Hướng dẫn sử dụng mapinfo vẽ bản đồ trường học năm 2024
Khoa Trắc địa bản đồ và thông tin địa lý
Điện thoại: 0976.785.816
Email: [email protected]
Địa chỉ: Phòng B.502, 41A Đường Phú Diễn, P. Phú Diễn, Q. Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội.
Website: https://tdbd.hunre.edu.vn
Show Thống kê truy cập Tổng số lượt truy cập: 473190 Đang truy cập: 1 © 2024, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội. All rights reversed. Trong chương này chúng ta sẽ xem xét các nội dung liên quan đến việc trình bày bản đồ bằng Mapinfo. Chương này sẽ sử dụng những lớp bản đồ đã được tạo ra trong các chương trước để làm ví dụ minh họa. Nội dung chính 1. Tổng quátTrình bày bản đồ là một công việc không những có tính chất khoa học, chính xác mà còn có tính chất nghệ thuật. Vì vậy đây là một việc tương đối mất nhiều thời gian nếu ta muốn có một bản đồ trình bày đẹp và đầy đủ chi tiết. Nói một cách tổng quát, một bản đồ khi được in ra sẽ có các thành phần sau (tuỳ theo loại bản đồ và mục đích sử dụng mà các thành phần dưới đây có thể có hoặc không, hoặc thay đổi nhưng cơ bản là chúng cần thiết khi trình bày bản đồ): 1- Tên của bản đồ:mọi bản đồ được in ra hay được trình bày đều nhằm phục vụ cho một nội dung nào đó, tên của bản đồ cần phải giải thích một cách tóm tắt nhưng đầy đủ bản đồ đó được lập ra nhằm mục đích gì. 2- Nội dung bản đo :là phần quan trọng nhất của bản đồ, nó bao gồm các thông tin dưới dạng đồ hoạ như sông suối, đường xá, tỉnh, thành phố, đường cao độ,… Phần này chiếm phần lớn khoảng không gian cũng như nội dung của bản đồ. Nội dung của bản đồ phải phù hợp với tên của bản đồ, tức làm nổi bật được nội dung muốn trình bày. 3- Nhãn:trên bản đồ ta thấy có tên tỉnh, có tên thành phố, tên sông suối,… Đó là các nhãn nhằm mục đích làm rõ nghĩa của các vật thể trên bản đồ. 4- Chú giải: là một phần nằm ngoài nội dung bản đồ nhưng nó giải nghĩa rõ thêm cho các biểu tượng, kiểu đường, kiểu vùng được trình bày trên bản đồ, ví dụ trong chú giải có nội dung sau: đường liền mảnh màu xanh dương tượng trưng cho sông suối, đường liền màu đỏ tượng trưng cho đường bộ, đường gạch chấm đậm tượng trưng cho ranh giới tỉnh, ngôi sao màu đỏ tượng trưng cho thủ đô,…. Phần chú giải (hay còn gọi là chú dẫn, chú thích) của bản đồ thường được đặt riêng trong một khung và nằm ở phía dưới bản đồ. Tuy nhiên tuỳ trường hợp người ta có thể đặt chú giải ở vị trí nào cho có thẩm mỹ là được. 5- Lưới tọa độ:có thể có hay không tuy nhiên lưới tọa độ thường là cần thiết vì nó giúp người xem bản đồ xác định được vị trí trên bản đồ. Lưới tọa độ là những đường song song với kinh tuyến và xích đạo, cách đều nhau một khoảng nhất định và trên mỗi đường đều có toạ độ. 6 – Thước tỷ lệ: thường nằm ở một góc của bản đồ biểu thị cho tỷ lệ khoảng cách trên bản đồ tương ứng với khoảng cách ngoài thực địa là bao nhiêu. Thước tỷ lệ cũng có thể được trình bày hay không, ví dụ như trong tên của bản đồ ta đã ghi tỷ lệ của bản đồ rồi thì thước tỷ lệ trên bản đồ có thể không cần thiết, tuy nhiên nếu có thì bản đồ càng trở nên rõ ràng, thuận tiện cho người sử dụng hơn. 7 – Kim chỉ nam: kim chỉ nam là một biểu tượng hình la bàn minh hoạ cho hướng Bắc trên bản đồ. Yếu tố này có thể có hoặc không vì thông thường thì hướng bắc được quy ước là hướng thẳng lên trên. Trong một số trường hợp do mục đích mỹ thuật khi trình bày bản đồ mà người ta có thể xoay bản đồ đi sao cho thuận tiện, lúc đó kim chỉ nam là cần thiết để giúp xác định hướng Bắc như đã nói. Đối với những bản đồ được xây dựng nhằm mục đích sử dụng ngoài thưc địa thì lưới tọa độ và kim chỉ nam rất có ích . 