Quá trình chuyển biến từ vượn thành người diễn ra như thế nào

QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN TỪ VƯỢN THÀNH NGƯỜI TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [144.45 KB, 16 trang ]

TRƯỜNG: ĐẠI HỌC KHXH&NV
KHOA: LỊCH SỬ
BÀI GIỮA KỲ
BÀI GIỮA KỲ
MÔN: KHẢO CỔ HỌC
MÔN: KHẢO CỔ HỌC
Đề bài: QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN TỪ VƯỢN THÀNH NGƯỜI TRÊN
THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

DẪN LUẬN
Đó có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc loài người. Ngay từ thời xa
xưa [thời nguyen thuỷ], khi có những nhận thức nhất định con người đó đặt ra
những câu hỏi “con người do đâu mà có?”. và cũng từ thời xa xưa đó con người
đó đi tìm câu trả lời cho câu hỏi đó. sự quan tâm của loài người tới nguồn gốc
của mình được thể hiện qua rất nhiều truyền thuyết, truyện cổ tích về sự sáng tạo
thế giới mà bất cứ một dân tộc nào cũng có. Người Trung Quốc cổ cho rằng Bà
Nữ Oa dùng bùn vàng nặn ra con người và thổi linh hồn vào đó. người Việt giải
thích nguồn gốc của mình là “con Rồng, cháu Tiên”. Còn kinh thánh của đạo
Kitô giáo thì lại cho rằng đức Chúa Trời đó dựng đất sột nặn thành người đàn
ông và lấy xương sườn người đàn ông để nặn thành người đàn bà…
Có thể thấy điểm chung ở của các truyền thuyết, huyền thoại của các dân
tộc, tôn giáo khi giải thích về nguồn gốc của loài người thì đều quy công sáng
tạo cho các đấng thần linh, các lực lượng siêu nhiên.
Các học giả duy tâm phản động đã và đang nêu ra nhiều học thuyết phản
khoa học về nguồn gốc loài nguời. Tuy mang nhiều mầu sắc khác nhau nhưng
thực chất của các tôn giáo đó không khác xa tôn giáo là bao nhiêu.
Các nhà duy vật tiến bộ từ lâu đó tiến hành đấu tranh không khoan
nhượng chống lại các thế giới quan tôn giáo duy tâm phản động về nguồn gốc
con người. Kết quả nghiên cứu về con người ngày càng chứng tỏ, sự ra đời của
con người là kết quả của cả một quá trình tiến hóa liên tục, lâu dài và rất phức
tạp của thế giới sinh vật.


Từ trước công nguyên các nhà triết học duy vật đó nhận thấy giữa con
người và cỏc động vật, nhất là động vật bậc cao có rất nghiều điểm giống nhau
như: cấu tạo hệ cơ bắp, hệ thần kinh, tuần hoàn và cả sinh sản. Vì vậy họp đặt
vấn đề đi tìm kiếm và chứng minh nguồn gốc loài người từ động vật, tuy nhiên
họ vẫn chưa biết con người xuất hiện trên trời đất như thế nào.
Đến thế kỷ XVIII, dựa trờn nhiều tài liệu về động vật học mới được tích
luỹ, nhà sinh vật học Thuỵ Điển Lin noo đó tiến hành phân loại động vật. Năm

1758 trong tác phẩm “Hệ thống tự nhiên” Lin noo đó xếp vào bộ linh trưởng
chung với kỉ vượn, vượn cáo. Chính Lin noo đó đặt tên Homo cho giống người.
Tuy chưa thoát khỏi quan niệm bất biến về giống loài, nhưng Lin noo thật
sự là người đầu tiên tiến hành phân loại và xếp con người và bảng phân loại sinh
giới.
Năm 1809 La Mỏc đó công bố cuốn “Triết học động vật”, trong đó vạch
rừ các động vật cao đẳng phát sinh từ động vật hạ đẳng và loài người có nguồn
gốc từ loài vượn người. Nhưng La Mac chưa đưa ra được cac bằng chứng khoa
học cụ thể.
Nhà sinh vật học Charles Darwin là người thục sự tạo bước ngoặt vĩ đại
trong tư duy nghiên cứu về nguồn gốc loài người. Đac-uyn đó chứng minh rằng
loài người có nguồn gốc từ loài vượn người hoỏ thạch đó bị tiêu diệt chứ không
phải do Thượng đế tạo ra. Và theo Đac uyn thì người khác khỉ,vượn ở bốn điểm:
Đi bằng hai chân, có khả năng kỹ thuật, nêo lên và phức tạp, răng nanh tiêu
giảm đáng kể.
Trong bộ linh trưởng, các giống vượn người có nhiều điểm giống người
hơn cả. hiện còn bốn giống vượn người hiện đại như: Hắc tinh tinh
[Chimpanzộ], Khỉ đột [Gorilla], Vượn tay dài [Gipbon] và Đười ươi
[Orangoutan].
- Hắc tinh tinh [Chimpanzộ]: Chủ yếu sống ở lưu vực sụng Công Gô và
Nigiơ, Chimpazộ có cấu tạo cơ thể giống người hơn cả. Hắc tinh tinh cao
khoảng 150cm, nặng 50kg, dung tích hộp sọ khoảng 350cm

3
đến 500cm
3.
- Khỉ đột [Gorilla]: Sống ở vựng xớch đạo Châu Phi,cao 200cm, nặng 200
kg. Thể tích hộp sọ khoảng 400cm
3
đến 450cm
3
. Được coi là một trong những
loài vượn người thông minh. Trong hoạt động kiếm sống cũng như trong hoạt
động sinh hoạt nú thường có những biểu lộ những trạng thái vui, buồn, giận
giữ…
- Vượn tay dài [Gipbon]: sống ở Đông Dương [ở Việt Nam cũng có loài
vuợn này]. Nó có chi trước rất dài, cao khoảng 100cm, nặng gần 100kg, dung
tích úc từ 100 cm
3
đến 150cm
3
.

- Đười ươi [Orangutan]: chỉ có mặt ở đảo Ka-li-mang-tan và đảo Su-ma-
tơ-ra. Nó rất lớn, cao tới 150cm, nặng từ 100kg đến 200kg, dung tích hộp sọ
khoảng 300cm
3
đến 500cm
3
Cả bốn giống vượn người nay đều có những đặc điểm giống nhau, khiến
chúng khác với khỉ vượn hạ đẳng và gần gũi với người hơn. Tuy nhiên chúng
không phải là tổ tiên trực tiếp của loài người mà chỉ là một nhánh trên con
đường tiến hóa đó đi chệch ra khỏi quỹ đạo với loài người. Những loài vượn

người này hiện nay đó hoàn toàn thích nghi với điều kiện tự nhiên, môi trường
mà nó sinh sống và nó không có khả năng tiến hóa thành người được nữa.
Như vậy cú thể khẳng định loài người chúng ta không phải phát sinh từ
giống vượn người hiện đại. Theo kết quả nghiên cứu cho tới nay, thì loài người
đó phát sinh từ một loài vươn cổ hóa thạch đó bị tiêu diệt. Tuy nhiên do vượn
người hiện đại ngày nay có nhiều đặc điểm gần gũi với người nên muốn nghiên
cứu, tìm hiểu về nguồn gốc của loài người thì phải tìm hiểu và nghiên cứu
những hóa thạch của vượn người và người vượn. Do vậy chúng ta có thể phác
dựng lại quá trình phát sinh, phát triển của loài người.

NỘI DUNG
I. Quá trình chuyển biến từ vượn thành người trên thế giới
1. vượn cổ
Ở chặng đầu của quá trình có một loài vượn cổ, mà hóa thạch của nó được
các nhà khoa học phát hiện ở Phay Um ở Ai Cập vào năm 1934 là một minh
chứng. Tại đây trong lớp đất có niên đại khoảng 27 triệu năm người ta đó phát
hiện được một hóa thạch của một loài vượn ăn sâu bọ, có trọng lượng cơ thể
tương đương với một con mốo. Các nhà khoa học đặt tên cho nó là Pa-ra-pi-tec
[Parapithecus fraasi Schlosser]. Đây được xem là loài vượn cổ xa xưa nhất, có ớt
điểm giống người nhất. Theo dự đoán của các nhà khoa học thì đây là loài vượn
cổ đi trên con đường tiến hóa thành người.
Cũng tại Phay Um, nhưng dưới một lớp đất khác [có niên đại khoang 20
triệu năm] người ta đó phát hiện được hóa thạch của một loài vượn cổ khác có
kích thước lớn hơn, tương đương một con chú. Các nhà khoa học đó dặt tên nó
là pro-pli-ụ-pi-tec [propliopithecus haeckeli Schlosser].
Từ hai loài vượn cổ này có thể thấy loài vượn cổ đó tiến hóa theo con
đường tăng dần về kích thước và trọng lượng cơ thể. Và cũng từ hai giống vượn
cổ này các nhà khoa học đó tìm ra được mắt xích trả lời đó là dấu tích của loài
vượn khác có kích thước lớn hơn rất nhiều. Đó là Đriụ ờ pi tec [Driopithetec], có
niên đại cách ngày này từ 10 đến 20 triệu năm. Khi nghiên cưu xương và răng

của của loài vượn này các nhà khoa học cho rằng đây là tổ tiên xa xưa nhất của
các giống vượn người hiện đại.
Năm 1937 tại ngọn đồi Xi-va-lich của Ấn Độn người ta tìm thấy hóa
thạch của một loài vượn người mà răng và xương của nó có nhiều điểm giống
người hơn cả. Người ta đặt tên cho nó là Ra-ma-pi-tec có niên đại cách ngày nay
khoảng 14 triệu năm. Vì vậy Ra-ma-pi-tec được coi la đại diện nguyên thuỷ nhất
của họ Người [Homonidae].
2. Vượn người
Ngay từ những năm đầu của thế kỉ XX, trên phần lục địa của Châu Phi
người ta đó phát hiện được hóa thạch của một loài vuợn có hình dông giống

người. Nghĩa là nó di chuyển bằng 2 chi sau. Người phát hiện hóa thạch đầu tiên
là nhà khoa học người Anh tên là Đâc. ễng đó đặt tên cho hóa thạch đó là
ễxtralụpitec [Autralopithecus] hay còn được gọi là “vượn người phương Nam”,
sống cách đay 5 triệu năm. Qua nghiên cứu các nhà khoa học cho rằng “vượn
người phương Nam” thích nghi với tư thế đứng thẳng trên mặt đất và sử dụng
công cụ thợ sơ sẵn có trong tự nhiên [hòn đã, mảnh xương, cánh cây…].
Căn cứ vào hình thái các nhà khoa học đó chia “vượn người phương
Nam’’ thành hai nhóm chính:
- Nhúm thứ nhất [Robustus]: nhóm này có tầm vúc to khỏe như:
Australobusrus, Australopithecusboisei….Chung sống chủ yếu ở Đông và Nam
Phi. Chúng có niên đại từ 2 triệu năm đến 3 triệu năm, chiều cao khoảng 150cm
đến 160cm, nặng trên 50kg. Thể tớch hộp sọ từ 450 cm
3
đến 750 cm
3
. Bắp thịt ở
cổ rất khỏe, răng hàm to và men dày, chứng tỏ chúng sống chủ yếu bằng thức ăn
thực vật. Tuy nhiên nhóm này đó biến mất cách đây 1 triệu năm.
- Nhóm thứ hai [Gracilis]. Nhúm này có thân hình nhỏ bộ, thanh mảnh

sống chủ yếu ở Nam Phi, chúng có niên đại cách ngày nay khoảng 3 triệu năm
đến 5 triệu năm. Cao 120 cm, nặng khoảng 30 kg, hộp sọ nhỏ, trên hẹp và hàm
nhụ về phía trước như mừm khỉ. Răng cửa, răng nanh sắc nhọn và dài, có thể
cắn xộ thịt dễ dàng. chứng tỏ chúng là loài ăn tạp. Nhóm này được các nhà cổ
sinh vật học xếp vào tổ tiên trực tiếp của loài người.
3. Người vượn
Sau vượn người Phương Nam các nhà khoa học đó tim thấy di cốt hóa
thạch của con người thực sự - “người chế tạo công cụ”. Đó là người “tiền Đông
Phi”.
Phát hiện làm chấn động giới cổ nhân học và giới khảo cổ học của hai vợ
chồng nhà Li ky [L.S.B.Leakey] vào năm 1960, 1962, 1963 ở thung lũng ễn- đu-
vai thuộc nước Tan da ni a [Đông Phi] và được đặt tên là người “khôo lộo”
[Homohabilis]. Theo Liky và một số nhà khoa học khác, người “khộo lộo” có
thể tích hộp sọ khoảng 675 cm
3
đến 680 cm
3
, lớn hơn vượn người phương Nam

Loài người có nguồn gốc từ đâu?

Mọi người thường truyền tai nhau rằng, tổ tiên của chúng ta là loài vượn cổ. Vậy thực hư mọi chuyện là như thế nào?

Theo khoa học: con người bắt nguồn từ loài vượn cổ. Có 03 loại hình cơ bản mà con người đã tiến hóa thành là:

Theo Đạo Phật: Khi con khỉ chết, nghiệp lực của con khỉ sẽ luân hồi tái sanh thành con người. Từ con người “Cổ Sơ” sống đơn giản, dựa vào thiên nhiên. Thiên nhiên thay đổi nên con người buộc phải tiến hoá dần để bảo vệ sự sống của mình.

Theo Thiên Chúa Giáo: Vạn vật trên đời đều do Thiên Chúa tạo ra từ trời đất cho đến con người. Thiên Chúa đã nắn một hình Người từ bụi đất theo hình ảnh của Ngài, hình ảnh một người đàn ông được đặt tên là Adam. Sau đó, Ngài lấy xương sườn của Adam để tạo hình thành 01 người phụ nữ và đặt tên là Eva.

Video liên quan

Chủ Đề