Việc làm nào sau đây không góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

      Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là một nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển Kinh tế- xã hội. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong báo cáo chính trị của đại hội IX không chỉ là khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng trong việc đẩy mạnh, cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế mà còn là sự đánh dấu giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới, một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Những khó khăn, hạn chế trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.

Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009.
  • Hội đồng biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004.
  • ThS. Trương Ngọc Thơi, Bồi dưỡng học sinh giỏi lịch sử lớp 12, Nxb ĐHQG Hà Nội.
  • “Chỉ thị của BCH trung ương Đảng về kháng chiến – kiến quốc, ngày 25/11/1945”, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8 [tr. 21 – 34], Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

       Tại Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: “ Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trọng việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ cháp hành Hiến pháp và pháp luật.”

       Từ thực tiễn nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, có thể rút ra những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta như sau:

       Một là, đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhà nước.

       Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

       Ba là, Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thường trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

       Bốn là, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.

       Năm là, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

Mô hình nhà nước pháp quyền

Khó khăn gặp phải khi xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

       Hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã hun đúc nên nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, như truyền thống đoàn kết dân tộc, truyền thống yêu nước thương nòi, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau.. Việt Nam là đất nước đã trải qua hàng ngàn năm chế độ phong kiến, gần 100 năm dưới chế độ thuộc địa, lại tập trung vào cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và đang trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, tư tưởng phong kiến còn ảnh hưởng rất sâu đậm trong xã hội cũng như nhận thức, kinh nghiệm xây dựng hệ thống pháp luật và quản lý xã hội theo pháp luật của nước ta còn nhiều yếu kém. Một đặc điểm quan trọng trong điều hành xã hội ở nước ta là sự tồn tại song hành trên thực tế một dạng thức kép giữa những nguyên tắc quản lý xã hội được ghi thành văn bản với những nguyên tắc được quy ước và công nhận không thành văn bản. Các chuẩn mực về hoạt động và hành vi của con người không phải chỉ được quy định trong pháp luật mà còn trong rất nhiều quy ước, thông lệ, tập tục, tập quán, đạo đức, giáo lý…. Vai trò của luật pháp trong nhiều trường hợp lại không phải là chủ yếu. Bên cạnh luật lệ do địa phương làng, xã đặt ra và được ghi chép trong hương ước, con người với tư cách cá nhân còn bị ràng buộc bởi những phong tục, tập quán, lề thói khá nặng nề. Hành vi, cử chỉ của con người thường gắn bó chặt chẽ với những thang bảng của giá trị đạo đức xã hội hơn là với luật lệ. Trên thực tế, không ít trường hợp, người dân tôn trọng đạo đức hơn tôn trọng pháp luật.

       Đặc biệt, từ thế kỷ thứ X trở đi, Nho giáo có nguồn gốc Trung Hoa nhưng đã trở thành vũ khí để người Việt Nam chống lại sự xâm lược và đồng hóa, đồng thời nó cũng được các triều đại phong kiến Việt Nam sử dụng để tổ chức quản lý xã hội và xây dựng nhà nước độc lập, vì sự phát triển của dân tộc. Nho giáo du nhập vào Việt Nam không còn là Nho giáo nguyên thủy mà đã được cải biến phù hợp với truyền thống dân tộc và nhu cầu của đất nước để trở thành nhân tố của chính nền văn hóa và hệ tư tưởng thống trị ở Việt Nam. Cùng với bảo vệ quyền lực tuyệt đối của nhà vua và triều đình, các bộ luật phong kiến Việt Nam phản ánh rõ nét bản chất là công cụ bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị, bóc lột và đàn áp các giai cấp đối địch; được thể hiện ở nhiều quy định bất bình đẳng và bất công, như bảo vệ những nguồn thu nhập và bóc lột của Nhà nước, củng cố cơ sở kinh tế tập quyền, bộ máy quan liêu; đề cao quyền lực và thứ bậc xã hội; bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến, đặc quyền, đặc lợi của quan lại và tầng lớp quý tộc quan liêu; bảo vệ sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, quy định khắt khe đối với người phụ nữ. Một vấn đề nổi lên là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng: trong truyền thống do lịch sử để lại, quan hệ và lợi ích cộng đồng mang tính chi phối và bao trùm tất cả. Cá nhân chỉ được tôn trọng và bảo vệ khi tự ghép mình trong cộng đồng, tuân thủ nghiêm ngặt luật tục với nhiều đẳng cấp và cấp độ cộng đồng chồng xếp lên nhau. Con người cá nhân chưa bao giờ được coi là thực thể độc lập với quyền tồn tại và phát triển nhân cách của mình. Do sự phát triển của nhà nước và pháp luật phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn của Nho giáo, nên không phải pháp luật mà là đạo đức và phong tục, tập quán đóng vai trò thống trị trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Qua các chế độ phong kiến, thực dân, nhân dân lao động là người thực thi pháp luật nhưng chưa phải là tác giả của luật pháp; luật pháp cũ chỉ có lợi cho thực dân phong kiến. Mặt khác, tính cộng đồng [họ hàng, làng xóm, nghề nghiệp…] cũng thường tạo nên cách xử lý nặng về tình và nhẹ về lý [truyền thống đặt lý thấp hơn tình] cũng như pháp luật phong kiến [và cả pháp luật tư sản sau này] cho phép dựa vào đạo đức để che giấu bản chất giai cấp. Tư tưởng tôn ti, trật tự xã hội đẳng cấp nặng nề, phi dân chủ, thiếu pháp luật và pháp luật chưa nghiêm… là những khuyết tật phổ biến, hạn chế lớn đã và đang in đậm trong tâm lý, thói quen và cách nghĩ, cách làm người Việt Nam cũng như triết lý “có lý, có tình” như một tổng kết trong quản lý có lúc, có nơi đã mâu thuẫn với pháp chế, với lý tính. Tâm lý dân tộc từ ngàn năm nay gây không ít khó khăn để hình thành và phát triển một tinh thần pháp quyền trong xã hội. “Có thể dễ dàng nhận thấy sự thiếu hụt trong lịch sử hệ thống chính trị Việt Nam là tính chất pháp quyền của bộ máy nhà nước”[3].

       Ngày nay, các tàn dư tư tưởng và lề thói phong kiến tiểu nông vẫn tồn tại, đặc biệt là hai căn bệnh gia trưởng và thói tự do vô kỷ luật đã và đang cản trở quá trình đi lên sản xuất lớn, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

       Những tác động của bối cảnh hiện tại

       Trong những năm đầu triển khai đổi mới, việc quản lý xã hội trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được quan tâm thích đáng; còn nhiều vấn đề kinh tế – xã hội tồn tại từ lâu và mới nảy sinh cần được giải quyết tích cực và hiệu quả. Việc phân định rành mạch các chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động giữa Đảng và Nhà nước trong điều kiện Đảng lãnh đạo xã hội là một vấn đề phức tạp; chúng ta vẫn đang tìm tòi, thử nghiệm nhiều hơn là đạt được những kết quả thực tế. Trong bước ngoặt chuyển đổi, cơ chế quản lý xã hội mới đang hình thành, phát triển nhưng chưa hoàn thiện. Hệ thống quản lý hành chính, trật tự và đạo đức xã hội, xây dựng nền dân chủ và phát huy sức sáng tạo trong nhân dân còn nhiều tồn tại, hạn chế. Hệ thống chính sách, pháp luật, các công cụ quản lý chưa đạt hiệu quả cao. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước chưa phát huy hết năng lực quản lý và hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, nhiều khâu trung gian trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ; bất cập về trình độ, năng lực quản lý, kiến thức nghề nghiệp. Tổ chức và hoạt động còn nặng nề, chưa phân định tốt trách nhiệm, quyền hạn, sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan quyền lực; chưa bảo đảm tính độc lập tương đối của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; mối quan hệ phân cấp giữa trung ương và địa phương còn một số mặt chưa cụ thể. Các cơ quan dân cử chưa đủ thực quyền, hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan hành chính và chuyên môn còn thấp. Việc thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường đang đặt ra nhiều vấn đề cần được bổ sung, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan trong bộ máy nhà nước. Mặc dù có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của hệ thống hành pháp còn nhiều nhược điểm, nhiều mặt chưa đáp ứng và theo kịp yêu cầu phát triển của đất nước. Bộ máy nhà nước chưa thật sự trong sạch, vững mạnh; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn, hiệu lực quản lý điều hành chưa nghiêm; kỷ cương xã hội bị buông lỏng có khả năng làm lu mờ bản chất tốt đẹp của chế độ, làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ, vấn đề trật tự và kỷ luật đang là yếu kém của hệ thống chính trị.

       Công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta vẫn trong giai đoạn đầu, còn phải tiếp tục và thường xuyên hoàn thiện để pháp luật đáp ứng được sự phát triển của đời sống xã hội và nhu cầu tăng cường quản lý nhà nước. Nhiều lĩnh vực bức xúc của đời sống xã hội vẫn chưa có luật mà điều chỉnh chủ yếu bằng văn bản dưới luật, thậm chí chưa có văn bản dưới luật điều chỉnh. Hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Hệ thống pháp luật hiện hành chưa theo kịp và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bảo vệ các quyền tự do của con người, của công dân, cho quá trình hội nhập quốc tế và khu vực của nước ta. Trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, còn tình trạng vừa thiếu dân chủ vừa lỏng lẻo kỷ cương; vẫn còn có nơi, có lúc có biểu hiện coi thường pháp luật. Pháp luật chưa khẳng định mạnh mẽ vai trò là công cụ đắc lực của Nhà nước để quản lý xã hội, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân và đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật đang trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong cơ chế thị trường. Hiệu lực của pháp luật chưa được phát huy đầy đủ, hiệu quả trên các lĩnh vực quản lý còn thấp. Quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước còn bộc lộ không ít khuyết điểm, yếu kém; chưa ngang tầm với nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới và chưa đáp ứng yêu cầu hiện tại. Sự lạc hậu và những bất cập trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật đã tạo ra kẽ hở trong sản xuất, kinh doanh và các mặt hoạt động khác, làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực và vi phạm pháp luật và phần nào làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước.

       Ngoài ra, công cuộc đổi mới và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn gặp những lực cản khách quan, như mặt trái của cơ chế thị trường, bệnh quan liêu và tệ tham nhũng trong hệ thống chính trị, những ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến. Ngoài tác động tích cực, kinh tế thị trường cũng hàm chứa cả những mặt tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội, là nơi phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, tác động không nhỏ đến sự biến đổi của đạo đức theo chiều hướng xấu. Cơ chế thị trường đề cao giá trị của đồng tiền đã tác động mạnh đến các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, đạo đức của xã hội. Thực tế cho thấy, có nhiều mâu thuẫn giữa phát triển vật chất và suy thoái tinh thần, giữa kinh tế và đạo đức văn hóa xã hội. “Nguyên tắc tối đa hóa lợi ích cá nhân”, lấy lợi ích vật chất là hàng đầu, kinh tế thị trường đã và đang đẩy con người vào “vòng xoáy” của lợi nhuận, nảy sinh lối tư duy thực dụng, “kích thích” tính phi đạo lý, kiểu làm ăn gian dối, bất chấp dư luận xã hội, chà đạp lên luân lý, luật pháp, làm sai lệch các chuẩn mực đạo đức và đảo lộn bậc thang giá trị xã hội. Trong quá trình hội nhập quốc tế, hợp tác và giao lưu văn hóa với các nước, chúng ta tiếp thu được nhiều thành tựu văn minh nhân loại, làm phong phú nền văn hóa dân tộc; song cũng chịu ảnh hưởng của sự du nhập ngoại lai không lành mạnh. Hội nhập quốc tế cũng tạo ra những tác động tiêu cực đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của không ít người, trong đó có cả cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ.

       Tóm lại, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt ra nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu thiết kế phù hợp với đặc điểm, truyền thống dân tộc và trình độ phát triển của xã hội. Đặc biệt, phải gắn với việc bảo tồn, phát huy các giá trị và bản sắc văn hóa dân tộc, kết hợp truyền thống – hiện đại trong quản lý bao hàm cả xây dựng và cải tạo, gạn lọc kế thừa và phát huy trên tinh thần đổi mới; khắc phục những lực cản về tư tưởng, tâm lý, tập quán thói quen của quá khứ đối với sự phát triển, phù hợp yêu cầu của đất nước và thời đại để tạo nên sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn trong quản lý xã hội, góp phần đẩy nhanh tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân./.