8 – Các yếu tố khác: trong bản đồ ta cũng có thể cung cấp thêm những thông tin khác cho người xem, ví dụ như tác giả của bản đồ, hệ quy chiếu mà bản đồ đang sử dụng, nguồn của những thông tin trên bản đồ,… Ở đây ta nói đến bản đồ được trình bày trong MapInfo, đối với bản đồ in, còn có các thông tin về nhà xuất bản, số lượng in, thời gian in,… Trong phần này ta sẽ xem xét cách trình bày một bản đồ với đầy đủ tất cả các chi tiết trên. Giả sử bản đồ ta muốn trình bày ở đây sẽ có tên là:“BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH MIỀN BẮC VIỆT NAM”. Với nội dung như vậy, ta cần trình bày trên bản đồ các nội dung sau:
Lưu ý: Phần này hướng dẫn cách trình bày một bản đồ với tất cả các lớp có được. Người đọc nếu không muốn trình bày lớp nào thì không cần thực hiện những phần liên quan đến lớp đó. Ví dụ nếu ta không muốn trình bày lớp song thì không cần mở lớp songra và bỏ qua tất cả những phần liên quan đến lớp này như tô màu, làm chú giải,… Trình bày một bản đồ có thể mất nhiều thời gian. Nếu ta muốn ngưng giữa chừng và làm tiếp sau này thì có thể dùng lệnh lưu workspace như sau:
Sau này ta có thể mở lại tập tin workspace đó để tiếp tục công việc dở dang. Khi mở một workspace và tiến hành một số lệnh mới rồi lại dùng lệnh File > Save Workspace một lần nữa thì hộp thoại Save Workspace sẽ hiển thị tên cũ của tập tin workspace, nếu ta chọn lệnh Save (không đổi tên trong ô File Name) thì một hộp thoại mới mở ra hỏi ta có muốn chép đè lên tên của tập tin workspacecũ hay không. Ta phải chọn Yes để thay thế tập tin cũ bằng tập tin mới. 2. Điều chỉnh phần muốn trình bàyMột bản đồ khi được số hoá có thể bao gồm một vùng rất rộng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp ta chỉ muốn trình bày một phần nào đó của bản đồ mà thôi. Trong phần này giả sử ta chỉ muốn trình bày phần miền Bắc của nước ta (từ tỉnh Hà Giang cho đến tỉnh Nghệ An). Cách làm như sau:
Ta thấy rằng khi điều chỉnh kích thước của cửa sổ bản đồ, tỷ lệ bản đồ thay đổi theo (tức nới rộng cửa sổ bản đồ thì bản đồ lớn lên theo và ngược lại). Điều này đôi lúc thuận tiện nhưng đôi lúc cũng bất tiện vì bản đồ “chạy” khi ta điều chỉnh cửa sổ bản đồ. Nếu không muốn tỷ lệ bản đồ thay đổi khi điều chỉnh kích thước cửa sổ, ta chọn Map > Options, trong hộp thoại Map Options, ở phần When resizing Window, đánh dấu chọn vào ô Preserve Current Scale> OK. Lúc này nếu ta điều chỉnh cửa sổ bản đồ thì bản đồ sẽ không thay đổi tỷ lệ và không “chạy” nữa. Ta có thể sử dụng nút Grabber để di chuyển thêm bản đồ sao cho thật phù hợp. Thực ra đây chỉ là một trong những cách điều chỉnh phần muốn hiển thị. Ta có thể sử dụng phối hợp nút Grabber, nút phóng to – thu nhỏ và điều chỉnh kích thước cửa sổ bản đồ để hiển thị phần bản đồ muốn trình bày. Lưu ý rằng phần bản đồ hiển thị trên cửa sổ bản đồ sẽ hiện ra chính xác như ta thấy khi trình bày bản đồ để in. Vì vậy trong phần này ta phải dự kiến hiển thị bản đồ như thế nào để điều chỉnh cho đúng phần ta muốn in. 3. “Tô màu” cho bản đồGiả sử sau khi điều chỉnh kích thước cửa sổ bản đồ xong ta có cửa sổ bản đồ như trên hình. Mở các lớp bản đồ cần trình bày ra trên cùng một cửa sổLớp cac_tinh là một lớp kiểu vùng. Ta sẽ tạo cho mỗi tỉnh một màu khác nhau để dễ phân biệt. Đường mép của lớp cac_tinh chồng lên lớp rg_tinh và vì vậy làm bản đồ hiển thị không đẹp. Ta phải chỉnh định dạng các vùng của lớp cac_tinh sao cho mép của các “vùng” tỉnh mất màu đi. Lệnh Style Override được sử dụng trong trường hợp này. Cách làm như sau:
Ta bắt đầu “tô màu” cho lớp cac_tinh.
Chú giải theo tên của các tỉnh được hiển thị trong một cửa sổ có tên là Legendof thanh_pho, ranh_gioi,…,cac_tinh Map. Kết quả cuối cùng được trình bày trên hình . Bản đồ các_tính được tô màu4. Làm chú giảiTrên bản đồ ta thấy có các chi tiết sau: sông, đường giao thông, các thành phố, thị xã,… Ta cần làm chú giải để người xem biết được đó là những nội dung gì. Ta sẽ thực hiện việc làm chú giải cho các lớp trên. Cách thực hiện như sau:
5.Tạo nhãnTa sẽ tạo nhãn cho các lớp song, cac_tinh và lớp thanh_pho. Các lớp giao_thong, ranh_gioi, rg_tinh không cần nhãn vì chỉ cần chú giải là đủ. Lưu ý rằng các lớp trên không cần nhãn chỉ trong trường hợp ví dụ này mà thôi. Giả sử nếu ta làm một bản đồ chi tiết hơn thì ta có thể phải dán nhãn cho các lớp trên, ví dụ như với lớp giao_thong ta cần dán nhãn tên các quốc lộ chẳng hạn. 5.1. Tạo nhãn cho lớp song
5.2. Tạo nhãn cho lớp cac_tinh
5.3. Tạo nhãn cho lớp thanh_phoCách làm hoàn toàn tương tự nhưng ta nhớ dùng kiểu chữ khác để phân biệt với các nhãn của lớp cac_tinh. Ví dụ như lớp cac_tinh ta định dạng kiểu chữ hoa còn lớp thanh_pho ta định dạng kiểu chữ thường, chỉ viết hoa chữ cái đầu. Nhớ chọn None trong phần Label Lines. Lại điều chỉnh vị trí các nhãn sao cho phù hợp. Lưu ý : Khi tạo nhãn cho các lớp là điểm thì theo mặc định nhãn được đặt bên phải điểm đó. Ta có thể nhắp đúp chuột lên từng nhãn để vào hộp thoại Label Style và chỉnh vị trí cho các nhãn. Nhãn của lớp cac_tinh và thanh_pho được đưa lên bản đồSau khi điều chỉnh nhãn, kết quả có thể trông giống như trên hình VIII.10. 6. Làm lưới tọa độTrong phần này chúng ta sẽ xem xét một tính năng mở rộng của MapInfo. Trong MapInfo, ngoài các lệnh trên các menu chính, người ta còn có thể sử dụng một số tính na ng mở rộng khác. Những tính năng mở rộng này được viết trong một phần mềm khác của hãng MapInfo, đó là Map Basic. Khi cài đặt MapInfo, một số tính năng mở rộng này cũng đã được tích hợp vào. Chúng được cài đặt trong thư mục MapInfo\Professional\Tools. Để làm lưới toạ độ, ta phải sử dụng một trong những tính na ng mở rộng này. Cách làm lưới toạ độ như sau:
Chú ý: Khi cài đặt MapInfo, nút lệnh Mapping Wizard Tool được thiết lập tự khởi động khi khởi động MapInfo. Nút lệnh này cũng nằm trên thanh công cụ Tools và có biểu tượng giống hệt nút lệnh tạo lưới toạ độ. Ta chỉ có thể phân biệt chúng bằng cách di chuyển con trỏ lên hai nút lệnh này, lúc đó một nhãn InfoTips nhảy ra hiện tên của nút lệnh đó. Một nút có tên là Create Grid và nút kia có tên là Run Mapping Wizard Tool. Nếu cảm thấy bất tiện (vì ta ít khi sử dụng đến nút lệnh Mapping Wizard Tool), ta có thể tắt nó đi bằng cách sau: Từ menu chính chọn Tools > Tool Manager và bỏ chọn ở hai cột Loaded và Autoload tại hàng Mapping Wizard Tool đi rồi chọn OK.
Trên cửa sổ bản đồ sẽ xuất hiện một lưới toạ độ. Nếu cảm thấy ưng ý, ta chọn lệnh lưu để lưu lại lưới toạ độ mới tạo thành. Thực chất trình ứng dụng này vẽ các vật thể kiểu đường cách đều nhau theo khoảng cách ta quy định cho nó, đồng thời toạ độ của mỗi đường lưới toạ độ cũng được lưu lại trong bảng dữ liệu của lớp này. Nếu chọn Window > New browser Window và chọn lớp luoi_1_do, ta thấy rằng bảng dữ liệu của lớp này bao gồm hai cột, một cột có tên là Degrees, cột kia là DMS. Ý nghĩa của hai cột này như sau:
Dữ liệu trong bảng này hoàn toàn giống với các bảng MapInfo bình thường và ta có thể áp dụng lệnh dán nhãn để đưa toạ độ lên hiển thị trên bản đồ. Ta đưa toạ độ lên lưới trên cửa sổ bản đồ như sau:
bản đồ. Nếu muốn làm như vậy thì ta phải dán nhãn thủ công. Cách làm như sau:
Thông thường thì nhãn toạ độ nên đặt ở một bên của bản đồ, ví dụ các nhãn cho lưới kinh độ đặt ở mép trên của bản đồ còn các nhãn cho lưới vĩ độ nên đặt ở mép trái của bản đồ. Kết quả có thể trông như trên. Có thể điều chỉnh vị trí các nhãn của lưới toạ độ thêm để cho chúng không choán mất nội dung của bản đồ. 7. Thước tỷ lệThước tỷ lệ cũng được tạo bằng một ứng dụng mở rộng của MapBasic. Cách làm như sau:
Tuỳ theo tỷ lệ bản đồ hiện tại trên cửa sổ bản đồ cũng như kích thước của cửa sổ bản đồ mà MapInfo tự động tính toán kích cỡ của thước tỷ lệ cho phù hợp. Ví dụ trong trường hợp này MapInfo tự động định cỡ cho thước tỷ lệ là 100 (km). Nếu đồng ý thì ta giữ nguyên còn nếu muốn thay đổi thước tỷ lệ thì ta có thể gõ con số khác vào ô Width of Scale Bar. Ta có thể chỉnh kiểu chữ cho nhãn của thước tỷ lệ bằng nút định dạng kiểu chữ và chỉnh màu cho thước tỷ lệ bằng nút định dạng vùng.Xong chọn OK. Ứng dụng này sẽ vẽ một thước tỷ lệ tại vị trí ta nhắp chuột ban đầu. Thực chất thì thước tỷ lệ bao gồm 2 hai thành phần: phần chữ là đơn vị đo khoảng cách ở dưới thước và các trị số ở đầu, giữa và cuối thước, là vật thể kiểu ký tự; phần thước là sáu hình chữ nhật được vẽ sát nhau (định dạng kiểu vùng). Ta có thể nhắp đúp chuột vào chữ kilometershay các con số và vào hộp thoại Text objects để chỉnh kiểu chữ hay gõ lại nội dung khác, ví dụ ta có thể sửa chữ kilometers thành tiếng Việt là “kilômét” hay “km”. Vì thước tỷ lệ cũng là những vật thể bình thường trên cửa sổ bản đồ nên khi được tạo thành chúng phải nằm trong một lớp nào đó. Trình SCALEBAR tự động đặt chúng vào lớp Cosmetic Layer. Nếu muốn sử dụng thước toạ độ này lâu dài cho việc làm bản đồ khác sau này (ở cùng khu vực) thì ta có thể sử dụng lệnh Map > Save Cosmetic Objects để lưu nó lại như lưu một lớp bản đồ bình thường. 8. Kim chỉ namKim chỉ nam là biểu tượng chỉ hướng Bắc. Thông thường ta nên đặt kim chỉ nam chung với thước tỷ lệ (đặt chung vào lớp Cosmetic Layer). Để cho có tính thẩm mỹ, kim chỉ nam có thể được đặt phía trên và ngay chính giữa thước tỷ lệ. Cách làm như sau:
Cosmetic Objects. Nếu thực hiện lệnh File > Save Workspace thì các vật thể trong lớp Cosmetic vẫn được giữ nguyên khi mở tập tin workspace lần sau. 9. Chuẩn bị bản đồ trong cửa sổ LayoutNhư vậy bản đồ đã được trình bày một cách tương đối đầy đủ. Phần tiếp theo ta sẽ sắp xếp các thành phần của bản đồ lên cửa sổ Trình bày để có kết quả cuối cùng. Cách làm như sau:
Cửa sổ Layout được mở ra với cửa sổ bản đồ được trình bày trong một trang in (hình VI.16). Lưu ý rằng ta phải có cài đặt một máy in trên máy tính đang làm bản đồ thì mới có thể định dạng trang in trong phần này. Nếu không cài đặt máy in thì cửa sổ bản đồ sẽ hiển thị trên một trang “ảo” và khi điều chỉnh các thành phần bản đồ trong cửa sổ Layout chúng thường hay “nhảy lung tung” rất khó kiểm soát. Ngoài ra các định dạng vị trí không được lưu lại trong tập tin Workspace và nếu mở cửa sổ Layout đã điều chỉnh ra lần sau chúng lại không ở đúng vị trí mong muốn.
Nhắp chuột lên bản đồ trong cửa sổ Layout ta có thể chọn phần khung của nội dung bản đồ. Với bốn điểm đen khống chế ở bốn góc của khung bản đồ ta có thể giữ chuột trái trên các điểm khống chế đó và rê chuột để điều chỉnh kích thước khung bản đồ. Khi điều chỉnh kích thước của khung bản đồ, phần nội dung bản đồ tự động phóng to hay thu nhỏ theo khung bản đồ. Ta cũng có thể điều chỉnh phần nội dung bản đồ hiển thị bằng cách thu nhỏ cửa sổ Layout lại (không đóng), quay lại cửa sổ bản đồ và điều chỉnh cửa sổ bản đồ sao cho phù hợp. Làm xong chọn Window > Layout(ở phần dưới cùng của menu thả xuống này) để hiển thị lại cửa sổ Layout và xem kết quả. Sự điều chỉnh phần hiển thị trên cửa sổ bản đồ sẽ làm cho phần nội dung bản đồ hiển thị trong cửa sổ Layout thay đổi theo. Khi thực hiện lệnh Window > New layout Window, cửa sổ chú giải hiện hành cũng được hiển thị trong trang Layout ở một khung riêng. Tuỳ thuộc vào hình dạng của khung bản đồ trong cửa sổ Trình bày mà ta có thể điều chỉnh cửa sổ chú giải sao cho phù hợp. Bây giờ bản đồ chỉ còn thiếu một phần quan trọng nữa là tên. Ta sẽ di chuyển các thành phần trong trang Layout để chừa chỗ cho tên bản đồ ở trên đầu trang giấy.
Như vậy những trình bày của bản đồ trên sẽ được lưu lại. Nếu muốn mở bản đồ ra để in sau này, ta làm như sau: |