Ngân hàng câu hỏi đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngân hàng câu hỏi và đáp án môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt NamNgoc Anh Nguyen DownloadDownload PDF This Paper A short summary of this paper 8 Full PDFs related to this paper 19 câu hỏi ôn tập Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt NamĐể lại Gmail bên dưới phần bình luận để nhà sách vynamy book nhanh chóng gửi file đến các bạn nhé Show
Câu 1: Phân tích sự thay đổi về kết cấu giai tầng xã hội (phong kiến và nửa thuộc địa nửa phong kiến) đã ảnh hưởng đến lực lượng cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 như thế nào?Trả lời: Từ năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm nước ta. Sau khi đánh chiếm được, chúng thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhiều phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phống kiến diễn ra mạnh mẽ, tiêu biểu là những phong trào:
Thất bại của các phong trào trên cho thấy sự sụp đổ của hệ tư tưởng phong kiến trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, đặc biệt trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2 của Pháp, Việt Nam từ một nước thuần phong kiến đã biến thành nước nửa phong kiến thuộc địa, xã hội diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc, hình thành nền nhiều tầng lớp giai cấp mới như giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Đầu thế kỷ 20, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Tiêu biểu là phong trào Đông Du theo xu hướng bạo động của Phan Bội Châu và phong trào cái cách của Phan Châu Trinh. Từ trong phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng phái ra đời như Tân Việt cách mạng Đảng, Việt Nam quốc dân Đảng,… theo lập trường quốc gia tư sản đã thể hiện vai trò của mình trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và dân chủ nhưng cuối cùng cũng hông thành công. Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo lập trường quốc gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ 20 đã phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp tư sản trong tiến trình cách mạng dân tộc. Cũng từ đầu thế kỷ 20, cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc trên lập trường tư sản, phong trào công nhân chống lại áp bức, bóc lột của tư sản, thực dân cũng diễn ra từ rất sớm. Ban đầu, các cuộc đấu tranh diễn ra với hình thức sơ khai. Trong những năm 1919 – 1925, phong trào công nhân diễn ra mạnh mẽ hơn với các cuộc bãi công của công nhân Ba Son (1925) và cuộc bãi công của công nhân Nhà máy sợi Nam Định (1925)… Đến giai đoạn 1926 – 1929, phong trào công nhân đã có sự lãnh đạo của các tổ chức đảng, mang tính chất chính trị rõ rệt, có sức lôi cuốn phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Điều đặc biệt và quan trọng nhất trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự đấu tranh của quần chúng công nông có tính chất độc lập rõ rệt, chứ không phải là chịu ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như trước kia nữa. Chính điều này đã tạo nên tiền đề cơ sở dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, chấm dứt giai đoạn khủng hoảng đường lối đấu tranh, lãnh đạo nhân dân làm nên những thắng lợi vẻ vang. Câu 2: Nêu rõ vai trò và nhiệm vụ của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?Trả lời: Cuối thể kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, trước sự xâm luợc và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, nhiều phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến (phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế,…) và tư sản (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,…) diễn ra mạnh mẽ nhưng cuối cùng đều thất bại do hạn chế về gai cấp, thể hiện sự khủng hoảng về đường lối chính trị, hệ thống tổ chức, giai cấp lãnh đạo và lực lượng cách mạng (hai lực lượng xã hội cơ bản là công nhân và nông dân). Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chỉ đi đến thành công. Nhiệm vụ này đã được Nguyễn Ái Quốc giải quyết, ghi dấu bởi sự kiện ra đi tìm đường cứu nước của chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành vào năm 1911. Trong quá trình tìm đường cứu nuước, Người đã tìm hiểu các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới và khẳng định, con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng. Người cho rằng “cách mạng tư sản của Pháp, Mỹ là những cuộc cách mạng không đến nơi,… chỉ có cách mạng Nga là thành công, thành công đến nơi,…”. Vào tháng 7/1920 sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin, đồng thời tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp (12/1920), Nguyễn Ái Quốc nhận ra “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu, Trung Quốc. Đây chính là tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này. Từ năm 1925 – 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên mở các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam, truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin và lý luận giải phóng dân tộc vào phong trào cách mạng Việt Nam. Cùng với việc đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức nhiều tờ báo nhằm truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin vào Việt Nam, thức tỉnh và giác ngộ quần chúng, thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân phát triển theo con đường cách mạng vô sản. Đến cuối năm 1929, trước sự ra đời của nhiều tổ chức đảng cộng sản hoạt động phân tán, chia rẽ, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một đảng cộng sản thống nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào cộng sản ở Việt Nam. Chính Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng, họp từ từ ngày 6/1-7/2/1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc, quyết định phương châm, kế hoạch thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ 20, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Câu 3: Tại sao Hồ Chí Minh lại chọn con đường cách mạng vô sản chứ không phải con đường nào khác?Ý nghĩa của sự lựa chọn đó đối với cách mạng Việt Nam vào cuối thể kỷ 19 – đầu thế kỷ 20 và trong giai đoạn hiện nay? Trả lời: Lý do Hồ Chí Minh chọn con đường cách mạng vô sản: Cuối thể kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, trước sự xâm luợc và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, nhiều phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến (phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế,…) và tư sản (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,…) diễn ra mạnh mẽ nhưng cuối cùng đều thất bại do hạn chế về gai cấp, thể hiện sự khủng hoảng về đường lối chính trị, hệ thống tổ chức, giai cấp lãnh đạo và lực lượng cách mạng (hai lực lượng xã hội cơ bản là công nhân và nông dân). Qua đó đã cho thấy cách mạng phong kiến hay cách mạng tư sản tại Việt Nam đều không thành công. Trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra phải tìm con đường cách mạng mới, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã tìm hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới và nhận ra rằng, cách mạng tư sản của Mỹ và Pháp là các cuộc cách mạng triệt để, không đến nơi bởi khi cách mạng tư sản thành công, giai cấp tư sản lên nắm chính quyền và nhân dân lao động vẫn không được tự do, ấm no hạnh phúc thật sự; chỉ có cách mạng Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng hạnh phúc tự do, bình đẳng thật. Vào tháng 7/1920 sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin, đồng thời tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp (12/1920), quan điểm này càng được Nguyễn Ái Quốc khẳng định chắc chắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Ý nghĩa của sự lựa chọn cách mạng vô sản của Hồ Chí Minh đối với Việt Nam: – Giai đoạn cuối thể kỷ 19 – đầu thế kỷ 20: Góp phần chấm dứt khủng hoảng trong đường lối cách mạng kéo dài từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, giải quyết vấn đề giai cấp lãnh đạo cách mạng, xác định được lực lượng cách mạng chủ yếu là liên minh công – nông (2 giai cấp cơ bản của xã hội) của Việt Nam, tạo ra nền tảng giúp chúng ta mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước, đó là giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. – Giai đoạn hiện nay: Hiện nay, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam đang bị chống phá quyết liệt từ các thế lực phản động, thù địch và cơ hội về chính trị. Dưới nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, chúng ra sức xuyên tạc, phủ nhận con đường, hướng đích đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Chúng không chỉ phủ nhận học thuyết khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Marx-Lenin, mà còn phủ nhận cả tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta và sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Dẫu còn muôn vàn khó khăn, nhưng bằng những thành tựu của hơn 25 năm đổi mới, nhân dân ta vẫn tin tưởng vững chắc rằng, nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhất định thành công. Những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới dưới sự khởi xướng và lãnh đạo của Đảng đã và đang làm cho Việt Nam phát triển lớn mạnh từng ngày, là những tiền đề vật chất và tinh thần quan trọng nhất giúp nhân dân ta kiên trì con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Việc duy trì cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam giúp chúng ta thực hiện được mục tiêu đặt ra là dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Câu 4: So sánh nội dung văn kiện cương lĩnh tháng 2 và nội dung văn kiện luận cương chính trị tháng 10.Rút ra ý nghĩa và nhận xét. Trả lời: So sánh Cương lĩnh Tháng 2 và Luận cương Tháng 10:
Những điểm thống nhất giữa 2 văn kiện:
Ý nghĩa và nhận xét: Luận cương chính trị Tháng 10 khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng mà Cương lĩnh Tháng 2 đã nêu ra. Bên cạnh mặt thống nhất cơ bản, giữa Luận cương chính trị Tháng 10 và Cương lĩnh Tháng 2 có mặt khác nhau. Luận cương chính trị không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mau thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu; đánh giá không đúng vai trò cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc và chưa thấy được khả năng phân hóa, lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc, từ đó Luận cương đã không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai. Nguyên nhân chủ yếu của những mặt khác nhau:
Chính vì vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10/1930 đã không chấp nhận những quan điểm mới, sáng tạo, độc lập tự chủ của Nguyễn Ái Quốc được nêu trong Đường Cách Mệnh và Cương lĩnh Tháng 2. Câu 5: Những điểm chưa thống nhất giữa 2 văn kiện Cương lĩnh Tháng 2 và Luận cương Chính trị Tháng 10 đã được Đảng ta điều chỉnh, thay đổi như thế nào trong giai đoạn 1936 – 1939 và 1939 – 1945?Trả lời: Những điểm chưa thống nhất giữa 2 văn kiện Cương lĩnh Tháng 2 và Luận cương Chính trị Tháng 10 đã được Đảng điều chỉnh: – Trong giai đoạn 1936 – 1939: Trước những biến chuyển của tình hình trong nước và quốc tế, Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp Hội nghị và đề ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức và hình thức đấu tranh phù hợp với tình hình cách mạng nước ta.
Trong giai đoạn này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng ở Đông Dương. Ban Chấp hành Trung ương cho rằng: “Nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà năng trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”. Đây là nhận thức mới của Ban Chấp hành Trung ương, phù hợp với tình thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và bước đầu khắc phục những hạn chế của Luận cương Chính trị Tháng 10. Tháng 3/1939, Đảng ra bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc và tháng 7/1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự Chỉ Trích đánh dấu bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh và tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng, có tác dụng mở rộng lực lượng và trận địa cách mạng, gắn kết phong trào cách mạng Đông Dương với cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa phát xít của nhân dân thế giới. – Trong giai đoạn 1939 – 1945: Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của chiến tranh thế giới thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể trong nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:
Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu ấy. Câu 6: Trình bày bối cảnh ra đời và nội dung của chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.Trả lời: – Bối cảnh ra đời chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”: Vào cuối năm 1944, đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô quét sạch phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình và tiến như vũ bão về phía Berlin. Phát xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Mâu thuẫn Nhật – Pháp ngày càng gay gắt. Đêm 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương. Quân Pháp đã nhanh chóng đầu hàng quân Nhật. Ngay đêm 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Cũng có thể là cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần. Câu 7: Chứng minh rằng chủ trương chuyển hướng chỉ đạo của Đảng giai đoạn 1939 – 1945 đã trực tiếp mở ra thời kỳ chuẩn bị điều kiện cần thiết cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của nước ta vào tháng 8/1945.Trả lời: Sau khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến đạo với 3 nội dụng chính: đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, thành lập Mặt trận Việt Minh và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Đảng đã tiến hành nhiều hoạt động nhằm chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của nước ta vào tháng 8/1945 như sau:
Ngay sau đó, các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục nổ ra. Ở khu giải phóng và một số địa phương, chính quyền nhân dân đã hình thành, tồn tại song song với chính quyền tay sai của phát xít Nhật.
Câu 8: Phân tích những khó khăn của nước ta sau cách mạng tháng 8/1945. Đảng đưa ra những chủ trương, sách lược đối nội, đối ngoại gì để đưa đất nước thoát khỏi tình thế đó? (Vì sao Đảng ta lại đưa ra nhận định “vận mình dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc sau cách mạng tháng 8/1945”)Trả lời: – Khó khăn của nước ta sau cách mạng tháng 8/1945: Sau ngày cách mạng tháng 8/1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo. Những hậu quả do chế độ cũ để lại như nạn đói, nạn dốt rất nặng nề: 95% dân số nước ta mù chữ, ngân quỹ quốc gia trống rỗng; kinh nghiệm quản lý và xây dựng đất nước của cán bộ ta còn non yếu; nước ta chưa được nước nào trên thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Với danh nghĩa Đồng minh đến tước khí giới của phát xít Nhật, từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, quân đội Tưởng Giới Thạch mang bọn tay sai kéo vào chiếm đóng; từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân Anh giúp Pháp tái chiếm Nam Bộ, Anh – Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn (23/9/1945), nhân dân Nam Bộ vừa giành độc lập đã phải đối đầu với cuộc xâm lược của thực dân Pháp lần thứ hai. Vận mệnh dân tộc ra đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước cách mạng tháng 8, ta mạnh hơn quân thù, sau cách mạng tháng 8, tương quan so sánh lực lượng bất lợi cho ta. Thực tế này phán ánh quy luật “giành chính quyền dễ bao nhiêu thì giữ chính quyền càng khó bấy nhiêu”. – Chủ trương, sách lược đối nội, đối ngoại của Đảng: Đứng trước tình hình Tổ Quốc lâm nguy, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích kỹ lưỡng tình thế, dự đoán chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức mạng mới của dân tộc để vạch ra chủ trương, giải pháp đấu tranh nhằm giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được. Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị về “Kháng chiến kiến quốc”, vạch con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới:
Cuộc đấu tranh thực hiện chủ trương “Kháng chiến kiến quốc” của Đảng giai đoạn 1945 – 1946 đã diễn ra rất gay go, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao và đã giành được những kết quả hết sức to lớn:
Câu 9: Trình bày nội dung nghị quyết Trung ương lần thứ 15 vào tháng 1/1959. Chứng minh nghị quyết này đã mở đường cho cách mạng miền Nam phát triển.Trả lời: – Bối cảnh lịch sử hình thành nghị quyết Trung ương lần thứ 15 vào tháng 1/1959: Sau Hội nghị Geneve, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới, vừa đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp:
Một Đảng lãnh đạo hai cuộc cách mạng khác nhau, ở hai miền đất nước có chế độ chính trị khác nhau là khó khăn của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này. Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta sau tháng 7/1954 là phải đề ra được đường lối đúng đắn, phù hợp với tình hình mỗi miền, tình hình cả nước, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại. Tháng 1/1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn và ra nghị quyết về cách mạng miền Nam:
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, không chỉ thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng mà còn mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên:
Câu 10: Trình bày nội dung của đường lối kháng chiến chống Mỹ tại Đại hội lần thứ III của Đảng vào tháng 9/1960. Phân tích vai trò, nhiệm vụ, mối quan hệ của hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở hai miền.Trả lời: – Nội dung của đường lối kháng chiến chống Mỹ tại Đại hội lần thứ III của Đảng vào tháng 9/1960: Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5-1/9/1960 đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiễm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ quốc. Do cùng thực hiện một mục tiêu chung nên hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau. Trong điều kiện đất nước còn tạm thời bị chia cắt làm hai miền, thì sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải biến miền Bắc thành hậu phương vững chắc cho cả nước, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Quá trình cải biến cách mạng ở miền Bắc là quá trình kết hợp cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, là quá trình đấu tranh gay gắt, phức tạp giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam. Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Câu 11: Trình bày nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước sau năm 1965. Trả lời:Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn, sự phá sản của chiến luược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã ồ ạt đưa quân Mỹ và quân chư hầu vào miền Nam, tién hành cuộc “Chiến tranh cục bộ” với quy mô lớn; đồng thời dùng không quân, hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam và phá hoại xây dựng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới cho Đảng ta trong việc xác định quyết tâm và đề ra đường lối kháng chiến nhằm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trên cả nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3/1965) và Hội nghị Trung ương lần thú 12 (12/1965) đã được triệu tập để đáp ứng yêu cầu đó. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước:
Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng được thông qua tại Hội nghị Trung ương lần thứ và lần thứ 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của nhân dân ta; sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, thể hiện tư tưởng nắm vững đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau., phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta đủ sức đánh thắng quân Mỹ xâm lược.
Sau 27 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất yếu kém đi lên, ngày nay cả nước đã có nhiều khu công nghiệp, ngành công nghiệp quan trọng, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Những thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, đóng vai trò lớn vào công tác xóa đói, giảm nghèo, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Đây chính là minh chứng cho sự đúng đắn trong quyết định thay đổi tư duy của Đảng về vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Câu 13: Cần làm gì để khắc phục những hạn chế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay?Trả lời: Sau 27 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trong đó có những thành tựu nổi bật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, nổi bật là:
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan như:
Nhằm khắc phục những hạn chế đó, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp vĩ mô sau:
Câu 14: Vì sao Đảng ta lại chủ trương Việt Nam cần thiết và có thể phải rút ngắn thời gian tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa?Trả lời: – Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. – Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất kĩ thuật và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiểu quả mọi nguồn lực để không ngừng tăng năng suất lao động thúc đẩy GDP tăng nhanh cùng đáp ứng các yêu cầu: nâng cao năng lực tích luỹ vốn tăng thu nhập và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo chủ nghĩa xã hội chiến thắng các xã hội trước, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại góp phần tăng cường củng cố và phát triển khối liên minh công nông và tri thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiểu quả của bộ máy quản lý kinh tế Nhà nước. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại để làm biến đổi về chất lượng sản xuất nhờ đó mà hình thành hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa, hình thành một nền văn hoá mới, một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, các miền trở nên thống nhất cao hơn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao mà nó còn đảm bảo thực hiện sự kết hợp tốt kinh tế với quốc phòng an ninh, đối phó có hiểu quả với âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch. Thành tựu công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì thế mà công nghiêp hóa, hiện đại hóa được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. – Rút ngắn thời gian tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa – yêu cầu khách quan của lịch sử: Do những khác biệt về điều kiện tự nhiên, chế độ chính trị – xã hội, phương hướng, chính sách phát triển kinh tế, cũng như do nhiều nguyên nhân lịch sử khách quan và chủ quan của mình, nên các nước trên thế giới (và ngay cả giữa các địa phương trong một quốc gia) cũng có sự khác nhau về thời điểm bắt đầu và kết thúc, cũng như giãn cách xa nhau về trình độ và thành quả đạt được trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa . Vì vậy, để đuổi kịp các nước đi trước và phát triển hơn, bắt buộc các nước đi sau phải tăng tốc, rút ngắn lộ trình phát triển của mình. Thực tiễn thế giới cho thấy có sự rút ngắn rõ rệt qua những giai đoạn lịch sử trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xét trên phạm vi toàn cầu: Nếu như các nước Tây Âu và Bắc Mỹ phải mất trên 200 năm để tạo dựng nền công nghiệp phát triển của mình, thì Nhật Bản nhờ mở cửa cầu thị và hướng về Âu – Mỹ, nên chỉ mất 50 – 60 năm để hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; còn các nước NICs do bắt đầu muộn hơn, lại biết kết hợp cả sự giúp đỡ và kinh nghiệm của Âu, Mỹ và Nhật Bản, đồng thời phát huy các lợi thế so sánh của mình, đã rút ngắn thời gian phát triển nền công nghiệp của họ xuống còn bằng 1/2 thời gian của Nhật, tức chỉ bằng khoảng 1/10 thời gian mà các nước Âu – Mỹ phải đi qua. Đến lượt Thái Lan, thời gian này còn được rút ngắn hơn nữa… Với Việt Nam, rút ngắn vừa là mục tiêu, vừa là phương thức quan trọng hàng đầu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam bắt tay vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chậm hơn so với các nước phát triển trong khu vực và thế giới khác (cả về thời gian và trình độ phát triển) từ vài thập kỷ đến hàng thế kỷ do xuất phát điểm của nền kinh tế rất thấp cả về lượng và chất, hơn nữa lại bị chiến tranh kéo dài tàn phá nặng nề và cơ chế bao cấp kìm hãm khá lâu,… Chính vì vậy, để rút ngắn khoảng cách với thế giới, tạo nền tảng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, Việt Nam phải đồng thời vừa triển khai trên bề rộng quá trình công nghiệp hóa, phát triển nền công nghiệp truyền thống, vừa phải nhanh chóng hiện đại hóa, đi thẳng vào phát triển từng bộ phận cấu thành của kinh tế tri thức, nhằm sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020… Điều đó cũng có nghĩa là phát triển rút ngắn phải trở thành sự lựa chọn bắt buộc quan trọng hàng đầu cả về mục tiêu và phương thức trong quá trình phát triển đất nước. Câu 15: Vì sao Đảng ta lại xem công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là mặt trận hàng đầu trong thời kỳ đổi mới? Những mặt tích cực và hạn chế của chủ trương này.Trả lời: Trong khi coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng vẫn xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là mặt trận hàng đầu. Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn của quá trình công nghiệp hóa đối với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hóa trên thế giới, bởi vì công nghiệp hóa là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp, nông thôn và gia tăng khu vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và đô thị. Nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu, lao động cho công nghiệp và thành thị, là thị trường trường rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn chiếm đa số dân cư ở thời điểm khi bắt đầu công nghiệp hóa. Vì vậy, quan tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa.
Khoa học, kỹ thuật và công nghệ trên một số lĩnh vực còn hạn chế, thiếu đầu tư. Sự chuyển giao công nghệ còn nhiều bất cập. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh chỉ đạt trình độ trung bình.
Câu 16: Để tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công, ta cần có những yếu tố nào?Yếu tố nào mang tính quyết định, tại sao? Trả lời: Để tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công cần năm yếu tố chủ yếu là vốn; khoa học và công nghệ; con người; cơ cấu kinh tế; thể chế chính trị và quản lý nhà nước. Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu tố con người luôn được coi là yếu tố cơ bản, yếu tố quyết định. Nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhằm mục đích phát triển toàn diện ba hệ thống: kinh tế – xã hội môi trường, để phát triển toàn diện con người. Phát triển con người là đặc trưng bản chất của xã hội chủ nghĩa, con người là chủ thể, là nhân tố năng động nhất, sáng tạo nhất trong mối quan hệ của ba hệ thống đó. Trình độ phát triển kinh tế ở một quốc gia thì khả năng trí tuệ của người lao động mang tính quyết định. Nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nói đến xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại, trong đó con người là lực lượng sản xuất hàng đầu. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay khác thời kỳ trước là ngoài việc phát triển có kế hoạch định hướng xã hội chủ nghĩa còn lấy nhân tố thị trường để điều tiết nền kinh tế. Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh lại chính là nhân tố con người. Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện tồn tại những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau, tác động lẫn nhau. Xét đến cùng để tận dụng những thuận lợi và thời cơ, khắc phục những khó khăn và nguy cơ để “đi tắt, đón đầu” thực hiện được các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa tùy thuộc có tính quyết định vào nhân tố con người. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì con người và dân tộc Việt nam, bằng sức mạnh của con người và dân tộc. Việt nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa bằng trí tuệ của mình dựa trên một nền văn hiến lâu đời của dân tộc. Trong các yếu tố phát triển nhanh và bề vững thì nguồn lực con người Việt nam là yếu tố cơ bản nhất. Bởi vì nguồn lực con người Việt nam với đức tính cần cù, sáng tạo khi đã có trình độ văn hóa, kỹ thuật, nghiệp vụ cao, có tay nghề vững sẽ là yếu tố quyết định để tạo ra phương pháp và công nghệ hiện đại. Nguồn lực con người là điều kiện, là yếu tố đầu vào quyết định nhất. Câu 17: Tại sao Đảng ta lại chủ trương tiến hành đồng thời 2 quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa?Việt Nam cần làm gì để bắt kịp trình độ phát triển của các nước trên thế giới? Trả lời: – Định nghĩa công nghiệp hóa: Công nghiệp hoá là một quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế – xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa học công nghệ ngày càng hiện đại. – Định nghĩa hiện đại hóa: Hiện đại hóa là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội. – Tính tất yếu của việc tiến hành đồng thời 2 quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa: Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều nước dù thắng hay bại đều trở thành nước kiệt quệ đã trở thanh mét trong những nguyên nhân cho bước khởi động của cuộc khoa học công nghệ hiện đại. Có thể chia cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại thành hai giai đoạn:
Giai đoạn này là thực hiện cuộc cách mạng với qui mô lớn và toàn diện trên lực lượng sản xuất trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật, đổi mới toàn bộ bộ máy sản xuất hiện hành trên cơ sở sử dụng những phương tiện kỹ thuật về công nghệ mới khác hẳn về nguyên tắc thay thế hàng loạt các thiết bị lạc hậu bằng các thiết bị hiện đại làm cho năng suất và chất lượng sản phẩm lên cao. Đây là giai đoạn biến đổi hẳn về chất của lực lượng sản xuất ở các nước tư bản chủ nghĩa thì đây là thời kỳ mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lên cao tạo điều kiện cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Quá trình diễn ra không đồng đều ở các nước do nhiều nguyên nhân dễ dẫn đến sự chênh lệch về kinh tế. Trên thế giới hình thành 3 nhóm nước đó là các cường quốc về kinh tế, các nước phát triển và đang phát triển. Sự phân chia này cũng hình thành nên các mâu thuẫn cơ bản của xã hội, vấn đề cơ bản của các nước đang phát triển là đường lối đấu tranh hoà bình giải quyết mâu thuẫn thông qua làm cuộc cách mạng về kinh tế. Việt Nam là một nước có nền kinh tế nhỏ, lạc hậu về khoa học kỹ thuật, lực lượng sản xuất còn non nớt chưa phù hợp với quan hệ sản xuất của xã hội chủ nghĩa. Để có cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất lớn, không còn con đường nào khác là công nghiệp hoá, cơ khí hoá cân đối và hiện đại trên trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao. Muốn vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát triển tuần tự và phát triển nhảy vọt, cùng một lúc thực hiện hai cuộc cách mạng đó là chuyển lao động thô sơ sang lao động tự động hoá có sự chỉ đạo của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Câu 18: Đặc trưng, ưu và khuyết điểm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp?Trả lời:
Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng, tức là dựa vào sự tăng đầu tư, khai thác tài nguyên, sức lao động giá rẻ và một số lợi thế khác, cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp có tác dụng nhất định. Nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thế, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Cơ chế này tạo sự thống nhất trong thực hiện các mục tiêu. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã đáp ứng được yêu cầu của thời chiến, bởi vì do đất nước bị xâm lược, mục tiêu của cả nước là giải phóng dân tộc. Bởi vậy thực hiện kế hoạch hóa tập trung sẽ huy động được tối đa sức lực của nhân dân xây dựng và phát triển kinh tế để thực hiện mục tiêu đó, đây là nhiệm vụ chung chứ không phải riêng ai. Nhà nước thực hiện bao cấp hoàn toàn, giúp cho người chiến sĩ ra chiến trường cũng yên tâm phục vụ chiến đấu hơn, bởi họ không phải lo nghĩ đến chuyện gia đình, vợ con ở nhà, vì mọi thứ đã được nhà nước bao cấp. Thời kỳ đầu, với hào khí dân tộc đang lên sau chiến thắng lừng lẫy của các cuộc kháng chiến, cũng như do được sống trong một chế độ hoàn toàn mới, độc lập, tự do, nên người dân tràn đầy hy vọng, sẵn sàng đóng góp công sức, tiền của của mình cho công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa. Công bằng mà nói, lúc đầu mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung cũng đã tạo ra được niềm tin và hy vọng về một xã hội mới tốt đẹp, một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân, nhờ đó đã tạo ra được động lực khá mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Điều này đã giúp cho miền Bắc huy động được tối đa sức mạnh vật chất và tinh thần của người dân để phục vụ cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, và khi miền Nam được giải phóng, nước nhà được hoà bình, thống nhất, chúng ta đã khắc phục khá nhanh những hậu quả do hơn 30 năm chiến tranh tàn khốc để lại. – Khuyết điểm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp: Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã biến các tư liệu sản xuất chủ yếu của nền kinh tế quốc dân trở thành vô chủ, và được sử dụng hết sức bừa bãi, lãng phí, và biến người lao động trở thành những người làm thuê (làm thuê cho các doanh nghiệp Nhà nước và các hợp tác xã); họ là lực lượng chủ yếu tạo ra của cải cho xã hội, nhưng lại không phải là chủ nhân của chúng. Mọi của cải làm ra đều được phân phối bình quân. Có thể nói, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã thủ tiêu sự cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế, lao động sáng tạo đối với người lao động , không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Nó hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội như tham ô, lãng phí. Đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan hành chính Nhà nước trở nên quan liêu, lộng quyền, hách dịch. Về mặt văn hóa trong nền kinh tế tập trung bao cấp, giáo dục trở thành độc quyền của Nhà nước; nhà trường chỉ là nơi thực hiện mọi kế hoạch và chỉ tiêu, pháp lệnh mà Nhà nước giao, không cần quan tâm nhiều đến đầu ra. Chúng ta không phủ nhận những thành tựu của giáo dục do cơ chế tập trung bao cấp tạo ra, song cũng cần thấy rằng, cơ chế quản lý đó đã làm cho hệ thống giáo dục thiếu tính cạnh tranh, kém năng động, sáng tạo, là mảnh đất cho căn bệnh thành tích và chủ nghĩa hình thức tồn tại. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên việc áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho nền kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Câu 19: Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa?Trả lời: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Kinh tế thị trường là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí:
Các bạn Comment để lại Gmail bên dưới để mình gửi tài liệu nha Thư viện Bài mẫu báo cáo thực tập 250 Câu trắc nghiệm Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Phần I)Tài liệu "250 Câu trắc nghiệm Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Phần I)" cung cấp đa dạng các câu hỏi và kèm theo câu trả lời liên quan đến môn học Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. » Xem thêm Tóm tắt nội dung tài liệu
|