Những hạn chế yếu kém của mô hình nhà nước Pháp Quyền.

       Xuất phát điểm về kinh tế – xã hội thấp cùng những ảnh hưởng nặng nề của cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, bao cấp áp dụng trong một thời gian dài đã tác động không nhỏ đến quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước XHCN ở Việt Nam. Việc tìm tòi, xây dựng một mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong điều kiện nêu trên là một vấn đề rất khó khăn, hơn nữa đây còn là vấn đề mới về lý luận, chưa có tiền lệ trên thế giới, đòi hỏi sự tìm tòi, khai phá, đúc kết kinh nghiệm một cách bền bỉ và kiên trì.

       Nhiều vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN chưa được nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống, chưa xác định rõ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chưa được thể chế đầy đủ, rõ ràng về phương diện pháp luật; chưa tạo sự gắn kết, đồng bộ giữa cải cách hành chính với cải cách lập pháp, tư pháp. Quốc hội nước ta là một thiết chế hoạt động không thường xuyên, đại biểu Quốc hội phần lớn kiêm nhiệm, không chuyên nghiệp, lại thiếu phương pháp, công cụ mang tính chuyên môn nên tác động của giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn hạn chế. Việc thực hiện các hình thức giám sát như xem xét báo cáo, chất vấn tuy có tiến bộ nhưng về cơ bản vẫn đặt Quốc hội vào tình huống bị động trước những sự việc đã rồi. Các hình thức giám sát mạnh như bỏ phiếu tín nhiệm, thành lập uỷ ban điều tra lâm thời tuy có quy định trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội nhưng chưa được thực hiện trên thực tế. Vai trò của Toà án với tư cách là trung tâm của hệ thống tư pháp thực hiện việc giám sát hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các xung đột trong xã hội chưa được đề cao, nhất là trong việc phán quyết đối với cơ quan hành chính chưa đủ mạnh đế góp phần hạn chế vi phạm pháp luật của cơ quan này.

         Tuy đã sớm thấy yêu cầu đổi mới và kiện toàn tổ chức, bộ máy, song chủ trương và tổ chức thực hiện không đồng bộ; thiếu những giải pháp đồng bộ, kiên quyết, kịp thời, hiệu quả nhằm đổi mới tổ chức, nâng cao năng lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, sắp xếp tổ chức, bộ máy không đi đôi với đổi mới thể chế, chính sách, phương thức hoạt động nên kết quả thực hiện bị hạn chế. Đó là nguyên nhân khiến cho cơ cấu tổ chức, bộ máy lúc giảm, lúc tăng đầu mối, khi tách, khi nhập tổ chức bộ máy; biên chế ngày càng tăng.

          Chậm tổng kết lý luận và thực tiễn về phân định và mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước; sự đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong các lĩnh vực xây dựng Nhà nước, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, nhất là cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Đảng và chính quyền cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

       Công tác quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chưa ổn định nên việc bố trí, sử dụng công chức vẫn theo tình huống, bị động. Việc quản lý cán bộ, công chức chưa chuyển sang thực hiện quản lý nguồn nhân lực công vụ. Tình trạng chưa phù hợp giữa vị trí công tác với ngạch chức danh công chức còn phổ biến: công chức giữ ngạch thấp nhưng lại làm công việc của ngạch cao và ngược lại, công chức ở ngạch cao nhưng lại không đảm đương được chức trách, nhiệm vụ của ngạch đó.

       Cùng nhìn lại tiến trình phát triển lịch sử nhân loại với sự ra đời và phát triển của nhà nước, tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã hình thành từ rất lâu . Nhà nước pháp quyền là Nhà nước dựa trên pháp luật và luôn đảm bảo vấn đề dân chủ. Ở Việt Nam, mô hình Nhà nước pháp quyền dân chủ đã được Đảng và Chính phủ vận dụng và sáng tạo vào hoàn cảnh của đất nước để xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

      Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Những khó khăn, hạn chế trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn pháp luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.

      Trân trọng./.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề