Nội dung cơ bản trong xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng an ninh

CNQP&KT - Kế thừa truyền thống dựng nước, giữ nước và từ thực tiễn của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Đại hội đảng lần thứ XIII nêu định hướng: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”1.

Có thể nói, định hướng của Đảng là luận điểm hết sức quan trọng, thể hiện quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta, nhằm tiếp tục tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cả trước mắt và lâu dài.

Nhìn lại 35 năm đổi mới và trong nhiệm kỳ Đại hội XII, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung, tiềm lực và thế trận quốc phòng nói riêng, đã đạt được mục tiêu “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc... giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”2. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm được củng cố vững chắc3. Quốc phòng, an ninh [QP-AN] chiếm vị trí hết sức quan trọng trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế, xã hội [KT-XH] ở từng địa phương và trên cả nước. Thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư [Cách mạng 4.0] đã được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, trong phát triển nền khoa học quân sự và ngành Công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng. Lực lượng vũ trang [LLVT] được chú trọng phát triển toàn diện, lấy chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu; được trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật ngày càng hiện đại, nâng cao khả năng tác chiến bảo vệ biển, đảo, biên giới và an ninh an toàn mạng, phòng, chống “diễn biến hòa bình”; tổ chức, biên chế của Quân đội được điều chỉnh theo hướng “tinh, gọn, mạnh”. Đồng thời, thế trận quốc phòng toàn dân đã gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân; thế bố trí chiến lược của các lực lượng đã được điều chỉnh hợp lý hơn. Sự gắn kết giữa QP-AN với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại ngày càng chặt chẽ; chất lượng xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, khả năng phòng thủ quốc gia được nâng cao. Thế bố trí chiến lược QP-AN được quy hoạch, điều chỉnh phù hợp với chiến lược phát triển KT-XH, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”.

 [Nguồn: Văn kiện Đại hội  XIII của Đảng]

Đạt được kết quả nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó vấn đề cơ bản là quyết sách đúng đắn, sáng suốt của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó LLVT là nòng cốt. Trong tổ chức thực hiện, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã có những bước đột phá quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; chú trọng những địa bàn có tính chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo và trên không gian mạng... Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nhận thức của một số cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhiệm vụ tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng còn hạn chế. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện có nơi hiệu quả thấp. Kết hợp giữa thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân; giữa phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN, trên một số địa bàn, lĩnh vực thiếu vững chắc. Đầu tư cơ sở vật chất cho xây dựng thế trận, khu vực phòng thủ, phát triển khoa học - công nghệ chưa thật vững chắc...


Lực lượng vũ trang thành phố Cần Thơ thực hiện diễn tập khu vực phòng thủ. Ảnh: CTV

Từ thực tiễn nêu trên, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, đồng thời kết hợp với sức mạnh thời đại”4; “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”5. Để thực hiện thắng lợi quan điểm Đại hội XIII xác định, theo chúng tôi cần chú trọng thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức vai trò, vị trí, tính tất yếu khách quan phải tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Tiềm lực và thế trận quốc phòng là hai thành tố chủ yếu trong nền quốc phòng toàn dân, là yếu tố cơ bản để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì thế vấn đề này phải được nhận thức sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Mặc dù đạt được kết quả quan trọng cả về nhận thức và tổ chức thực hiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều mặt hạn chế mà Đại hội XIII đã chỉ rõ: “còn biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác, nặng về lợi ích kinh tế đơn thuần, trước mắt”6. Đó có thể coi là khuyết điểm căn bản làm giảm hiệu quả xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng. Vì thế, thời gian tới, trên cơ sở thấu suốt quan điểm: “Phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; củng cố quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên; văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội”7 cần tăng cường tuyên truyền giáo dục, phát huy hiệu quả các phương tiện truyền thông và vai trò của lực lượng chuyên trách, trước hết là trong cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, các thành phần, lực lượng là biện pháp căn bản, hàng đầu để thống nhất nhận thức và hành động, làm tốt vấn đề này sẽ góp phần khắc phục những nhận thức lệch lạc mà Đại hội XIII đã chỉ ra.

