nhưng không dám ôm eo ếch. Biết tôi ngại, Ua bảo cứ ôm mạnh đi không sao đâu. Đạp đi một khúc, Ua bảo:

– Thôi, mình làm anh em đi cho nó thân mật.

– Muốn gì thì muốn.

– Nhưng không có cái kiểu em nuôi như mấy ông già ó đâm đâu đó nghe.

– Anh không chơi cái trò đó đâu.

– Vậy chốc nữa về nhà em biểu ngoại nấu chè cho hai anh em mình kết nghĩa với nhau. Ôm chặt đi. Gần tới khúc đường bị pháo nổ lởm chởm, em lạn nhanh lắm, không thua gì anh Lạn đâu. Ôm lỏng coi chừng lật gọng đó.

– Biết cậu Lạn nữa à?

– Ba ảnh kêu vô đi học Liên Xô, không biết sao cả năm nay cứ làm giao liên.

– Còn Ua?

– Hà hà . . . anh hỏi trúng tẩy, em hết chối. Em cũng được kêu vô đây đi học… Liên Xồ… ồ!

Ua cười lớn, chiếc xe chạy loằn ngoằn, tôi suýt bật ngửa.

– Em học đệ thất rồi đó.

– Sao ông Chín dời xuống Bàu Chứa gần Đồng Dù vậy?

– Ở xóm Bung thì gần Trung Hòa. Chỗ nào cũng vậy thôi ! Hay dở là ở cặp giò và thính cái tai, ông Nắp Bồ Lê dông ạ ! Có lẽ ở gần Đồng Dù chỉ sợ pháo thụt thôi còn B52 thì khỏi lo. Nếu ở Xóm Bưng và Gót Chàng thì sợ đủ thứ vì nó xa Trung Hòa và Đồng Dù pháo bắn cũng tới, bom bỏ cũng dễ mà B52 thì càng dễ hơn.

Chạy một quảng, Ua trỏ về phía tay phải, bảo:

– Nóc chuồng cu bót Trung Hòa kia kìa. Quái nhỉ, cái bót này đi đâu cũng trông thấy nó đi theo mình.

Đạp một lúc, Ua lại bảo:

– Xuống đây đi anh. Tới rồi!

– Tới đâu?

Tôi vừa nhảy xuống vừa hỏi, nhưng hỏi xong thì nhận đây là nhà… Ua bước lên thềm nhà, vừa đi vừa réo.

– Ghé nhà chị Bảy chơi một chút đi anh. Hồi nảy em qua chị Bảy chơi, chỉ xôi sầu riêng cho em ăn. Nhưng em sợ ông Chín Lộc về không có em ở nhà ổng la, nên xôi chưa chín mà em phải rút lui. Đi vô đi anh. Chị Bảy ơi, ra có khách.

Từ dưới bếp Bảy Mô chạy ra.

– Khách nà . . . o ?

Vừa trông thấy tôi, nàng khựng lại. Tôi cười nói.

– Khoẻ không em?

– Anh đi đâu đây?

– Thì đi đây chớ đi đâu!

– Em nghe nói anh về R rồi mà !

– Về rồi chớ sao! Nhưng nhớ… Củ Chi quá nên phải trở lại. Thế nào, em có bắt được thêm Mỹ không?

Bảy Mô làm thinh hơi ngó xuống, đôi má ửng hồng vì lửa than trong bếp hay vì thẹn. Ua cười ré lên.

– Hai ông bà quen lâu rồi mà hồi nãy em hỏi, ảnh làm bộ không quen.

Rồi Ua cười khúc khích.

– Mời anh vô trong nhà ! Mời anh Bảy vô nhà !

Tôi đi theo Mô. Bên trong, bàn ghế vẫn còn nguyên tại chỗ. Chiếc tủ thờ khảm xa cừ vẫn còn đứng đó. Một chiếc bị đạn xuyên qua bên hông. Bất thần tôi ngó lên nóc. Một vùng ngói vỡ để hở một khoảng to trên nóc.

Tôi vừa đi vừa ngó. Không khí có vẻ vắng vẻ lạ lùng. Tôi không thấy cây măng-đô treo trên vách nữa. Tôi hỏi:

– Chị Tư Mai có về không em?

– Chỉ được tin anh Tư sao đó, chỉ rầu lắm.

Tôi đoán biết là chuyện gì rồi. Cũng như chồng cô Lụa và nhiều thanh niên khác đi Bình Long Phước Long vậy thôi, nên tôi không hỏi thêm nữa. Tôi hỏi ngang ngang.

-Ba không về à?

– Dạ không.

– Cây đờn đâu?

– Em giấu trong hầm, dây sét hết rồi.

– Lúc này chắc không thể đờn như trước nữa.

Bỗng Ua la lên:

– Em quên bỏ công văn quan trọng rồi chị Bảy ơi, để em trở lại lấy. Anh Bảy ủa anh Hai ở đây chờ em chút nghe.

Nói xong Ua chạy đi, nhưng còn quay lại – Có gì, chị dắt ảnh chạy xuống hầm dùm em nghen. Em giao ảnh cho chị. Ảnh là con cưng của mấy ổng đó !

Nói xong chạy biến đi. Bảy Mô nói:

– Con nhỏ đó lanh lắm anh ơi!

– Nó cũng bỏ học ra đây hả ?

Tôi vừa đi song song với Bảy Mô ra sau bếp vừa trò chuyện. Bảy Mô nói:

– Má nó bán hàng ngoài chợ Củ Chi. Bả là đầu mối của ông Chín Lộc. Con nhỏ này ra vô chợ dễ dàng. Lính quốc gia thấy nó bé nhỏ, loắt choắt nên coi thường. Nhờ vậy nó lấy được nhiều tin tức của mấy ổng.

– Tình hình dũng sĩ bây giờ ra sao em?

Tôi ngồi trên bộ ván ở nhà bếp. Đây không phải là chỗ ngồi của khách, nhưng Bảy Mô coi tôi như người thân, có thể vượt qua mức đó .

– Anh đi hội mừng công hả?

– Ừ| Mới lụi hụi đây mà đã một năm.

– Đội đặc công nào đánh sân bay anh biết không?

– Anh không biết!

– Anh đi dự mà sao không biết? Đài Giải phóng nói hằng ngày. .

Tôi không muốn Bảy Mô biết rõ cái danh hiệu anh hùng rởm của tôi nên đặt chuyện nọ chuện kia nói lãng ra, nhưng Bảy Mô cứ hỏi tới. Bực mình, tôi bảo:

– Chẳng có thằng nào còn sống mà về dự cả nên ở trên bắt anh đại diện đấy, hỏi nữa thôi!

– Vậy anh là anh hùng à?

– Thì cũng xém xém như vậy !

Bảy Mô cười, cái cười mỏi mệt nản chí:

– Kỳ này anh về , có anh Tư Linh không?

– Hắn bận!

– Em sợ ảnh quá đi! Vái trời ảnh đừng có dắt thứ nhà báo tới đây nữa ? Ảnh bày đặt nhiều chuyện làm cho đội của em quay mòng mòng.

– Từ khi Mỹ vô Đồng Dù đội em có lập thêm thành tích gì không?

– Đang xây dựng cái vành đai thép. Anh có gì giúp tụi em không?

– Biết giúp cái gì bây giờ. Em phải đề nghị cụ thể lên ông Tám Quang. Ổng đỡ đầu tụi em mà.

– Ổng có hứa, nhưng chưa thấy cho thêm gì hết.

– Nếu có cối 60 ly anh sẽ dạy cho các em sử dụng.

– Bắn chính xác không? Hay trái nào cũng lọt vô trường học cho dân bất mãn đó nhà pháo?

– Bộ có xảy ra rồi à?

– Chưa xảy ra, nhưng em sợ trường hợp đó lắm.

– Trước nhất em phải có một bản đồ chính xác.

– Cái gì chớ cái đó thì vô phương rồi !

– Thôi để thong thả anh lo.

Nhận thấy trong đôi mắt người con gái đượm một vẻ buồn áo não, tôi hỏi:

– Tình hình đội bây giờ ra sao em?

Bảy Mô lặng thinh hồi lâu mới đáp:

– Đang xốc tới dữ lắm, nhưng không có điều kiện!

– Vấn đề đó không đáng ngại. Em cứ giữ vững tinh thần đội, rồi tình hình mới này sẽ có trang bị mới rất hiện đại.

Tôi thấy bếp không có lửa khói gì. Xôi sầu riêng thì phải nghe mùi từ ngoài cửa chớ ! Con Ua lừa mình vào đây. Cũng tốt thôi? Tôi ngó ra cửa sau. Tôi hoảng hốt kêu lên:

– Sao vườn sầu riêng như vậy Mô?

– Nó rải chất độc!

– Vậy à? Cả vườn tược đều thế này à ?

– Chỗ nào xanh xanh rậm rậm là nó rải. Vậy con Ua chở anh qua mấy lô cao su, mấy khu vườn, những miếng rừng chồi anh không thấy dấu vết hóa học à?

– Có thấy chớ ! Anh thấy từ trên Trường Sơn kia mà . Gần đây nhất là Trảng Cỏ.

Tôi đến đứng ở bệ cửa nhìn ra vườn. Sầu riêng đứng rủ lá như những mái tóc bạc bị cắt cạo nham nhở. Tôi trở lại ngồi ở góc ván và thở dài:

– Tiêu hết vườn rồi.

Hình như câu nói động đến tâm can người con gái, nên nàng né qua cho đỡ đau. Nàng hỏi:

– Không hiểu ông nhà báo gì đó về tới ngoải chưa?

– Về tới lâu rồi chớ.

– Rồi làm sao?

– Làm sao cái gì?

– Ổng quay phim địa đạo mà chỉ quay cái miệng địa đạo thôi, không quay được lòng địa đạo thì tuyên truyền cái gì được hả anh?

Tôi bí nên hút thuốc lấy oai. Bảy Mô tiếp:

– Cái trận địa đạo chiến ổng quay kỳ thấy mồ mà ổng khen nức nở. Em nhớ lại thấy mắc cỡ quá trời.

Tôi nhìn Bảy Mô. Nàng gầy sút đi nhiều. Mắt sâu, gò má nhô lên, tóc tai xơ xác trông như một người đàn bà trung niên. Tôi suýt nói câu gì, một câu thật vô nghĩa, nhưng Bảy Mô đã tiếp:

– Anh Tư Linh thiệt là sáng kiến đầy mình. Cái địa đạo chiến của ảnh chắc nay mai tụi Mỹ phải nghiên cứu dữ lắm.

– Em cũng biết, đó là tuyên truyền mà Mô !

– Nhưng quay phim như vậy đem ra thế giới người ta tưởng thiệt, người ta lại gởi thêm nhà báo đến phỏng vấn tụi em rồi tụi em làm sao?

– Tám Quang sẽ dạy cho mấy em cách trả lời, lo gì.

– Rồi rủi người ta muốn quay phim địa đạo chiến nữa rồi làm sao?

– Thì các em cứ đánh địch kiểu đó cho người ta quay chớ sợ gì?

– Sự thật du kích có bao giờ đánh giặc kiểu như thế đâu. Miệng địa đạo có bao giờ gần đường cái như vậy để khi rút lui chúng em có thể dỡ nắp mà chui như anh Tư Linh đã bố trí. Nếu miệng địa đạo gần đường như vậy thì tụi lính nó tìm thấy ngay. Tụi nó có chó đánh hơi mà ! Nếu không bị chó thì xe tăng cũng cán nhẹp. Hơn nữa đánh giặc mà chạy chui hầm kiểu đó thì họa may chúng em có phép thần thông và thằng địch đui.

Tôi biết chuyện địa đạo chiến là kiệt tác của ông Tư Linh phỏng theo địa đạo chiến của các ông cố nội biên tập đài Giải Phóng và đài Hà Nội, cố nhiên với Tư Linh nó có mùi đất và lá khô hơn. Do đó nó làm cho tên Bọ Chét, mụ đầm già và các giáo sư Liên Xô tưởng thật. Chứ bạn đọc thử nghĩ về hai điều này: kẻ địch là mục tiêu di động còn địa đạo là một vật cố định. Làm sao có thể bắt địch đi theo ý đồ của mình được? Những người phịa ra địa đạo chiến không hề biết chiến trường Củ Chi trong giai đoạn Mỹ vào Việt Nam, đặc biệt khi có cái chốt Đồng Dù ở ngay giữa rốn Củ Chi. Trong chiến tranh chống Pháp, sở dĩ các trận Là Ngà Bầu Lá (khu 7) Giồng Dinh, Phong Phú (khu 8), Tầm Vu, Sóc Xoài (khu 9) đem lại thắng lợi vẻ vang là vì chúng chỉ có một con đường Huê Dung Đạo mà ta đã nắm được trước. Do đó các trận Vận động chiến kể trên hoàn toàn thắng lợi.

Các ông chiến thuật gia nằm trong dinh thự Hà Nội không biết Mỹ là cái gì, cứ cong lưng xúi giục dân Nam kỳ thừa thắng xông lên để làm vui lòng Bác. Sự thực, nếu bác biết được bác càng buồn. Nổ súng đánh Mỹ đã khó rồi. Khi nổ súng xong còn khó và nguy gấp trăm. Nó xúc quân chỗ này đổ qua chỗ khác, gọi là nhảy cóc, mình không đối phó được. Trực thăng có thể đổ ngay sau lưng mình, hoặc chúng bỏ hẳn chiến trường, rồi về nhà uống la de cho bom pháo dập mình tan tành. Nên nhớ rằng Củ Chi có thể bị khống chế bằng nhiều giàn Pháo từ các phía Đồng Dù, Trung Hòa, Củ Chi, Bến Cát, Lai Khê… Đánh xong, rút lui càng khó. Trực thăng nó đuổi theo. Thường thường số tử vong trên đường rút lui lại cao hơn số tử thương tại trận địa. Làm thế nào một trung đội du kích đánh xong chạy chui hầm được? Nếu chui xuống hầm mà không ngụy trang kỹ, chúng sẽ tìm ra miệng hầm ngay. Hoặc không cần khui hầm, chúng cho pháo bắn, hoặc máy bay bỏ bom. Cuối cùng, xin nói cho ông Đại tướng cù lần Sáu Vi rõ là đếch có ông bà du kích nào dám dùng chiến thuật địa đạo chiến hoặc nắm thắt lưng Mỹ mà đánh cả ! Hoặc quát thẳng vào những lỗ tai trâu: Ở Củ Chi không cái gì gọi là địa đạo chiến. Đánh Mỹ khó hơn đánh Pháp một ngàn lần.

Cho nên nghe Bảy Mô phàn nàn ông Tư Lịnh nhà tôi, tôi tìm cách chống chế. Nhưng Bảy Mô là người con gái có học chứ không phải con cái bần cô nông, nàng không chịu im.

Nàng nói:

– Kỳ sau có ông nhà báo ngoại quốc nào tới thì em xin vắng mặt.

– Chắc không có ông bà nào đến nữa đâu. Họ ớn cái Củ Chi này thấy tía rồi. Đó là tình hình năm ngoái, hồi Đồng Dù mới thành hình, năm nay nó xây dựng xong xuôi rồi. Dù có ông bà nào uống mật gấu mà xin đến coi… cái đầu tóc của bà Năm Đang ủa, xem cái đội quân đầu tóc của bà Năm Đang anh cũng không dám nhận. Lỡ nó nhảy dò, nó bắt được một ông mũi lỏ hoặc một bà tóc vàng trong khu ta thì bỏ mẹ !

Bảy Mô lẫm nhầm một chốc rồi lại hỏi:

– Cái ông Bọ Chét đó là đảng viên Cộng Sản hả anh?

Tôi đáp với vẻ tự hào.

– Đúng! ông ta là đảng viên Cộng sản Quốc tế đó.

– Vậy nên ông mới dám lũi vô đây chớ tụi đế quốc nhát hít. Quốc tế Cộng sản được mấy ông đảng viên như vậy, anh?

– Chắc nhiều lắm!

Bảy Mô cười:

– May mà chỉ có một ông đến Củ Chi !

– Sao vậy?

– Chị Hai Khương bỏ việc làm ở xưởng may của Quân Nhu rồi.

Tôi nhìn Bảy Mô, cô bé này ác thật ! Hai Khương là người đàn bà có chồng đi Giải Phóng quân biệt tích ở Bình Long. Năm ngoái, khi Bọ Chét đến đây lấy đề tài địa đạo chiến thì Hai Khương được dùng về phương diện phục vụ nhằm giúp đồng chí ta nếm biết mùi Việt Nam nguyên chất. Sau đó cả làng, cả quận đều hay. Hai Khương phải bỏ xứ, cô ta đi đâu không ai biết. Viết đến đây tôi muốn thét lên: “Địt mẹ mày thằng Hồ tặc. Mày đã làm cho cả dân tộc này điếm nhục không ngóc đầu dậy được”.

– Cô ta đi đâu?

– Không biết anh à !

– Tại sao lại bỏ việc làm mỗi ngày kiếm được 200?

(Tôi quả là thằng đóng kịch đại tài.)

– Em không biết.

Nàng biết chớ sao không. Nhưng nàng chỉ muốn nhắc lại cho tôi nghe đến đó thôi. Để trách móc chăng? (vì lúc đó tôi được ông Tám Quang chỉ đinh hụ hợ với Tư Linh) Nếu nàng trách móc thì cũng phải. Vì việc đó làm xấu mặt phụ nữ giải phóng và nhục cả triều đình nhà Hồ. Ai có thể ngờ rằng thằng nhà báo chó chết đó sang đây lại đòi biết mùi Việt Nam. Bọn quân báo sợ nó đổ bệnh cho Hai Khương, hoặc bỏ con trong bụng nàng rồi quất ngựa chuối dông mất, nên đã khuyên khéo hắn nên dùng áo mưa, hắn trân tráo bảo: Tôi muốn biết mùi Việt Nam nguyên chất!Nhục ngập đầu Hồ chủ tịch vô vàn kính yêu ơi ! Bây giờ đây hắn đã gặp Bác ở suối vàng. Hắn có thể cho bác ngửi tí mùi Việt Nam mà hắn mang theo khi rời Củ Chi. Khi tôi viết đến đây thì Đỗ Mười (cái tên mà tôi cho là có bộ mặt tướng cướp và ăn nói hồ đồ nhất trong cuộc đấu tố Nhân Văn Giai Phẩm ở Hà Nội), Tổng bí đao Việt Cộng đang quì dưới háng Đặng Thánh Chúa để dâng hàng sớ. Rồi tôi bỗng nhớ đến mấy câu thơ của tên Tố Bịp:

Liên Xô nở trước đời tôi ba tuổi. Hai mươi năm gội nhục ướt đầu xanh.

(Hắn sanh năm 1920)

Nay tôi xin họa lại:

Liên Xô nở như một loài hoa cứt chó. Bảy mươi năm đội nhục ướt đầu thằng ngu.

Nhục từ tổ tiên nhục tận đến con tận cháu. Bây giờ đây cái nhục được phân phát bằng từng ô phiếu cho mỗi người Việt Nam. Tôi không biết nói gì nữa. Cũng may vừa lúc đó lại có tiếng máy bay.

– Sâu Rọm tới Đồng Dù anh ạ !

Tôi vừa bước ra cửa vừa hỏi.

– Sao em biết?

– Nghe hoài mà sao hổng biết. Nó chở cà-nông tới Đồng Dù đó .

– Sao em biết nó chở cà-nông?

Bảy Mô đứng dậy ra ngoài rồi bảo:

– Anh ra đây coi. Cái cục đen dưới bụng nó dài dài thì đó là cà-nông. Vài bữa nữa sẽ có bố ráp vùng này.

– Sao em biết?

– Em linh cảm và lần nào cũng đúng cả !

– Chứ không phải có tin gì à?

– Lắm khi cũng có bà con đi làm ngoài đó về trong này nói lại.

– Bà con mình đi làm cho nó đông lắm sao?

– Đông lắm vì lương cao. Như chị Hai Khương làm cho quân nhu chỉ có 200 một ngày, còn ngoài đó bét cũng 500.

– Làm gì?

– Đủ thứ từ thợ thầy, thư ký, giặt quần áo, quét nhà và làm gái điếm.

Tối kêu lên. Bảy Mô nói.

– Vợ ông X… đại đội phó cũng đi làm cho nó mà.

-Kỳ vậy!

– Như vậy mới có tiền nuôi con và tiền cho chồng xài trong khu chớ anh.

Thôi vậy là hết. Lại một thứ nhục khác.

Tôi quay vào nhà. Thấy lạnh lẽo quá, không ngồi được nữa, tôi trở ra đi về phía vườn. Bảy Mô bảo.

– Anh vào đi, em đóng cửa! Đóng cửa im ỉm ngộp quá nên em mở ra một chút cho thoáng hơi, nhưng không khí ở ngoài vườn tràn vào, em thở nãy giờ nghe tức tức ngực, anh có nghe thấy không?

Tôi sực nhớ lúc vượt các trạm giáp ranh khu IV băng qua các vùng bị khai hoang bằng hóa học tôi cũng thấy ngực hơi tức. Nhưng ở đây chưa bị nặng nề nên chưa thấy tức lắm.

Bảy Mô đóng cửa lại, hai đứa ngồi ở phía trước. Trong nhà không có ai ngoài chúng tôi. Tôi chờ đợi ở Bảy Mô một câu gì. Và có lẽ nàng cũng chờ đợi tôi thốt ra một câu gì. Nhưng không ai nói gì cả. Mặc dù thế, ai cũng biết câu chưa nói ra đó là câu gì, một câu ngoài công tác.

– Rồi cây đờn đâu?

– Em bỏ luôn rồi.

– Ban đêm em ở nhà một mình vầy à?

– Có vài ba cô nữa đến ngủ với em vì nhà em có hầm chắc. Ba em về làm hầm rồi bỏ đi ra ấp chiến lược, vì ba bảo hầm không chịu nổi cà-nông.

Tôi nói láo với Mô.

– Chú Tám Quang nói cái vành đai thép của mình bao quanh Đồng Dù bảnh lắm hả em?

– Ừ! bảnh lắm. Anh muốn coi không?

– Để hôm nào rồi đã !

– Muốn đi xem anh phải chuẩn bị cặp giò để chạy.

– Tại sao vậy?

– Có khi tụi Mỹ nó ra nằm ở mấy hang ếch của mình trước. Mình vừa lú ra nó ria cho chạy tét quần rồi nó kêu pháo dập.

Bé Ua đã trở lại. Chiếc xe đạp hiện ra trước ngỏ với mái tóc cắt ngắn như học trò.

– Sao, hai ông bà đã cơm nước xong chưa?

– Nước thì đang uống còn cơm đã ăn rồi, bụng dạ đâu mà chứa nữa?

– Vậy sao chị Bảy hứa cho em ăn xôi sầu riêng?

– Chị tưởng là vườn sầu riêng của chị còn nguyên chớ.

– Ừ, chị chiêm bao giữa ban ngày!

– Còn em có chiêm bao không mà quên công văn?

– Công văn gì? Để khoan em ăn hết vĩ xôi sầu riêng của chị Bảy rồi mới nhớ ra công văn gì.

– Em ngạo chị hả Ua?

– Em bắt chước mơ chị đó chớ. Chị chưa vo nếp mà em tưởng mùi sầu riêng nực mũi ! – Rồi Ua quay lại tôi – Thôi từ giã chị Bảy rồi đi,… anh Bảy .

– Con quỉ, mày đưa cái miệng mày đây, tao vả cho tét lá mía!

Mô trợn mắt đỏ mặt quát. Tôi rời ngôi nhà. Chỉ nói một câu:

– Anh đi nghe Mô ! có dịp nào anh đi ngang ghé chơi !

Bảy Mô ra đến ngõ thì dừng lại, ngó theo. Con Ua đạp ù ù. Mớ tóc đuôi gà bay ngược lại ra sau. Mùi hương quất vào mặt tôi, tôi ngồi sau poọc-ba-ga nhìn lại Bảy Mô. Chắc đôi mắt của nàng dũng sĩ cũng như đôi mắt của Thu Hà lúc nọ. Tôi vụt cảm thấy trong Mô tất cả Thanh Tuyền, Huỳnh Mai, Ba Ánh, Là v.v… chỉ trừ Thu Hà. .

Ua quay lại:

– Anh chịu chưa, hả?

– Đạp đi. Coi chừng lọt xuống hố pháo kìa !

– Em thấy chỉ mết anh rồi đó.

– Thôi, cô thầy bói ! Bị người ta hăm vả miệng mà chưa sợ hay sao?

– Hắc hắc… Em làm bộ quên công văn chớ đâu có quên cái gì. Vậy mà cũng tin. Xí.!

Chương 40 Đấu tranh chánh trị: Ra đồng đánh trâu

Xe chạy boong boong. Bỗng Ua trỏ tay về phía trái:

– Mình ghé bầu trâm uống nước dừa, luôn tiện mình kiếm bậy cặp dừa khô đem về tối nay ngoại em nấu chè….

– Cúng đầy tháng cho em hả?

– Cúng ông bà nhìn nhận anh là anh của em chớ.

– Ba em đâu?

– Em đâu có ba. Ba em đâu em cũng không biết.

Tôi không hỏi thêm gì về gia đình của cô bé nữa. Tôi vụt nhớ vụ ông Nguyễn Văn Thi bị tài xế chở thẳng vô bán cho bót Catinat nên đùa:

– Đừng có chở anh vô tuốt bót Trung Hòa nghe.

– Bậy hoài hè ông mãnh!

Một chút Ua lại hỏi:

– Anh có biết tại sao ông Hai Tốt ôm mười triệu bạc dông vô thành không? Tên Tốt mà không Tốt!

– Không!

– Xí vậy mà cũng lãnh đạo! Tại ông muốn khỏe cái thân chớ sao!

– Nếu ai cũng tính như ông vậy thì còn ai đánh Mỹ ?

– Bây giờ không còn nhiều người chống Mỹ như hồi trước. Họ ra ấp chiến lược chống Mỹ khỏe hơn.

– Bộ cô cũng muốn chống Mỹ kiểu đó hả?

– Em là thiếu nhi mà anh! Em đi đâu cũng được, lính Sài gòn hay Giải phóng đều chịu hết.

Tôi nhìn ra đồng thấy một chòm cây, bèn hỏi:

– Bàu Lách ở đâu còn Bàu Trăn ở đâu?

– Bàu Lách gần Bến Đình kia cà còn Bàu Trăn thì mình cứ đi theo con đường đá đỏ này chút nữa thì đến Bàu Trăn, kế đó là Bàu Tròn rồi tới Bàu Chứa là gặp nhà em.

– Sao gọi là Bàu Trăn, Bàu Tròn, Bàu Chứa? Những Bàu là Bàu!

– Gọi là Bàu Trăn vì nó ngoằn ngoèo như con Trăn, ủa không phải, vì ở đó có nhiều trăn rắn. Còn gọi Bàu Tròn là vì nó hình tròn như cái bụng chữa, còn Bàu Chứa…a..a,. là vì nó giống cái bụng chửa hình tròn. Hắc hắc hắc, hỏi nữa thôi. .. Nhưng bây giờ không ai xài mấy tên đó nữa. Người ta gọi Bàu Trăn là Bàu Tăng, Bàu Tròn là Bàu Bom và còn Bàu Chứa là Bàu Pháo vì mấy cái bàu này chuyên môn bị xe tăng càn bom bô pháo bắn.

– Từ Bàu Pháo đến Đồng Dù bao xa?

– Không quá một tiếng đồng hồ . Để em chỉ cho. Chừng nào anh muốn đi thì đi khỏi lạc đường.

– Bộ em nói anh sắp theo Mỹ sao hả ?

– Em không nghĩ như vậy đâu.

(Chẳng ngờ năm 1970 tôi làm Nâp-bồ-lê… .dông thật!)

Ua tiếp:

– Nếu đi thẳng đi qua suối Là tới Xóm Cầu Mới rồi đụng đường Hai Làng là thấy mấy cái tăng của Mỹ lố nhố rồi. Bên đó là chợ Bắc Hà ngay trước cửa Đồng Dù. Cái chợ này nằm trên đường số 8 đi chừng một cây số nữa thì tới ngã tư Củ Chi. Nếu anh vọt xuống thì chỉ một tiếng rưỡi là tới Sài gòn. Bay lên thì ba tiếng tới Tây Ninh, chạy thẳng thì một tiếng rưỡi tới tỉnh lỵ Hậu Nghĩa. Anh dám ra Củ Chi chơi không? Thay quần áo, anh với em đi bây giờ nề !

Nghe con bé nói mà chua chát trong lòng. Từ Tà Bon về tới đây ít nhất tôi phải lội một tuần lễ , đạp xe đạp đường nhựa thì ba tiếng đồng hồ, còn trực thăng chắc mười lăm phút. Đó là tốc độ hành quân của địch và ta. Từ đây mà về nhà tôi thì có lẽ mất bốn tiếng đồng hồ xe đạp. Ý nghĩ đó làm tôi nôn nao tấc dạ :

– Đưa anh đạp cho một hồi!

– Em còn đủ sức đạp tới Sài gòn mà, lo dữ hôn!

Chúng tôi qua một khu rừng cao su, chạy trên con đường mòn bọc quanh một cánh đồng đến một xóm còn nhiều tre trúc ba quanh những ngôi nhà ngói xưa như nhà của Má Hai ở Phú Mỹ Hưng. Nhiều nhà vách lá, vách ván cũng còn nguyên. Những cây rơm vàng cao nghệu nhắc cho tôi những kỷ niệm thắm thiết ở quê nhà . Trâu buộc ngoài bờ tre hai bên lỗ tai lúc nào cũng hoạt động xua muỗi mòng. Ước gì tôi bỏ hết ba cái thứ lỉnh kỉnh trên lưng tôi để nhảy lên lưng trâu phóng ra đồng hò hát nghêu ngao như một ông tiên con có trăm phép lạ trên cành roi tre cầm trong tay. Ôi những tiếng dế gáy ran trong mô rạ của tuổi thơ, những ổ chim trên buồng cau sau vườn, những lụi cá nướng trui ăn vội bên bờ đìa.. Tất cả đều lùi lại phía sau. Bây giờ tôi chỉ còn một con đường: đi hoài, đi đã hai mươi mấy năm chưa thấy tới. Ua bảo tôi:

– Bên đó là Xóm Mới ăn thông với lộ 6 chạy ra đụng đường số 7 – Ua chỉ tay – Đó là lồng cu bót Trung Hòa. Cối nó thụt không tới đây, ở đây cây cao su còn nhiều nhưng dân phu đã bỏ đi hết từ lâu rồi. Vì mình vô đó lập căn cứ, đào hầm hố lung tung beng.

– Anh không ngờ ở đây có nhiều cao su như ở Hố Bò ! Mà ở đây có địa không em?

– Địa gì ở đây mà địa. Đất thấp ngang mặt ruộng. Nếu có đào thì mùa mưa hóa thành ống cống. Du kích và mấy ông cơ quan chỉ đào hầm bí mật thôi, nhưng mùa mưa cũng ngập nước linh lĩnh. Tụi lính Trung Hòa đã bung ra tới đây, nó khui được vài ba cái hầm, nhưng không bắt được ai, vì hầm ngập hết, ai mà ở dưới đó ! Mấy năm trước em còn ở ngoài chợ, em thấy nói một trung đoàn Sài gòn càn vô đây phá nhiều cơ sở trong rừng và ngoài xóm, bắt sống được cả ban chỉ huy tiểu đoàn thuộc công trường 9. Em có chạy ra coi thấy tội nghiệp quá hà. Người nào người nấy ốm tong. – Ua ngưng kể đưa một tay lên che miệng cười khúc khích. – Sau đó vài hôm vô tình em gói đồ cho khách, em thấy một tờ báo vẽ cái hình và chú thích: Ba tên Việt Cộng đeo không rụng một tàu lá đu đủ .

Ua vừa dứt lời thì chiếc xe rẽ vào mối đường, hai bên là lũy tre. Mấy chú trâu nằm im dưới tàng lá xanh rì. Một chú cò trắng đang nhảy trên lưng trâu chĩa những con mòng. Ua chạy vượt qua suýt cán một bãi cứt trâu, rồi lướt nhanh vào một sân gạch rộng. Sát thềm nhà có mấy gốc kiểng nhánh cây quăn queo. Chúng làm tôi nhớ những chậu kiểng ở nhà ngoại tôi, mỗi cội đều trồng trong một chậu sành lớn. Thềm nhà bằng đất, tấn bằng những tảng đá ong nâu sậm mang những vệt rong xanh. Hai bên hiên nhà là những bụi chuối già với những quày trái sai oằn gần đụng đất. Vài vết đạn lốm đốm trên vách bổ kho. Vậy là coi như hạnh phúc hơn những nhà bị pháo bắn trúng lệnh. Ua réo to.

– Nhà chị Tư Bé nè anh. Chị Tư ơi, chị Tư!

– Chị của em chớ chị của anh đâu mà !

– Chị của em, nhưng là em của anh thôi. Anh muốn uống dừa xiêm, để em xin. Làm gì mà nhìn người ta trân trân vậy?

– Để coi cái miệng dân vận uống nước dừa xiêm của em tài giỏi đến mức nào.

Một ông già khỏe mạnh với tấm lưng dài và chiếc quần lỡ quá gối buộc ngang eo ếch bằng một sợi dây lạt, bước ra, đưa tay che mắt:

– Đứa nào đó?

– Dạ , con Ua !

– Con Bé nó đang xắt chuối cho heo ăn ngoài sau. Bộ có chuyện gì sao cháu?

– Dạ có anh Hai trên khu muốn bàn công tác với chị!

Tôi nhìn cái miệng ba xạo của cô bé. Ông già vừa quay lưng vô, thì Ua cũng dựng xe vào thềm còn tôi ngồi xuống, xem qua một lượt hai chiếc lốp xe đạp và cặp vành coi có chỗ nào bị thương không? Xong rồi ngắm kiểng. Những cái cây cổ thụ con này chắc phải đứng đây tới chết chứ ai mà dời cho nổi. Còn đang tần ngần không biết cái vẻ đẹp của những nhánh nhóc cong queo ở chỗ nào. (Lâu quá toàn ở rừng, đâu có thấy gì hơn ma sốt, mặt khỉ và cứt voi. Ý niệm về thẫm mỹ không còn nữa) thì một bàn tay vỗ nhẹ lên vai tôi:

– Anh Hai, chị Tư nè !

Tôi giật mình quay lại. Một người con gái đứng kế bên, cao hơn Ua một cái đầu. Nàng có cặp mắt đen láy và gương mặt trắng trẻo của một cô gái miệt vườn ít ra nắng. Ua nói:

– Anh ở rừng lâu nên thèm dừa. Nhà chị có dừa xiêm thiệt.

– Ừ, có hàng dừa đàng sau nhà !

– Có bị bom pháo gì chưa?

– Mới sơ sơ!… Bị đạn thôi, chưa trúng bom pháo.

– Chung quanh đây không thấy dấu bom.

– Trực thăng nó ria chơi vài loạt cho đã ngứa.

Ua quay sang tôi:

– Kìa anh Hai, anh muốn uống nước dừa thì hỏi mua sao đứng chết trân vậy? Bộ chỉ ngộ lắm hả?

– Con quỉ này ! Vậy mà lúc nãy nó bảo em là có cán bộ khu xuống giúp đỡ địa phương xây dựng vành đai thép bao Đồng Dù… Anh Hai chịu khó ra sau em móc cho anh vài trái uống chơi chớ bán chát gì. Vườn dừa này hổng lẽ đốn hết ngay, nhưng để nguyên thì nay mai cũng ăn hóa học hoặc bom thôi. Nó bắt đầu rải các vùng chung quanh đây rồi.

Tôi theo Tư Bé đi ra sau nhà. Hàng dừa xiêm, thân cây nhỏ nhắn, không to như dừa ta, mọc thẳng một hàng bên mé mương, nhiều buồng nạo nằm phơi trên bẹ mũm mĩm dễ thương trông thấy phát thèm! Bé đưa câu liêm cho tôi và bảo:

– Anh muốn mấy trái thì cứ móc. Để em vô nhà lấy dao.

Đứng bên hàng dừa tôi vụt nhớ vụ trèo dừa ở nhà xã đội phó hôm trước. Cô ta rắn mắc thật. Mà cũng tại vì cô ấy thương mình chứ con gái dù rắn mắc cũng không đến nổi đó. Cô ta bảo mình trèo bẻ dừa ở dưới này, cô vô nhà tắm thoát y ra rồi kêu mình hỏi: Dừa đã nạo chưa? Suýt chút nữa mình buông tay xuống đất.

Ông già (ba của Tư Bé) cũng ra trông chừng. Ông dùng chiếc gàu mo có cán bằng tre múc nước dưới mương dừa tưới rau, hành, bạc hà trên mấy liếp vườn sau nhà bao bọc bằng lá dừa nước. Rồi tưới gốc bầu xanh tươi mà mỗi lá to bằng chiếc mâm, còn dây của nó thì leo lên giữa nóc nhà với ngọn tua tủa bốn phía. Đất cát ở đây có vẻ màu mỡ hơn đất vùng nhà má Hai. Tưới xong, ông đến nói với tôi:

– Chú em ở trên khu mà sao ít xuống đây quá vậy?

– Ảnh trên R mới về đó bác. – Ua đáp hớt.

– Hèn chi tôi chưa gặp, chớ mấy chú Sáu Nâu, Năm Cai, Năm Ngó… đâu có lạ gì cái nhà này. Mấy chú đó xuống đây huấn luyện dân quân làm hầm chông, gài lựu đạn. Còn mấy chú Ba Luân, Hai Mỏ tới đây càng thường hơn.

– Anh Hai này xuống thay ông Hai Giả là ông lấy bà Chín Kiểu nấu rượu ở Bến Mương đó bác Tám?

Tôi trợn Ua. Ua cũng trừng lại tôi. Đã không rút lui mà còn thừa thắng xông lên:

– Chứ không phải à? Cán bộ gì có vợ ở Hốc Môn hàng tháng đều vô thăm mà ở trong này lại đi ở với đàn bà giá cho đến nổi cái bụng bà ta chang bang.

– Con nhỏ thèo lẻo chuyện người lớn! – Tư Bé quát.

– Em nghe chú Chín Lộc và chú Sáu Huỳnh nói hành nói tỏi dữ lắm. Còn ông Năm Cai, ông Sáu Nâu ra sao em cũng biết. Tên Nâu bể rồi bây giờ đổi ra Sáu Tiến.

Tôi thấy hơi nhột cho bạn mình nhưng không bụm miệng nó được. Từ lúc gặp nó tới giờ tôi có nhận xét là con bé này khôn hơn người lớn. Tư Bé bảo:

– Mày bớt bớt cái miệng này lại nghe, Ua !

– Ừ! để mai mốt, còn bây giờ em phải nói để bác Tám biết là không phải cán bộ nào của khu cũng thứ thiệt đâu!

– Nói vậy anh Hai này cũng không thiệt hả?

Ua lúng túng nhưng đỡ gạt ngay:

– Mấy ông đó khác còn anh Hai tôi khác !

– Anh Hai của mày đây à?

– Ừ. Anh Hai của tôi đó, rồi sao? Sẵn dịp chị cho xin vài trái dừa khô đem về tối nay ngoại nấu chè…

– Cúng mụ cho mày hả ?

– Nấu chè để cúng ông bà cho ảnh làm anh Hai tôi!

Bác Tám thấy đám trẻ vui chuyện bèn vác câu liêm móc liền mấy trái dừa, có một trái lăn xuống mương. Tư Bé đưa dao cho tôi bảo vạt mặt dừa. Tôi nói:

– Tôi là dân xứ dừa. Nhưng từ hồi thoát ly tới bây giờ hình như không có uống nước dừa trong trái lần nào. Đây là lần thứ nhất. Cô Tư muốn tôi chặt dừa kiểu nào?

– Dừa thì chặt có một kiểu thôi chớ mấy, anh?

– Có hai kiểu, một là kiểu của mấy bà bán dừa theo các bến xe đó. Tức là cầm trái dừa trên tay mà vạt từng lát, và lát cuối cùng làm cho miếng sọ dừa văng ra.

Ua bĩu môi:

– Xí, có vậy mà cũng gọi là kiểu.

– Khó lắm nghe cô em. Vạt văng cái miếng sọ nhưng miếng cơm dừa bên trong còn nguyên. Nước dừa chưa có đổ ra giọt nào. Để như vậy đưa cho khách, khách cầm tự khui lấy cái màn cơm đó mà uống.

– Còn kiểu thứ hai?

– Kiểu thứ hai gọi là ăn dừa ba dao. Đó là chỉ chém có ba phát là uống, chứ không được chém nhát thứ tư.

Tôi vạt cái môn dừa để trái dừa úp xuống và chém ba nhát rồi gỡ cái đít dừa ra. Nước dừa sóng sánh bên trong không đổ chút nào. Tôi nâng lên mời bác Tám. Bác lắc đầu:

– Tôi ở nhà uống hoài, chú uống đi cho đỡ nhớ quê !

Đợi tôi uống xong, ông già vui vẻ nói.

– Tôi có kiểu khác đặc biệt hơn nhiều. Hồi còn con nít, tôi đi chăn trâu, lâu lâu bẻ trộm được của nhà giàu một trái, đâu có dao mác gì. Tôi dùng răng cạp như chuột, cạp hết vỏ xanh thì cắn cái môn non rồi bẻ cọng rạ chọc vào cái mắt mềm rồi hút. Thiệt ngon trần đời.

– Mắt mềm là mắt gì hả bác? – Ua hỏi.

– Mày hỏi để nay mai đi ăn cắp dừa hả ? – Tư Bé gắt.

– Em không biết mắt mềm là mắt gì thiệt mà !

– Trái dừa có ba mắt trên đầu. Hai mắt cứng hơi trũng, còn mắt mềm thì lồi. Phải xoi cho đúng mắt mềm thì mới thủng còn nhè mắt cứng mà đâm thì dao cũng không thủng.

Uống nước dừa xong, tôi thẻo hai trái dừa khô buộc chùm lại để choàng qua poọc-ba-ga cám ơn bác Tám rồi đi với Ua ra ngỏ. Tư Bé đứng ở thềm nhà nhìn theo chớ không đưa như Bảy Mô.

(Mãi một năm sau tôi mới lại gặp cô gái này ở trong đạo quân đầu tóc tả tơi của bà khu ủy viên Năm Đang. Năm 1968, Tư Bé theo Tiểu đoàn Thép của tôi tấn công quận ly Củ Chi. Sau khi cuộc tấn công thất bại, Tư Bé được đề bạt làm quận đội phó Củ Chi. Đáng lý ra Bảy Mô lãnh chức này nhưng ở trên chê thành phần nên Bảy Mô tuy rủi mà may. Trong cuộc đổ chụp phản công của quân Mỹ tại Đồng Lớn xã Trung Lập Thượng, cô bị truy đuổi và bắn chết lúc tuổi chưa đầy hai mươi. Tôi sẽ trở lại ở những chương tới.)

Tôi bảo Ua để tôi đèo, nhưng Ua vẫn kiêu hãnh:

– Em thừa sức.

– Em ăn nói như vậy không sợ ông Chín Lộc la hay sao?

– Mười lăm tuổi rưỡi em đâu còn bé nữa. Nhiều đứa lớn xác nhưng đầu bằng đầu tép. Còn em bé xác nhưng lại….

– … đầu dồ, hì hì!

– Anh mắng em hả? Em hổng thèm ăn chè cho anh coi!

Ua chạy theo con đường nhỏ băng qua cánh đồng đến xóm Bàu Tròn. Tại ngã tư có cái chòi Thông tin ngã xiêu ngã tó giống như Hố Bò. Trên một tấm ván con lung lơ như cái răng rụng, một tấm giấy bay giật rèn rẹc theo gió. Tôi hỏi:

– Giấy gì vậy em?

– Thông cáo mời đi đấu tranh ngoài Củ Chi.

– Mời ai?

– Mấy bà cụ ăn trầu. Con gái đàn bà tởn hết rồi.

– Đấu tranh thắng lợi to lớn mà sao lại tởn?

– Bà ngoại em là chì lắm mà cũng lắc đầu rồi.

– Sao vậy?

– Mỗi lần đi mất một cái áo một chiếc nón.

– Nón mất đã đành, còn áo sao lại mất?

– Nó vẽ khẩu hiệu bằng sơn dầu trên lưng chớ sao! Nó còn bảo chừng nào ông Một Sơn bí thư quận ủy ra chợ đấu tranh thì nó chịu thua. Nó nhân đạo không tuột quần mấy bả là may phước! Nhưng nó bảo: cấm tuyệt có đánh trâu thì ra đồng mà đánh, còn léo ra nữa mà nói lải nhải thì đi tù rục xương. Mấy bà già gân đòi đền áo và nón, nó bảo đi về bắt thằng Bí bo đền cho cả quần.

– Em có đi không?

– Có chứ. Em chở bà ngoại ra đó . Em xách giỏ trầu cho ngoại để đề phòng khi bị lính bắt giữ thì ngoại có trầu nhai đỡ buồn miệng. Còn em thì dựng xe đạp ở cổng quận xong em chạy theo đoàn. Đoàn bị lính lùa vô cổng rồi đóng cửa lại. Nó thấy em, nó nhìn một hồi rồi bảo: “Con đ… hà nàm này năm ngoái còn học ở đây mà. Vô khu hồi nào mà đạp cứt Giải phóng vậy?” Nó lôi em ra. Em cự lại: “Để tôi đi tranh đấu.” “Đấu má mày, đồ con nít đẽn?” Em không chịu ra, nó bảo: “Tao cho mày biết mặt.” Rồi nó xắp một mớ tóc: “Đó mày về mà đấu tranh với thằng già hãm con nít của mày.” “Thằng già nào? Trong khu đâu có thằng già nào làm chuyện tồi bại đó ? ” Em nói tỉnh bơ. Chỉ có mấy ông lớn tuổi xa gia đình lâu năm nên nuôi con nuôi thôi. Ua hỏi tôi:

– Hổng lẽ nó nói bác Hồ sao anh?

– Không bác Hồ suốt đời ở giá và đạo đức vô cùng.

(Tôi sực nhớ ra rồi. Cái thằng cha già được treo ảnh ngang ảnh cụ Hồ ở Nhà Hát lớn Hà Nội có lần tôi trông thấy. Nhưng không tiện nói ra cho cô bé. Tụi Sài gòn này độc địa thật, chuyện gì trong khu nó cũng biết).

Ua tiếp:

– Bởi vậy tóc của em một bên ngắn ngủn như cánh gà tre bị vặt hết lông.

– Rồi cuộc đấu tranh ra sao?

– Nó phơi nắng từ sáng tới chiều rồi phát bánh mì, nước ngọt cho ăn uống rồi bảo: “Con lạy mấy bà nội, hổng có gạo nấu thì ra đây tụi tui kiếm cho, đừng có nghe lời bọn khỉ đột ra đây khuấy rối mệt tụi tui lắm. Kỳ sau còn ra, hổng có tha nghe ! “

– Vậy tịt luôn à?

– Còn đi nữa chớ. Nhưng nó không nhốt. Nó bắt lên xe chở đi xa mười lăm cây số rồi đổ xuống bảo: “Cho mấy bà ở đó mà đánh trâu đánh chó gì thì đánh.” Mấy bà lội bộ về muốn rụng giò. Ngoại em về gần tới nhà ngất xỉu. Hai ba ngày sau mới lợi sức. Từ đó tới sau bà Năm Đang kêu đi đấu tranh ít có người theo.

– Bả có đi không?

– Có vài lần, nhưng kể từ khi em bị cắt tóc, bả chỉ ở trong này chỉ đạo ra. Em hổng biết sao tụi nó biết. Nó nói nhắn: ,’Kêu con đ. già đó ra đây nói chuyện, đừng có ở trỏng mà xúi giục người ta.”

– Rồi bả thụt luôn à?

– Thụt chớ ló ra đặng bị bắt. Nó bắt được bả thì có mà đi Côn Đảo chớ không phơi nắng đâu.

Hồi lâu Ua lại nói:

– Mấy ông xã ủy bày chuyện quá trời hè ! Mỗi lần đi mất một ngày cấy của người ta.

– Không có ai bị lính hãm hiếp à ?

– Ối ổi ! Tụi nó đâu thèm dân ruộng của mình. Vợ tụi nó toàn đi dép guốc sơn móng tay, đi ngang qua thơm phức.

Câu nói của con nhỏ làm tôi chợt nhớ tới thằng em. Nó đại úy tôi cũng đại úy. Nhưng nó Quốc gia, tôi Cộng sản. Gia đình nó hẳn là sung sướng vợ con đùm đề. Còn tôi lang bang từ Nam ra Bắc, từ Bắc qua Tàu, từ Tàu về Nam chưa đứng được một nơi nào để nghỉ chân suốt hai mươi năm. Con Ua bỗng hỏi bất ngờ:

– Gia đình của anh ở ngoài đó mà ở đâu?

– Nhà Bè !

– Anh có anh em gì không?

– Có ! – Tôi xốn xang buông một tiếng đơn độc.

– Có ai đi lính quốc gia không?

– Khô…ông!

– Vậy là khỏe đó anh.

– Sao khỏe?

– Nếu anh mà có anh em đi lính quốc gia thì hết mong lên cấp. Kế đó là ở trên biểu anh vận động làm binh biến như Phùng Văn Mười.

(Tôi giật mình. Sao con nhỏ này biết đến cả chuyện đó. Tôi vụt nhớ tới thằng Chung Tấn Quyền, sĩ quan cùng binh chung với tôi. Nó bị tù vì cái họ “Chung Tân” của nó có ăn chịu với Chung Tấn Cang Thủy Quân Đề Đốc của Sàigòn. Mãi không “được” về Nam. Sau này về nhưng lại không được thăng cấp. Tôi tự hỏi: nếu nó có liên hệ với Chung Tấn Cang sao không bảo nó về móc?)

– Em biết vụ đó nữa à ?

– Hồi đó em còn đi học ngoài Củ Chi. Vụ đó ở bên Bình Dương chớ đâu .

Ua nói chuyện không ngớt. Nó biết những chuyện người lớn khá nhiều. Có lẽ nó biết cả chuyện thằng cha già… trên kia nhưng nó không muốn nói ra thôi. Vì đó là cái nhục cho cả lũ, trong đó có nó . Nó hay nói tía lia nhưng nó biết chuyện nào nên nói chuyện nào phải giữ kín. Chỉ tội nghiệp là chuyện nó giữ kín thì cả nước biết từ lâu nữa là anh Hai nó. Nó đạp chậm lại rồi bảo:

– Đây là chuyện bí mật, em nói cho anh nghe, anh đừng học lại cho ai nghen!

– Ừ !

– Ông Tư Minh bắc kỳ xâm lược.. .

– …. nói bậy rồi! Sao nói thế? – Tôi cúp ngang.

– Đó là mấy ổng nói chớ em đâu có . Ông nào người Bắc cũng bị gọi như vậy cả. Nhất là trong lúc uống trà.

– Rồi mấy ông Bắc kỳ nói sao?

– Mấy ông cười hề hề chớ đâu có nói sao ! Ông Tư Minh Bắc kỳ xâm lược di cư hiện làm quản lý của ông Chín Lộc, có vợ làm tiệm may ngoài Sàigòn.

– Rồi ăn thua gì mà em hài ra?

– Có ăn thua chớ. Hàng tháng bà vợ đi vô trong này đem tin tức cho ông Chín Lộc.

– Sao em biết bả vô đây để đem tin?

– Sao hổng bi… iết!

– Bộ em có đi Sài gòn cho ông Chín Lộc nữa à?

– Đâu đâu có!

– Vậy là má em ở Củ Chi cũng có liên lạc với vợ Tư Minh chớ gì?

Tôi chận đầu. Con bé chối phăng, nhưng trong cách chối của một đứa bé ngây thơ dù khá lém lĩnh cũng để lộ sự thú nhận. Công tác quân báo của Việt Cộng luôn luôn đặt cơ sở gia đình chứ không có kỷ thuật chuyên môn. Nhất là quân báo ở thành. Chúng luồn vào cả gia đình sĩ quan cao cấp Sàigòn. Ua tía lia:

– Má em bán vải chớ đâu biết gì mấy chuyện đó. Má em chỉ đường cho vợ Tư Minh vô đây hoặc đôi khi tối cho bả ngủ nhờ. Rồi má em nhắn em ra rước bả vô gặp Tư Minh.

– Ngoại làm sao có gạo nấu cơm cho em hàng ngày?

– Của chú Tư Minh cho. Chú nói ngoại với em ăn như mèo hửi, để chú lo. Ngoại cứ nấu cơm dùm chú và thỉnh thoảng chú cần thì em ra Củ Chi gặp má hoặc đi xuống Sài gòn dùm chú, cầm một cái thơ hay cái áo cái khăn gì đó đưa cho một người nào.

– Thôi được rồi, anh biết hết rồi.

Ua đang đạp bỗng quay lại làm xe đạp sắp lật ngang:

– Anh biết gì?

– Nói đùa, chớ anh không biết gì đâu!

Cả nhà Ua đã làm nhân viên quân báo của Chín Lộc rồi mà không hay. Đó là cách hoạt động tình báo của Cộng Sản. Tuy không ghê gớm lắm, nhưng lại nguy hại cho người cộng tác vô cùng. Lỡ ăn xôi chùa thì phải ngậm miệng. Họ trả lương bằng nhiều cách, nhân viên lãnh mà không biết. Lãnh rồi thì khó từ chối. Đi vào vòng rồi thì khó nhảy ra.

(Tôi sẽ kể trường hợp của một nữ nhân viên tình báo rất đẹp đem tin tức trực tiếp cho Võ Văn Kiệt, về sau bị tên này cưỡng hiếp dưới địa đạo nên bỏ về thành làm quân báo R phải hoảng vía, thay đổ cơ sỡ lung tung.)

– Em có biết vợ của chú Sáu Huỳnh không?

– Sao không?

– Mặt mày thím Sáu ra sao?

– Còn trẻ giống như là…à con gái của chú vậy.

– Con người trắng trẻo cao lớn như cô Tư Bé phải không?

– Anh cũng biết bả nữa à ?

– Hồi hai mươi năm trước !

Ua kêu lên rồi tiếp:

– Em dắt bả với anh Thức, là con trai của chú, từ nhà má em vô trong này.

– Chị ấy học chung lớp với anh nhưng lớn tuổi hơn anh! Chỉ nhỏ tuổi nhưng lớn con. Lấy chú Sáu Huỳnh hồi mới mười sáu. Lúc đó chú Sáu làm ở cơ quan quận Nhà Bè.

– Em ớn anh luôn.

– Đừng có nói lép bép. Công tác quân báo mà nói nhiều là dễ lộ , rõ chưa .

– Với anh thôi, còn mấy ông nội Năm Cai, Sáu Nâu, Hai Giả, Năm Tiều, Hai Nhứt, Bảy Nô… em đời nào lộ ra. .

– Sao khai hết với anh?

– Anh là thứ dữ mà ! Nay mai anh có cần gì bảo em nghe ! Đồ hộp, bánh mì, xanh tuya rông, bi đông USA, chó có lát, bút chì nguyên tử, cà phê, thuốc lá… Bản đồ, địa bàn, súng Colt, đạn Colt hoặc P38. .

– Đạn cà nông có không . . . .

– Thứ này thì em không biết. Nhưng các thứ kia thì nếu anh muốn buổi sáng, buổi chiều hoặc ngày mai em đem về cho anh. . . .

– Ở đâu mà tài vậy?

– Ở chợ Bắc Hà trước của Đồng Dù.

– Mỹ nó bán súng Colt và P.38 à?

– Nó không trực tiếp bán nhưng có mối chạy cho n.

Trên đường đến cơ quan quân báo của Chín Lộc, qua miệng một cô bé tập tểnh làm tình báo, tôi biết được bao nhiêu là chuyện về Củ Chi, về Đồng Dù và về nước nhà . Tôi phải dấn thân vào hai trận địa một lúc: khói lửa và tâm lý. Vừa đánh giặc vừa móc em trai từ phía giặc.

Ua rẽ vào một đường mòn giữa hai đám khoai mì cao khỏi đầu đạp tới một ngôi nhà lá nhỏ chung quanh um tùm những bụi chuối và những cây mít sai trái. Vùng này mít rất nhiều và ngon nổi tiếng: mít nghệ Bàu Chứa. Ua bóp chuông leng leng, kêu:

– Ông Sáu, khách của ông về tới ! – rồi quay lại tôi – Anh vô đi. Ổng ở trong nhà . Em đi quán mua đường về nấu chè .

Chương 41 C.. cô hồn, L… nhà nước

Một người đàn ông đen đúa đầu bạc trắng nhe răng cười y hệt như anh Bảy Chà Hynos in trong tuýp kem đánh răng, bước ra sân đưa tay cho tôi:

– Đi vô nhà ! – rồi réo theo – Ua, con đi quán hả ? Mua cho bác vài bao Capstan và hộp sữa.

– Cà phê còn trong bếp !

Ua quay lại bảo rồi đạp thăng. Người đàn ông lôi tôi vào nhà , vừa đi vừa nói :

– Mày là con trai lớn của thầy Chín ở Tân Bửu đây hả? Nếu không được ông Tám Quang cho biết trước chắc tao không nhận ra mày!

Tưởng tôi không nhận ra ông ta, ông ta tự giới thiệu:

– Tao là Sáu Huỳnh chồng cô Tịnh, rể ông Cả Giác đây mày còn nhớ không?

– Anh tưởng tôi quên được chợ Tân Bửu của mình dễ dàng như vậy à?

– Bả hỏi thăm mày hoài mà tao đâu có biết mày ở đâu!

– Anh về năm nào?

– Năm 63. Tao chỉ gặp mày có một lần ở Mậu dịch ăn của thị xã Hòn Gai. Sau lần đó tao dông.

– Chị Sáu còn ở đó hay dời đi dâu?

– Đi đâu mà đi. Gốc rể mắc ở Tân Bửu còn đi đâu nữa?

Một nét mặt quen thân làm tôi thoáng nhớ tất cả người và cảnh quê hương. Hồi năm 1947 tôi có về nhà ở Kinh Bà Vụ một lần và là lần độc nhất. Hồi đó anh Sáu làm Huyện đội trưởng Trung Quân Chợ Lớn, tên là Sáu Trầm. Ba tôi, ông Cả và Sáu Trầm uống rượu suốt một đêm bàn về tình hình chiến tranh đang lan tràn. Ba tôi trưởng ban y tế tỉnh nhưng ý kiến của ông có ảnh hưởng trong giới Việt Minh cầm quyền lúc bấy giờ. Lúc các ông uống rượu thì tôi bị cô Dung bạn tôi bắt cóc sang nhà cô, Dung cũng cỡ tuổi Ua bây giờ, nhưng cao ráo và không môi mép như Ua. Hai đứa còn trẻ quá biết gì đâu, chỉ nhảy cóc nhảy nhái qua loa.

– Anh đổi tên hồi nào?

– Từ lúc về trong này.

– Hồi năm ngoái khi giúp cho Tư Linh tiếp thằng Bọ Chét, tôi có nghe nói tên anh nhưng không biết đó là ông cựu huyện đội trưởng Trung Quận ngày trước.

– Vụ đó Tư Linh lo giàn trong, tao chạy giàn ngoài chớ đâu. Lạy trời ở trên đừng có cho lũ ôn dịch đó vô đây nữa. Lo ăn, lo ngủ, lo tắm giặt cho nó còn mệt hơn lo tiếp tế cho một chiến dịch hồi đánh Pháp. Mẹ kiếp, lại còn lo cả cái vụ đó cho nó nữa .

-Tôi phục anh luôn!

– Phục gì! Cơ sở mật của tao đó. Tao phải nói gạt là vô trong phòng phục vụ một sĩ quan Mỹ mình vừa địch vận được. Nó tưởng thiệt nên vác xác vô. Xong rồi nó cự nự quá tay. Nó bảo vừa nhìn thấy là nó biết không phải Mỹ rồi. Thôi, bỏ qua đi, kệ mẹ nó, c… cô hồn 1… nhà nước. Thứ đó thì đụng vô thứ đó là vừa. Mày đi tắm cái cho khỏe rồi bàn chuyện. Mà này, vợ tao vô lần rồi nói là bà con bình yên cả. Chỉ có gia đình mày là dời đi đâu không ai biết!

– Tôi có nhờ má Hai ở Hố Bò đi móc nhưng sau hai ngày tìm kiếm rồi trở về cũng nói như anh.

-Chắc về Nhà Bè quê ngoại mày!… Cái giếng gần cây mít. Lấy gàu múc lên. ở đây không có sông rạch như xứ mình.

Tôi đi ra giếng, ngang qua bếp, thấy Ua đang lui cui nhóm bếp, tôi hỏi:

– Nấu chè hả cưng?

– Nấu nước pha cà phê đãi khách bự!

Tôi tắm xong vô nhà thì gặp một người đàn ông nhỏ thó trẻ hơn Sáu Huỳnh, sơ mi trắng, quần ka-ki xanh. Sáu Huỳnh cười bảo:

– Đây là anh Tư Minh, một tên Bắc kỳ di cư kiêm Bắc kỳ xâm lược. Sau này mày sẽ liên hệ nhiều. Có cần gì cứ níu thắt lưng của hắn nại đòi.

– Di gì nữa mà di. Tôi ở trong này hai chục năm rồi. Tôi trở thành dưa hấu từ lâu. Bố bảo cũng không dám uề ngoài đó nữa. Sợ nhất là đói như hồi bốn nhăm!

Sáu Huỳnh hỏi.

– Bác Chín đi đâu Ua?

– Bác nói bác đi qua ông Năm Lê chút nữa về !

– Vậy thì đủ tứ trụ rồi. Phò một chầu tú lơ khơ chơi. Công tác mai tính! – Sáu huỳnh vỗ đùi – Quên nữa, có thằng Cúc quê ở đâu không rõ, nhưng hồi trước nó hoạt động vùng Nhà Bè. Để tao cho kêu nó lại đây, mày hỏi thăm chắc nó biết tin tức gia đình mày. Trong nhà còn con gà mái ấp. Để tao nài lại của bà ngoại, luộc xé phay, vừa nhẩm xà vừa oán lơ khơ. Mày ở nhà nghỉ, tao đi rồi thêm vài món cầm tay để đãi mày. Không gì thì cũng là đồng hương cố cựu!

Tư Minh nói với theo:

-Đàng quán sợ không có Anít, nếu cần tôi cho đi Trung Hòa! Mà quên nữa! Tôi còn hai chai sâm banh tôi giấu lại kỳ đón thằng cha nhà báo Bọ Chét Bọ rận gì đó, tới nay chưa biết dùng vào đâu.

Sáu Huỳnh gạt:

– Ba cái thứ đó uống lạt nhách. Để tôi đi tìm đế uống cháy cổ họng mới đã.

– Ừ, anh đi cho mau. Giờ này khả năng đổ chụp thì ít, nhưng còn lo bom pháo . Ngang ngả ba Cây Điệp phải vọt cho nhanh. Và phải coi chừng cá rô rỉa. .

Sáu Huỳnh gạt phắc.

– Thôi ông Bắc kỳ xâm lược ơi! Tôi đã ăn cả chục trận bom pháo rồi chớ phải dân thành mới ra khu sao mà ông lo dữ vậy!

Nói rồi lấy xe đạp vọt đi. Tư Minh lắc đầu:

– Tôi ớn lắm. Nhất là đám cá rô. Mình đang đi đường mà đụng nó là kể như núa nuôn (lúa luôn – tiếng “lúa” của cán Nam kỳ hồi chín năm có nghĩa là hỏng bét, xù, tiêu tùng.)

– Bộ mình bị rồi à?

– Ông Chín Mành phó ban tài vụ R với thằng cận vệ đang đi ở Trảng Cỏ. Nó tới, nó sà xuống. Hai thầy trỏ lủi đại xuống hầm bên vệ đường. Nó đáp xuống đất, ném lựu đạn vào miệng hầm rồi lôi xác ra lột một K54, một AK và mấy triệu bạc.

Bà ngoại Ua, người nhỏ bé lưng còng, đến bên tôi, hỏi:

– Nghe con Ua nói chú em ở trên Rờ trên khu gì về phải không? ở trên đó chú em có nghe chừng nào hết giặc không?

– Dạ cái đó là do ngoài Bắc chớ đâu phải do tụi cháu, thưa bà !

– Sao trong Nam oánh giặc mà do ngoài Bắc?

– Dạ vì ngoài đó là chỉ huy còn trong này không phải chỉ huy.

– Vậy thì vụ đạo quân đầu tóc cũng do ở ngoải chỉ huy nữa hả chú em?

Nghe hỏi, tôi không biết bà thật tình hay lắc léo, tôi đang lựa câu trả lời thì bà tiếp:

– Tụi lính Củ Chi này nó hiền, chớ nếu gặp mấy chú, chú không để nhủng nhẳng vậy đâu ! Nếu tôi làm quận trưởng thì tôi chở người của bà Năm Đang đi ba chục cây số chớ không phải mười lăm cây.

– Sao vậy hả bà?

– Cứ theo phá đám hoài, phải trị chớ sao !

– Có bà đi nữa mà ?

– Bây giờ tôi mới rõ ra ! bà Năm bả xúi đàn bà con gái đi ra quận để cản mũi cản lái lính quốc gia. Cản gì được mà cản. Có bữa họ đang hành quân, đằng này kéo ra cản đầu xe thiết giáp. Lính họ nạt: “Tránh ra, không tránh cán bỏ mạng ! ” Mấy bà làm gan, níu tay lại với nhau thành hàng trước mũi thiết giáp. Một người lính hét: “Các bà dang ra! Tôi thổi ba lần tu-hít nếu các bà không tránh thì tôi cho xe chạy ! ” Rồi nó thổi tu-hít vừa dứt hồi thứ ba, nó cho xe chạy.

Tư Minh nói.

– Quân dã man.

– Nhưng xe chạy mà đâu có chết ai.

– Sao vậy cụ.

– Xe vừa nhích tới thì mọi người buông nhau ra tản mất hết – Bà cụ chép miệng – Khổ quá ! Hồi trào trước thì Việt Minh đánh với Cao Đài, thằng cha con Ua và thằng cha con Chia đi theo Cao Đài bị Việt Minh bắn chết. Rồi bây giờ mấy ông Cộng đánh với mấy ông Quốc gia không biết chừng nào mới thôi. Nhà tôi rộng lắm. Bây giờ còn có bơ lớn đây. Hai thằng rể chết, hai đứa con gái góa chồng, hai đứa cháu ngoại mồ côi. Tôi bây giờ muốn trồng mấy nọc trầu xà lẹc để ăn mà không trồng được, muốn có trầu tươi ăn hàng ngày cũng phải ra chợ Củ Chi. Tôi bây giờ có tài nhịn trầu là giỏi nhất.

Tư Minh nháy tôi không biết với ý gì nhưng tôi thấy câu chuyện của bà cụ đã bộc lộ rõ tâm tư của người dân vùng này, nên tôi gợi tiếp:

– Chắc bây giờ mình còn đấu tranh mạnh nữa hả bà ?

– Còn ai nữa mà đấu tranh. Hồi nẵm thì mạnh lắm, nhưng có ăn thua gì. Thằng quận trường Củ Chi bảo: “Các bà muốn chúng tôi ngưng bắn pháo vào làng thì các bà phải đuổi mấy thằng Việt Cộng đi về Bắc.” Bà con bảo: “Các ông dùng súng còn đuổi không được chúng tôi tay không thì làm sao?” Thằng quận trưởng khôn lắm chớ đâu có ngu. Nó bảo: “Các bà chứa Việt Cộng trong nhà, tôi bắn nó mà lỡ trúng các bà chớ đâu phải tôi bắn các bà. Nếu các bà tránh xa chúng nó hoặc đuổi chúng nó đi thì tôi đâu phải bắn làm gì cho uổng đạn! Nếu mấy bà ở trong đó không yên thì ra đây tôi cho ruộng làm, cho tôn cất nhà, cho gạo ăn…” Thấy nó nói vậy nhiều bà ngãng ra không muốn đi đấu tranh nữa. Bây giờ thì không ai đi nữa!

Bà vô buồng lấy ra một cái nón lá và một cái áo đen. Nón lá trắng thì mang chữ đen áo đen thì in chữ trắng. Hai dòng chữ khác nhau nhưng cùng một nghĩa: Đả đảo Hồ Chí Minh! – Đả đảo mặt trận côn đồ.

– Đó bây giờ cậu coi, từ đầu năm (65) B52 dập các xã ven sông Sàigòn, bây giờ có gom dân lại cũng nấu không ngọt nồi cháo, lấy gì đấu tranh! Tụi nó không nhẹ tay như trước nữa đâu mà hòng ra ra vô vô đòi này đòi nọ.

Tôi và Tư Minh ngồi nghe bà cụ tố khổ mà chết điếng. Một chập bà tiếp:

– Tôi ở đây quạnh quẻ một mình với con Ua . Tôi muốn về ở trong chợ với má nó, nhưng nó không chịu đi. Nó lỳ lắm. Pháo bắn, tôi lôi nó vô hầm nó không vô, cứ nằm ngủ. Sáng nay nghe bom bỏ ở miệt trong, nó chưa về, tôi lo ngồi đứng không yên. Mà nó về mặt mày tỉnh bơ. Tôi hỏi nó: “Có ai làm sao không? ‘ Nó nói: “Chết ba con cóc!”

Bà đứng dậy lụm cụm vô bếp bảo Ua:

– Gà chín rồi! Dọn ra ăn đi! Để chiều tụi Đồng Dù giã gạo không có ăn uống được!

(Tiếng giã gạo rất phổ thông ở đây. Không ai bảo ai, mà từ cán đến dân ai cũng nói một kiểu.)

Bà cụ cứ lằng nhằng kể lể hoài làm như tôi là người có thẩm quyền giải quyết mọi chuyện.

– Nhà cửa bây giờ còn gì đâu. Chú Huỳnh với chú Minh đào một cái hầm, tôi và con Ua làm một cái. Bữa nào có vợ chú Huỳnh hoặc chú Minh thì dắt lại nhà con Tư Bánh Bò ở nhờ. Ván gõ lấy làm nắp hầm, liễn thờ lót nằm, giường thì xếp lại quăng xuống mương. Tủ bàn khiêng ra bỏ ngoài vườn, đậy bằng lá chắn và rơm, nếu bom bỏ trúng thì cháy hết.

Lên mâm lên bát xong thì Sáu Huỳnh về tới dắt theo một tốp xe đạp như đoàn cua rơ trong đó có cả ông Chín Lộc. Sáu Huỳnh bảo:

– Vô mau! để đầm già trông thấy mình là hết có nhậu!

Sáu Lễ, Sáu Cúc mỗi người cầm một chai đế còn Chín Lộc xách một bọc giấy. Chín Lộc nói:

– Buổi sáng nó oánh Ngã Ba Cây Điệp, xế qua nó chơi Rừng Làng, không biết buổi chiều nó viếng chỗ nào.

Sáu Huỳnh giới thiệu tôi với Sáu Lễ:

– Đây là người cùng quê với vợ mày đó Sáu Lễ.

– Ở đâu vậy?

Sáu Lễ hỏi ngang ngang tôi cũng đáp ngang ngang:

– Ở Cầu Đúc Mỹ Phú .

– Biết Dì Tư Quán ở tại Cây Keo Một không?

-Lạ gì! Con gái của bả chơi nhà chòi với tôi hồi nhỏ.

-Trời đất! Vậy ông cất nhà chòi với vợ tôi trước tôi rồi!

Sáu Huỳnh cười hô hố:

– Té ra nó cất nhà chòi đúng vợ mày sao?

– Còn gì nữa, bà Tư Quán là má vợ tôi.

Mọi người cười rộ lên. Tôi xua tay:

– Hồi đó tôi mới bảy, tám tuổi mà anh Sáu. Còn vợ anh mới có năm tuổi thì nhà chòi đâu có ăn thua gì. Tôi với chỉ thích ngồi chung trên cái tàu mo cau để đám bạn kẻo chạy trước sân nhà giả bộ làm xe hơi chơi thôi mà !

Sáu Lễ nói:

– Tôi nói chơi vậy thôi chớ nhà chòi của bả tôi chiếm lĩnh trước nhất mà ! Hà hà . . .

Tôi hỏi.

– Nè, có móc gia đình chưa?

-Tôi về năm 60 tôi có móc bả vô được một lần. Thằng con trai đầu lòng lúc đình chiến nay đã mười hai tuổi. Nay được một đứa con gái bốn tuổi. Má vợ tôi chết lâu rồi.

Sáu Lễ tiếp:

– Hồi ở Xuân Mai tôi thấy ông vô căn-tin ngồi uống trà với ông Ba Tô Ký hoài mà đâu có ngờ ông là người bản sở với vợ tôi. Lúc đó ông thường tập lái xe jeep với bọn Sáu Thưa, Hai Thùng trên đường Ba Thả – Hòa Lạc phải không?

– Đúng rồi ! Sáu Thưa thiếu úy em Bùi Thanh Khiết còn Hai Thùng là em ruột của cô Kim Quít. Cô Kim Quít ra Bắc bằng đường Cao Miên gặp chồng cô ta là Nguyễn Đắc Nam, ông có nghe vụ đó không?

– Có chớ. Thằng Nam lúc bấy giờ đang ở bên Lào xin về gặp vợ một tuần lễ . Lâu ngày mới được ăn bánh bẻng mê quá nên tự ý tăng gia hạn phép một tuần. Trở lại Lào bị phạt. Sau đó cho về Nam, không được lên chức. Tội nghiệp nhất là bỏ cái bề hê ở lại đất Bắc mà vác con tí ngẵng về Nam một mình. Đau khổ quá chừng.

– Bây giờ ông biết nó ở đâu không ?

– Nghe nói nó về rồi mà không rõ nó ở đâu.

Sáu Lễ hỏi:

– Ông móc gia đình chưa?

– Móc quác.

– Ông có bà con bên vợ tôi không?

– Hình như bà con bên ngoại. Tôi gọi bà Tư bằng bà.

Sáu Lễ cười đắc chí:

– Vậy ông phải kêu vợ tôi bằng dì, kêu tôi bằng dượng.

– Phải đó. Tôi mới nhìn ông dượng là Chín Nữa ở đại đội 6.

Chín Lộc giục:

– Thôi ngồi vô, vừa nhậu vừa nhìn bà con.

Sáu Huỳnh nói:

– Ở đây tụi mình cũng đủ thành lập hội Nhậu chống Mỹ rồi. Dễ gì chịu thua tụi Ba Tố Năm Đùng.

Tôi hỏi:

– Hội Nhậu mới thành lập tối hôm qua mà anh biết à?

– Biết chớ. Cái nghề của tao ai địt một cái bộp tao cũng biết lựa là cái Hội Nhậu hát bội sáng đêm hôm qua. Nghe nói mày hát cũng khá lắm.

– Dạ thì ai tới đâu, em tới đó vậy anh Sáu. Hồi ở ngoài trường Pháo tụi này cũng đã thành lập Hội Ve Chai ở quán bà Ba Cạo rồi mà.

Sáu Huỳnh vừa rót rượu đưa cho tôi vừa nói:

– Hậu sánh khả quý. Mày hồi đó là con nít, nhưng bây giờ mày hơn tụi tao, bữa nay tao mừng mày. Nè, cắn một miếng đầu coi cho được coi. Xong rồi đưa cho Chín Lộc Bắc Kỳ xâm lược. Phải uống liền liền không được để ly xuống.

Sáu Lễ nói:

– Nếu muốn đua với tụi Ba Tố Năm Đùng mình phải nêu khẩu hiệu:

Một ly còn nhớ tên nhớ tuổ Hai ly gật gù, bước đi chúi lúi Ba ly ôm gốc cột cho chó ăn chè Bốn ly bom bỏ chẳng thèm nghe Năm ly pháo bắn coi như cứt ỉa Sáu ly cá rô tới tha hồ cho nó rỉa.

Chín Lộc hớp xong đưa cho tôi:

– Cậu còn trẻ phải chầu đôi. Làm miếng nữa ! Mặt mũi sáng sủa chỉ phiền một nổi là chữa vợ.

– Chữa vợ hay vợ chửa đó ông mãnh ?

Sáu Cúc nảy giờ mới khai khẩu lần đầu. Sáu Huỳnh khui thêm chai A-nít và nói:

– Tôi tiếc hai đứa em vợ tôi lấy chồng sớm, nếu còn tôi gã hai đứa cho nó một lượt để bù công lao tập kết và vượt Trường Sơn.

Sáu Cúc trỏ Chín Lộc và hỏi tôi:

– Cậu biết ông Bắc kỳ xâm lược này là ai không?

– Tôi mới quen ảnh từ sáng tới giờ thôi.

– Ổng là chỉ huy phó 12 đội công tác thành. Chín Heo ám sát cò Bazin bị bắt ở Sàigòn là chỉ huy trưởng đó. Ổng bị kết án tử hình sau giảm còn tù chung thân, bị đày Côn Đảo rồi chết ở ngoải.

Tiệc rượu hôm nay toàn là tay gộc quân báo: Chín Lộc ra Bắc được phong làm Cục phó Cục Bảo Vệ Quân Đội tức là Cục An Ninh chuyên môn theo dõi tình hình quân đội. Được đi học Quân báo bên Liên Xô ba năm. Hiện làm trưởng ban Quân báo Khu. Sau này về làm Phó ban Quân báo R, dưới quyền Phạm Xuân Hoàng. Sáu Huỳnh lên làm Trưởng ban thay Chín Lộc trong chức vụ Trưởng Ban Quân Báo Quân Khu. Sáu Cúc làm Trưởng ban Quân Báo Phân Khu 1 phụ trách điện đài, mật mã trực tiếp liên lạc về R báo cáo tình hình hai Sư đoàn Anh Cả Đỏ và Tia Chớp Nhiệt Đới.

Tư Minh là quản lý, phụ trách một đường dây quan trọng ở Sàigòn. Năm 66 Mỹ càn Bàu Chứa bắn chết Tư Minh. Năm 68 tiệm may vợ Tư Minh bị khám phá có cả đại liên.

Năm 66, các cơ quan Quân Báo Quân Khu chuyển qua đóng ở Bến Cát – Dầu Tiếng.

Sáu Huỳnh có một bộ phận nằm tại ấp Vườn Trầu xã Phước Thành bên đường số 1 đo Ba Xuyên chỉ huy. Chính con Ua làm giao liên cho cụm quân báo này.

Năm 67, Mỹ càn vô Bàu Rô xã Thanh Tuyền bắn chết Sáu Lễ .

Năm 70, Sáu Huỳnh đem vợ ra khu lên Gò Dầu rồi qua Miên, chuyển qua là Phó phòng Hậu cần R Phân Khu I.

Chín Lộc nói oang oang:

– Tao thiệt là tên Bê Ka chính cống, cựu phu cạo mũ Dầu Tiếng, có lai du côn Cầu Ông Lãnh chút đỉnh, vô đảng đàng hoàng. Còn thằng Hoàng Thọ cũng là dân Bê Ka như tao nhưng nó là du côn Xóm Củi, Cầu Muối, chống đảng nên bị anh Ba Duẫn phăng teo!

– Thôi uống đi ông Bắc kỳ xâm lược! ở đó mà nhắc chuyện đời xưa, rượu thiu hết bây giờ. Xong tiệc này còn một ván tu-lơ-khơ nữa. Thức sáng đêm nay! Sáng sớm phải lo chuẩn bị !

Tư Minh nói:

– Chà ! Tiệc này chi coi bộ mạnh dữ đà anh Sáu. Sợ e khó vô sổ chi tiêu.

Chín Lộc nheo cặp mắt bù lạch không còn lông nheo:

– Chú cứ ghi vào khoản tiếp tân.

Sáu Huỳnh gật gù:

– Anh Chín là công thần hồi chín năm lại là phó bí thư đảng ủy phòng Tham Mưu. Năm Lê là Tham Mưu trưởng nhưng lại không có chân trong đảng ủy vì đang mang cái ô số 1 trong cổ. Thằng chả ngán anh Chín thấy mẹ. Anh Chín ký tên đưa lên là thằng chả ký duyệt thôi chớ dám ho he.

Rượu vào rồi lời ra. Cấp trên cũng như cấp dưới, cấp dưới coi cấp trên lem nhem như thảo giái, nên sẵn nhậu lấy rượu làm nư, khui hết hồ sơ của ông Tham Mưu trưởng khu làm món mồi tinh thần đưa cay cho ngọt.

Chín Lộc gợi ý trước nhất:

– Thằng Bắc kỳ này gốc lính thủy Tây có công đánh mấy trận ở sông Lòng Tào hồi chín năm ra Hà Nội được phong thiếu tá, về Nam mang lon Trung tá. Hắn cưới một bà Bành tên Hai Mặn năm 47, lại còn cấy rau muống ở Hà Nội, về Nam lại gặp bà già trầu tình cũ nghĩa xưa. Vụ đó vở lỡ cả R. Cậu đi hội trên R có nghe chớ?

Tôi giả vờ tỉnh khô .

– Dạ không! Tôi không biết gì hết!

Chín Lộc lườm tôi.

– Ở dưới này còn hay, đi lên đó lại không biết.

Sáu Huỳnh tiếp:

– Nay mai anh phải họp đảng ủy ba ngày đêm liền để bàn vụ thi hành kỷ luật ông ta.

Chín Lộc cười: :

– Kỷ luật mẹ gì được. Mình có đề nghị cảnh cáo khai trừ thì ở trên cũng xếp xó thôi. Thói đời huyện bênh huyện, phủ bênh phủ mà, ai hơi đâu ngồi họp cho đau xương sống, để nhậu chơi còn khỏe hơn. Ở trong này sướng thật, muốn nhậu giống gì cũng có cả.

Chín Lộc có mòi hăng máu, nói chuyện bao sân. Một chập có lẽ sợ lố cồn, nên quay sang nói chuyện công tác:

– Sáng sớm mai phải chuẩn bị, thằng Trung đoàn Hoàng Gia Úc đã vô Củ Chi. Nó câu vô thêm sáu khẩu 105 và một đại đội 106/7, chắc sắp làm ăn vùng này.

Chín Lộc quay sang tôi.

– Loại 106/7 trùm trùm tới đây không ông thầy pháo?

Tôi đáp ngay:

– Loại này có rảnh xoắn bắn tương đương với pháo 120 ly của mình. Khoảng cách sáu cây số.

Chín Lộc đăm chiêu:

– Vậy nó bắn khỏi mình rồi. Có thể tới Bàu Tròn.

Sáu Huỳnh lùa mấy dĩa thức ăn qua một bên, trải bản đồ ra xem, rồi kêu:

– Mẹ nó, chạy ô mồ mắc ô mã. Ở Xóm Bưng sợ pháo siêu âm 175 Đồng Dù và B52, Utapao, Hạm đội 7.

Chín Lộc kêu lên.

– Say rồi ! Say rồi ! Không phải Hạm đội 7 mà Guam tía thằng Thức ơi!

– Ừ Guam thì Guam! Mình dời về đây lại bị rảnh xoắn của Hoàng Gia Úc. Đ. mẹ thằng Bọ Chét năm ngoái tới đây nói mép. Nếu năm nay nó trở lại, tôi sẽ cho nó ngửi cái rảnh xoắn của con Bốn. Xong tôi trói nó vô chân giường cho nó xơi vài quả 106/7.

Tôi hỏi Chín Lộc :

– Tôi nghe nói tụi sư đoàn Tia Chớp Nhiệt Đới chuyên chống du kích. Nó đã thực tập ở Phi luật Tân rành rẻ rồi mới tới đây có không?

– Vụ đó tôi không biết nhưng nắm chắc là nó chỉ vô Đồng Dù có một trung đoàn thôi. Nó nặng về pháo binh yểm trợ hành quân, chớ không càn hoặc hành quân bộ binh nhiều.

– Vậy thì không lo lắm!

Chín Lộc gạt ngang:

– Chú em chưa bị 175 nện trúng lệnh, nên chưa rõ. Coi cái đầu của tôi và Sáu Huỳnh nề. Tóc rụng hết có khác gì đám mạ nhổ sạch không. Còn loe hoe vài khóm lưa thưa. Đó là kết quả đội mấy trận 175. Mẹ cha nó bắn nổ như đại liên vậy Một lần nó lau nòng súng là nửa giờ. Ít nhất năm trăm quả. Ngồi trong hầm đất rung như đưa võng. Chỉ còn biết cầu trời thôi. Nói thiệt với cậu, hồi chín năm một tay bụm dái một tay đánh Pháp mà thắng khỏe ru. Bây giờ mình có mọc ra ba đầu sáu tay cũng khó địch với tụi Mỹ này. Bây giờ mà đụng với BMEO là mình ăn gỏi nó cái một, còn gặp tụi Đồng Dù thì ớn tới họng. Tiên sư nhà nó. Đ. mẹ nhà nó giàu thật!

Sáu Huỳnh cười khà khà hơi rượu nặc nồng:

– Ông ngày nào cũng cong lưng đ.. nên nó càng đẻ ra nhiều.

– Nước uống mà nó chở đâu từ Hawaii sang chớ không thèm xài nước phông tên Sàigòn.

– Vậy mà ở xứ mình có một thứ nó khoái nhất ? Biết cái gì không?

Chín Lộc nháy nháy cặp mắt bù lạch:

– Thì ba cái lạng thịt bầy nhầy đó chớ cái gì? Đâu phải Mỹ mới mê mà toàn thế rới đều hít. Hít và rụng tơi bời!

Tư Minh giục.

– Thôi uống đi các cha ! Uống cho đả để mai có rửa chân leo lên bàn thờ thì khỏi đòi của cúng. Còn anh Sáu thì kêu chị Sáu vô ở vài bữa để lấy cho đủ vốn để có bề gì thì khỏi có bị người ta chê là sống thì khát mà chết thì thèm.

Tôi cười:

– Chết khát chết thèm là tôi đây chớ đâu phải mấy anh!

Sáu Huỳnh nhìn thẳng mặt tôi:

– Mày là con quỉ chớ chết thèm gì, mày tưởng cái vụ mày trèo dừa ngó xuống con Là tao hổng biết hả? Mày tính chừng nào cấy mầm sống mới cho con bé dũng sĩ hả? Con nhỏ đó tao coi được nhứt vùng này đó. Mày dạo măng-đô vói nó rồi phải không?

Bỗng tiếng cười nổ lên dòn dã trong bếp. Rồi con Ua ló mặt ra:

– Cháu đồng ý với bác Sáu đó!

Sáu Lễ trừng mắt:

– Con nít hỉ mũi chưa sạch biết gì mà xía vô. Chạy đi quán lấy một chai nữa coi!

Sáu Hùynh đỡ gạt:

– Ý, đừng nói vậy, nó là con dâu tương lại và con nhờ con cậy của tôi đó.

(Sau này, Ua đem mìn đặt trong Câu Lạc Bộ lính Mỹ ở Đồng Dù, sẽ nói ở một chương sau)

– HẾT QUYỂN II –

—->Chương 42 – 43 – 44- 45- 46- 47

2000 NGÀY ĐÊM TRẤN THỦ CỦ CHI : QII – (31-30)

13/08/2010 — Lê Thy

Thung catong dong hang thuốc lá caraven giá bao nhiêu năm 2024
Đây CỦ CHI! Đất Sét Sắp Thành Bùn

Chương 31 Những mối duyên và nợ

Bữa tiệc thịt chuột nhậu oắc cần câu. Khách vừa ra về tôi mở ba-lô giăng võng ngay miệng hầm ngả lưng ngay.

Lụa la:

– Anh Hai ! ngủ đó không được đâu !

Tôi lè nhè đáp và nhắm mắt giả ngủ.

– Chừng nào nó thụt anh phóng xuống!

– Đã bảo không được là không được mà . Nó giã gạo anh không xuống kịp.

– Kệ anh, em đi ngủ với con Rớt đi. Lần trước ở nhà má anh ngủ trên ván gõ với thằng Tư Linh đó, có sao đâu!

– Hồi đó khác, bây giờ khác.

– Cũng Mỹ, cũng Đồng Dù chớ khác cái gì!

– Anh say rồi hả ?

Tôi lặng thinh giả ngủ. Lụa đến bên tôi năn nỉ:

– Em lạy anh, anh Hai. Hồi đó nó chưa có pháo siêu âm, bây giờ nó có đủ hết. Nó bắn túm giò chạy không được. Thiếu gì người chết bên miệng hầm rồi đó.

Tôi biết là một tai nạn sẽ xảy đến cho tôi. Tôi cứ nằm lỳ, tâm trí tỉnh queo nhưng giả bộ ngủ. Tôi biết tôi đứng ở bên bờ vực. Tôi cố ghìm tôi lại để khỏi rơi. Mong sao đừng có cơn gió nào thổi ập sau lưng tôi.

Tôi biết tình ý của Lụa và Là . Tôi đã ghì cương con ngựa hoang trong lòng tôi lại bao nhiêu lần rồi. Lần này chưa biết sao. Tôi cố giữ nó lại bằng cách nghĩ tới thằng chồng của Lụa đang đi dân công ở Phước Long. Nếu mình đi như vậy mà ở nhà có thằng…

Tôi lôi cả những bài luân lý giáo khoa thư, những câu cách ngôn học ở trường: Đừng làm việc gì cho người khác nếu mình không muốn người khác làm việc đó cho mình. v.v… Quả y như lời Lụa nói, tôi đang thả hồn phiêu diêu thì nghe giã gạo ình ình. Tôi bật dậy như máy. Lụa gào lên thất thanh: Anh Hai, anh Hai!

Tôi chui tọt xuống hầm nhanh hơn chuột vô hang. Lụa đang ngồi trên giường đầu tóc rối bù. Ngọn đèn dầu rung rinh theo nhịp chày nện. Tôi hỏi:

– Ở đâu vậy?

– Chắc là Gót Chàng.

– Sao nghe xa vậy?

Lựa vừa vén tóc bới lại và nói:

– Có thể là Bàu Lách Bào Trăn gì đó.

– Nó thường bắn lên tới đây không?

– Ít khi ! Ở đây thì nằm trong tầm pháo Trung Hòa.

– Trung Hòa chỉ có pháo 105 không đáng sợ!

– Ở đó mà không sợ. Ở Củ Chi chỗ nào nó bắn cũng tới hết. Nó biết giác này xe bò Hậu Cần chở gạo, đuôi tôm Hậu Cần chạy trên sông nên nó bắn dọn đường.

Tôi ngồi ghé lên giường cách Lụa xa xa. Bé Rớt vẫn ngủ say trong một ngách nhỏ. Nó không giật mình. Có lẽ nó đã quen với loại âm nhạc này. Hiệp pháo chấm dứt. Lụa nói:

– Bữa nay nó bắn ít đó anh ạ . Có lẽ nó bắn cầm chừng. Chớ nếu nó thấy cái gì là nó thả cho hai chục phút. Anh cứ khinh thường là không có được.

Lụa nói xong thọc chân xuống đất vô tình để lộ ra mãng chân trắng ngần. Nàng bước xuống và bảo tôi:

– Anh ngủ trên giường đi, để em vô ngách bên cạnh.

– Sao không để con Rớt ngủ giường? Ngủ trong ngách ngộp chết!

– Để nó ngủ giường có việc gì kêu nó không được. Ngủ trong ngách chắc hơn.

– Dì Út nó ngủ ngách nào?

– Nó muốn ngủ ngách nào thì nó ngủ không có chừng có đổi gì. Thôi, anh còn mệt ngủ đi để sáng mai nó chụp có sức mà chạy.

– Ở nhà không có hầm hố gì hết sao?

– Có nhưng ba cái thứ ôn binh đó chỉ có dì Út nó chui thôi, trời biểu em cũng không xuống.

– Gần nhà hay xa.

– Ngay gần miệng đường thoát thân. Để sáng em chỉ cho. Trước nhất anh vô hầm trốn bom pháo dọn bãi. Kế đó anh theo đường nhỏ chui ra rồi xuống hầm luôn. Em ở trên nghi trang cho.

Lụa nói xong bò vô ngách.

– Sắp tới đợt pháo Trung Hòa rồi.

– Sao em biết?

– Đêm nào cũng vậy mà. Có khi Trung Hòa giã trước rồi tới Đồng Dù, có khi Đồng Dù giã trước rồi kế Trung Hòa.

– Em sợ cái nào hơn?

– Cái nào em cũng sợ, chỉ bữa nay là không sợ thôi.

Tôi biết nếu tôi hỏi tại sao thì Lụa sẽ đáp như thế nào nên không hỏi tới nữa. Lụa nằm ló hai chân ra phía tôi. Cái ngách giống như cái hòm bằng đất, nếu ngồi dậy thì đầu đụng nóc. Tôi nằm xuống im lìm cố không nhúc nhích và nhắm mắt để ngủ . Nhưng ngọn đèn dầu đặt trong lỗ khoét vào vách đất như cái hột đậu xanh cứ chớp chớp trong trí tôi. Tôi vô tình nằm trên chiếc gối của Lụa. Một ít hương tóc của người đàn bà còn rơi sót ở đó. Tôi thở thấy rõ. Cái gì của đàn ông thì đàn bà nhạy phản ứng, cái gì của đàn bà thì đàn ông nhạy phản ứng.

Chưa bao giờ tôi gần một người đàn bà mà trong bụng tôi không khỏi phập phồng. Mai Khanh, bà khu ủy… và bây giờ là Lụa. Tôi đã đi đến chỗ meo nhất của miệng hố. Lụa ngồi dậy quơ tay và đụng vai tôi.

– Anh đưa em cái mền.

– Đâu có cái mền nào ở đây.

– Tấm vải dù của anh ở đâu?

– Anh bỏ ngoài võng.

– Để em lên lấy!

Nàng vọt lên rồi trở xuống ngay, nằm im không nói không rằng. Tôi cho là đã qua ải. Lạy trời cho con một giấc ngủ bình thường. Nhưng một chút Lụa lại gợi chuyện. Nàng kể lể:

– Má nhớ anh dữ lắm. Má được thơ anh, ngày nào má cũng ngóng. Chờ hoài không được nên má mới đi qua dì Ba bên Thanh An. Em cũng muốn đi qua bên đó yên ổn hơn cho con Rớt học hành, nhưng em sợ anh về đây không thấy ai hết, bơ vơ tội nghiệp. Anh đi anh vui với bạn bè đâu có biết người ở nhà lo cho anh.

Nàng sụt sịt khóc. Đột nhiên nàng đổi giọng:

– Em còn biết anh ăn cháo gà ở dưới cô Ba Phi nào đó ở Xóm Giữa nữa. Ăn xong ngủ tới sáng mới về. Anh đâu có nhớ ai.

Tôi cãi lại:

– Người ta đồn bậy chớ anh đâu có ngủ dưới ghe ai.

– Còn không có nữa ? Không có sao người ta đồn?

– Anh với thằng Hùng ra đó mua đồ.

– Rồi còn cô nào đi theo anh mấy trạm liền mới trở về?

– Người ta đi công tác chớ theo gì anh!

Nàng bắt qua chuyện khác:

– May là trái bom nổ ngoài gốc vú sữa, nếu nó trịt vô chút nữa thì anh về đây đâu có ai mà… mà nấu cơm cho anh ăn.

– Bữa đó em ngủ trên nhà má à?

– Em lên rước con Rớt về rồi bị đầm già bắn điểm kẹt lại trong vòng bom. Để mai dì Út nó về dắt anh lên coi nhà cửa có còn cái gì không? Má tiếc cái nhà, má không muốn đi nhưng em đốc má đi qua bên đó ở cho yên. Ba cây cột kèo cháy dở em gom lại làm được cái hầm này.

Tôi bỗng nhiên cảm thấy mình như người chồng đi xa về được vợ ở nhà kể cho nghe những biến cố gia đình trong lúc vắng mặt. Tôi chép miệng, nói một câu rất chính trị:

– Ở đâu cũng vậy hết, nhà cửa tan nát, cha mẹ xa con, vợ lạc chồng.

Chằng ngờ câu nói lại chọc trúng tim người đàn bà sầu muộn. Nàng òa lên khóc. Tiếng khóc trong hầm chật vang to như trong phòng ghi âm của đài phát thanh. Tôi phải nói tiếp một câu chính trị hơn nữa:

– Chừng nào Mỹ thua, mình mới sống bình yên được.

– Xí chừng nào Mỹ mới thua?

– Em giỡn hoài.

– Mấy ổng có đánh chát gì mà nó thua. Có hồi sau Đồng Khởi Công trường 9 của ông Sáu Nhâm về đây làm được mấy trận rồi sau khi rút về R, ở dưới này êm rơ luôn. Đánh cà trật cà duột không ăn ngọt được cú nào hết. Bây giờ có cái Đồng Dù này mấy ổng cũng biến mất.

– Năm nay mình củng cố lực lượng năm tới làm ăn lớn.

– Anh hăng quá ha ! Em nói cho anh biết, ai người ta cũng thả rều, nước tới đâu lục bình tới đó . Một mình anh không đủ đâu. Anh có nghe ông Tư Chuyền than chưa? Quân y mà như vậy, lính làm sao dám xung phong?

Tôi được cơ hội nên rẽ ngang tránh mũi nhọn của người đàn bà. Tôi hỏi:

– Ông ta người xã nào vậy em?

– Hình như Trung Lập hay An Nhơn Phước Vĩnh Ninh gì đó em không rành.

– Sao ổng biết anh về mà tới thăm vậy?

– Giề ! Ổng đi đến nhà bà Khỏe chẳng may gặp anh nên lỡ bộ nói vậy đó chớ thăm gì anh!

– Ông ta vui tính và bình dân chớ em!

– Bình dân nên bà Khỏe phá thai mới có một lần thôi !

-Trời đất! Có thiệt hả?

– Kỳ trước anh nhờ bả đi móc gia đình mà bả đi không được là mới phá thai chớ mấy đứa nhỏ nào bịnh!

– Mấy cha nội đó vậy không!

– Ông nào cũng vậy không phải một mình ổng. Bữa nào dì Út nó về, anh bảo kể cho nghe vụ ông Ba Xu.

– Ba Xu nào?

– Tư lịnh của anh chớ Ba Xu nào?

– Chuyện gì?

– Dì Ba mình là mèo của ổng đấy!

– Dì Ba nào?

– Em của má , dì ruột của em chớ còn dì Ba nào? Dượng Ba chết lâu rồi.

Tôi thở dài. Ở trên đó gặp vụ Năm Lê bị bà Hai Mặn cút bắt tại cổng nhà giời, xuống đây đụng ông Ba Xu léng phéng. Vợ con ông ta đùm đề mà ổng cũng léng phéng ư? Những tên tai to mặt lớn là chúa làm bậy nhưng lúc nào cũng lên lớp huấn từ người khác.

Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Tôi nghiêng mình qua trở bộ thì đụng một vật gì âm ấm. Tôi mở mắt ra. Ngọn đèn đã biến mất. Hơi thở phà vào da mặt tôi. Tôi nằm nhích ra. Nhưng có tiếng rủ rỉ:

– Em… lạnh… quá hè.

– Tấm đắp của anh đâu?

– Em đắp… cũng khô… ông hế… ết lạnh.

– Em đừng làm vậy con Rớt thấy nó mét má, má rầy.

– Má không rầy đâu! Em biết mà.

– Sao không rầy?

– Ba con Rớt mất tích rồi. Chú Tư Thiên giấu em hơn một năm nay.

Lụa òa lên khóc và ôm chặt cứng lấy tôi.

Sáng thức dậy, tôi ngỡ vừa đầu thai kiếp khác. Tôi không muốn nhớ lại chuyện pháo bắn đêm qua nữa. Tôi đã hèn yếu không cưỡng lại nổi ý muốn nóng bỏng của người đàn bà. Nhưng thôi, 99% tội lỗi của đàn ông là do đàn bà, tôi tài gì. Hơn nữa tôi là kẻ dễ dàng phạm tội. Huống chi đây không phải tại tôi. Có khi không hẳn là tôi mà là phúc. Nghĩ vậy tôi cũng yên tâm.

Tôi thấy hơi lọng cọng như đôi vợ chồng mới ở chung một nhà. Giá con Rớt thức dậy, tôi nói chuyện với nó thì đỡ ngượng hơn. Ngược lại Lụa rất tự nhiên. Nàng khuấy sữa bưng đến cho tôi và nói:

– Anh đừng có khinh thường pháo như vậy nữa nghe.

– Anh sợ hầm chật.

– Mà có chật không?

Tôi đánh trống lãng:

– Để anh đi đằng này chút.

– Đi đâu thì cũng ăn cơm rồi mới đi.

– Đi vô C5 gặp ông Tư Chuyền một chút.

– Em biết anh đi đâu mà !

– Đi đâu?

– Hai con nhỏ đó là đồ yêu tinh chớ không phải đồ tốt đâu. Tụi nó ngủ chung hầm với Tư Chuyền đó. Thằng chả một đứa còn thằng cha Tám Lê bên Bưng Còng một đứa. Bà Thắm ghen muốn hộc máu ra đó. Ai cũng biết bả ghen mà xanh lét như con mắm trở.

– Bà Thắm nào?

– Bữa nào ông Tám Lê qua đây anh hỏi thì biết. Thằng chả dụ khị con Nga nhỏ cho đi học y sĩ. Xí, cái thây thằng chả chưa biết có được y sĩ chưa lại cho người khác học y sĩ.

– Đó là chuyện của họ ăn thua gì tới anh?

– Sao không ăn thua, anh vô đó tụi nó bắt xác anh cho coi. Thời buổi chiến.tranh này, sống chết như nháy mắt, nó gặp anh là nó mết ngay.

– Em làm như anh là . . . gì vậy ?

Lụa xổ một hơi.

– Ừ! để rồi coi ! Đố anh khỏi tay hai con quỉ đó. Con gái gì mắc võng trên mình đàn ông. Ngủ như vậy năm này qua tháng khác không bị sao được.

– Võng gì mà mắc trên mình?

– Anh không biết à? Bộ trên R không có vậy sao?

– Trên R thì ngủ trong rừng thôi chứ làm gì có cái vụ chồng lên như vậy.

– Cũng do ba cái vụ pháo bắn mà ra. Không ai dám ngủ khơi khơi trên mặt đất. Dân thì phải ngủ trong hầm. Còn cơ quan phải đào hầm ngoài rừng mà ở. Hầm đào không xuể, phải ngủ chung. Võng giăng hai ba từng, ông từng dưới bà từng trên, vậy đó!

Tôi dã lã :

– Em nói vậy anh biết rồi. Anh sẽ tránh xa ra.

– Anh mà tránh, tránh tới thì có.

– Ừ, thôi anh không đi đâu hết. Anh cứ nằm ỳ ở đây, dì Út nó về anh khai hết.

– Anh cứ việc khai. Anh khai với má luôn đi. Em thách anh đó.

– Nhớ nghe !

Nàng sụt sịt muốn khóc.

– Chớ ba con Rớt như vậy rồi, em thủ tiết với ai nữa?

– Thôi em! đừng có khóc, anh khổ lắm!

– Em biết anh dòm ngó đâu đâu chớ đâu có chịu nhìn cây cỏ dưới chân anh.

Cơm nước xong, tôi nai nịt đi C5, bỏ cái ba lô ở nhà. Vừa ra khỏi cửa là đụng sứ giả của Tư Chuyền: Bảy Phúc tay cầm cái lồng có mấy con chuột cống lông vàng khè.

– Anh Tư, mời anh vô chơi.

Lụa tuôn một hơi.

– Chơi gì mà chơi. Mới hồi hôm không đã sao mà còn kêu réo? Để cho ảnh nghỉ khỏe rồi đi công tác.

Bảy Phúc cười ý nhị:

– Một đêm chưa có đã nên kêu ảnh vô chơi tiếp. Hè hè .. . Còn một rộng chuột cống trong đó…

– Ăn ba con chuột đó miết trổ phong cùi cho coi.

– Chuột người ta kiếm không ra, chuột gì trổ phong cùi.

– Chuột bị hóa học, chuột ăn thây ma ăn không bị cùi hả? Bác sĩ gì ăn ẩu tả không hè.

Tôi nói:

– Tôi cũng tính đi vô đó để bàn công tác với anh Tư mà còn ngại đường đi, không biết có lựu đạn gài hay không?

– Chỉ ở ngoài đường số 1 , Xóm Mới, Gò Nổi mới có thứ đó thường xuyên. Còn trong này chỉ có ba cái hầm chông gài ếch của cô Út Là thôi. Anh nhảy đầm trên đó cũng không sụp

Bảy Phúc để lồng chuột ngoài cửa, bước vô nhà, ngó ngó một hồi rồi bảo:

– Đêm qua pháo thụt anh ngủ đâu?

– Ngủ hầm chớ ngủ đâu mà hỏi kỳ vậy?

– Ờ hầm của chị có nhiều ngách. Tôi biết mà.

– Anh chui vô hồi nào mà biết giỏi vậy?

– Đứng ngoài miệng dòm cũng biết mấy ngách nữa cần gì vô!

Tôi biết cuộc đấu khẩu này có biểu tượng hai mặt và có mòi găng nên hòa giải bằng cách chỉ cái lồng chuột:

– Chuột này mà ăn thây ma à, Phúc?

– Người ta nói vậy thôi, chớ thây ma đâu mà ăn?

– Có chớ sao không. Ông gì ở Bàu Chứa đi làm đồng bị pháo bắn chết hai ba ngày, bà vợ đi thành về mới hay. Ra đến nơi, cái thây bị khoét mấy lỗ. Tôi nghe chuyện đó, mỗi lần thấy con chuột tôi mắc ói.

Bảy Phúc giục:

– Thôi đi anh Hai.

Lụa ném theo.

– Đi một chút thôi à !

– Một chút rồi tôi đem trả lại, còn nguyên không sứt một miếng… da nào!

Lụa hết quạo, cười xòa, khoe hai hàm răng ngà có duyên hết sức:

– Mấy ông tối ngày có môn nói xầy là giỏi! Mà coi kia, con đầm già trên Dầu Tiếng xuống.

Bảy Phúc khom xuống xách cái lồng chuột, nghễnh cổ lên nhìn và nói:

– Nó rà trên sông Sài gòn kệ bà nó, giỏi thì rải hóa học tiếp bên An Điền chớ bên này còn chỗ nào xanh mà rải?

Nói vậy rồi anh em dắt nhau đi. Tôi không nhìn lại, nhưng tôi biết ở sau lưng, Lụa đứng tựa bẹ cửa nhìn theo và tôi biết ở nhà Lụa sẽ làm gì nữa.

Đi dọc đường thì đụng hai con yêu tinh xuống rước. Hồng Nga (tức Nga hai chục tuổi) hỏi ngay :

– Anh tới gia đình con Là hồi nào mà làm con nuôi má hai?

– Năm ngoái.

– Năm ngoái em mới ra khu, đóng ở Phú Hòa.

Tôi hỏi Huỳnh Nga (tức Nga mười sáu tuổi):

– Em học lớp mấy mà bỏ trường đi đây?

– Em học lem nhem không biết lớp mấy nữa !

Hai cô Nga, cô nào cũng được đến, không biết có như Lụa nói hay không? Đàn bà con gái không ai ưa ai cả chị em ruột trong nhà cũng thế. Hễ có dịp là bêu xấu nhau ngay huống chi tình địch.

Đi qua nhà chú Bảy Xe, ra khỏi vườn cao su là ra đụng bìa rừng chồi. Cây thấp nhưng rậm, Huỳnh Nga trỏ tay, bảo:

– Đường này ra Bàu Đưng đi ngang qua đồng Trà Dơ. Chắc rồi sau này thế nào anh cũng có dịp qua mấy nơi đó.

– Em thích nghề y tá này à?

– Em mới ra, mấy chú đặt đâu ngồi đó chớ biết gì mà lựa chọn.

Đang đi bỗng nàng sụp xuống kêu lên.

– Gì vậy?

Bảy Phúc xách lồng chuột đi phía trước, quay lại ngó rồi đi luôn với Hồng Nga không quan tâm. Tôi đi tới hỏi. Nga ngước mắt lên, cặp mắt đen huyền.

– Em đá trúng cái rể cây nó tách móng chân.

Tôi móc trong túi cứu thương cá nhân đeo từ Hà Nội, lấy vải ra quấn mấy vòng. Máu thấm ướt ra tận ngoài. Nga xuýt xoa. Tôi bảo cố đi về nhà rồi băng lại.

– Em hết đau rồi.

Nga nhìn tôi và nói giọng nhỏ rí. Nga đứng dậy đi. Có lẽ chân đau nên Nga đi chậm, cách xa hẳn Hồng Nga và Bảy Phúc. Bỗng nhiên Nga hỏi tôi:

– Sao anh không tìm chị Hai đi? Nhiều ông mới về tới là đám cưới ngay.

– Anh chân ướt chân ráo biết ai đâu! Em làm mai dùm coi.

– Em sợ anh chê chớ có thiếu gì.

Tôi cười:

– Anh thấy có một người đẹp lắm mà không dám.

-Anh sợ ai mà không dám?

Tôi nói ngay:

– Sợ bị thương sơ sơ mà vô bịnh xá , người ta cưa giò anh.

Nga bật cười:

– Người ta đồn bậy vậy chớ ai mà thèm cái ông già dịch đó ông ta có vợ là chị Ba Thắm có hai, ba đứa con rồi. Ai đui mà lủi vô bụi gai đó.

– Sao anh nghe người ta đồn rùm rằng bà Thắm ghen tuột quần tuột áo.

– Bả nghĩ bậy rồi bả ghen chớ ai làm gì chồng bả? Anh mới về mà nghe ai đồn mà lẹ quá vậy?

– Anh cũng không nhớ ai nói với anh.

– Em đâu có phải là người mất trí đâu anh Hai.

– Anh nghe vậy thì anh nói lại cho em biết chớ anh biết em là người có học.

– Sao anh biết em có học?

– Nghe nói chuyện thì biết. Cũng như nghe pháo đề-pa là anh biết pháo gì.

– Em cảm mến anh từ khi nghe tiếng đồn về ông thầy pháo. Quả thật tiếng đồn không sai.

– Anh nhậu nói chuyện tào lao vậy mà cảm mến cái nổi gì?

– Cùng là dân nhậu, nhưng anh khác.

Đi một quảng nữa, Nga nói:

– Anh của em là Năm Hoa ở Tiểu đoàn Quyết Thắng của I/4 này. Ảnh là tiểu đội trường. Ảnh hứa hôn với chị Tám Mang hộ sinh quận, nhà ở Bến Mương.

– Còn nhà em ở đâu?

– Em ở xã Thời Hòa, quận Bến Cát bên đường quốc lộ 13 từ Bình Dương đi lên. Anh Năm em đánh trận Cây Trộm hồi 63 bị thương, cưa hết hai chân. Gia đình chị Tám lãng ra không nói gì đến chuyện cưới hỏi. Thỉnh thoảng em gặp chỉ, nhưng chỉ không nhắc gì đến anh Năm em. Em vẫn thương chỉ lắm. Nhưng tình nghĩa phai lạt như vậy em biết làm sao bây giờ. Em chờ má em đem tiền vô, em đi lên trại An dưỡng ở Lò Gò thăm ảnh. Đời ảnh bây giờ chỉ còn nguồn an ủi là gia đình thôi.

Tôi nói ngay:

– Em thấy không? Đời chiến sĩ là vậy . Khi còn cầm súng chiến đấu thì kẻ đón người đưa, bị thương nằm một đống, cả vợ chưa cưới cũng quay mặt. Do đó anh không muốn làm phiền lòng ai hết.

Nga nói:

– Đâu phải người nào cũng như chị Tám hết, anh !

– Đã đành là người ta vẫn yêu mình đi nữa, nhưng gặp một ông chồng thương tật như vậy thì sống có thú vị gì.

Nga quay sang chuyện móc gia đình:

– Gia đình anh ở đâu?

– Trước ở Long An, bây giờ nghe nói về Sài gòn rồi.

– Anh có muốn móc chung với em không? Em có cây móc ở xóm Ràng xã Trung Lập. Nhưng có chắc là anh về I/4 không?

– Chắc anh về Pháo binh thuộc phòng tham mưu.

– Tham mưu là K10, K20 là phòng Chánh trị, K30 là Hậu Cần của em. Vậy cũng gần. Chừng nào anh có ý định móc thì anh cho em hay.

Nghe Nga nó chuyện tôi thấy nàng có trình độ như Huỳnh Mai. Tôi nói:

– Thấy mặt em là anh muốn hôn. Cho hôn một cái được không? Cho thì lấy, mà không cho thì cũng đừng cự nự nghen.

– Hồi đó tới giờ chưa ai hỏi em như vậy.

– Vậy chưa ai hôn em à?

– Có nhưng họ hôn ẩu. Em tởm lắm. Em đi rửa mặt và lau đi.

– Còn anh?

– Sao anh đòi kỳ vậy?

– Tại thấy thương chớ sao nữa. Phải hôn em được một cái thì hi sinh mới mát bụng.

Nga làm thinh cứ lầm lũi đi. Tôi nhắc lại:

– Có chịu không? Làm thinh tức là đồng ý .

Nga dừng lại chớp chớp mắt:

– Mà anh phải hứa thì em mới đồng ý .

– Hứa gì?

– Hứa là hôn em rồi không được hôn ai khác.

– Nếu anh đã hôn ai khác rồi thì sao?

– Từ đây về trước em bỏ, chỉ tính từ này về sau thôi.

– Vậy… em là gì của anh à?

– Hổng biết nhưng em không muốn anh hôn ai ngoài em.

– Ừ, anh chịu.

– Mà không được đâu, gần tới nơi rồi. Mấy thằng thanh niên thấy nó cười em.

Tôi thấy Nga dễ thương, khôn ngoan và tình cảm rất phải chăng, không xốc nổi như Thanh Tuyền. Huỳnh Mai chết rồi. Có thể đây cũng là Huỳnh Mai chăng? Nga bảo:

– Anh có nghe tiếng đào đất thình thịch trong rừng không? Đó là căn cứ của C5 tụi em.

– Đâu đưa anh vô xem.

Đi theo một con đường mòn mới lởm chởm gai góc và luồn qua những nhành cây thấp. Nga đưa tôi đến một công trường đào đất gồm có bốn mạng. Tôi ngó qua thì thấy đó chỉ là một loại giao thông hào có nắp đậy. Đưa thương binh xuống đây khác nào chôn sống họ ? Anh nào đã vô nằm trong cái bệnh xá này trở về chắc không dám chiến đấu nữa.

Tôi bảo Nga dắt tôi đến văn phòng của Tư Chuyền. Tôi biết trước là tôi sẽ liên hệ công tác rất nhiều với cái C5 này nên tôi phải đóng góp ý kiến với ông ta.

Đến một quảng rừng rậm, tôi dừng lại hỏi:

– Bây giờ còn sợ người ta thấy nữa hết?

– Để thong thả đã .

– Treo môi người ta đến chừng nào?

– Anh đã hứa với em đâu mà đòi.

– Ừ thôi anh hứa đó. Chịu chưa?

– Chịu nhưng phải chờ.

– Chờ gì nữa.

– Chờ má anh với má em gặp nhau bàn định mới được. Chớ làm ngang vầy sao?

Tôi nghĩ bụng, cô bé này khó tính chớ nhỉ. Nhưng mà làm sao giải quyết vụ Thu Hà? So với bất cứ cô nào quen với tôi từ trước tới nay, Nga cũng không thua mảy may. Tôi hơi tiếc sao một đóa hồng nhan như thế này lại lăn thân vào khói lửa?

Nga đưa tôi đến một cái hầm vuông dài trên có mái lá che lẫn trong những tàng lá rậm. Tôi bước theo những bậc thang đất đi xuống. Tư Chuyền đã ngồi sẵn ở bàn với Bảy Phúc. Tư Chuyền bắt tay mời tôi ngồi:

– Sáng sáng trụn lòng trà mậu dịch. Chiều chiều súc miệng rượu quốc doanh. Thầy nhớ câu đối đó ở đâu không thầy Hai?

– Câu lạc bộ F330 ở Thọ Xuân chớ đâu.

Tư Chuyền cười, mắt lấp lánh sau tròng kiếng cận thị:

– Mời thầy trụn sơ bộ đồ lòng buổi sáng cái đi!

– Tình hình chắc êm không?

– Không ngày nào êm. Nó không đổ chụp thì pháo, không pháo thì rải chất độc, không rải chất độc thì đầm già bay tìm mục tiêu.

Tư Chuyền rót trà. Hai đứa vừa ăn đường cát vừa uống trà. Cạn chén thứ nhất, tôi nói ngay:

– Không còn cách nào khác để giấu thương binh hả anh Tư?

– Thầy coi đó thì rõ thầy Hai. Ở trên không cho cả nhân công đào đất mà. Vật liệu là cột nhà cháy tụi tôi thu nhặt đem về, cột kèo chủ nhà quăng dưới mương ngâm tôi cho lấy ẩu hết đem vô làm hàm, không cần đếm xỉa quan điểm nhân dân.

– Cây kim sợi chỉ không lấy của nhân dân, nhưng cột nhà thì rút tuốt.

– Chủ nhà thấy mất là biết mấy con quỉ giải phóng chớ ai vô ! Chuối non tôi cũng đốn, dừa nạo dừa khô cũng không tha, mít sầu riêng cam quít bẽ tuốt.

– Nhưng hầm hố thế này tội cho thương binh quá anh .

– Tôi phải nhắm mắt làm bừa bất kể lương tâm nhà nghề thầy Hai ạ . Chớ nếu chờ ở trên thì không có gì hết. Hôm qua tôi đã tâm sự với thầy đó. Xin một cái móc tăng để che bụi khi mổ xẻ cũng không có mà ! Thầy Hai có tưởng tượng được rằng mổ xẻ không có thuốc tê thuốc mê không?

– Nếu tôi ra đơn vị bộ binh tôi sẽ đưa về đây đào hầm cho anh một thời gian và sẽ nghiên cứu chiến trường đánh cướp một số thuốc men dụng cụ.

– Được vậy tôi phục vụ đơn vị thầy Hai hết mình.

Hồng Nga bưng dĩa khoai mì bốc hơi bước xuống đặt trên bàn:

– Mời chú Tư với anh Hai ăn lót lòng.

Tư Chuyền nói:

– Thầy Hai dùng thử xem có bằng khoai mì Phước Long của ông Ba Cà trồng không?

Nhìn mấy củ khoai nõn nà thơm phức, tôi hỏi:

– Anh có nếm khoai mì của ông Ba Cà nữa à?

– Có thấy nhưng không dám ăn!

– Sao vậy?

– Trong đoàn tôi ăn rồi bị ngộ độc năm, sáu mạng, tôi cứu cấp suốt một đêm mệt muốn chết luôn.

– Tôi ăn no cành có thấy gì đâu !

– Ông có gặp những củ to bằng chiếc gối đệm không?

– Mì gì mà to dữ vậy?

– Đó là những củ bị bỏ quên hai năm không ai đào, ăn như thịt giò voi, không có chất ngọt gì hết, còn lạt hơn củ chuối nữa, nhưng khá hơn đọt cây đớt và lá bép. Cho nên mạnh anh nào anh nấy dồn bao tử. Nhưng loại củ này vô thưởng vô phạt. Còn một loại bị rể tranh mọc xuyên vô rồi trở thành độc địa. Ăn xong ngã ngửa ra, mắt trợn ngược.

– Sao kỳ vậy?

– Đó là hiện tượng rõ ràng. Chỉ biết chữa chạy chớ đâu có thì giờ mà nghiên cứu.

Tôi bẻ miếng mì bỏ vô miệng nhai và nói:

– Mì này không thua mì ở xã Trí Phải Bạc Liêu.

– Ngon thì cũng thấy ngon lắm, nhưng tôi hơi ngại. Như tôi nói hôm qua đó. Sinh vật ở đây đều nhiễm độc. Mình ăn vào không bảo đảm đâu, nhưng đói thì không nhịn được.

Tôi trở lại vụ hầm hố, nói:

– Nắp hầm như thế này may ra chịu được 105 chớ không chịu nổi 155 và 175 đâu.

– Cò ỉa miệng chai thầy Hai ơi! Nếu hầm nào bị pháo trúng lệnh thì đó là trời kêu ai nấy dạ chớ biết làm sao bây giờ.

Tôi bi quan vô cùng, nhưng không biết làm sao cải tiến ngành quân y. Nhớ hồi 47 quân y kháng chiến cũng thiếu thốn vô cùng nhưng thương binh được nằm yên ổn trong nhà, tính mạng không có chông chênh luôn luôn bị đe dọa bởi các thứ như bây giờ.

Hồi trước vẫn có cơ hội để áp dụng khoa học như cấy phi la tốp, như bào chế thuốc chích ngừa bệnh trái mùa, ngừa nọc rắn độc, bào chế vitamine B1, vitamine C, hemogbobine (giống như Hemoglobine Deschiens) còn quân y xá bây giờ cả miền Nam trông thấy mà khóc ròng.

Uống trà xong, Nga dẫn tôi đến xem cái hầm của hai cô Nga. Tôi nhìn thấy mà càng khóc ròng hơn. Đúng là ăn lông chuột và ở hang chuột. Cái hầm sâu ngang đầu người, bề ngang sáu tấc. Võng giăng hai tầng bó chẹt giữa hai vách đất không lắc qua lắc lại được. Tôi bảo:

– Cái nóc thế này chịu nổi đạn gì?

– Chịu nổi đạn gì thì đạn, chớ tụi em không có sức đào nữa.

– Đáng lẽ trước khi đắp nắp, hai em phải lót một lớp ni-lông nước mưa mới không rỉ xuống.

– Ni-lông không có xài lấy đâu lót đất, anh Hai ! Mỗi lần anh Tư xin, ở trên trả lời bảo khắc phục ! Khắc cách nào?

Để phá tan bầu không khí áo não, tôi hỏi Huỳnh Nga:

– Chân em hết đau chưa?

– Nhằm gì cái vết trầy ngoài da anh Hai!

– Vậy vết trầy ở đâu mới nhằm?

Hồng Nga nói hớt.

– Ở trong tim, phải không em Sáu?

Huỳnh Nga quay lại nhìn Hồng Nga. Hai nàng mỉm cười với nhau.

Chương 32 Cô xã đội phó

Nga chưa dứt lời thì một tiếng hét chát chúa như M19 nổ sau lưng tôi:

– Anh Hai đi về !

Tôi quay lại: Là và bé Rớt đứng tần ngần. Cô xã đội phó nói như quát.

– Anh làm gì tới đây?

– Anh vô nghiên cứu công tác.

Là không nói gì quay lưng đi. Được vài bước thì quay lại:

– Trên khu cho người đi tìm anh.

– Ai vậy?

– Không biết. Anh về coi.

Là nói nhát gừng. Tôi dắt tay bé Rớt đi theo. Chợt nhớ mình chưa từ giã hai cô Nga, tôi dừng lại:

– Chào hai em nghe . Chừng nào móc gia đình anh sẽ cho biết.

Đi ngang hầm Tư Chuyền tôi nói:

– Chiều ra trạm chơi nghe ông bác sĩ.

Ra tới đường, Là dừng lại quắc mắt:

– Anh về hồi nào?

– Trưa hôm qua.

– Hồi tối anh ngủ đâu?

Bé Rớt vọt miệng:

– Cậu Hai ngủ ngách của dì.

Câu nói của con bé làm gương mặt nhăn nhó của cô nàng dãn ra. Nàng cười nhưng cố nín. Rồi bảo:

– Anh về đi Bò Cạp với em!

– Đang giờ chụp mà xuống Bò Cạp Bàu Chứa để nộp mạng hả cô xã đội?

– Đó là dưới Nhuận Đức còn Bò Cạp em nói là ở xã Phú Mỹ Hưng mình. Từ nhà má ở Hố Bò băng qua đường 15 là đụng xóm Bò Cạp đó ông thầy ngớ ngẩn.

– Xuống đó kiếm M19 của giang thuyền hay làm gì?

– Anh chết, em chết theo, gì mà lo.

– Để mai không được sao?

– Việc gấp phải đi liền, chậm trễ thằng cha đó vọt mất.

Thấy nàng dịu dịu, tôi phản công:

– Đáng lẽ anh đi hồi chiều hôm qua với Một Sơn rồi, nhưng nghe chú Tư Thiên nói em hội nghị sắp về, nên anh nán lại đây.

– Nán lại sao còn vô C5 làm gì trỏng.

– Xem ba cái hầm chứa thương binh như thế nào để…

– Nghiên cứu hai con hồ ly đó phải không? Thứ đó gặp ai cũng nhận anh nuôi em nuôi. Anh đã làm anh nuôi tụi nó chưa? Tới anh là thứ 1010 rồi đó. Nói cho biết!

– Lần này anh về đây là sống chết với Củ Chi. Nên anh phải xem cách ăn ở hầm hố…

– Vậy kỳ trước em chỉ địa đạo cho anh, quên sao?

– Địa đạo khác, hầm khác, anh phải rút kinh nghiệm cả hai.

– Thôi đi! Em nói không lại anh đâu… Nhưng nếu anh muốn coi kiểu cách làm hầm bí mật ăn thông ra địa đạo thì ở lại đây vài bữa coi chú Tư Thiên làm hầm cho ông Ba Xu thì rõ chớ rút kinh nghiệm gì ba cái hầm cóc nhái đó.

– Ba Xu nào?

– Anh không biết ổng à ?

– À, biết rồi, ông Ba Dì.

Là toét miệng cười rồi xổ luôn.

– Ba Đình chớ Ba Dì gì? Ách giữa đàng mang vào cổ.

– Ách gì mà mang?

Là đã hạ nhiệt độ, chậm rãi kể:

– Em với chú Tư Thiên đi hội nghị ở xã An Phú, trời ơi, tình hình này mà ông Út Một bí thư huyện ủy thuyết trình tình hình mới cả tuần lễ . Ngồi nghe, cái đít có gai mà ổng cứ nói dai như đỉa đói.

– Ổng nói cái gì?

– Có nói cái gì đâu ! Cứ nhai tới nhai lui nắm thắt lưng Mỹ mà đánh. Hết nắm thắt lưng thì xốc tới hoàn thành nhiệm vụ, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng chớ có gì mới đâu !

– Cái đó anh học từ năm ngoái.

– Vậy mà ổng la khẩn trương đó ! Chú Hai Lầu bí thư xã An Phú quèo em với chú Tư Thiên ra hội ý riêng. Tưởng cái gì quan trọng chẳng ngờ cũng hầm hố. Nhưng mà lần này ổng lại muốn chú Tư Thiên lãnh trách nhiệm. Còn ổng và chị Út Lan xã đội phó là con gái của ổng lại bận việc khác. Cứ hễ có đào hầm thì mấy ổng vợ bịnh con đau, y hệt như ông Năm Thuận xã đội trường xã mình vậy. Đáng lẽ Năm Thuận đi họp kỳ này nhưng ổng lại đùn cho em đi với chú Tư. Bây giờ em phải lãnh thêm vụ đào hầm này.

– Đào cho mình thì tốt chớ sao !

– Đào cho ông Ba Đình với ông Tư Trường chớ cho gì em!

– Đào hầm cho hai ông kẹ là quan trọng, người ta tín nhiệm em mới giao cho em.

– Hầm thường không chịu lại đòi hầm ăn thông ra địa đạo kìa! Như vậy là phải có cả chục nhân công. Thời buổi này tìm đâu ra số người đó. Nhưng không phải người nào cũng đào được, mình phải chọn những người đáng tin cậy. Do đó em mới hỏa tốc về nhà và đi Bò Cạp để bắt ngay một số người, nếu chậm trễ thì họ đi mất hết.

– Rồi đèo anh đi làm gì?

– Đào hầm cho ông tư lịnh của anh mà anh không chịu mó tay vào hả ?

– Ổng là tư lịnh của anh nhưng anh không phải là đội viên du kích của em.

Là xuống nước nhỏ:

– Thôi mà anh Hai. Anh giúp em một tay. Có anh, em ăn nói mạnh dạn hơn. Em sẽ bảo họ là anh biệt phái của ông Ba Xu gởi xuống trông coi vụ hầm hố!

– Lần đào với Tư Linh để làm cảnh cho thằng Bọ Chét, anh ớn tới mật xanh, bây giờ bắt đào nữa, chắc anh phải cáo bịnh.

– Sao anh bảo anh vô C5 học kinh nghiệm hầm hố?

– Học cách giấu thương binh chớ không phải học đào địa đạo.

– Nếu anh không giúp em, em bỏ trôi.. Hể có chụp ông Ba ông Tư chạy cà còng rồi bị thộp là anh chịu trách nhiệm. Có đi không?

– Đi thì đi nhưng chỉ một chuyến thôi. Anh bận lắm.

– Ừ ! ra nhà Năm Thuận rồi về !

– Năm Thuận là ai?

– Trước kia ông Ba Cứng làm xã đội trưởng. Ổng vừa cõng vợ con ra ấp chiến lược gần Cầu Ván, chú Tư Thiên mới giao cho Năm Thuận trước kia là ấp đội trưởng ở Bò Cạp. Ảnh có vợ con nhưng còn hăng hái. Ảnh làm ruộng và làm thêm nghề câu tôm câu cá. Nhưng vừa rồi ổng lại than vợ bịnh con đau nhờ em đi hội nghị thay. Bây giờ em xuống em giao ba cái vụ đào hầm này cho ảnh chịu trách nhiệm chính còn em chỉ phụ giúp thôi.

Về tới nhà, nàng bảo như ra lịnh cho tôi:

– Anh bỏ ba cái thứ hộp và đồ phụ tùng ở nhà, xuống bếp lấy cái nón lá của chị Lụa đội lên rồi đi ngay. Ủa mà quên, choàng thêm cái khăn rằn nữa. Rủi tàu lồng cu thả trên sông Sài gòn nó thấy nó tưởng là nông dân làm ruộng. Vùng này là vùng cấm kỵ, hễ nó thấy người thấp thoáng là nó bắn.

Bé Rớt nhõng nhẽo đòi theo cậu Hai. Là quát:

– Xuống đó tàu nó bắn M79 ra-phan mày chạy khỏi không?

Lụa ra đứng ở cửa nói vói theo:

– Đi lẹ lẹ về ăn cơm!

Là quay lại xẳng giọng:

– Tôi hổng dẫn anh Hai đi mất đâu chị Hai.

Lụa nguýt rồi nói.

– Con nhỏ lãng dang. Bữa nay mày mắc chứng gì vậy?

– Chứng gì hổng biết, để má về tôi mét má cho chị coi !

Là ngoe ngoảy bước đi với vẻ mặt giận hờn. Tôi lẽo đẽo theo sau như một thứ cận vệ vừa bất đắc chí vừa tự nguyện.

Đến khúc vắng, tôi mới rủ rỉ:

– Cô nói cái gì nghe trật lất cái lỗ tai vậy cô xã đội?

– Nói cái gì mà trật.

– Anh Hai chị Hai nào?

– Chớ hổng phải hả?

– Phải cái gì mới được chớ.

Là đang đi bỗng quay lại:

– Tôi thấy là tôi biết tẩy liền rồi !

– Thấy gì mà biết tẩy?

– Em hỏi anh tại sao chỉ giặt quần áo của anh?

– Thì anh là anh mà em gái không giặt quần áo cho được hay sao?

Là nói xói xói vào mặt tôi:

– Giặt thì giặt chớ sao còn đưa lên mũi hít hít là cái nghĩa gì! Chỉ có vợ chồng mới làm như vậy thôi.

Tôi dội ngược. Con bé này ranh thật. Nhưng tôi cũng không vừa gì. Tôi nói ngay:

– Tối qua anh nhậu say ói tùm lum, cô Ba Lụa đem áo anh đi giặt, phơi khô chắc là cổ hửi coi còn mùi hôi không chớ gì !

Là lặng thinh không mè nheo nữa. Tôi tiếp:

– Em giận hờn vậy chắc anh phải cuốn gói đi nhanh.

– Em thấy thì tưởng là . . . thôi chớ em có giận hờn gì !

– Tưởng gì kỳ cục vậy mà tưởng chớ !

Bỗng đâu tiếng chuông xe đạp leng keng phía sau. Tôi quay lại thì ra Một Sơn.

Một Sơn đạp trờ tới trước, đưa chân rà xe lại và hỏi tôi:

– Anh tính mai rời trạm chưa anh Hai?

Là hớt ngay:

– Ảnh còn chờ má tôi về mới đi.

– Biết chừng nào má về mà chờ?

– Chừng nào thì chừng cũng phải để ảnh ở lại giải quyết tình cảm gia đình.

– Anh Hai đâu có gia đình gì ở đây?

Là nói xon xỏn.

– Má nuôi, chị nuôi, em nuôi không phải là gia đình hả? Người ta đi mười mấy, hai mươi năm về tới xứ không gặp được gia đình ruột thì có gia đình nuôi, phải để cho người ta nghỉ ngơi trong gia đình chớ. Cách mạng cả đời chớ phải một ngày một bữa gì hay sao?

Một Sơn cười với tôi:

– Con nhỏ này dữ quá anh Hai à ! Anh về anh trị nó dùm tôi coi ! – rồi quay sang Là – Đi lên Bò Cạp coi chừng đó cô em! Hồi sáng tàu trên Dầu Tiếng thả trôi xuống tám chiếc đó, coi chừng nước ròng nó quay trở lên! – Nói xong Một Sơn nhắc chân lên pê-đan nheo mắt với tôi – Thôi tôi để anh Hai ở lại với gia đình vài ba bốn năm bữa nghe !

Là ngó theo xì một tiếng rồi nói với tôi:

– Vợ con đùm đề mà lúc nào cũng be be theo mấy đứa dũng sĩ, nữ du kích! Còn anh, anh phải ở lại chờ má về rồi mới đi. Nếu em không nhận được thơ anh thì em đã theo má qua Thanh An rồi, anh về không có gặp con nhỏ này nữa đâu.

Nàng nghẹn ngào. Tôi không muốn nàng xúc động nên nói:

– Xã đội bỏ cơ sở đi à ?

Là vênh mặt:

– Ông Cứng là xã ủy mà còn bỏ kìa, em là đoàn viên ăn thua gì? Dân đi hết, mình em ở lại giữ ma à?

– Từ rày đừng có nói kiểu đó với chị Lụa em nữa nghe.

– Em nghi anh quá hà.

– Nghi trật rồi !

– Em biết chị Lụa thương anh. Nhưng chỉ không bô lô ba la như em.

Đi ngang qua lò đường, nơi tôi ghé lại uống nước mía năm trước Là bảo:

– Đấy, anh coi có còn gì không? Chỉ trơ lại ba cục gạch. Tất cả đều cháy rụi. Bò che đều tiêu hết. Người đi tứ tán.

Tôi dừng lại ngó qua. Cỏ hang um tùm. Bên đường mòn một cái mẻ lu to đầy nước mưa thế giới riêng của những con lăng quăng. Hố Bò bây giờ không còn là mảnh đất vui tươi nơi anh Tô Ký làm đám cưới với hàng chục ngọn đèn măng sông và khách khứa nhậu rượu Tây suốt đêm nữa. Hố Bò là bãi hoang tàn sau mấy lượt B52.

Đến gần nhà má Hai, cảnh vật càng tang thương. Gạch ngói đã biến hết không còn làm vui cặp mắt của kẻ tha hương như năm nào. Cây vú sữa bị chém đứt ngang, còn đứng đó như người không đầu. Bên cạnh đó là một cái giếng cạn đầy nước lẫn rong rêu. Màu nước nâu làm tôi cảm tưởng đó là dĩa tiết canh đánh với huyết mà gan lòng của kẻ bị trảm thủ kia. Ngôi nhà ngói xưa đã biến mất chỉ còn một bãi than như một cái biển nhỏ mà ở giữa là một cù lao. Đó là cái hầm nổi giữa nhà , nơi ngày trước tôi từng nằm trên bộ ván gõ mát rượi tình gia đình khi vừa đến đất Củ Chi lần đầu.

Tôi nghe quặn ruột gan. Là trỏ ra sau vườn:

– Ba cây chuối cây dừa còn kia là nhờ em còn tới lui, nếu em đi Thanh An với má thì ba thằng du kích đến ăn hết rồi. Lũ quỉ đó phá phách ghê lắm.

Nàng dắt tôi đi ra sau vườn tiếp giáp với sở cao su già trơ trụi ngổn ngang những thân cây, gieo leo mọc chằng chịt.

Nàng trỏ hai cây cột chơ vơ đen thui, bảo:

– Đây là phòng thông tin Hố Bò. Hồi trước thông cáo Mặt Trận dán ở đây. Tối tối tụi em ra đây cầm loa đọc tin tức. Bây giờ thì như vậy đó.

Đi một quãng nữa, nàng bảo:

-Đây là đường 15.

– Sao không thấy gì hết ngoài một bãi sình mênh mông vậy.

– Đã bảo là B52 mà. Ngã Ba Bò Cạp ở trước mặt kia kìa. Chỉ cách sông Sài gòn một quãng ngắn thôi. Nhà cửa quán xá không còn cái nào, cây cối không còn lá, vài khóm chuối non sống sót vượt lên èo uột ngoắc ngoải. Vài ngọn cau ngọn dừa le the. Trái dừa lăn lóc đầy đất như những đầu lâu. Bom đạn đã ác liệt rồi. Chất độc còn ghê gớm hơn nữa. Tược non có thể nảy quanh những vết thương trên thân cây, nhưng chất độc giết tận trong lõi cây gốc rễ. Nàng bảo:

– D8 đóng dọc con đường 15, bây giờ đi mất hết rồi! – Nàng trỏ tay ra giữa đồng – Đó là xóm Bò Cạp.

Tôi nhìn theo. Chỉ có mấy mái nhà đứng co ro nép vào nhau như sợ hãi. Nàng giục:

– Chạy mau qua đồng trống kẻo máy bay !

– Đi chuyến này về anh bạc nửa mái đầu.

– Cho anh quen với sinh hoạt ở đây. Nó như vậy đó ! – Nàng vừa chạy vừa nói – Bạc hết cũng được. Như vậy khỏi ai tranh giành với em.

– Ai tranh anh làm gì.

– Có chớ. Em biết mà ! Em tưởng anh ở luôn trên R rồi chớ.

– Bỏ em dưới này à ?

Đang chạy nàng đứng lại vừa thở hổn hển vừa nói:

– Mới nghe được một tiếng nói…

Tôi trờ tới hôn làm đứt ngang. Nàng ôm quàng lấy tôi. Chỉ một cái siết mạnh rồi lại chạy. Về tới xóm, hai đứa dừng lại. Nàng nhìn tôi:

– Anh ở trển thì em qua Thanh An luôn.

– Về nhà chồng hả ?

– Nếu em lấy thì lấy lâu rồi!

Nàng trở ra bờ sông:

– Khoảng trống đó là sông.

Tôi nhìn kỹ. Thấy những giề lục bình trôi về phía Trung An.

– Rủi nó đổ bộ làm sao chạy kịp?

– Khúc này bờ sông rậm ri, ruộng lại sình lầy. Nó không đổ .

Đi vào đầu xóm, gặp một ông già bận quần tiều, ống quần quá đầu gối, nhuộm phèn vàng cháy. Là kêu:

– Bác Tám! Bác có thấy anh Năm Thuận ở nhà không?

Ông già nhìn Là sửng sốt một hồi mới đáp, tiếng nói rời rạc như cơm nguội:

– Nó đâu mà có ở nhà.

– Ảnh đi đâu bác biết không?

– Nó đi từ sáng hôm qua đâu có ló mặt về !

Là sốt ruột:

– Ảnh đi đâu bác có biết không?

– Nó nói nó đi xuống nhà thằng Sáu Mã Tử bàn công tác công tiếc gì đó . Hình như nó biểu mấy đứa em nó lên coi nhà dùm.

– Vậy là ảnh đi…

Thấy Là đứng lặng thinh Bác Tám bảo:

– Tôi đoán là nó đưa vợ nó ra Bến Thế ở với bà già vợ nó. Xóm này dọn đi hết rồi. Tình hình loạn lạc đến nơi nên ai cũng bỏ đi. Hai cháu đi vô nhà, để tàu xuống trông thấy.

Bác Tám bảo:

– Ngồi kế bên miệng hầm kia cà . Nó hay bắn thình lình lắm. Nó đi thì đi có luồng. Bảy chiếc nhỏ, một chiếc lớn có lồng cu, lính ngồi trên đó bỏ ống dòm nhìn thấy trên bờ rõ lắm. Hầm hố dưới này không chắc như trên Hố Bò, đất thấp đào xuống hai lưỡi cuốc là đụng nước rồi. Nhưng dễ sống là nhờ con Rạch Bò Cạp cho tôm cho cá, cho nước vô ruộng biền cấy lúa trúng. Đặng mặt này thất mặt kia. Bom đạn này giống gì cũng phải bỏ.

Là cứ nhấp nhõm ngó qua ngó lại láo liên. Rồi đứng dậy bảo tôi:

– Anh ngồi đây với bác Tám, em chạy đi nắm óc mấy ông nội đó chút rồi trở lại. Em đi, lỡ tàu có thấy bóng phụ nữ chắc nó không bắn!

Nói xong nàng xách nón ra đi. Tôi ngồi lại hỏi bác Tám qua loa vài câu rồi đứng dậy vạch vách dòm ra mé sông.

Chỗ này có thể phục DKZ đánh tàu. Nghĩ vậy tôi hỏi ông già:

– Nó đi cách khoảng xa hay gần bác?

– Ít lắm cũng một cây số một chiếc.

Vậy muốn đánh cả đoàn phải bố trí mặt trận tám cây số. Quân ngũ nào giàn cho đủ? Nếu đánh một hai chiếc thì mấy chiếc kia nó đổ bộ bọc hậu đan lưới hoả lực không có đường rút. Ruộng ở đây lầy. Vác mấy cái khối thép đó dễ gì chạy được? Bác Tám không có vẽ nồng nhiệt với cán bộ. Bác không vui chuyện mà cứ lầm lỳ tôi hỏi câu nào bác trả lời câu nấy bằng một giọng không vui. Tôi hỏi:

– Bác có anh chị nào đi công tác không bác?

– Có một thằng, cô xã đội kêu đi hoài.

– Ảnh làm gì bác?

– Nó ngày tối đi tìm đạn cà-nông lép đào lên đem về tháo ra làm đạp lôi. Tôi bảo nó dẹp nghề đó đi. Nhưng nó không nghe. Ở trên quận khen nó hai ba lần rồi. Trong xã gọi nó là thằng Năm Đầu Ban.

– Ảnh gài có kết quả lần nào chưa bác?

– Có chớ!

– Mỹ hay Sài gòn bác?

– Mỹ có, Sài gòn có, bồ nhà cũng có !

Ông già lấy mo thuốc banh ra:

– Chú biết hút thuốc, làm thử một điếu. Thuốc trồng ở đây cháy lắm, không thua thuốc Gò Vấp.

Tôi đang rứt thuốc thì bác bảo:

– Con đầm già lên kia kìa. Cháu đừng ló ra nó thấy nó bắn điểm phản lực tới. Nó xuống là có tàu đi theo, mười lần như một.

Tôi phì phà chưa hết điếu thuốc thì bác Tám đưa ngón tay lên miệng, thầm thì:

– Nó xuống rồi kìa. Chú em ngồi xít vô, đừng ló đầu ra bẹ cửa, nó thấy. Chú có muốn coi thì vạch lỗ vách kia kìa.

Tôi riu ríu nghe theo ông già, đến bên vách lá dán mắt vào lỗ hở. Rất tiếc là tôi bị cô xã đội tước bỏ cái ống dòm ở nhà . Ông già không ngó ra sông nhưng vẫn thuyết minh khúc phim ngắn ông thường xem:

– Đó chú em thấy chưa?

– Dạ thấy.

– Chiếc nào cũng cắm cờ trước mũi phải không?

– Dạ cháu mới thấy có một chiếc.

– Chiếc thứ hai tới bây giờ đó.

– Dạ phải. Nó tới rồi.

– Chú có thấy lính đi hoặc ngồi trên tàu không?

– Dạ có.

– Nó thả máy nhỏ mình phải lắng tai cho kỹ mới nghe.

– Nó hay bắn lên bờ không bác?

– Nó thấy việc gì khả nghi mới bắn, còn trên bờ êm rơ thì thôi !

– Cháu thấy một tên đội kê-pi hút ống vố. Thằng bên cạnh mang kiếng mát.

– Chiếc lồng cu cao nghệu ngang ngọn bần tới chưa?

– Dạ chưa.

– Nó đi khúc giữa.

– Dạ chiếc đó là chiếc chỉ huy đó bác.

Sông này bề ngang chừng hai trăm thước. Trong kháng chiến tôi đã vượt qua nhiều lần. Không khó lắm, không như bây giờ. Còn muốn đánh nó phải có cả một kế hoạch, đánh thì khó đã đành, nhưng với trực thăng cà-nông của nó rút lui quả là gian nan. Hèn chi lâu nay D8 bị nạo sát da mà vẫn không làm được cú nào. Ông già nhắc chừng.

– Lồng cu tới chưa?

– Dạ chưa! Ủa mà tới rồi bác.

Con đầm già trên bầu trời vẫn kéo ò e hai cái bản nhạc đám ma. Chừng nửa giờ thì đoàn tàu khuất dạng về phía An Nhơn. Tôi ngó ra sau nhà thì thấy cô xã đội phó đi vô gần tới nhà. Theo sau là hai chàng thanh niên, một mặc áo vải sọc, một cởi trần, cả hai đều xách rộng cá. Ông già quát:

– Đi mau vô nhà. Tàu mới xuống đó, Trương, Hiếu!

– Nó qua rồi, tụi cháu mới dám ló ra đây.

– Bây đem tôm cá đi đâu đó.

– Dạ đem xuống xóm Chùa xóm Thuốc bán cho cơ quan bộ đội.

Tôi vọt miệng:

– Đem vô tôi mua cho.

Hai người vô nhà để rộng cá xuống đất. Người mặc áo sọc hỏi Là:

– Ai vậy chị Út?

Là đáp:

– Anh Hai tôi ở trên R mới về.

Anh cởi trần nhướng mắt tỏ vẻ ngạc nhiên.

– Trời đã quá vậy !

– Anh người ta mà đã cái gì, vô duyên!

– Lâu nay tôi có nghe chị có anh đi R đâu?

– Người ta đi phải báo cáo cho mấy người à?

– Chị này khó quá chưa chi đã sạt người ta rồi.

Tôi hỏi:

– Tôm cá mấy anh bán mấy?

– Mọi lần một trăm một ký . Bây giờ nửa giá thôi.

– Sao rẻ vậy?

– Bà con chê tôm cá bị hóa học, chỉ có bộ đội mua thôi.

– Tôm cá dưới nước mà sao bị hóa học.

– Dạ thấy mình cá sần sần, võ tôm ửng đỏ, bà con nghi hóa học. Cũng như chuột vậy. Hồi trước tụi tôi gài chuột, lột da muối, đem ra chợ bán đắc ghê, bây giờ người ta chê chuột ăn thây ma và bị hóa học nên không mua.

Là nói:

– Ngày mai mấy anh phải tới xã đội lãnh công tác, không có được trốn lánh nữa.

– Bộ địa đạo nữa hả chị út?

– Hổng biết, cứ vô rồi có công tác.

– Hết hầm hố đến chuốc chông, hết chuốc chông đến địa đạo, tôi thấy mặt bà nội là tôi ớn xương sống rồi.

Là nghiêm sắc mặt:

– Ớn gì ! Mỹ vô đầy Đồng Dù hết rồi, ai đi công tác cho mấy người ở nhà cải hoạt cá nhân. Người ta hi sinh xương máu, mấy anh ở nhà hưởng lạc, vậy coi được không?

Bị cô xã đội sạc-cà-rây, hai anh chàng nín khe. Là hỏi:

– Hổm rày có gặp ông Năm Thuận không?

Anh mặc áo sọc cười khoe hàm răng vàng nghĩnh như răng chuột:

– Bây giờ muốn gặp ổng thì ra Bến Thế. Chời ơi chời! Nhà ổng dọn trống hoang ba mươi đời vương rồi. Lu mái chở đi trống trơn, rộng tôm rộng cá đem theo sạch nhách, chị xuống đây có môn vuốt nhớt ba cái cây cột nhà của ổng.

Anh ở trần tiếp:

– Ổng là xã đội trường, là chi ủy nữa đó, ổng chạy sọc dưa như vậy có ai làm gì ổng đâu.

Là càng xẳng giọng:

– Làm chớ sao không làm. Kỳ họp này tôi đề nghị chú Tư Thiên có thái độ cho coi.

– Còn ông Ba Cứng dắt vợ cõng con ra ấp chiến lược Cầu Ván, chú có thái độ chưa?

Là kẹt đạn làm thinh.

Tôi mua cả tôm lẫn cá dồn lại làm một rộng xỏ cây đòn ngang quai rồi từ giã bác Tám, hai đứa khiêng đi. Ra đường tôi hỏi Là:

– Ông già có thằng con…

– Anh Năm Đầu Ban! Ở dưới xóm có anh Sáu Mã Tử. Hai anh chàng này hợp nhau lắm. Họ đi đào cà-nông lép làm đạp lôi. Lại còn phổ biến kinh nghiệm cho các xã cách gỡ hột nổ cà-nông. Anh Sáu Mã Tử bị nổ một lần nám đen cả mặt. Do đó có tên Sáu Mã Tử. Xã này bây giờ chỉ còn Năm Đầu Ban và Sáu Mã Tử là hăng hái thôi. Hai ảnh muốn trở thành dũng sĩ như Năm Cội, Tư Đực ở Nhuận Đức. Hai ảnh đang nghiên cứu gài ở bãi đổ bộ của tụi giang thuyền nhưng tụi nó khôn quá, không sập bẫy mấy ảnh lần nào hết.

– Khôn thế nào?

– Mỗi lần đổ bộ nó bắn M79 lên bờ nát đất rồi bắn cối 106 ly 7, đạp lôi nổ tung hết đâu còn trái nào. Đã vậy mỗi khi lên bờ nó còn cho một thằng cầm cần câu đi trước rà, còn sót trái nào nó gỡ ném xuống sông hết. Tuy vậy mấy ảnh cũng còn đeo dính tụi nó. Mấy ảnh phát minh cách gài cải tiến.

– Gài cải tiến là thế nào?

– Là gài trên ngọn cây chuyền dây xuống đất. Hễ lính bước lên bờ đạp dây là bị nổ chụp xuống đầu.

Đi một chập gặp một ông nông dân đen đúa áo giắt lưng từ đằng kia đi lại, Là kêu:

– Chú Hai !

Tôi nhận ra Hai Tới, tôi chưa kịp chào hỏi thì Hai Tới hất hàm với Là :

– Con nhỏ này đi đâu láng cháng ở đây? Không sợ giang thuyền hả ?

– Đi tìm chú nhờ đóng vài cái đồ nghề.

Hai Tới xua tay, lắc đầu:

– Thôi, thôi, tôi không có công tác cái kiểu năm ngoái nữa đâu.

Là ngạc nhiên:

– Công tác gì mà chú la?

– Đi làm cầu tiêu cầu tắm cho thằng nhà báo còn không có hả?

Tôi nói thay cho Là:

– Đó là công tác của quân khu chớ không phải của xã !

– Của ai thì của chớ tôi không có làm ba cái chuyện tồi bại đó nữa đâu.

– Nó là đồng chí của mình mà chú !

– Đồng chí thì đồng chớ. Qua đây mình sống thế nào nó sống thế đó mới phải là đồng chí chớ. Du kích, dũng sĩ đói thấy mẹ, mà mình phải mua đồ nhà hàng ngoài Sài gòn về dâng cho nó. Đi đâu cũng có xe nước ngọt nước đá theo tò tò. Đã vậy lại còn đòi con gái, chú coi vậy có phải đồng chí không? Chú biết con Hương sau đó ra sao không? Nó xấu hổ nó ra ở luôn ngoài thành.

Tôi muốn độn thổ luôn, nhưng may Hai Tới đổi giọng:

– Tôi biết đó không phải chủ trương của xã nhưng xã phải thi hành. Tôi mong rằng từ rày về sau tôi không phải gằm mặt cúi đầu đóng cầu tiêu cho một thằng đồng chí nào khác của mình như vậy.

Bị một bài học ê mặt, tôi không biết trả lời thế nào, thì Là đỡ gạt:

– Kỳ này không phải đóng cầu tiêu đâu chú Hai…

– Đóng gì thì đóng, bây giờ tôi chạy đuôi tôm cho ông Bảy Hốt. Thôi để tôi đi kẻo trễ.

Về tới nhà, Là bảo:

– Ghé đây bẻ mấy trái dừa nạo về kho cá tôm. Anh đem cái rộng neo dưới mương kia rồi leo cây dừa ở góc mương kia kìa. Có bao nhiêu khô, nạo cứng cạy tuôn xuống hết cho em. Anh biết leo không? Cần dây làm nài thì bứt tay chuối khô kia kìa.

– Anh rành hết mà !

Tôi cởi đồ, chỉ chừa quần tiều và bắt đầu làm chuột, làm sóc. Là còn dặn vói theo:

– Mau đi rồi tuột xuống để nó giã gạo giác chiều xuống không kịp đó.

Tôi leo hái lá bứa bắt ong mật ở Trường Sơn, leo hái me ở trảng Bà Điếc bây giờ leo dừa. Cây gì cũng leo được. Cũng may chưa bị người ta cho leo cây. Chỉ mấy hót là tôi ngồi gọn trên ngọn dừa. Nhớ cái thời ở nhà cởi trâu bắt dế bắt chim. Mỗi lần đi thế nào cũng bẻ cặp dừa xiêm máng trên sừng trâu. Cây dừa này rất sai. Một buồng dừa nạo có đến trên chục trái. Tôi bẻ và ném xuống đất. Bỗng từ dưới đất vọng lên:

– Coi chừng dập hết!

Tôi ngó xuống. Giữa những tấm vách cháy dở ghép lại thành cái nhà tắm tạm bợ một thân hình mỹ nữ lồ lộ không tí xiêm áo trên thân. Nàng vô tình hay cố ý ? Tôi choáng váng mặt mày nhưng làm bộ:

– Em ở đâu nói lên vậy?

– Em trốn mất rồi anh không… thấy đâu. Hí hí…

Cô bé này nghịch ngợm thật. Đứng phơi trần ra đó mà còn bảo trốn mất rồi.

Chương 33 Sợi dây thòng lòng của Đảng thưởng cho mày

Vừa bước vào sân thì Tư Linh đã xuất hiện trong khung cửa.

– Khiêng trái cà nông lép hả ?

– Xuống hồi nào đó con quỷ ?

– Đi thỉnh mày lên niết bàn đây.

Tôi và Là đem cái rộng cá tôm thẳng ra sau bếp, rồi tôi trở lên cởi súng treo trên đầu cột.

– Bộ nhà báo quốc tế tới nữa hả ?

– Ừ, kỳ này quốc tế cái.

– Mụ Ri-fô hả ?

Tư Linh cười hềnh hệch:

– Mầy ơi tao cũng ớn chớ đâu có ham gì cái công tác đó.

Trong nhà chật nức những người: gánh C5 gồm bác sĩ Tư Chuyền, Bảy Phúc, Bốn, Quỷnh, hai cô Nga, cánh Tư Linh có ba người: Tư Linh, Tư Trường, Sáu Ly hai ông cán phụ trách dân vận và thi đua quân khu, Chú Tư Thiên, chú Bảy Xe, chị Tám Khỏe, trong nhà có Lụa, Là và đám con nít.

Đang bàn chuyện linh tinh thì ba ông nhà pháo kéo tới.

Lửa khói mịt mù, ì xèo đớp chát, chén chú chén anh thôi thì không tả nổi. Cái tâm lý chung là làm bộ như ta không sợ gì cả, cứ nhậu tù tì nhưng sự thực thì thằng nào cũng run từng sớ thịt.

Buổi tiệc chưa tàn, nhưng Tư Linh, với lý do hội ý công tác nên khều tôi ra ngoài sân. Hai đứa đến nhà chị Tám Khỏe gần bên cạnh, ngồi trên thân cây cao su bị đạn pháo nổ bật gốc. Tư Linh móc gói Capstan chìa cho tôi và nói ngay:

– Mục đích của mầy vô đây tao đã nắm cả rồi. Trước nhất là mày sẽ bàn việc với tụi Chín Lộc Sáu Huỳnh bên quân báo rồi kế là tao. Mày đi chàng hảng hai chân cho mà khước nhé !

Tư Linh, thằng bạn nối khố từ trong kháng chiến chống Pháp, người Bến Tre là thằng gần gũi và xả láng nhất với tôi. Hắn dám nói mọi chuyện, kể cả chuyện

mất đầu như chơi.

Hắn hít một hơi thuốc và bảo:

– Chuyện ngoéo thằng em đại úy Thủy quân Lục chiến của mầy là vô cùng nguy hiểm.

Hai đứa ngồi lặng thinh và đều rít thuốc phà khói như rồng phun lửa. Tôi đã có ý nghĩ lo sợ về chuyện này từ lâu, nhưng vì Ba Thắng cục trưởng chính trị R và là người anh đỡ đầu của tôi từ thời tôi còn là Đồng tử quân ở Rừng Sát, đốc xúi và quyết định nên cực chẳng đã tôi phải nhận cái con dao hai lưỡi này của cách mạng. Nay nghe Tư Linh nói thì hãy lắng nghe xem hắn bảo sao, vì hắn là trưởng ban Địch vận quân khu.

– Ông Tám Quang có bàn với tao rất lâu. Ổng hi vọng nhờ bàn tay mày mà Mặt Trận sẽ có thêm một.vụ Phùng Văn Mười. Ổng không hiểu tình hình Sài gòn nhiều nên ổng cứ tưởng là làm được cú thứ nhất là sẽ làm được cú thứ hai. Binh pháp Tôn Võ Tử tối kỵ điều đó.

– Vụ Phùng Văn Mười có ảnh hưởng mẹ gì mà ham.

– Mày không biết ông nội Phong Vân đóng ở gần Xóm Mới à? . .

– Có tao có ghé đó ăn chực một bữa trước khi sang trường Trung Sơ chỉnh huấn tình hình nhiệm vụ mới.

– Chính cái ông nội đó khuếch trương chiến quả vụ Phùng Văn Mười. Đài Giải phóng la om tỏi. Chắc ở ngoài Bắc nghe xong các bản tin và bài bình luận của đài, sẽ tưởng rằng toàn bộ lính tráng Sài gòn sắp nổi loạn, hoặc lái xe tăng vô khu hết ráo. – Tư Linh phẹc một bãi nước miếng và tiếp – Cái củ c… họ chớ loạn. Mày cứ tin đi tụi nó sẽ đánh mình trọc đầu không còn một sợi tóc. Để rồi coi. Mấy cha nội chủ quan lắm. Ở ngoài Hà Nội cứ tưởng rằng bọn mình ở trong này ăn hút, mở trường tân binh pháo binh hát xướng như trường Lục quân ở Cạnh Đền hồi

chín năm.

Tôi gạt ngang và hỏi.

– Rồi sao, nói tao nghe vụ móc ngoéo thằng em lợi hại chỗ nào? Nói lan man ho thuốc rê hết rồi ông nội.

Tư Linh lắc đầu :

– Chẳng có lợi cho mày gì hết. Chỉ có lợi cho Chín Lộc và Sáu Huỳnh thôi!

– Lợi gì? .

– Lợi là mấy thằng chả được điểm nếu móc được thằng em mày. Tao biết trước là công việc sẽ diễn biến bước đầu như thế này: Trước tiên họ sẽ bảo mày viết thư cho nó. Ghi địa chỉ, tên tuổi cha mẹ để họ liên lạc tận gốc. Họ nắm cái gốc trước đã. Để sau này nếu mày có ngãng ra họ cũng đã nắm được rồi. Kế đó, sau khi họ nắm được cái gốc, họ sẽ nhờ gia đình mày hoặc chính họ đưa thư cho em mày. Một khi em mày đã nhận thư thì họ đá mày văng ra xa. Từ đó về sau họ sẽ liên lạc trực tiếp và giao công tác cho em mày và không cần tới mày nữa.

– Tại sao?

– Đó là nguyên tắc của Quân báo. Một con mồi không thể có nhiều vòi. Hiểu không? Bao giờ cũng vậy, hể họ nắm được là họ muốn độc tôn chỉ huy, ngoài họ ra không có ai khác. Để mày dính líu vào đó, mày có thể bất đồng ý kiến với họ, mày sẽ xoay thằng em mày theo ý muốn của mày. Như vậy họ khó làm việc.

– Rồi sao nữa?

– Nếu họ thành công thì họ quên mày đi. Còn nếu họ thất bại thì họ sẽ đổ thừa mày không hết lòng. Con dao hai lưỡi của họ trao cho em mày sẽ trở lại đâm mày là ở chỗ đó .

Tôi nổi nóng.

– Củ chi họ ! Tao đếch viết thư.

Tư Linh không nói gì. Tôi vùn vằn đứng dậy định bỏ đi:

– Như vậy thì tao sẽ nói cho ông Ba Thắng biết, tao không chơi cái trò móc ngoéo đó.

Tư Linh kéo tay tôi ngồi lại, hồi lâu mới thở hắt ra:

– Không được! Mày không thi hành là chống lịnh cấp trên. Họ đày mày khỏi có ngóc lên nổi.

– Quyết định của tao ở trong túi đây! Mày muốn xem không?

– Xem mẹ gì ba cái chữ đó ? Lão Sở Khanh làm sao qua mặt được Chín Hô và Sáu Nam!

– Trong quyết định cỏ ghi chữ nào là móc ngoéo em tao đâu.

Tư Linh ném cái tàn thuốc tưng lên. Một vạch vòng cầu đỏ vẽ lên trên không khí. Trời đã tối đi từ lúc nào. Hắn bảo:

– Mày là con nhà pháo nên sống bằng góc vuông, tầm hướng, liều hai liều ba, cứ theo đúng công thức mà hạ lệnh, còn cái nghề địch vận của tao chẳng có công thức con mẹ gì cả. Nói vầy làm khác. Giấy tờ không quan trọng bằng mồm.. . Mày không nhớ vụ ông Tư Mai nghị sĩ Bà Rịa ở Quốc Hội Ba Đình à ?

Tôi gục đầu nhìn xuống đất. Tư Linh tiếp:

– Trên bề mặt thì ông Mai đau tim cấp tính mà chết đột ngột. Đám ma to nhất Hà Nội. Tất cả đều đúng công thức cho cái chết của một ông nghị sĩ, nhưng bên trong là một cuộc thanh trừng nội bộ , giết một anh nghị sĩ xét lại trước mắt hàng ngàn đại biểu quốc hội để bịt miệng họ đừng có lãi nhãi xét lại trong lúc một ông đại giáo điều sắp sang thăm, mày hiểu chưa nào? (Tôi lặng thinh nhưng trong bụng rung rinh cực độ). Vụ của mày cũng vậy thôi, ngoài là công tác móc ngoéo nhưng bên trong là gì ai biết được?

– Mày không biết tao làm sao biết được?

– Đời mà mày ! Chó đẻ ba con. Tao không có tin ai hết. Tao chỉ có tin con tao thôi. Chỉ có con là không giết cha mẹ thôi, chứ còn ngoài ra thì… tout est possible. Coi chừng đảng thưởng cái thòng lọng cho mày.

Tôi nghĩ về vụ An Lộc Sơn Trấn Nhậm Bình Lư. Hồi chín năm trong lúc tôi và cô Thoa con của bà Lê Đình Chi yêu nhau thì tên Trần Văn Chè phổng tay trên. Hồi đó hắn đang làm Tự lệnh Phân Liên Khu Miền Đông. Hắn cưới cô Thoa bằng một bức công điện từ miền Đông đánh xuống miền Tây. Cô Thoa không ưng, đã tự tử mấy lần mà không chết. Rốt cuộc trở thành bà Tư lịnh cho tới bây giờ. Tôi luôn luôn quan niệm ái tình là một loại trò chơi vui vẻ, và con gái là chim trời cá nước ai bắt được nấy ăn. Nên tôi không hề thù hằn tên Chè và oán trách Thoa gì cả . Hơn nữa, bên cạnh cô Thoa duyên dáng, lúc đó tôi có hai ba cô bạn khác cũng ở thành mới ra, có lẽ xinh đẹp và hơn cô thoa nhiều. Vậy Thoa lấy tên Chè âu cũng là cái may cho tôi.

Vậy thì coi như đường ai nấy đi, c… ai nấy vuốt. Không lẽ nào tên Chè ngày hôm nay còn thù tôi nên tìm cách giết tôi bằng B52 ở Củ Chi. Mà thù gì mới được? Người bạn gái của tôi hắn giật, tôi không thù hắn, hắn lại thù tôi nghĩa là gì? Tư Linh phát thinh lên nói:

– Tao xét một vấn đề gì thường trở qua trở lại xét tới xét lui. Gương sờ sờ ra đó !

– Gương gì mà sờ sờ?

– Mày biết vợ bé xừ Duẫn là mèo của ông Bảy Trấn chứ?

– Con Nga da trắng môi thâm, tao dư… biết. Rồi sao?

– Ông Bảy Trấn là dân Nam kỳ, điệu đàn, tặng cô tình nhân trẻ cho ông bạn vàng chơi đỡ trong lúc xa nhà thiếu thốn tình cảm. Ông bạn vàng mê quá bèn xin. Bảy Trấn công tử Nam kỳ lúc đó đang làm Tư lệnh kiêm chánh ủy miền tây, hét ra lửa, hiến luôn cô tình nhân cho xừ Duẫn lúc đó sắp làm bí thư Trung ương cục như một nấc thang để leo lên cao hơn. Dè đâu, sau đó Bảy Trấn mất cả tình nhân lẫn chức vụ. Hừ! bên ngoài thiên hạ tưởng ông ta không được Trung ương tín nhiệm vì thành phần địa chủ, nhưng sự thực bên trong thì chính là bàn tay của ông bạn vàng.

– Ông ta thù Bảy Trấn à? Sao kỳ vậy?

– Thì vậy mới kỳ, nhưng đời mà mày! Hồi chưa cuỗm được cô nữ sinh thì Bảy Trấn là ân nhân của y, nhưng sau khi ẵm trọn cô nàng rồi thì y hận.

– Hận gì?

– Hận là kẻ đến sau, thằng ăn mót, thằng liếm của thừa.

Tôi nói:

– Tao đâu phải là bảy Trấn mà xừ Chè thù tao?

– Mày biết sao được hả ? Bụng dạ con người là bụng dạ con chó. Mày ngây thơ lắm! Còn vụ mày lăng nhăng với cô con gái của ông Cục trưởng Tha-mu đó đã đồn đi khắp R và xuống tận đây. Có thể lão Sáu Nam không muốn mày làm rễ, nhưng bề ngoài lại tỏ ra thích mày. Hiểu chưa?

– Tao có gạ gẫm gì nó đâu. Tại nó đeo tao chứ.

– Ai đeo ai không thành vấn đề .

– Nó bảo nó sẽ đòi bố nó điệu tao về công tác trên R nữa mà !

– Tao chắc thằng chả không khoái một thằng anh hùng rơm do thằng chả nặn lên để gạt ông đại tướng bần cố đâu. Thằng chả muốn tìm một ông phò mã khả dĩ gắn thêm sao trong cành dương liễu của thằng chả kìa. Do đó hai tên đó tương kế tựu kế đẩy mày xuống Củ Chi. Mày nên biết là một tên giảng huấn pháo binh như mày ở miền Nam này chưa chắc có tới hai mạng, thế mà lão Sở Khanh phải đành bóp bụng cho mày rời khỏi U80 để ra chỉ huy ba cái tiểu đoàn tẹp nhẹp ở Củ Chi này là sao? Điều đó đáng cho mày suy nghĩ lắm chớ!

– Tao không nghĩ là hai lão đó âm mưu hại tao vì những chuyện nhỏ như vậy.

Tư Linh run run cái đầu tóc quăn.

– Thù vặt nặng hơn quốc thù mày ạ ! Nhưng tất cả những điều tao nói chỉ là những xét đoán căn cứ trên duy tâm biện chứng chó ngáp của tao thôi, còn trúng hay trật bao nhiêu thì chờ thực tế trả lời.

– Cám ơn mày thằng bạn chí cốt của tao. Nhưng bây giờ mày bảo tao làm sao?

Tư Linh móc thuốc đốt hút và tiếp:

– Tao thấy rất khó cho mày là mày không thể từ chối. Trước nhất, tụi thằng Chín Lộc sẽ bảo mày để cho nó móc gia đình cho mày. Từ đó nó sẽ phăng ra cái gốc và nó sẽ lèo lái gia đình mày trong việc móc nối với thằng em mày. Nó bảo sao hay vậy. Nếu gia đình mày không thi hành một vài điểm nào đó thì họ sẽ nhân danh mày mà ra lệnh cho gia đình mày, mày đâu có biết ất giáp gì. Cho rằng mày có biết đi nữa thì họ bảo là vì quyền lợi cách mạng và nhân dân hai chữ cách mạng, nhân dân đối với họ là vô tận mày biết chứ? Vì cách mạng, cụ Hồ bỏ thuốc độc giết Dương Bạch Mai, vì nhân dân đảng đấu tố địa chủ, vì nhân dân me xừ Duẫn vác vòi sang Trung Quốc hú hí với mụ Nga, mỗi lần đi máy bay phản lực tốn bằng vài chục mùa lúa của trung nông. Vậy đó. Nhân dân! Cách mạng!

– Chịp !

– Còn thằng em mày chơi một trò rất nguy hiểm. Mày biết vụ Phạm Ngọc Thảo chứ? Rốt cuộc Phạm Ngọc Thảo chết mà chẳng làm nên cơm cháo gì lại kéo luôn ông anh là Phạm Ngọc Thuần đại sứ ở Cộng Hòa Dân Chủ Đức sụp luôn. Gương tày đình đó ông anh ạ !

– Tao thấy vấn đề rồi !

– Trước nhất là mày cứ nhận lời một cách rất tự nguyện tự giác, cách mạng triệt để, hiểu không?

– Được rồi.

– Sau khi họ tin mày rồi thì mày sẽ bảo em mày lãng dần ra và lánh mặt luôn. Chứ lúc đầu mà mày trục trặc thì họ đánh giá ngược lại mày và họ dám cho rằng thay vì mày xỏ mũi được thằng em, thằng em đã chiêu hồi mày. Như thế thì cuộc đời mày sẽ đen như mõm chó… Mày cứ giao kèo với Chín Lộc, Sáu Huỳnh vầy nè: tôi móc cho các ông rồi các ông làm gì làm, tôi không có trách nhiệm nữa. Rõ chưa?

Tư Linh kéo tôi đứng dậy đi trở lại mâm nhậu. Vừa đi hắn vừa nói thao thao bất tuyệt:

– Sau khi về đây, tao nhận định khác Trung ương ngay. Cuộc chiến tranh này không phải là cuộc chiến tranh chống xâm lược mà là cuộc chiến tranh ý thức hệ . Tại sao Đức, Triều Tiên không nước nào chủ trương thống nhất đất nước bằng võ lực mà chỉ có một mình nước Việt Nam mình thôi? Mày về đây mày thấy dân có còn ủng hộ mình như hồi chín năm nữa không. Miền Nam so với Miền Bắc như thế nào? Mình cứ bô bô cái mồm bảo nó phồn thịnh giả tạo. Hừm! giả tạo mà cơm dư, quần áo thừa thải, muốn mua gì cũng có. Ngay ở một cái quán cóc của cái chợ bị bom pháo tơi bời mày cũng tìm được đủ thứ cần dùng cho đời sống. Còn ở xứ xã nghĩa thì muốn mua một gói đường cát kiếm đỏ con mắt không ra. Mình lỡ đi con đường này rồi, không quay lại được, hồi chánh thì nhục nhã, thôi thì nhắm mắt đi tới cùng, còn gia đình mình đã yên thân ở bên kia thì cứ để họ yên thân, chớ chơi cái kiếu bắt cá hai tay này mệt lắm. Rốt cuộc chẳng bắt được con cá nào ngoài mấy con cá mặt quỉ.

Vừa tới sân nhà, Tư Linh bỗng dừng lại. Tôi tưởng y nói câu gì quan trọng lắm. Chẳng ngờ y móc túi quần lấy bóp ra, mằn mằn một lúc rồi ấn vào tay tôi một gói mềm mềm.

– Mày còn chứng minh thư nhân dân hết? khặc khặc…

Tôi cầm lấy, biết ngay là loại chứng minh y cho tôi lần đầu tiên gặp ở đây. Tôi bảo:

– Tao được thằng Hùng tiếp tế rồi.

– Hùng Bến Tre hay Ngô Huy Hùng?

– Hùng Bến Tre. Nó mới cưới vợ. Đúng ra bà già nó cưới ở Bến Tre rồi dắt lên cho nó.

– Ngon he!

– Nó cho tao cái Seiko đây! Gặp ở trường Trung Sơ. Nó dắt ra chợ Long Hoa giải phóng mua đủ thứ ! Có cả loại chứng minh thư này. Hiệu Hồng Kông hay Đài Loan gì đó.

– Vậy là được rồi. Mày nên nhớ đó là bửu bối số 1 để giữ cho lon gáo khỏi rơi nghe. Đàn bà con gái ở đây bạo dạn hơn thanh niên nhiều. Vì chiến tranh ác liệt chúng nó sống vội sống cuồng hơn cả tụi Sài gòn. Bộ vó của mày coi còn vía lắm. Ngoài con gái ông cục trưởng có cô nào nữa không?

– Thì cũng lai rai. Bánh sáp đi bánh qui lại.

– Đi thì cứ đi, lại thì cứ lại, nhưng ông con nên nhớ đừng có quên xài chứng minh thư nghe chưa. Em mà mang bầu tâm sự là em nắm đầu anh đội chạy không có thoát đâu. Ai chớ đụng mày thì em nó không có buông đâu. Liệu cái thần hồn thần xác đấy ông con !

Tôi nghiệm thấy Tư Linh nói đúng lắm. Đúng nhất là trên R. năm cô đeo một lúc. Mệt ứ hơi. Đối phó còn hơn cả trên trận địa. Cô nào cũng muốn làm vợ anh cả. Gần đây nhất là cô xã đội phó. Đúng lúc tôi nghĩ tới đó thì Tư Linh hỏi:

– Mày có ý định làm rễ má Hai không?

– Má Hai nào?

Và vừa đúng lúc đó thì cô xã đội phó lại ló mặt ra, nói rổn rảng:

– Anh Hai với anh Tư đang chiến đấu sao bỏ chạy vậy, bộ sọc dưa hả?

Tư.Linh đáp:

– Sọc dưa hay không rồi sẽ biết! Ba ván niền không bỏ ván lào đấy!

Tư Linh nói giọng Bắc chúng tôi hiểu nghĩa, nhưng Là không biết nên kêu lên:

– Anít còn nửa cây, đế còn một bình tong ở đó mà

oán,oán.

Hai đứa bước vào. Tư Linh còn nói ráng với tôi:

– Coi được đến chớ hả Thầ…. ầy Ha…. ai ! ? Nè , mầy cần Laissez-passer không, tao cấp cho một hộp đặc biệt. Hai cô Nga ở trong Bệnh xá thì không cần, chứ cô xã đội thì cần đó.

Huỳnh Nga nói tung ra:

– Ớ ! tưởng cái gì chớ ba cái thứ bửu bối đó em không có xài đâu. Tụi em biết ngày nào nguy, ngày nào không nguy, như vậy bảo đảm hơn ba cái chứng minh thư của mấy anh.

Hồng Nga xì một tiếng, bĩu môi:

– Tưởng cái gì chứ ba cái bao cao su đó mà cũng nói lóng: chứng minh thư, Laissez-passer. Tụi em rành quá mà anh Tư! Đó là pha học không có gì phải giấu.

Tư Linh nhìn tôi:

– Mày thấy chưa? Tao bảo là phụ nữ nhảy phóng mình không có thua nình bà con gái Xài-gồng mà.

Huỳnh Nga nghênh mặt:

– Tụi em cũng có trong lưng luôn chớ bộ chỉ các anh là đại lý độc quyền à? Tụi em biết nhãn hiệu Tiệp Khắc, Hung cari dỡ ẹc nữa.

– Sao dỡ ẹc?

– Hay rách chớ sao. Nhãn hiệu Đài Loan có người đàn ông và người đàn bà đứng đâu mặt vào nhau mới tốt. Tốt hơn nữa là nhãn hiệu u-êt-a.

– Ở đâu mà có thứ đó?

– Ra chợ Bắc Hà mua lại của lính Đồng Dù rẽ rề .

Tôi thấy sự hồn nhiên cửa mấy cô mà ê càng quá trời. Ông bác sĩ nhảy rào Tư Chuyền nói đỡ cho hai cô nhân viên của mình:

– Khổ lắm thầy Hai ơi. (Ông ta không phải là học trò của tôi, nhưng thấy mấy người khác kêu tôi bằng thầy thì cũng kêu theo.) Bệnh xá chữa cho thương binh đã mệt ngất rồi, lại còn phải phá nạo cho các bà cố nội nữa. Kẻ ăn bánh người liếm lá.

Tư Linh đang đút điếu thuốc vào mồm bỗng rút ra, cười ha hả và nói:

– Mỗi tháng anh liếm được mấy cái… lá?

Hai cô Nga trừng mắt nhìn Tư Linh. Huỳnh Nga bảo:

– Anh nói tiếng gì ác vậy anh Tư.

Tư Linh cười run run mớ tóc quăn trước trán:

– Ai nói gì đâu. Tại ông bác sĩ nói đó chớ đâu phải tôi.

Tư Chuyền đứng dậy kiếu từ:

– Thôi anh em mình nhổ sào để cho thầy Hai nghỉ ngơi.

Cô xã đội phó không thích sự có mặt của hai nàng Nga có vẻ văn minh và sáng sủa hơn mình, nghe ông bác sĩ nói, bèn đưa thêm:

– Ừ, nhổ sớm sớm đi, để chút nữa tới giờ, pháo Đồng Dù nó giã gạo cho mà bò không kịp.

Tư Chuyền và mấy ông trợ lý của ổng ra về, nhưng hai cô Nga còn nán ở lại với lý do tiếp hai chị em Lụa và Là dọn dẹp rồi về sau. Đó là điều trải với ý muốn của Là, nhưng trước thiện chí của hai nàng, Là không thể đuổi khéo được, nên nàng cứ đi ra đi vào như bận rộn việc lớn, ngồi đứng không yên. Bỗng có tiếng Bụp! Bụp! Bụp rồi lụp bụp liên tràng không còn đếm được nữa. Mọi người nhảy lung tung định chui hầm, nhưng Là vẫn tỉnh khô:

– Làm cái gì như khỉ mắc phong vậy?

Lụa ôm ngực nói:

-Chị tưởng là nó giã mình!

– Xí ! chị ở đây cả đời rồi mà cũng chưa quen tiếng pháo.

– Chị hễ nghe lụp bụp là nhảy chớ ở đó mà quen, lạ gì.

Là ngó tôi, cười:

– Còn anh nữa! Thầy pháo gì nhát vậy?

Lụa nói đỡ:

– Ở đây có cả chục làn pháo, đâu phải chỉ Đồng Dù. Ảnh chưa có quen. Cô làm mặt giỏi có bữa lủi không kịp.

Tôi cười bảo:

– Lạ thì cũng có lạ thật nhưng tính tôi nhát lắm. Hễ nghe là nhảy chớ không có lỳ như bà … xã đâu! Nay mai tôi sẽ đeo dính bà xã . . . đó bà xã ơi !

– Xí anh ngạo em phải không? Nói chút vậy cũng tự ái! Ai là bà xã của anh mà kêu bà xã bà xã.

– Bà xã đội không phải à?

Là làm thinh, hơi đỏ mặt. Huỳnh Nga nói:

– Nói trúng ý rồi phải không bà xã ?

Tư Linh cũng sửa soạn rút lui, mang ba lô súng ống lên vai.

– Bà xã cũng được chớ đâu có hại gì, cô em. Tui mà là con gái thì tui ưng thầy Hai liền!

Tôi đưa Tư Linh đi một quảng đường, Tư Linh nói:

– Mày về đây thì ở đâu tao cũng tìm được. Vấn đề tao nói hồi nảy mày nên cẩn thận. Còn chuyện vợ con của mày thì phải nhanh nhưng cũng phải coi tới coi lui. Như hai cô y tướng trùng tên này thì không được. Tụi nó ở trong bệnh xá nó nhàm ba cái vụ đó rồi. Nó nói xàm không ngán miệng mày thấy không? Đó cũng là nữ sinh thành, nhưng ra đây sống trong cảnh chết chóc hãi hùng, tụi nó trở thành rất hiện sinh. À quên, con xẩm lai ở chợ An Nhơn có nhắc mày.

– Con xẩm lai nào?

– Con nhỏ bán nước đá ở chợ An Nhơn. Mày gặp con Bảy Mô ở đó đó.

– À, nhớ rồi. Cô Bảy nó còn không…

– Còn nguyên chớ đâu có thằng nào rớ được. Dân đụ chĩa học sinh thành, tụi bần cố hỉ và mùa Thu mùa Đông đâu có vô ngàm nổi. Chỗ đó thì tốt quá.

– Còn con chị nó mày dzô… chưa?

– Chậc! Mày khỏi có lo. Thôi đi nhe ! – Tư Linh quay đi còn trở lại – Con xã đội coi bộ nó ghen với hai con Nga ra mặt. Mày coi chừng nó đổ ghè tương lùm xùm ra đó. Tao bắt nhãn thấy tụi nó chíp mày rồi. Thủ trưởng nó về mà nó tụt hậu không thấy sao?

Tư Linh vừa bắt tay từ giãtôi thì có hai bóng người đi tới.

Đó là hai cậu du kích của cô xã đội: thằng Bổn và thằng Quỷnh. Mỗi đứa bưng một cái rỗ. Cả hai cùng đi vô nhà. Là hỏi như gắt.

– Gì đó ?

– Khoai mì.

– Đem đi đâu đây? Nhổ trộm nhà ông Năm Sảnh đó hả ?

Thằng Quỷnh nghênh cái mặt đen ngời, nói đả đớt:

– Chời ơi ! chời ! cái chị này nói nghe dô diên thấy mẹ đi ta! Khoai mì người ta mà hỏi bưng đi đâu. Ông Tư Chuyền về chỏng gặp tụi tui, ổng biểu tui đem cho ảnh ăn chơi. Anh ở lâu chên gờ, chắc ảnh thèm dữ lắm.

– Tao tưởng tụi bây nhổ trộm nhà ông Năm. Lần trước ai nhổ rồi không dập đất lại.

– Mấy ông nội đào hầm chớ ai.

– Nhổ lấy củ rồi không cắm hom trở lại cho người ta. Bộ tính ăn một lần rồi thôi.

Thằng Bổn chìa rỗ khoai ra trước mặt Là:

– Xin lỗi đi bà cô ! Coi võ khoai này dính đất sét hay dính phân đen. Đây là khoai ở An Nhơn Tây nên dính đất sét. Của ông Sáu Mã Tử cho tụi tôi một đám của chị Ba ổng. Tụi tui nhổ cho chú Tư, chú biểu chia bớt cho anh Hai đang ở ngoài này. Xí, chị có cái nói ẩu vậy nên mất uy tín với tụi tui hoài.

Tôi đỡ cho Là:

– Cô xã đội đề phòng mấy em làm vậy mất quan điểm nhân dân. Sao không để cho thương binh ăn, đem ra đây chi?

– Chú Tư nói thương binh thì phải uống sữa, không có sữa thì thôi. Ai cho thương binh ăn khoai mì. Làm vậy họ tủi thân. Vết thương lành, họ về nhà luôn không trở về đơn vị nữa.

Thằng Quỷnh còn ức cô xã đội, nó giằn rổ khoai xuống đất một cách giận dỗi:

– Chời ơi chời ! Tụi em gành quan điểm nhân dân quá ể mà anh Hai. Nhà chưa quét chưa đi, nước chưa gánh chưa đi, củi chưa bửa chưa đi, phải không anh Hai?

Tôi cười:

– Mấy em khá quá. Ai dạy vậy?

– Chú Tư Chuyền chớ ai!

– Mấy em biết mấy câu đó của ai không?

– Dạ không.

– Của Mao chủ tịch đó .

– Mao chủ tịt nào?

– Em không biết đâu. Ổng ở tận bên Trung Quốc.

– Trung Quốc là ở đâu?

– Là ở bên Tàu đó.

– Tàu thì kêu Tàu sao kêu Trung Quốc ai mà biết.

– Cách mạng bây giờ kêu khác hồi trước.

– Vậy là mấy thằng chệt phệ ở chợ An Nhơn Tây hồi trước là dân Trung Quốc đó hả ?

– Phải đó, cách mạng gọi là con cháu Bác Mao.

– Con xẩm lai ở chợ bây giờ có phải là cháu ổng không?

– Phải, phe mình cả đó.

– Phe mình gì đập đổ phe mình dữ vậy?

– Đập cái gì đâu?

– Nó bán nước đá nhận trong cái ly nó ém xốp xộp, chế ít giọt xi-gô, vậy là chém mười đồng.

Lụa thấy hai thằng nhỏ quạu quọ bèn bảo:

– Cho khoai mà mặt mày sần sượng vậy khoai cũng sượng luôn anh Hai ăn không ngọt.

– Ai biểu chị xã đội nói vậy chi. Hề hề… nhưng mà anh Hai à, quan điểm nhân dân của Mao chủ… gì đó, tụi em bây giờ không phải giữ nữa.

– Tại sao vậy?

– Nhà chưa quét chưa đi ! Bây giờ tụi em và thương binh ở ngoài gừng chớ có mấy khi ở trong nhà ai đâu mà quét. Nội xóm này đố anh kiếm được một cái nhà còn ở được! Nước chưa xách chưa đi ! Lu mái tỉn hũ đâu mà gánh nước? Cà-nông nó bắn bể hết. Nếu không trúng tệnh thì đất gun cũng nứt hết. Còn củi chưa bửa chưa đi. Củi bây giờ không cần phải bửa. Cứ rút vách, lôi lá trên nóc nhà, ra vườn bẽ nhánh cây bị bom cháy dở chụm thiên niên cũng không hết.

Tôi cười gượng:

– Cái thằng diễu giỏi quá mậy.

Cô xã đội được dịp, phản công ngay:

– Còn hai cái “chưa” nữa, tụi bây quên. Biết chưa gì không?

– Chị đặt chuyện chớ ai mà quên.

Là nói tỉnh khô:

– Ăn chủ nhà chưa mạt chưa đi !

– Chị nói lảng nhách!

– Chớ không phải hả? Cơ quan mà đóng nhà nào thì ăn sạch nhà nấy mới chịu đi. Còn một cái “chưa” nữa. Đó là chưa mò con gái hoặc vợ chủ nhà thì cũng chưa đi. Đúng ra là chưa bị đuổi đi.

– Chị nói vậy tui báo cáo chị bị kiểm thảo mất chức cho coi!

– Tao thèm cái chức này dữ à ? Tụi bây đi kêu thằng cha Năm Thuận về đây tao trả chức xã đội này cho thằng chả.

Hai thanh niên đang ở thế công, bây giờ lại bị đẩy sang thế thủ, nên chới với không biết đỡ gạt cách nào. Thằng Bổn tìm cách né :

– Ổng là xã đội trưởng, chị là xã đội phó. Thằng chả bỏ trách nhiệm đi câu tôm tự túc thì chị đến mà biểu thằng chả trở về chớ mắc mớ gì tôi.

Lụa thấy tình hình coi mòi găng bèn tìm cách hòa giải:

– Thôi mấy em đem khoai ra giếng gửa đi (Lụa nháy tiếng nói đớt của thằng Quỷnh) rồi nấu cho anh Hai ăn thử. Vậy là huề . Đừng có nói ba cái vụ quan điểm nhân dân nghe mắc cỡ cái lỗ mũi con cóc lắm. Chốc nữa hai đứa về nhớ đem cái rộng chuột về làm cho thương binh ăn. Chuột của chú Tư Thiên tặng cho bệnh xá đó. Xã ủy dông hết vô ấp chiến lược, còn có mình chú thủ trại mà chú cũng ráng đội cà-nông đi gài chuột cho thương binh ăn. Đó, mới gọi là quan điểm nhân dân và tình cá nước.

Huỳnh Nga phục kích bây giờ mới nổ súng:

– Chuột ăn bị phong dữ lắm còn thương binh ăn khó lành vết thương.

Thằng Quỷnh quay lại tấn công bồ nhà:

– Phong gì mà phong. Để tụi tôi ăn cho.

– Chú Tư nói chuột bị hóa học ăn nguy hiểm lắm. Ăn nó bị lên phong như phong cùi.

– Cái gì mà cùi. Hóa học rải ở đâu, sao không đem rải trên đầu tui nề. Ai không ăn để tui nuốt hết cho. Hồi nào tới giờ mấy chị không ăn thịt chuột sao cũng nổi mụt thâm đen như vỏ chuối chín cùng mình, không phải phong thì là gì?

Hồng Nga nguýt:

– Cái thằng lãng dang quá hè ta. Ai nổi phong hồi nào?

– Xí ! Thiệt hôn tui khai hết cho coi. Bà nào bà nấy cũng mang vành đai Đồng Dù trong mình còn giấu.

– Giỏi khai đi.

– Hổng nổi phong mà tối bữa nào cũng lén che ni lông dưới hầm để xức thuốc.

Huỳnh Nga trợn mắt:

– Cái đó là ghẻ xốn ông con ơi! Không phải phong gì hết. Toàn thể nam phụ lão ấu đều bị loại ghẻ này chớ phải riêng ai sao?

– Sao tui không có?

– Mấy đứa tụi bây chưa có chui hầm. Để ít lâu rồi biết. Cái vành đai Đồng Dù. Chừng đó đừng có khóc rồi hỏi tao: chị xức thuốc gì cho em xin xức với, nghe chưa?

Là vọt miệng:

– Ghẻ xốn là ghẻ trời cho, ai mà không ghẻ không phải là dân Củ Chi.

Thằng Quỷnh nghếch mặt:

– Thuốc của mấy bà xức, ghê thấy mẹ, ai mà thèm xài.

Hồng Nga hỏi.

– Thuốc gì mà ghê ?

– Mấy chị tưởng tôi không biết hả ? Vôi trộn với nước chanh. Phết! phất, quẹt, quẹt, sột sột, hít hà, ôi cha rát rát, mày làm ơn phết dùm chỗ này. Ừ, ừ chỗ đó đó.

Thằng Quỷnh vừa nói, vừa học bộ lăn xăn, mặt nhăn nhó diễn tả như kịch, làm mấy người kia cười lăn ra. Rồi nó hất hàm:

– Có đúng điệu xức ghẻ xốn chưa?

– Bộ mày rình người ta hả?

– Tui hổng biết. Tui chỉ hỏi mấy chị là có đúng y như vậy không?

Là tham gia ý kiến:

– Thôi đúng tẩy rồi. Đừng có cãi nữa. Nó khui tới cái tầng nhì của địa đạo thì có môn bỏ xứ Củ Chi này thôi. Mang vành đai Đồng Dù đối với mình là chuyện thường chớ có gì lạ đâu mà chối cãi.

(Tôi cũng đã từng bắt gặp mấy cô dũng sĩ xức ghẻ xốn kỳ phục kích địa đạo chiến cho thằng nhà báo Bọ Chét quay phim nên tôi đâu có lạ gì.)

Là nói tiếp:

– Hễ càng nổi danh dũng sĩ thì cái vành đai càng thâm đen thôi. Cả anh Hai nữa, ở đây ít lâu rồi cũng có.

– Vậy chị là xã đội, chắc cái vành của chị phải rộng hơn của mấy chị kia phải không?

Mọi người cười rộ vì câu hỏi của thằng Quỷnh. Là xua tay lia lịa:

– Hồi nào tới giờ tôi chưa chun xuống cái hang chuột đó .

– Vậy sao bắt người ta đào?

– Đào cho người khác không phải cho tôi.

– Cho ai?

Huỳnh Nga nhìn tôi một cách ý nhị. Tôi lắc đầu:

– Tôi đã bị bà xã cho chui một lần rồi. Mệt suýt đứt hơi. Tôi ớn lắm. Có lẽ thứ ghẻ này còn ớn hơn ghé ngứa hồi chín năm. Tụi tôi đóng ở nhà đồng bào vùng Lý Nhơn, Đồng Hòa, vì không có gạo đủ ăn, lại thiếu nước tắm rửa, đứa nào đứa nấy mình mẩy như lươn bông. Thừa lúc chủ nhà đi vắng, tụi tôi cởi quần áo vô bếp hơ lửa cho đỡ ngứa. Bây giờ nghe nói ghẻ xốn, tôi chạy tét.

Huỳnh Nga nói:

– Anh chạy đi đâu rồi cũng không không khỏi chui. Anh cứ bỏ một cục vôi ăn trầu hay một trái chanh vào xắc-cốt sẵn đi là vừa.

Chương 34 Đứa học trò bỏ lớp vì thầy giáo ra Ấp Chiến Lược

Là cầm hai cái bẹ chuối ốp lại từ trong bếp đi ra, đưa một cái cho chị Tám Khỏe, một cái cho Huỳnh Nga và nói:

– Đây là cá ướp sả muối chị Tám với chị Nga đem về chiên ăn sáng mai để sửa soạn cặp giò mà chạy. Tôi coi tình

hình này thì sáng mai có đổ chụp đó.

Mấy đứa con chị Tám còn muốn ở lại chơi với bé Rớt nhưng Là quát:

– Về đi! Ở bên này không đủ hầm chui, pháo Đồng Dù nó cắt họng đó.

Con Lượm đã bước ra sân còn quay lại:

– Mai con qua, cậu Hai chép bài cho con học nghen!

Thằng Quỷnh ra tới sân thấy buồng dừa nạo, nói dèm:

– Dừa này, đào hầm mệt thì uống nước đã lắm.

Là muốn tống thiên hạ đi cho nhanh bèn nói:

– Dừa để cho anh Hai. Tụi bây ở đây uống hoài mà còn đòi

Thằng Quỷnh còn quay lại:

– Đó là sáu chưa. Chưa xin dừa, chưa đi. Mao chủ tịch quên dạy. Hé hé hé…

Là quay trở vô, lằm bằm:

– Thứ gì đi đâu ăn tàn ăn mạt tới đó.

Tôi thấy tội nghiệp cho cách mạng, nên đỡ dùm thằng Quỷnh:

– Kệ nó em, nay mai mình rủi bị thương, vô đó nhờ chúng nó .

– Bị thương thà chết sướng hơn. Anh thấy thương binh trong đó nằm hầm như vậy. Như chôn rồi mà chưa lấp đất. Nội cái hơi đất trộn với mùi hôi thối của vết thương thở vào cũng đủ chết rồi. Khi có đổ chụp em không biết làm sao họ di chuyển thương binh đi trốn?

Khách khứa về hết, nhưng tôi thấy gương mặt của Là vẫn cau có, như chưa hài lòng về một điều gì. Con Rớt không còn bạn chơi nên quay sang vòi vĩnh cậu Hai:

– Cậu Hai phỏng vở cho con đi !

Bé Rớt cầm tập vở rách nát đưa cho tôi. Lụa cắt nghĩa:

-Tập vở mua học chưa hết mà con nhỏ phải ở nhà . Hổng chừng bữa nay chữ đã trả lại cho thầy hết rồi.

– Cháu đọc được chưa?

– Nó mới biết ráp vần thôi anh à .

– Vậy đưa vở đây.

Tôi sắp ngồi trên ghế viết thì bé Rớt bảo:

– Tới giờ tụi Đồng Dù giả gạo, cậu Hai phải xuống hầm mới được.

Lụa giục:

– Xuống hầm đi anh. Lúc rày nó bắn thường hơn trước.

Tôi nói:

– Lần trước anh về anh còn dám ngủ trên ván gõ với chiếc gối tai bèo. Bộ ván đâu rồi?

– Anh ngủ trên nhà má chớ đâu phải nhà em.

– À, anh quên.

– Mà bộ ván cũng tiêu rồi. Cả cái nhà cũng không còn nữa là ván ngựa.

– Mới có một năm mà tan tành hết trơn.

– May mà gia đình còn đủ !

Tôi xuống hầm ngồi trên chiếc ghế đẩu xệu xạo và đặt tập vở trên mặt bàn nám đen mà bồi hồi tấc dạ . Bé Rớt đứng một bên cúi đầu vào xem tôi viết và đánh vần từng chữ theo ngòi bút của tôi. Mái hầm đất thấp, đứng dậy thì đụng đầu, phải đi lom khom luôn. Nhưng tôi không thấy chật hẹp mà thấy ấm áp với tình gia đình. Bé Rớt làm cho tôi chạnh nghĩ tới một mái ấm gia đình. Ba mươi bốn tuổi rồi còn nhỏ nhê gì nữa. Biết bao nhiêu lần dự định, bao nhiêu lần sắp sửa, bao nhiêu lần sẵn sàng để dựng nó lên từ bên sông Tân Bửu quê nhà, Miền Đông rồi đến Kinh 13 bờ sông Chắc Băng, Miền Tây Nam Bộ, nhưng tất cả những mái tóc thề những trái tim thanh xuân hồn nhiên đắm đuối đều phải bỏ lại sau lái tàu tập kết. Với nỗi đau lòng lìa bỏ quê hương với biết bao nhiêu kỷ niệm chiến trường, kỷ niệm yêu đương, kỷ niệm của đồng bào, tôi phải bước chân xuống tàu để đi ra miền Bắc. Nhìn lên bờ, những mẹ già, những vợ trẻ, những bà con cô bác yêu thương hoặc không từng quen, những bạn gái của tôi đứng khóc giơ tay hứa hẹn…

Rồi ra miền Bắc, bao nhiêu cơ hội tốt biết bao đến với tôi, nhưng thuyền cặp bến sắp sửa cắm sào thì sóng gió bất thần lại đến giật phăng thuyền đi. Và bây giờ về Nam bao nhiêu đóa hoa nghiêng chào, bao nhiêu nhụy hồng tươi thắm, nhưng rồi làm sao, làm sao sống được với một người vợ dưới một mái nhà trong cái không khí nhao nháo chờ đợi B52 này?

Tôi là người giang hồ bạt tử chân lội khắp đất nước từ miền Đông xuống miền Tây, từ miền Nam ra miền Bắc leo cả sang nước Tàu, chưa hề biết mỏi chân chùn bước, khói lửa lướt qua, gian nguy đạp càn vượt lên mà sống.

Nhưng hôm nay lòng bỗng thấy bồn chồn nghĩ tới lúc cần phải có một đứa con, cho mình, cho gia đình, cho dòng họ. Cuộc sống của con người ở đây quá mong manh và may rủi. Cái chết đến như một trò đùa.

Bé Rớt mới sáu tuổi mà đã vắng cha ba năm hoặc đã mất cha mà không biết. Một năm qua, tôi trở về đây thấy con người phờ phạc hốc hác, đàn bà thì khô héo, rầu rĩ, đàn ông thì láo liên vội vàng, còn trẻ con thì trở thành ông cụ bà cụ.

Tôi chép cái bài học luân lý Việt Nam mà tôi từng học lúc tôi bằng tuổi bé Rớt.

Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Bé Rớt đọc tới cuối dòng đầu thì hỏi:

– Thái Sơn là gì cậu?

– Thái Sơn là một cái núi bên Tàu giả tỷ như núi Bà Đen của mình vậy.

Con bé đứng ngớ ra. Nó không biết núi là gì. Bên Tàu là ở đâu. Thế nhưng nó rành hết các loại máy bay đầm già, cá nhái, cá rô biết phân biệt tiếng đạn cà nông từ đâu bắn lại và đạn to hay bé, biết cả nhận định tình hình đổ chụp ngày mai và nhiều chuyện nữa mà kẻ chân ướt chân ráo như tôi phải hỏi Rớt. Tuổi thơ trong chiến tranh đã phải chịu quá nhiều đau khổ. Em Xe cầm cờ xung phong vô bót Pắc Sa Ma đã hi sinh anh dũng. Chính tôi và các bạn trai bạn gái của trường Đồng Tử Quân thời kháng chiến chống Pháp đã mạo hiểm tổ chức đánh xe nồi đồng và đã thắng bất ngờ, làm các anh lớn vừa vui mừng vừa hết hồn hết vía cho lũ con nít quỉ.

Tôi bảo bé Rớt:

– Con đánh vần đi, chữ nào không biết thì hỏi cậu.

Tự nhiên tôi gọi bé Rớt bằng con. Tiếng con thốt ra một cách tự nhiên, không có dự tính. Lụa ngồi gần đó cũng không ngạc nhiên. Tuổi tôi làm cha con Rớt thừa sức. Lụa nhìn tôi với đôi mắt như hỏi dò : anh có muốn làm cha nó không.

Nhưng nàng lại hỏi bé Rớt:

– Con có muốn làm con cậu Hai không?

Bé Rớt mở đôi mắt tròn xoe nhìn má nó như muốn nói:

– Con có ba mà má ! Rồi nó hỏi – Sao ông Tư (Thiên) hứa ít ngày ba về mà ba không về hả má .

– Ít bữa nữa ba con về.

– Ít bữa hoài hè.

– Ở đây đâu có đứa nào có ba đâu.

– Không có ba cũng không có cậu như con. Ba tụi nó đi công trường 9, đi thanh niên xung phong ngoài Bình Long Phước Long… không về.

Con bé chợt buồn. Nó định đánh vần tiếp, nhưng bỏ ngang. Nó hỏi:

– Bình Long Phước Long là ở đâu má?

– Hỏi cậu Hai, má không biết.

– Sao ai đi ra đó cũng không về hả má?

– Má cũng không biết nữa.

Bé Rớt quay sang tôi:

– Sao vậy cậu Hai? Ba con đi đâu ở ngoài lâu quá vậy? Chiều bữa nào má cháu cũng đứng ở bệ cửa dòm ra lộ, thấy ai má cũng nói với cháu: hổng chừng ba con về kìa.

Tôi không biết cắt nghĩa sao cho xuôi một câu hỏi đơn sơ của đứa bé, tôi không muốn nói dối mà càng không thể nói thật. Bọn Hà Nội là bọn bịp. Chúng nó bịp dân Nam kỳ với những mỹ từ kêu to, bịp dân miền Bắc với mớ cỏ khô trước đầu ngựa, bịp thế giới với những chuyện thần thoại, chúng bịp cả trẻ con với những mộng ước không đời nào có.

Thấy tôi im lặng, Lụa bảo con:

– Học riết đi rồi đi ngủ. Mai cậu Hai dạy cho học đồ.

– Cây viết đâu còn má !

Tôi móc cây bút bic mua ở Xóm Giữa đưa cho Rớt.

– Cậu Hai cho con cây bút nguyên tử bốn màu nè.

Cô bé lấy làm thích thú rồi chơi với nó mà không học bài nữa. Cái hầm chiếm gần hết hai phần ba căn nhà, ở dưới đó đặt một bộ ván ngay chính giữa. Mỗi bên có một cái ngách như ngách ếch có thể nằm ngủ một người. Đối diện với cửa hầm chính là một lỗ thông hơi lớn cho không khí ra vào khoảng khoát. Bên cạnh lỗ thông hơi đào một cái ngách khác ăn thấu giao thông hào ở ngoài vườn, đề phòng nếu nhà bị cháy người trong hầm có đường thoát, không phải bị thui như chuột. Tôi và bé Rớt chiếm bộ ván giữa, Lụa và Là, mỗi cô thủ trong ngách hai bên. Cây đèn chong đỏ chạch đặt trong lỗ khoét vào vách hầm lên khói như khói tàu và như là con mắt canh chừng đạo đức của cả ba người. Lụa bảo:

– Anh Hai tắt đèn đi, để lâu nóng lắm.

Tôi vâng lệnh cô em gái thổi nhẹ ngọn đèn. Màn đêm phủ trùm. Dày đặc trong hầm. Tôi không có gì lợn cợn trong đầu. Lụa đã có chồng. Chồng đang ở tiền phương không biết còn mất. Là là cô bé nhiệt tình với cách mạng và yêu tôi. Với tư cách là em của tôi, nàng đã làm những chuyện làm tôi bật ngật, choáng váng, hết hồn. Như vụ bảo tôi leo bẻ dừa trong lúc nàng vô nhà tắm ở bên hiên và đứng trong đó chỉ cho tôi buồng dừa… nạo! Suýt chút nữa tôi buông tay.

Nếu phải lấy một trong hai em thì tôi lấy Lụa, mặc dù Lụa đã có con. Lụa điềm đạm thâm trầm và đẹp hơn cô em, với đầu tóc bới kiểu Nam kỳ lũng lẵng sau ót với chiếc áo bà ba quê hương mà tôi hằng ao ước lúc còn ở ngoài xứ Bắc. Với một mẫu người như vậy chắc sẽ có hạnh phúc hơn với cô em mười tám kia. Giống hệt như câu chuyện Hai chị em trong Con Đường Đau Khổ của A. Tolstoi. Katia và Dacha. Dacha thì rực rỡ thanh xuân còn Katia thì sầu muộn, tâm tư quằn quại khi cách mạng tháng mười xảy ra. Chỉ có điều khác là tôi không phải là nhà thơ Bessonor mà thôi.

Tôi nằm mơ màng tưởng nhớ những chuyện đâu đâu. Từ Tây tới Tàu. Từ Bessonor tới Liễu Hạ Huệ đời Châu và Quan Vân Tường đời Hán, hai vị anh hùng nơi chiến địa và cả phòng the đứng trước nhan sắc mỹ nhân, không bị cám dỗ.

Bé Rớt nằm nép mình bên cậu Hai. Một chốc tôi nghe tiếng cộp nho nhỏ. Tôi biết là con bé ngủ mê đã buông cây bút nguyên tử bốn màu xuống ván.

Tôi nghe tiếng cựa mình của Là và tiếng thở dài rất khẽ của Lụa. Trong hầm mỗi tiếng động đều được khuếch đại nên tôi nghe rõ mồn một. Tôi đoán rằng Lụa có cảm tình đặc biệt với tôi, nhưng tình cảm vượt quá ranh giới anh em một tí. Nhưng nàng tự chủ. Nàng dừng lại ở đó và nén lòng bằng những tiếng thở dài hoặc những cái liếc rất nhanh, những cái nhìn rất xoáy mà tôi bắt gặp.

Tôi thấy không thể ngủ được giữa tiếng trăn trở và những tiếng thở dài, nên tôi lên trên mắc võng ngủ ngay miệng hầm. Bằng cách đó, tôi đã ngủ một giấc nguy hiểm nhưng lại an toàn.

Tôi đã qua một đêm có thể gọi là dài nhất trong đời và thắng mình một cách âm thầm và oanh liệt. Sáng ngày, vừa thức dậy, Là đã quở tôi:

– Anh không được liều lĩnh như thế nữa.

– Lắm khi phải liều mới được em ạ .

Lụa đang lục đục nấu cơm dưới bếp nói vọng lên:

– Cô Út ngày nay ở nhà hay đi đâu?

Là cau có đáp.

– Đưa anh Hai vô Phu Hò a !

– Đi một mình không được sao mà phải dẫn ảnh đi? Rủi có gì làm sao?

Là vùng vằng:

– Chuyện gì là chuyện gì?

– Tao sợ đỗ chụp, ảnh chưa quen đường đất chớ tao có nói chuyện gì.

Là xí một tiếng rồi vẫn cau có, phang trả lại chị:

– Tụi Quyết Thắng (tức tiểu đoàn Quyết Thắng) ở đầy ngoài đó có gì mà sợ dữ vậy. Ảnh là cán bộ quân sự chớ ảnh có phải là thỏ đế đâu. Dẫn ảnh đi cho ảnh quen đường chớ để ở nhà ru rú có đổ chụp ảnh biết chạy đâu. Hay chị muốn ảnh bắt chước mấy ông mấy bà ngồi thum?

Tội nghiệp, trước sự lấn lướt của cô em, Lụa chỉ trả lời yếu ớt:

– Tôi chỉ sợ phòng hờ vậy thôi cô ạ ! Để… ể ảnh ở nhà dạy con Rớt được chữ nào hay chữ ấy.

Nhưng Là vẫn xon xỏn:

– Tôi hổng để ảnh chết đâu. Ảnh có sứt miếng thịt nào thì con nhỏ này cũng dám liều thân xác để bù đắp lại… Học cái gì. Thầy giáo đã bỏ ra ấp chiến lược, học một ngày được mấy chữ.

Tôi hiểu bụng cả chị lẫn em. Cô chị muốn tôi ở nhà để dạy con Rớt.(!) còn Là muốn bắt tôi đi để giải phóng tôi ra khỏi tầm mắt của chị. Ai có lý của người nấy. Bên ngoài Lụa bị đánh tạt, nhưng dễ gì nàng chịu thua cô bé .

Đêm qua, đang lúc ngủ ngon, tôi bỗng giật mình thức giấc. Một vật gì mềm mại chạm vào mặt tôi. Tôi nằm im, trân mình không dám thở. Tôi biết đó là bàn tay và là tay ai. Bàn tay xòe ra di động trên mặt tôi rồi gan bàn tay úp trên mũi tôi. Có lẽ chờ tôi hít. Nhưng tôi quay mình. Chập sau tôi lên miệng hầm.

Lụa dọn cơm ra. Ở đây bao giờ cũng ăn cơm sớm để phòng động. Có chuyện gì thì cũng đã sẵn ba hột trong bụng để có sức mà chạy hoặc chui. Mọi người vừa ngồi lên thì chú Tư Thiên, bí thư xã ủy tới. Nhìn qua mâm cơm tươm tất: sườn ram, tôm kho tàu, cá kho lạt và soong cơm trắng nghi ngút khói, chú hỏi:

– Tụi bây ăn cơm chụp đổ mà như là ăn giỗ.

Lụa nói:

– Còn mấy con chuột để bữa chiều. Chú qua nhâm nhi nghe chú !

Tôi lấy chai rượu còn đầy trên cù lao rót một ly mời:

– Chú làm một chút cho cứng gối.

Chú xua tay:

– Buổi sáng không nên rớ ba cái thứ này, rủi nó càn mình xuống hang khát nước có mà chết.

Là hỏi:

– Chú Tư bữa nay có ra ông Hai Đời không, cho cháu ngoéo đuôi theo với. Cháu với anh Hai ra ngoài chị em con Trong để bàn chuyện lo cái hang cho chú Ba.

Chú Tư ừ một tiếng rồi nói tiếp:

– Chú phải đi gặp đồng bào mình chạy ra xã Trung Lập để lôi họ về, chứ họ đi sạch láng chỉ còn hai chú cháu mình với thằng Năm Đầu Ban thì còn làm nên cơm cháo gì.

Là bảo:

– Chú đi ruồng bắt ông Năm Thuận về đi. Xã đội trưởng gì mà thụt mất tiêu vậy?

– Nó là gà rót rồi, xài không được nữa. Nó đã cho vợ con nó dông qua Thanh An rồi. Sắp tới là phiên nó nhảy.

– Cháu nghe nói ổng đang câu tôm tự túc.

– À, kế hoạch của nó là vậy đó. Lặn dần dần.

Tôi hỏi:

– Vậy văn phòng xã ủy bây giờ chú đặt ở đâu?

Chú Tư vỗ ngực, vỗ bụng rồi vỗ đùi và cười khặc khặc:

-Đặt ở đây nè, ở đây, ở đây nữa? Hì! Có còn ai đâu mà văn phòng văn phiếc?

Là trừng mắt nhìn tôi:

– Hôm qua em đã dẫn anh đi ngang qua xóm Bò Cạp và xóm Hố Bò cũ, anh thấy có còn cái nhà nào không? Anh muốn tìm văn phòng xã ủy hả..? Ra ngoài các ấp chiến lược Cây Bài, Trung Hòa, Cầu Ván mới gặp. Nếu không thì ra chợ Bắc Hà trước cửa Đồng Dù thì chắc ăn hơn.

Chú Tư tiếp:

– Văn phòng xã ủy cháu hỏi đó là hồi hai năm trước, trước cả cháu về đây lần đầu kìa. Hồi đó con Rớt còn đi học, con Là đêm đêm cầm tờ giấy đọc tin ở phòng thông tin ở xóm Hố Bò, trên đường 15 dập dìu tài tử giai nhân lên xuống Bến Dược, Bến Súc, còn dưới sông thì đò máy chạy xìn xịt tối ngày. Tưởng đã giải phóng đến nơi rồi. Ai dè nó đá ngoéo lại cú này ác quá. Cháu về công tác ở đây rồi sẽ thấy. Nó chơi bom pháo xe tăng gì chú cũng ít ngán, còn cái mửng nó xúc dân, ép dân ra ấp chiến lược bỏ đất trống thiệt là ác. Mình như con cua gãy càng. Bộ đội muốn tìm dân để nhờ lá rau hột muối đều không có . Toàn ở ngoài rừng ngoài vườn hoang. Còn đảng bộ thì Bí thư, thư ký, liên lạc gì cũng chỉ một mình thằng này thôi. Một năm nay chú đâu có bận được cái quần dài nào đâu. Quần cụt cho nó gọn, chạy không vướng chân mà có ướt cũng mau khô.

Nghe chú Tư tố khổ tôi rầu thúi ruột, muốn đi quách về Bộ Tư Lịnh để nhận công tác cho xong, nhưng giao liên chưa đến, sẵn dịp Là chạy lo hầm cho chú Ba (Tôi biết ngay là ông Ba Định tức là Ba Xu Tư lệnh Quân khu mới xuống thay hai ông Huỳnh Tấn Phát và Trần Bạch Đằng). Tôi cũng nhân cơ hội này, trong lúc chờ đợi giao liên đến, đi rảo vài nơi với cô nàng để biết thêm chút ít địa hình địa vật hầu nay mai điều động bộ binh cho khỏi bỡ ngỡ.

Cơm nước xong, chú Tư đi về còn Là sửa soạn dẫn tôi đi xuống Phú Hòa. Chú vừa ra khỏi sân thì thụt lùi trở lại. Chú trỏ qua phía bên kia sông Sài gòn:

– Nó lại đánh bên Thanh An ! – rồi bước lại rỉ tai tôi – Chắc nó biết mấy ông mình dời sang bên đó nên nó đeo dính. Ngày nào nó cũng đánh dọc đường 14. Thằng Năm Thuận cho vợ con về bên đó chưa chắc đã yên thân đâu.

Tôi nhìn về hướng bên kia sông. Khu trục bay liệng hai ba chòm. Khói lên đen kịt. Tôi nghĩ: ông Ba Xu từ bên này vọt về bên đó, hay từ bên đó dông qua bên này? Không biết ông ta ở đâu bây giờ. Bé Rớt chạy ra nắm tay tôi:

– Cậu đi chiều về nghe.

– Ừ, chiều cậu về.

– Máy bay nó bỏ bom bên chỗ ngoại đi đó cậu.

Tôi vuốt đầu bé:

– Con ở nhà má dạy học thuộc bài rồi con viết từ số 1 đến số 100 cậu về xem chấm điểm.

Tôi nói rất tự nhiên như cha dặn con, người lạ nghe ắt nghĩ tôi là ba của con Rớt. Nếu trời đất có phép lạ gì biến tôi thành chủ cái gia đình này một cách êm ái, Lụa là vợ tôi thì chắc tôi không có đau khổ gì hết.

Lụa đứng ở cửa bảo:

– Con vô để cho cậu Hai đi, con! (Tôi vụt nghĩ, sao nàng không thể bảo: Con vô cho ba đi! Chỉ khác có một tiếng thôi mà là cuộc đời hoàn toàn thay đổi. Tôi vụt có gia đình và có con. Tôi sẽ gọi con tôi tối ngày, tôi sẽ dạy nó học. Tôi sẽ ở đây. Thuyền tình sẽ đậu mãi mãi ở bến này. )

– Con vô với má đi con!

Là có vẻ không đồng ý với cách nói năng của tôi, nên nạt ngang:

– Người ta đi tới Sa Nhỏ lận, không ai cõng mày theo được đâu mà hòng đòi.

Thấy con bé quyến luyến tôi phải trở lại đủn bé vô nhà và bảo:

– Con muốn ăn gì, cậu ghé quán mua cho.

– Không con không muốn ăn gì hết, con muốn cậu về mau mau.

Tự nhiên nước mắt tôi rơi lã chã. Tôi quay ngang và trở ra giấu đi, không cho Lụa thấy. Tôi không ngờ rằng một tên lỳ lợm trong lửa đạn như tôi lại có thể khóc trong một cuộc chia tay nhỏ nhen như vậy, và trong phút chốc tôi chợt hiểu nguyên do vì sao Năm Thuận và bao nhiêu cán bộ khác nghỉ công tác mà nín ở nhà .

Tôi và Là vừa ra đến đường cái thì chú Tư cũng từ trong nhà chạy băng ra. Chú bảo chú cũng đi cùng đường với chúng tôi để gặp thằng Hai Trâu an ninh xã Trung Lập để liên hệ công tác, rồi gặp thằng Út Chạy ở Sa Nhỏ, biết chừng băng qua Đồng Lớn để gặp thằng Hai Đời bí thơ. Thế là chú đi trước dọn đường. Chú mặc cái áo bà ba mốc rách vai chưa vá, tay cầm cái rựa ngoéo, khom khom bổ tới, cặp chân khẳng khiu đen đúa như hai ống tre cháy nám lòi ra hai ống quần lỡ nhuộm phèn vàng cháy làm tôi xót xa. Không hiểu ông già này hiểu chủ nghĩa Mác bao nhiêu mà làm bí thư đảng ủy? Bên ngoài vạt áo chú nịt ngang lưng một sợi dây da, bảng to bằng bốn ngón tay rất quen thuộc với tôi từ năm ngoái, mỗi bên có một cái túi nhỏ gài nút bóp để đựng giấy quyến và thuốc rê . Đó là thần dược của chú dùng để chống xe tăng và máy bay Mỹ, ngoài ra không có gì khác. .

Phái đoàn cắt ngang qua suối Hố Bò lên đám rừng chồi mà cách đây một năm khi nàng đưa tôi và má Hai ra Bến Dược móc gia đình, đã cho tôi xem cái miệng địa đạo đầu tiên của Củ Chi. Tôi buột miệng hỏi:

– Địa đạo ở đó, em có phát triển thêm ra không?

Nàng đáp.

– Bỏ luôn rồi anh ạ ! Thời buổi này thiên hạ sợ địa đạo hơn sợ cọp.

– Ủa. sao kỳ vậy?

– B52 nó rắc lên đầu ai dám chui?

– Vậy chắc ba cái hầm của tụi anh đào chắc cũng tiêu hết rồi!

– Hầm nào?

– Hầm của anh và Tư Linh chỉ huy tụi con Bảy Mô đào để diễn tả địa đạo chiến cho thằng Bọ Chét.

Là phá lên cười như nắc nẻ một hồi rồi nói:

– Ổng về tới bên Tây rồi hả?

Tôi lặng thinh vì hổ thầm. Một cô nông dân như Là mà cũng biết tỏng cái địa đạo thôn liền thôn, xã liền xã còn cái thằng trí thức quốc tế lại cắm đầu vào cái hang chuột mà cứ tưởng là nó dài tới hai trăm dậm và bao vây cả căn cứ Đồng

Dù. Qua khỏi đám rừng chồi, đến bìa sở cao su Mây Sắc (Beyssac) cũng còn gọi là sở cao su Phú Hòa. Ở đây cao su còn non, cao độ bốn, năm thước, nhưng vì không có người săn sóc, nên nhiều lô bị đốn phá hoặc lấy thân cây hầm than bán. Đi một đổi nữa thì đến đường mòn cặp suối Lộc Thuận. Bên kia bờ suối nhà cửa vách ván, mái ngói bị pháo bắn sập, điêu tàn. Là cho tôi biết hiện giờ chỉ còn một nhóm du kích ở ngoài đầu suối ngang Sa Nhỏ. Hồi 62-63 vùng này vui lắm. Nào các cơ quan khu ủy I-4, nào gánh Hậu Cần của ông đại úy răng vàng Bảy Hốt. Từ ngày Mỹ vô Đồng Dù căng chiếc tăng đầu tiên, vùng này ăn bom pháo hàng ngày. Nó triệt hạ hầu hết cơ sở bên này, bây giờ nó đuổi sang Thanh An. Chúng tôi đang đi bỗng có một chiếc xe đạp bóng nhoáng chạy ngược chiều. Cô gái dừng lại, nhảy xuống chào chú Tư và chị Là . Cô ta thân hình mảnh mai, mặt tròn có nhiều mụn mà cái vành nón hướng đạo bằng nỉ xám không che lấp được. Cổ cô ta lại quàng một cái khăn tím trông rất hợp với cái dáng nhỏ thó của cô làm cho tôi nghĩ đây là một em bé quàng khăn đỏ ở bờ hồ Hà Nội. Là vồn vã nắm tay nàng ta:

– Chị Nhã Nam đi đâu vậy?

– Đi lấy tài liệu về chống càn của mấy ông du kích ở Sa Nhỏ. Bị kẹt đường nên ngủ tạm ở đó đêm qua.

– Bộ có tin gì hay hay hả?

– Ừ, mấy ổng vừa lập một hỏa điểm trong vành đai bao vây Đồng Dù. Nghe tin đó, ông Tám Quang gởi tôi xuống ngay để lấy tài liệu viết bài.

Tôi và chú Tư đứng cách vài bước. Tôi thấy cô liếc sang tôi và hỏi nhỏ nhưng tôi nghe:

– Chị xã đi với ông nào coi găng xi măng vậy?

– Ông nào? Anh Hai tôi ở R mới về đó ?

Nhã Nam bèn rề xe đạp lại gần tôi, cười duyên:

– Anh về thay ông Hai Giả ở H6 phải không?

Tôi giật mình hỏi.

– Sao cô biết?

– Em là nhà báo mà . Xoi mói một cây. Có chuyện gì mà em không biết?

Nhã Nam xưng em ngọt ngào với tôi một cách tự nhiên.

– Tôi mới về nên không biết gì hết.

Nhã Nam cười nhe cái răng duyên bên góc môi trái:

– Giấu hoài anh Hai. Em nhìn cái ống dòm anh đeo trên vai là biết con nhà pháo rồi mà. Hổm rày em nghe đồn ở cơ quan. Nay gặp anh thì em đề quyết.

Thấy nhà báo này có vẻ ranh mãnh, tôi liên tưởng đến tờ báo Nhân Dân, một cây nói láo. Kể từ lội Trường Sơn đến nay, tôi không hề đọc tờ báo láo này nữa, cũng không đọc một tờ báo nào của đảng mà tôi không thấy thiếu chút nào trong đời sống tinh thần của tôi. Thật vậy, tôi đọc báo không phải với sự ham thích mà với thói quen xấu. Nay bỏ nó đi, tôi nghe nhẹ mình.

– Cô ở đâu.

– Em ở Sài gòn (chữ gòn nàng phát âm theo tiếng Bắc).

– Đừng có qua mặt cái ống dòm của tôi chớ. Con gái Sài gòn đâu có nói lai giọng Bắc như thế – Tôi vừa nói vừa bắt nhãn cô gái – Có thể cô sanh ra ở Sài gòn nhưng bố mẹ ở Bắc Giang phải không?

Nhã Nam cười banh cặp môi mỏng và hai gò má đầy mụn hơi ửng lên:

– Anh đoán tài quá !

– Không tài gì đâu! Nhã Nam là quê hương pháo của tôi ở ngoài Bắc. Tôi đã từng diễn tập kéo pháo qua phố Nhã Nam mấy lần mà !

-Thảo nào!

– Ở Nam người ta nói là hèn chi chớ không nói thảo nào !

Nhã Nam làm duyên:

– Em phục anh quá chời. Anh có thể cho em biết quý danh không? Em sẽ viết bút ký.

– Để làm quái gì. Tên tôi xấu lắm, không nên đưa nó vào văn chương.

– Kệ nó, anh cho em biết đi!

– Thiên Lôi !

Nhà báo bịt miệng cười. Chú Tư giục:

– Thôi, đi kẻo trễ !

– Vâng. Anh đi kẻo trễ mất! Gặp lại khi khác. Chào chị xã…ã! Chào chú Tư!

Nhã Nam thót lên xe đạp vun vút.

Tôi ngoảnh mặt lại ngó theo cái bóng hồng hay hay đang bay xa dần. Bỗng nghe đau điếng ở vai:

– Dòm gì mà dòm dữ vậy?

Cô xã đội vừa nhéo tôi vừa nghiến răng ken kéc.

– Anh nhớ cái thị xã Bắc Giang chút mà !

– Ngó ngoái vậy coi chừng trặc cổ đó ông thầy pháo!

– Gì dữ vậy em!

– Con nhỏ đó, anh khỏi cần tìm, tự nó dẫn xác tới thôi.

– Em không nên nói xấu bạn bè.

– Em đâu có bạn bè gì với nó. Nó là dân thành. Nghe đâu sinh viên đại học văn khoa văn khoai gì đó. Nó là nhà báo của Tuyên Huấn khu.

– Người ta vô đây với mình thì tốt chớ sao. Ở trên R cũng rất trọng đãi trí thức mà.

– Trí thức nào em hổng biết, chớ con nhỏ này viết láo dữ lắm. Nó làm mấy bài Chị Năm Cầu Xe em bất ngờ nghe đọc trên đài giải phóng, em muốn độn thổ luôn.

– Sao vậy?

– Nước lã khuấy nên hồ chớ sao. Cho nên bây giờ mấy ông Tiểu đoàn Quyết Thắng chạy mặt nó rồi.

Tôi đỡ cho cô bạn vừa mới quen:

– Không hẳn là cô ta viết láo đâu. Cố nhiên là làm báo phải nói láo không nhiều thì ít chớ không nhà báo nào lại nói y sự thật nhưng trước khi in, cấp trên còn thêm mắm dậm muối.

Tôi biết trong bụng cô xã đội: không phải cô đổ quạu vì nhà báo nói láo mà vì cô ta nó chuyện với tôi thân mật quá. Biết vậy tôi vuốt giận nàng:

– Anh không bao giờ lấy vợ Sàigon.

Quả nhiên là vui vẻ trở lại. Nàng bảo:

– Anh ráng chút nữa em kiếm nước dừa cho uống.

– Dừa ở đây bị hoá học, lẫn B52 và pháo siêu âm! Uống nước dừa dám bịnh lắm! Hèn chi tụi con Nga sợ ăn thịt chuột nổi phong cùi cũng phải.

– Anh chạy đi đâu rồi cũng không không khỏi chui. Anh cứ bỏ một cục vôi ăn trầu hay một trái chanh vào xắc-cốt sẵn đi là vừa.

Chương 35 Lính cò mửa của “Q” Hai Chòi. Nữ kiện tướng đào đất.

Đến đứng bóng thì đi ngang nhà mủ. Nhà mủ sơn trắng là một toà nhà lớn của sở cao su Phú Hoà, trải qua bao nhiêu trận mưa bom pháo vẫn còn đứng đó trơ trơ. Cái nóc chòi cao trên đó treo cái chuông dùng báo giờ giấc cho phu cao su. Bây giờ rừng cao su hoang tàn, phu phen biến mất nhưng cái chuông vẫn còn. Tuy nó không còn khua ngân như hồi trước nhưng ai đi qua cũng lấy làm ngạc nhiên. Là hỏi tôi tại sao Mỹ bỏ bom dở vậy?

– Hình như hồi năm ngoái em đã hỏi và anh đã trả lời câu hỏi của em rồi mà! Không phải Mỹ ném bom dở đâu. Cầu Hàm Rồng mà còn bị nó đánh hỏng kìa em! Tàu chạy trên sông Bến Thủy nó vẫn ném bòm chìm kìa em! Đánh sập cái nhà mủ này có khó khăn gì. Nhưng nó để đó để làm điểm, hiểu chưa. Nếu san bằng nó rồi thì không có gì để làm điểm tính toán cho vùng lân cận.

Tôi đã từng leo lên đỉnh núi một ngày của con đường Trường Sơn . Từ trên đỉnh núi cao ngó xuống các con đường mòn, các dòng suối lấp lánh ánh nước ngoằn ngoèo giữa muôn trùng rừng xanh trải phía dưới tợ những con rắn bạc, xanh, đỏ, tím, vàng bò trên tấm thảm thiên nhiên xanh rờn. Nơi khúc uốn éo của con rắn bạc, lấp ló những mái nhà, có làn khói mỏng như tơ lơ lửng bay giữa khoảng không xanh biếc. Đó là những bản làng của các sắc dân, quanh năm đàn ông chỉ có cái khố, đàn bà con gái cởi trần hở ngực, con nít trần truồng chạy nhảy như dê trừu.

Với cái nhìn bằng mắt thường từ trên cao ngó xuống mà còn trông rõ mồn một. Tôi mới nghiệm ra rằng với những bức tường trắng và mái ngói đỏ của mấy cái nhà mủ cao su Hố Bò, Phú Hòa này rõ ràng là những vật chuẩn rất tốt của những tên phi công ngồi trên máy bay quan sát chỉ điểm hay bọn khu trục, phản lực ném bom qua những ống kính quang học tinh vi nên nó mới còn hình thù đứng sừng sửng giữa những khu rừng cao su cháy vàng trụi lá với những lỗ đạn trọng liên chi chít như mặt rổ sảo. Nếu cần phá hủy thì nó chỉ cần hai trái hỏa tiễn của đầm già cũng đủ phá tanh banh rồi. Tôi nhìn bốn bức tường loang lỗ đầy dấu vết đạn nổ, cắt nghĩa những điều tôi biết cho cô em xã đội nông dân. Em nhận ra lý lẽ nên đáp nhỏ.

– Ừ he. Vậy mà lâu nay em cứ chê thầm tụi Mỹ bom dở.

Phía sau triền suối cây cối ngã ngổn ngang. Tường ngôi nhà mủ bị mảnh bom đạn xuyên lốm đốm như tàng ong một mảnh tường sập cho thấy chiếc thang gác bên trong còn nguyên. Ba người đi nhanh qua khu nhà mủ, theo triền dốc. Độ nửa tiếng đồng hồ thì đụng một vườn tre trúc bên bờ suối. Là bảo đây là đầu xóm Phú Hòa. Dọc theo bờ thấy có mấy tấm bảng tử địa cắm ở mối đường vào nhà, toàn là những ngôi nhà vô chủ hoặc sụp đổ. Có cái chỉ còn trơ lại cái nền nhà, chứng tỏ gia chủ đã rời nơi đây từ lâu. Vùng này dù không cấm bảng tử địa thì tự nó cũng là khu tử địa rồi.

Đang đi bỗng Là dừng lại trỏ bên lề đường. Tôi ngó theo. Cái vĩ tre che miệng hầm chông bị đất nặng đè sụp phân nửa để lòi những cây chông tua tủa. Là hỏi tôi:

– Anh biết cái gì không?

Tôi giả đò không biết.

– Không!

– Hầm chông diệt Mỹ đó ông thầy pháo.

Chú Tư cũng đừng lại quan sát. Chú than thở:

– Mấy đứa nó bỏ phế như thế này có ngày giết mình.

Là bĩu môi:

– Chuốc cho tốn tre, ngồi mỏi lưng cho được cái gì. Đào đào lấp lấp, đổ bao nhiêu mồ hôi, bao nhiêu năm nay có làm trầy da thằng nào? Có dính mấy ông bộ đội thì có. Ừ, mấy ổng đói, hay sục sạo vô vườn kiếm dừa kiếm chuối để rồi bị lọt cho coi. Ủa, mà bị lọt rồi chớ gì mà sợ.

Chú Tư động lòng trắc ẩn vì câu nói đâm thẳng vào chủ trương làm hầm chông mà chú là người ra lệnh thi hành kinh nghiệm thời kỳ chống Pháp. Chú nói:

– Tao cũng nghĩ là tụi Mỹ cũng như tụi Tây. Giỏi lắm thì Mỹ thả bom nhiều hơn Tây chút đỉnh thôi chớ có khác gì. Hồi chín năm vùng này ăn hút khỏe ru, đông bào có biết trái bom nào, tao có biết mặt thằng Tây mồm ngang miệng dọc ra sao. Chẳng ngờ bây giờ Mỹ có bỏ bom bắn cà nông hàng ngày. Rồi còn xe tăng, chụp dù, nhảy cóc nữa. Bởi vậy hầm chông và lựu đạn gài mất tác dụng.

– Cháu cũng từng làm hầm chông hồi 1950 khi đi công tác ở Phú Hữu tỉnh Cần Thơ. Du kích thời đó làm chông có mũi bằng thiếc gọi là chông đội nón sắt hễ Tây sụp hầm bị chông đâm, rút chông ra thì cái đầu thiếc ở lại trong thịt, nó sẽ bị phong đòn gánh mà chết.

– Rồi có dính thằng nào không?

– Chẳng dính mạng nào cả, rút cuộc ông xã đội đi o mèo đêm khuya lại bị sụp. Từ đó danh từ sụp hầm chông có hai ý nghĩa.

Là xía vô:

– Bây giờ ở đây cũng vậy. Mấy ông cán lang bang bị kỷ luật, người ta không nói bị kỷ luật mà nói sụp hầm chông. Đó là trường hợp lẹo tẹo với con gái. Còn lẹo tẹo với đàn bà có chồng đi công tác xa thì gọi là sụp hầm hom.

Chú Tư trỏ tay phía trước mặt:

– Đây là xóm ngoài của Phú Hòa. Dân còn bám trụ chút ít.

Là đớp ngay:

– Bây giờ không còn ai đâu chú ! Chú Ba Cứng là người gan lỳ nhất, nhưng vừa rồi cũng đã đưa gia đình ra ấp chiến lược Cầu Ván.

– Ủa thằng Ba Cứng xã đội trưởng Phú Hòa đã ra ấp chiến lược rồi à?

– Mới chừng vài ngày đây thôi. Bộ chú không hay thiệt hả?

Chú Tư vỗ đùi kêu:

– Vậy nó gặp tao nó khoe nó sẽ cùng đám du kích bám trụ chơi Mỹ tới gáo!

– Ổng lùa cả trâu ra ngoải rồi. Nghe nói gia đình được phát tôn cất nhà. Chú đi đánh xe mướn trong vùng quốc gia.

– Tụi lính không bắt tội gài lựu đạn làm hầm chông gì của nó à?

– Cháu hổng biết, nhưng nghe mấy bà đi chợ về nói có gặp chú, chú nhắn thăm bà con mạnh giỏi.

Chú Tư Thiên làu bàu:

– Cái thằng ! – Một chập lại nói – Mẹ ! ba cái ấp chiến lược này hại thật. Phải phá cho tan thì mới đánh Mỹ được, nhược bằng cứ để nó phô trương như vậy mình bị nó hút hết dân.

– Ở đó mà dân. Mấy ông cán to cũng chạy ra đó rồi. Có một ông thượng tá mùa thu.

Tôi chột dạ:

-Vậy nữa à?

Là không đáp mà trỏ vào khu rừng chồi ở sau lũy tre, nói nhỏ với tôi:

– Ở đó có một khúc địa đạo chừng ba bốn chục thước . Tụi Phú Mỹ Hưng của em phối hợp với tụi Phú Hòa đào để phục kích tụi Sài gòn, nhưng ở đây đất thấp, không đào sâu được có lẽ bây giờ đã sụp rồi. Anh nhớ nghe. Sau này có thắt ngặt thì vô đó trú đỡ. Để bận về em ghé vào chỉ nắp cho. Nhưng em không bảo đảm có xài được hay không?

– Vậy thì đào làm gì?

Là trợn mắt:

– Em đã bảo với anh rồi. Thời buổi B52 và xe tăng này không ai dám chui xuống địa đạo nữa. Ở dưới xã Trung An ấp Bào Trân bị lấp cả hầm chết mười mấy cán bộ, ở đó đất thấp họ làm gáy hầm cạn xợt. Người ta giấu không nói ra, chỉ phổ biến bằng công văn mật đến cấp ủy thôi. Em không là cấp ủy nên chỉ nghe lóm. Anh muốn chắc hỏi chú Tư kia cà.

Tôi vừa nghe chuyện vừa ngó vào vườn. Ở đây nhà cửa còn nguyên. Nhà ngói nhà lá còn san sát với nhau. Mùi cát khô bốc lên trong nắng gắt. Vài tiếng gà gáy trưa văng vẳng gợi lên cái không khí của thôn xóm ruộng rẫy yên lành thời não thời nao xa lắc xa lơ. Một nỗi buồn man mác dậy lên trong lòng kẻ lữ thứ xa quê quán đã hai mươi năm.

Nhớ cố hương xao xuyến tấc lòng. Mau dồn chân!

Câu hát từ thời trẻ thơ mà tôi thường nhại đi nhại lại, không biết của ai (giờ thì đã biết) bỗng nhiên làm run run vành môi và xốn xang tấc dạ .

Từ bóng cây ngôi mộ bên đàng Từ mái tranh bên đình trong làng Nhìn qua con đường mòn cũ Quanh co mấy bụi tà dương mới mong chàng.

Là dừng lại ở một mối đường và nói với chú Tư:

– Cháu đến nơi rồi. Chú đi chiều về qua nhà chị cháu ăn cơm với anh Hai nghen chú.

– Ờ nếu tao còn sống thì tao về, chớ có đi đâu mà bây sợ? Tao qua Sa Nhỏ gặp thằng Út Chạy một chút. Nó chạy không có ai tìm nổi. Rồi phải qua Bàu Sỏi gặp con Siêng nếu hổng gặp hai đứa đó thì tao phải tuốt tới Ràng tìm thằng Hai Đời, chiều tối mới về tới.

– Ở Sa Nhỏ pháo thường bắn buổi trưa lắm, chú coi chừng.

– Nó bắn thì nó bắn, mình đi thì mình đi chớ coi chừng gì được mà coi ?

(Bí thơ xã ủy xã Trung Lập đầu tiên năm 60 đến 65 do Hai Đời nhà ở ấp Đồng Lớn phụ trách. Vợ Hai Đời nấu rượu sinh nhai để nuôi bầy con nhỏ. Hai Đời vướng bịnh lao, cà rề đến cuối năm 65 thì mãn phần. Đề cao vai trò phụ nữ để thúc đẩy mặt đấu tranh chánh trị từ ngày Mỹ vô Đồng Dù, phong trào bị xẹp, khu ủy khu IV đã cất nhắc thị Năm Đang bí thư xã ủy xã Phú Hòa Đông lên làm khu ủy viên. Năm Đang được mấy lão sồn sồn tóc bạc của khu ủy vuốt, y thị không bỏ lỡ thời cơ đề cao giới phái đầu tóc của mình, nên đã đề cao một lô phụ nữ tham gia việc lãnh đạo quân xã. Thị đưa Hai Xót công tác phụ nữ xã An Nhơn vào chưn quận ủy viên quận Củ Chi. Đề bạt thị Út Siêng tổ trưởng đảng ấp Đồng Lớn thay Hai Đời làm bí thơ xã Trung Lập. Út Siêng gần bốn mươi, có chồng ở tù chết ngoài Côn Đảo, mà bà bí thơ xã miệng ăn trầu lại chưa diện một cây, mặc dù đã hai lửa, đứa con gái đầu lòng sắp gã được, đứa con trai lại náo nức tham gia bộ đội. Tuổi đời như hủ mắm đầu giàn, nhưng bà bí có tham vọng trèo cao. Bà bí lên mặt hống hách với anh em bộ đội nên đã bị Hai Khởi, Tham mưu trưởng Tiểu đoàn 7 Thép đòi đá đít bà bí thơ trước mặt mấy bà mẹ chiến sĩ. Mặc dù bà bí thơ lúc đó đã quơ được một anh cán cấp đại úy làm Chánh trị viên Tiểu đoàn, người Liên khu nem. Ông già này khai với tổ chức là vợ ông ta đã bị giặc bắn chết ở quê nhà Quảng Nam, Quảng Ngải gì đó ông đã trên 40. Nồi vun úp vừa khít nên được tổ chức Đảng chấp thuận cho hai ông bà xe duyên. Được một năm thì cái trống bà bí thơ bi bể, bà vịn cớ đó thôi việc, trong khi ấp Đồng Lớn bị bom đạn lửa khói ngày đêm. Ông bà dắt tay nhau qua sông về rừng già Bến Cát Dầu Tiếng để úm đứa trẻ sơ sinh và giao cái gánh xã ủy lại cho ông Út Chạy nhà ở ấp Sa Nhỏ, nguyên là tổ trưởng đảng ấp trước đây. Tình hình sau Tết Mậu Thân quá căng thẳng. Quận Củ Chi phải chia đôi thành hai quận Nam Chi và Bắc Chi. Cái xã của ông Út Chạy cũng bị chia đôi thành hai xã Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ, cắt phân bởi tỉnh lộ 7A ngày đêm bị phong tỏa giao liên khó khăn. Nghe tên Chạy là người ta đoán biết đặc tánh của ông bí thơ mới của xã Trung Lập Thượng này rồi. Nhưng đâu ai dám tưởng tượng ông lấy mười giạ lúa để đổi lấy khẩu “colt đui” của một du kích ấp đã hôi được của lính Mỹ đánh rơi tại đồng ruộng Sa Nhỏ trong trận chống quân Mỹ đổ chụp của Tiểu đoàn Quyết Thắng vào giữa năm 1966. Năm 69, cả xóm Sa Nhỏ không còn một bóng người, vợ con của Út Chạy bị gom ra ấp chiến lược Lào Táo. Còn ông bí thư xã, mang colt đai lủng lẳng dông tuốt qua Miên lánh nạn. Đó là sơ lược thành tích lãnh đạo của các nhân vật ở xả Trung Lập mà chú Tư rỉ rả kể lại cho tôi nghe.)

Chú Tư xách cái rựa ngoéo lủi thủi đi trên đường với cái bóng thu gọn di chuyển trên mặt đất. Là dắt tôi vào nhà, đi ngang qua chuồng trâu ngay sát lộ. Mùi phân trâu khô bốc lên nồng nặc trong nắng trưa càng gợi lên trong lòng tôi những cảnh sinh hoạt đồng quê thuở thiếu thời mò cua bắt ốc cỡi trâu nghênh ngang ngoài ruộng. Cái chuồng trâu bây giờ không còn trâu, không còn nghe tiếng trâu thở phì phì, tiếng móng trâu dậm cộp cộp trên mặt đất.

Trong cái chuồng đặt nghẹt những người. Súng ống, thắt lưng, bình toong treo đầy trên những cây ngáng. Chung quanh chuồng trâu võng xanh treo làng khang giữa những cây cau cây mít. Hồi kháng chiến chống Pháp không có cái kiểu đóng quân lạ lùng này. Bộ đội đi đến đâu dân nhường nhà cho ở và ngã bò vật heo ăn uống tiệc tùng. Bây giờ bộ đội nhảy tới đâu dân phóng mất hết, nên bộ đội ở ngoài rừng và gạo mua từng lít. Đến muối tìm cũng khó.

Tôi đang đứng nhìn cây ớt hiểm trái chín đỏ rực cao ngang ngực. Có lẽ nhờ phân trâu mà nó cao lớn như vậy. Bỗng một tiếng gọi to:

– Ê ! Út Là ! Vô đây biểu coi !

Chà, ai mà lớn lịnh dám bảo bà xã kiểu đó. Tôi vừa nghĩ bụng, thì Là bảo tôi:

– Mấy ông ôn địch đại đội 1 của Tiểu đoàn Quyết Thắng đó anh Hai!

Vừa nói Là vừa đi thẳng vô chuồng trâu. Hai ba ông bộ đội đang nằm võng bỗng ngồi bật dậy, đưa tay chào, cười toe toét Là quạt ngay:

– Nè ông Bính, chưa tối mà ông cho treo võng tùm lum như vậy rồi còn đánh tu-lơ-khơ, uống trà vặn đài oang oang, hổng sợ đầm già nó liếc thấy nó kêu pháo Đồng Dù dập nát xóm Phú Hòa này sao?

Một ông cao cao gầy gầy mặc đồ tê-tô-rông màu xám áo bỏ ngoài, gãi gãi đầu:

– Cô em không phải lo, tụi nó đang bận rộn bên Tam Giác Sắt An Thành An Điền, chưa có rảnh qua thăm mình đâu . Em tới thăm tụi anh thật là phước đức.

Là gạt phắt:

– Ai đi thăm mấy ông. Tôi đi tìm hai chị em Năm Biền và Sáu Trọng. Mấy đứa nó có trỏng không?

Ông Bính, người lùn lùn mặc quần tiều lòi bộ giò chân lư, nhảy lên cây ngáng thò đầu ra hỏi nhỏ Là:

– Cô em đi với ông kẹ nào vậy?

– Anh Hai tui ở ngoải mới gia chớ ông kẹ nào?

Ông cao cao diễu cợt:

– Quê rau muống hả chú?

– Không! Nhà Bè, Phú Mỹ.

– Tưởng chú mày đẩy cây thì bị tôi cho lọt mương rồi. Ê ! biết tui là ai không? ‘

Thấy người cao niên hơn mình, tôi đáp:

– Dạ không.

– Tôi làm lơ xe đò cho ông Đực Lớn, em của Hai Qui ở Phú Mỹ hồi trước đây nè.

– Tôi quê… ên rồi.

– Gặp bà con mà hổng nhận ra sao?

– Dạ tôi đi hồi mười ba tuổi, nay đã hai mươi năm rồi làm sao nhớ nổi a… a… chú?

– Tầm bậy, kêu tao bằng dượng mới đúng. Dượng Chín nghe chưa cháu! Chín Nữa là tao đây.

Người tự xưng là Chín Nữa chui ra khỏi chuồng trâu đến sát mặt út Là, nom vào bảo:

– Nè, cô xã đội, cô đừng có nhận diện tầm bậy nghe! Tôi biết rõ ông này là ai mà. Ổng có mấy đứa em, hỏi tui nè. Anh Hai nào của cô mà nhìn lãng dang vậy cô em?- Rồi Chín Nữa nhắc gốc tích một hơi – Bà già của ổng vợ tôi kêu bằng chị. Vậy ổng phải kêu vợ tôi bằng dì lớn có đúng hông con nhỏ. .Vậy ổng phải kêu tôi bằng Dượng là đúng rắc-lơ-măng-te rồi ! Cô có muốn kêu tôi bằng Dượng thì tôi cho kêu chớ anh Hai tui, anh Hai túi gì !

– Anh hai túi ! . . . – Bính Chân Lư chêm vô – Túi sau là túi tương lai. Túi trước là túi anh Hai gởi về há há…há. Vậy cũng đáng kêu là anh Hai… tui chớ.

Chín Nữa gắt:

– Đừng có nói giỡn kiểu đó. Nó là cháu tôi.

Là được trớn xô một phát, Bính Chân Lư suýt té ngửa. Bính gượng đứng lại và vớt vát:

– Ỷ cháu dâu ông nên nó dám đánh bộ đội của ông thấy chưa ông Chín.

Chín Nữa tiếp:

– Tôi thấy là nhận ra ngay, nhưng để coi nó có nhận ra tôi không. Nó giống ông già như cắt mặt để qua. Ảnh chỉ lâu nay bặt tin nó, tưởng nó chết lâu rồi. – Chín Nữa quay sang Là – Cô xã đội có muốn gặp chị em con Biền thì vô ngay trong nhà. Chị em nó mới đi ruộng về. Còn anh Hai của cô thì để ở đây cho tôi nói chuyện một chút.

Tôi bảo Là :

– Em đi giải quyết công tác đi. Để anh ở lại hỏi thăm ba má và bà con.

Là ngúng nguẩy:

– Tôi gởi anh Hai lại đây, chút nữa tôi trở ra rước.

– Ai mà ăn thịt ăn cá gì đâu mà sợ !

Một ông cho miệng vào.

– Rủi sẩy mất, tui thế thân được không?

Là bỏ đi thẳng. Được một quảng, quay lại dặn tôi:

– Đừng có bỏ đi như hồi nẵm vô quán bà Sáu Tiệm nghen !

Bính Chân Lư chống nạnh và hất mặt lên:

– Để đó tui giữ cho, không có cô nào xớt mất đâu!

Chín Nữa dắt tôi ra gốc rơm trải một manh đệm rách. Hai dượng cháu ngồi bên nhau tựa lưng vào gốc rơm tâm tình. Một chập, bảo phông lông:

– Đứa nào ở trỏng chạy ra tiệm mua mấy cái tép mỡ nghe bây.

Vừa nói vừa móc tiền từ sắc-cốt. Một cậu liên lạc chạy ra. Chín Nữa dặn:

– Chạy qua quán Hai Trâu bắt một gói cáp tăng. Một vài xấp bánh tráng.. . à quên. Đứa nào giỏi chân chạy vô xóm ruồng mua vài con gà. Nhậu tép mỡ xong, chiều ăn thịt gà. Bữa nay chắc tụi nó tha Tào, mình cho khói lửa ngập trời tới khuya. Tôi cho ông bạn trẻ của tôi lết một bữa.

Quay lại tôi, Chín Nữa hất hàm:

– Về đây làm gì?

– Dạ nghe nói ở trên bảo về đây phụ với H6. . .

Chín Nữa vỗ đùi:

– Vậy là mày ! Tao tường ai chớ. Hỗm rày nghe đồn trên R cho một sĩ quan trung cấp pháo binh xuống quân khu, phụ trách cái H6 thay cho Hai Giả . Mày hơn tao xa. Tao ham vui bỏ nghề xe đò vô trong này mấy năm chẳng có làm được con mẹ gì hết. Làm trật nghề cái gì cũng trớt da me. Tao mới quyền Trung đội trường hè ! Thằng trung đội trưởng mới vừa bị pháo Trung Hòa chặt đứt hai chân tối hôm kia, tao vừa lên thay. Khiêng nó vô Xóm Chùa cho Tám Lê băng bó, đại đội mới di quân vô trong này tối hôm qua.

Hỏi phăng gốc tích, tôi mới hay vợ Chín Nữa là cô giáo làng có tiệm may ở chợ Phú Xuân, bà con xa xa với má tôi. Tuy vậy gặp nhau trên xứ lạ quê người, hơn nữa, trong khói lửa thì cũng còn hơn ruột thịt. Bính Chân Lư là đại đội phó (mà tôi không biết, cứ tưởng là lính đơ đềm củi bặp) đem ra một bình toong, bảo:

– Bắn sẻ trước đi, chốc nữa tép mỡ về sẽ xung phong.

Chín Nữa rót trà ra đít bình toong, hai dượng cháu uống chung. Chín Nữa hỏi:

– Mày đã có gì chưa ?

– Chưa, dượng ơi! đi hoài làm sao quăng neo được.

– Mày được tiếng cách mạng lâu năm, nhưng coi kỹ lại, thua tụi cùng lứa tuổi với mày xa! Ở nhà bây giờ đứa nào cũng vợ con đùm đề, đứa có năm, sáu xe đò chạy đường Phú Xuân Sài gòn, đứa là chủ nhà máy xay lúa, tệ lắm cũng có tiệm quán tạp hóa. Hừ, thằng em trai mày không mần ăn nhưng cũng là đại úy Thủy Quân lục chiến. Mày hay vụ đó chưa?

– Dạ chưa?

Tôi né ngang. Chín Nữa ngó quanh rồi nghiêng qua rỉ tai :

– Đừng có dại mà khai ra lý lịch nghe ! Người ta biết cái là nguy to. Nhưng tao đây, tao có vợ là cô giáo, mà tao khai là vợ bần cố nông. Khai thiệt là hết có làm quyền Trung đội trưởng này được.

Hớp miếng trà rồi Chín Nữa hỏi gặn:

– Mà mày không có khai, thật không??

– Dạ không có khai đâu, dượng ạ !

– Họ mà biết được là họ sẽ bảo mày móc nối làm một cú như Phùng Văn Mười là mệt cho mày và cả cho em mày lắm đó.

Tôi thấy nao nao trong bụng, đau nhói trong tim. Em đại úy. Anh cũng đại úy. Một xanh, một đỏ chọi nhau về chủ nghĩa về ý thức hệ . Ai thắng ai thua, cha mẹ cũng phải mang sầu. Chín Nữa cứ triết lý miên man:

– Thời buổi này quan cũng như lính cũng chẳng làm gì cả. Một cái cụp là xuôi tay. Thua mấy thằng thương buôn, lơ xe đò, đạp xích lô… Dốt vậy mà khỏe ra, kiếm ngày nào ăn ngày nấy không sợ làn tên mũi đạn rủi may. Hồi nhỏ mày học giỏi nhất làng Phú Mỹ . Vậy mà hổng chịu học luôn. Bây giờ cũng là người này người nọ với người ta. Chịp! Chịp… Mấy ông nội đại úy thiếu tá của mình về đây cũng nhờ vào cái túi áo khỉ của vợ ở Sài gòn đem đút lót chớ tài ba gì. Tao sợ ở ngoài đó bị bắt lính hổng dè vô đây cũng bị lính bắt nhưng ở ngoải đi lính có xe cộ, có lương mỗi tháng, vô đây toàn xài lô-ca-chưn còn lương thì trớt he. Tháng nào cũng phải thông cảm với ở trên. Đã vậy còn cái nạn tử vô địa táng nữa chớ. Tụi Đồng Dù dữ dằn gấp trăm thằng Sài gòn. Bắn nó một phát chim sẻ, nó trả hỏa một ngàn cà-nông, bắn nó rơi một con cá rô nó rắc tám đợt B52. Hồi 62 tao ăn dầm nằm dề ở Xóm Dược Xóm Thuốc Hố Bò.

– Dạ mấy chỗ đó cháu có biết hồi năm ngoái.

– Năm ngoái là hết vui rồi. Tao có nghe mấy thằng nhà báo vô quay phim. Còn cái gì mà quay. Chắc là ở trên cho nó quay ba đứa con gái dũng sĩ chớ gì.

Tôi hơi nhột trong bụng nên làm thinh. Lòng ủ ê chán chường không phấn khởi nôn nao như hồi còn lội Trường Sơn.

Chín Nữa bảo:

– Mày nên móc gia đình sớm sớm đi! Không nên chần chờ một ngày nào. Nhớ… – Chín Nữa lại ngó quanh rồi nói – Nhớ đừng có cho ai biết em mày làm đại úy nghe chưa?

– Dạ!

– Con nhỏ này thì cũng được, chỉ hơi dốt chút thôi! Ối mà mày cũng đừng nên bắt chước lấy vợ hay chữ như tao. Về nhà nó biểu gì cũng phải nghe.

– Dạ, cháu đâu có định gì. Chân ướt chân ráo mới xuống đây được má Hai nhận làm con nuôi để lấp khoảng trống đứa con bị tử trận hồi 46 khi đánh đồn Bến Súc.

– Xí! Mấy thằng cha Tô Ký Hai Bứa ngông cuồng đào hầm không tới đâu lại đánh làm chết lính.

– Tôi nhớ bà ngoại với cậu Tám tôi quá trời.

– Bà ngoại và cậu Tám đều qua đời hết rồi! Chết nhiều lắm! Tao không muốn kể ra. Rồi cũng chẳng làm gì. Tới phiên mình. Sợ không toàn thây, không mồ mã, không cả hương khói.

Chín Nữa nói phăng phăng như nước chảy, lúc nghiêm trang, lúc cà rởn, nhưng xuyên qua câu chuyện tôi nhận thấy một sự chua chát, tiếc rẻ.

– Bây giờ mày về được gặp lại má mày thì chẳng khác nào bà ngoại mày vậy. Bả giống y bà ngoại chẳng khác một nét nào.

Các cậu đi quán lo đồ nhậu tới. Ông Bính đã cho trải đệm và lá chuối thành một mâm dài ở giữa chuồng trâu. Tất cả mồi và rượu dọn ra. Một chú bé vô nhà mượn mấy cái ly cối.

Chín Nữa ra góc chuồng trâu hái một vốc ớt hiểm đem vô vừa ngồi vừa nói:

– Mời hết nam phụ lão ấu xáp vô . Nó chơi phản lực mình cũng phải nhậu phản lực. Lơ mơ không kịp đó: Đứa nào giỏi giò chạy vô kêu con xã đội với hai đứa kiện tướng ra đây nhậu luôn. Tụi con gái này coi bộ mạnh dạn hơn lính của tao.

Ba cô con gái kéo ra. Ông Bính bảo:

– Ưng đứa nào thì ngồi gần đứa nấy!

– Tui chẳng ưng ai hết.

– Ừ hổng ưng thì ở vậy, chết không biết mùi đời.

– Hổng ưng mơi mốt kiếm không ra con trai phải quơ đàn ông ba bốn lửa cho coi.

– Đại đội đông như vầy, có ba đứa sao đủ?

– Đứa nào chịu thì cho tuyên bố trước.

– Lấy cái chuồng trâu này bao ni-lông động phòng luôn.

Vừa ăn vừa nói vừa uống. Mạnh ai nấy nói nấy ăn nấy uống. Không mời ai, không ai nhường ai và không ai nghe ai. Có thể một trái 175 ly rơi giữa mâm là quân dân bay như bụi. Chuyện đó đã xảy ra ở Củ Chi này rồi.

– Sao gọi là kiện tướng mà không gọi là dũng sĩ.

Bính Chân Lư buột miệng hỏi.

– Dũng sĩ là khi nào bắn chết năm thằng lính Mỹ. Còn kiện tướng thì chỉ đào đất giỏi thôi.

-Vậy chị em bây có đứa nào được đeo huy chương kiện tướng chưa?

Năm Biền đáp.

– Được rồi! Cả hai chị em tôi.

– Kiện tướng thiệt hay giả ? Đừng có làm kiện tướng kiểu con Chín Nhan ở bên Lộc Thuận xứ Trảng Bàng nghe.

Sáu Trong trỏ tay qua phía bên kia bờ suối:

– Nhà nó ở bên đó. Cái nhà ngói ló nóc trong lùm tre. Hổng biết kiện tướng đó ra ấp chiến lược Cầu Ván lập quán chưa?

Bính Chân Lư nói:

– Con nhỏ đó xúc được mấy ki đất mà lên chức kiện tướng? Đào hầm, móc địa đạo chớ có phải làm kẹo đậu phộng hay tráng bánh tráng đâu mà lên kiện tướng mau vậy?

Năm Biền nép vào vai cô xã đội cười sục sục:

– Vậy mà có người mê mới lạ chớ. Hồi trước tôi thấy chiều nào người ta cũng lội suối qua đó, xách nước tưới rau tưới cải dùm để có dịp nói chuyện với cô kiện tướng coi bộ mết lắm.

Chín Nữa cười:

– Người ta mê mết cái chỗ khác chớ phải mê cái kiện tướng hay sao.

Bính Chân Lư bị móc trúng hang cua nên ra miệng:

– Đó là công tác dân vận thôi mà. Hề hề… chớ tôi đâu có ý gì!

Sáu Trong cắt ngang:

– Tại sao dân lại giận bỏ ra tuốt ngoài ấp chiến lược Cầu Ván vậy?

– Tại sao ai biết tại sao, muốn biết thì phải hỏi cô xã đội kìa.

– Nếu tôi là người ta thì bây giờ chiều chiều tôi cũng lội qua suối chổng khu mà hú ra ấp chiến lược để cho cô ta động lòng mà quay về .

– Hồi nẵm thì tôi còn dám chớ bây giờ qua đó lớ huớ là bị cá nhái xúc về Đồng Dù ngay.

Năm Biền vẫn chưa buông tha:

– Anh Bính có nhắc gì chị Bính, ủa chị Chín, tôi chịu khó đi ra Cầu Ván nói dùm cho chớ để bây giờ tôi thấy anh cứ đứng bên bụi ớt ngó qua bên kia suối hoài hà ! Tôi sợ cây ớt giống của tôi rụng hết trái!

– Không có rụng đâu! Ớt đó sẽ trở nên ngọt ngay như đường phèn vậy. Phải không ông Bí… inh?

Bị Chín Nữa bao vây, Bính bèn phá vòng vây bằng cách xoay lại chị em Năm Biền:

– Mất mục tiêu xa, tôi quay họng súng tấn công mục tiêu gần đó.

Mọi người cười ngã nghiêng, chị em Năm Biền bị pháo bất ngờ, lúng túng. Bính tiếp:

– Tôi oánh luôn cả hai đồn một lúc cho mà coi.

Cả mâm rượu la ầm lên khoái chí, vì thủ trưởng của mình chuyển từ thế thủ sang thế tấn công. Bỗng cô xã đội kêu lên:

– Cái gì đen thui trong tép mỡ vầy nè?

– Đâu, cái gì đen thui?

Là giơ miếng tép mỡ lên. Chín Nữa không nhìn nhưng vẫn nói:

– Đó là ba cái lông heo chớ gì. Cứ việc nuốt càn đi. Miểng bom trong cơm tao ăn còn không mắc cổ, sá gì ba cái thứ lông đó.

Tôi quay sang hỏi Chín Nữa:

– Năm ngoái tôi về Củ Chi lần đầu, tôi cũng có nghe đồn cô kiện tướng Chín Nhan. Cô ta là ai vậy dượng?

Chín Nữa đang nhai tép mỡ bèn trỏ tay sang Là. Là háy tôi rồi nói:

– Anh muốn biết sao không hỏi bà Nhã Nam hồi nãy? Em kể tiểu sử vắn tắt của cổ cho anh nghe. Ngồi cho vững để khỏi té ngửa. Cô ta bán quán. Lúc đó trường tân binh của ông Hai Chòi và ông ba Râu đóng gần quán của cổ.

Chín Nữa xen vào:

– Cũng dân mùa thu của mày.

– Cô Nhan đi mua đồ ngoài thị trấn về bán. Nhờ đám tân binh mà bà má của cổ làm giàu nhấp nháy. Bả có ý định bắt rể một trong hai ông mùa thu quá lửa này. .

Bính thêm:

– Phải nói thế này mới đúng dư luận. Trường Tân Binh đó là nơi chiêu tập thanh thiếu niên từ 15-16 đến 19-20. Lớp 19-20 thì R bắt hết để bổ sung cho hai công trường 5 và 9 của ông Sáu Khâm và ông Năm Truyện. Còn lớp 15-16 thì bỏ lại cho khu mình dùng. Con nít mới lớn lên không vác nổi thùng đạn đại liên, ra trận thì không dám ngóc đầu lên, còn đi tải gạo, ba chục lít đã thở hò he. Do đó tụi tôi gọi là lính cò mửa và cho về nhà hết rồi.

Chín Nữa cười:

– Ông nói sự lích tại sao người ta nói Q Hai Chòi kìa.

Tôi nghĩ thầm: lại cũng chữ “Q” của ông Bảy Rừng Sát nữa rồi. Bính tiếp:

– Đó là bí hiệu kiểu H5, H6, nên trường của Hai Chòi mang tên Q1, trường ông Ba Râu mang tên Q2 và do sự muốn bắt rể của má cô Nhan mà bà con chế diễu rằng má cô Nhan muốn bắt Ql lẫn Q2. – Bính gật gù thích thú – Hai chàng Sơn Tinh lẫn Thủy Tinh đua nhau thi tài nhưng rốt cuộc nàng Công Chúa lại dông ra ấp chiến lược theo lính Quốc Gia.

– Tại sao vậy? – Tôi hỏi.

– Tại vì lúc đó ông Hai Tốt Trưởng ban Tài chánh của khu ẵm cả chục triệu nhảy ra Sài gòn. Ở trong này lính đói. Lính đói thì hà hà, Q3, Q4, QIO cũng teo nữa là Ql, Q2. Bà quán thấy không nên để cho cô con gái kiện tướng mình phí sức rót trà châm rượu cho Sơn Tinh Thủy Tinh nữa nên bay ra thành tìm Sơn Tinh Thủy Tinh Quốc Gia. Bởi vậy nên bây giờ Hai Chòi thì dẹp Chòi còn Ba Râu thì rụng râu.

-Ông kể chắc còn thiếu ! – Là đâm hơi – Phải chi ông nghe bài báo của nhà báo trứ danh Nhã Nam phát thanh trên đài Giải Phóng kìa mới đã đời. Bài đó tên là Kiện tướng Áo Hồng nghe mà rùng mình rỡn ốc. Tiểu đoàn 14 Tây Ninh bảo là Kiện tướng thổi phồng. Chuyện Q hai Chòi và Q Ba Râu dài lắm. Nhưng tôi chỉ nhắc thêm một điểm nữa thôi. Đó là thanh niên thanh nữ vô trường, học thì ít mà bắt cặp nhau giỡn hớt thì nhiều. Cho nên dân không để ở trong nhà. Họ phải kéo ra đóng trại ngoài rừng Lộc Thuận. Họ khuyến khích bà con ở vùng Cỏ Ống và Rừng Tre đào địa đạo theo kiểu kiện tướng Chín Nhan. Tức là đào cạn xều. Chỉ một trận mưa là sụp tiêu hết.

– Hầm gì dễ sụp vậy? – Tôi gặn hỏi.

– Hồi nãy em đã nói rồi. Cái gáy hầm phải dầy ít nhất là chín tấc hoặc một thước. Nhưng tụi lính cò mửa chỉ đào 6-7 tấc là trổ ngang. Chỉ mưa một trận lớn, nước ngấm là sụp tuốt không cần gì phải xe tăng càn.

Thấy mặt trời đã xế qua, Là giục:

– Thôi đi về, anh Hai! Mình về còn phải ghé qua thằng Tư Ếch bàn chuyện hầm hố. Mấy đứa này trốn công tác, chui kỹ như ếch, phải moi dữ mới ra. Do đó em phải tìm lâu lắm mới được. Anh coi, một cái hầm quan trọng như vậy một mình em đào sao thấu.

Năm Biền nói:

– Hồi trước chỉ là kiện tướng đứng miệng thí, kéo hai trăm ki . (ki chứ không phải kí, mỗi ki nặng chừng ba chục kí). Bây giờ chỉ bị cụp xương sống nên không đứng nổi mà cũng không đào nổi nữa.