Tân ôn là gì

Thuốc Giải biểu có thể chia làm hai loại lớn, một là tân ôn giải biểu, một là tân lương giải biểu.

  • Thuốc phát tán phong hàn phần nhiều thuộc tân ôn. Do đặc tính của các vị thuốc khác nhau, cho nên điều trị bộ phận và vị trí của tật bệnh cũng có chỗ khác nhau, xin tóm lại như sau :

Ma hoàng, Quế chi khứ hàn, nhưng lại thiên về phần lưng thuộc kinh Thái dương. Kinh giới cũng khứ hàn nhưng lại ở toàn thân không cố định ở chỗ nào. Ma hoàng dùng phối hợp với Quế chi có thể phát hãn [cho ra mồ hôi], Quế chi phối hợp với Bạch thược có thể chỉ hãn [cầm mồ hôi]. Tía tô phát tán phong hàn, thiên về phần khí ở phổi. Kinh giới phát tán phong hàn, thiên về phần vệ ở cơ biểu. Tân di chữa nhức đầu do ngoại cảm phong hàn gây nên, đồng thời có thể thông khí song sức thông khí mạnh hơn Tế tân. Trái lại thông khí toàn thân thì Tế tân mạnh hơn Tân di. Người bị thương hàn biểu thực không ra mồ hồi thì về mùa hạ phần nhiều dùng Hương nhu, mùa đông phần nhiều dùng Ma hoàng. Xích sanh liễu [liễu hoa đỏ] và Hồ tuy [hạt mùi] đều có thể thúc cho sởi mọc bung ra, có thể dùng để rửa ngoài.

  • Thuốc phát tán phong nhiệt. Phong nhiệt đều là tân lương [cay mát], song tác dụng nặng nhẹ và bộ phận vị trí đều có chỗ khác nhau, nay phân biệt như sau:

Tang diệp, Bạc hà đều là thuốc tán phong nhiệt ở vùng đầu, song sức Tang diệp yếu hơn Bạc hà. Tang diệp Cúc hoa thường cùng dùng với nhau. Cúc hoa thanh phong nhiệt ở đầu và toàn thần, sức thanh can [mát gan] tương đối mạnh, còn sức giải biểu của Tang diệp mạnh hơn. Thăng ma với Cát căn đều tán được nhiệt tà ở vùng cơ nhục thuộc kinh Dương minh, Cát căn đi ngang mà đạt tới tà, Thăng ma đi lên mà thấu suốt được tà. Thăng ma, Sài hồ đều khinh thanh [nhẹ mát] đi lên, nhưng Sài hồ tuyên thông kinh Thiếu dương bán biểu bán lý, sơ giải được ức uất trở ngại ở can đởm. Thăng ma tuyên phát kinh Dương minh ở cơ nhục, thăng đề được uất kết của tỳ vị. Thương nhĩ tử chữa nhức đần thiên về phong nhiệt, phần nhiều giúp sức Bạc hà phát tán. Chất Thuyền thuế rất nhẹ, lợi dụng chất nhẹ đó để tán phong tà, có thể giúp cho hiệu quả điều trị của thuốc phát hãn khác, đặc biệt là càng hay đối với phong tà cảm nhiễm vào vết thương, gây nên co cứng [phá thương phong phát kính].

Khi dùng thuốc giải biểu cần chú ý:

  • Người vốn cơ thể hư nhược, khí huyết bất túc, khi bị ngoại cảm cần phải giải biểu, nên phối hợp thích đáng với thuốc bổ dưỡng để phù trợ chính khí trừ khứ tà khí [phù chính khứ tà].
  • Thuốc giải biểu khi khỏi bệnh thì thôi. Không được sử dụng quá liều lượng dễ xảy ra mồ hôi ra quá nhiều bị vong dương.
  • Thời tiết xuân hè ấm nóng, tấu lý [lỗ chân lông] bị rỗng rão, mồ hôi dễ ra, liều lượng sử dụng thuốc giải biểu nên giảm bớt. Thời tiết Thu đông mát lạnh, tẩu lý vít kín, khó ra mồ hôi, liều lượng sử dụng thuốc gỉải biểu nên nặng hơn xuân hè.
  • Khi dùng thuốc giải biểu nên phân biệt kỹ lưỡng cẩn thận, rút cuộc là thuộc về phong hàn hay về phong nhiệt. Chứng ở biểu thuộc phong nhiệt không được dùng thuốc tân ôn giải biểu, nếu không sẽ hao tổn tân dịch, khiến bệnh tình xấu đi. Chứng ở biểu thuộc phong hàn thì lại phải dùng thuốc tân ôn giải biểu mới phát tán được phong hàn.

Tweet Pin It

Video liên quan

Chủ Đề