Tiềm lực và thế trận quốc phòng là 2 thành tố chủ yếu trong nền quốc phòng toàn dân, là yếu tố cơ bản để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì thế vấn đề này phải được nhận thức sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân.

Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh…”8. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện giải pháp này đòi hỏi các bộ, ban, ngành Trung ương, địa phương cần phải thấu suốt, quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, không coi nhẹ tiềm lực nào và điều quan trọng là phải hết sức nghiêm túc, chặt chẽ, tránh mọi biểu hiện phô trương, hình thức ở tất cả các địa phương, vùng miền, chú trọng hơn địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo.

Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Những năm qua, việc bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách đã tháo gỡ không ít khó khăn, vướng mắc, khắc phục được nhiều hạn chế, thiếu sót trong quá trình thực hiện, nhất là ở địa bàn trọng yếu, biên giới, biển, đảo, vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, tình hình mới đang đặt ra rất nhiều nội dung cần phải bổ sung cho phù hợp thực tiễn. Thực hiện vấn đề này, cần quán triệt quan điểm của Đảng trong xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách theo hướng tinh, gọn, tránh chồng chéo, rườm rà, nhưng lại phải hết sức chặt chẽ, đồng bộ và điều quan trọng là không làm cản trở, gây phức tạp, khó khăn cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng. Việc bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách không chỉ căn cứ vào thực tiễn mà còn phải căn cứ mục tiêu, chỉ tiêu và những định hướng lớn trong Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm [2021- 2030] và Kế hoạch 5 năm [2021-2025] mà Đại hội Đảng đề ra, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa Trung ương, địa phương và giữa các ngành, các cấp.

Thứ tư, phát huy vai trò nòng cốt của LLVT trong tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng.

Mặc dù tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nhưng LLVT giữ vai trò nòng cốt để vừa bảo đảm phát triển KT-XH, giữ vững ổn định chính trị vừa tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng. Vì thế, cần phát huy đầy đủ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của LLVT, nhất là Quân đội trong tham mưu, đề xuất chủ trương, giải pháp, tổ chức thực hiện; bảo đảm không chỉ giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, mà còn để phát triển KT-XH trên phạm vi cả nước và từng địa bàn. Thường xuyên nghiên cứu, kịp thời tham mưu trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác quốc phòng địa phương, triển khai hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, đề án QP-AN; tham mưu xây dựng các công trình chiến đấu theo kế hoạch phòng thủ, nhất là tuyến biên giới, tuyến biển; phát huy vai trò “đội quân công tác” trên các địa bàn trọng điểm, phức tạp, giúp dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.

Thứ năm, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng.

Nghị quyết 22-NQ/TW về Hội nhập quốc tế, Nghị quyết 806-NQ/TW của Quân ủy Trung ương về “Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng” đã chỉ rõ quan điểm và những định hướng cơ bản để nâng tầm đối ngoại; đồng thời, văn kiện Đại hội XIII tiếp tục nhấn mạnh “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”9. Để tranh thủ sức mạnh quốc tế, quốc phòng Việt Nam cần thể hiện rõ tính chính nghĩa, xác lập lòng tin chiến lược và thực hiện đầy đủ cam kết và tuân thủ luật pháp quốc tế nhằm tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

Tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là chủ trương lớn, có ý nghĩa chiến lược, là kết quả của việc tổng kết sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng về củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc qua 35 năm đổi mới; 30 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và qua 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Việc quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng trong văn kiện Đại hội XIII sẽ là cơ sở quan trọng để thực hiện các giải pháp nhằm tăng cường tiềm lực và thế trận quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

Đại tá, ThS. LÊ HÙNG SƠN

Viện Chiến lược Quốc phòng

____________________

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tập I, Nxb CTQGST, năm 2021,  tr 157.

2, 3, 4. Sđd. tr.68

5. Sđd,  tr. 157.

6. Sđd, tr. 88.

7. Sđd, tr. 33.

8. Sđd, tr. 160.

9. Sđd, tr. 162.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề