Bài tập lớn quan hệ kinh tế quốc tế

I. BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) 1. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) - tiền thân của tổ chức thương mại quốc tế (WTO) Sau chiến tranh Thế giới II, nhằm khôi phục sự phát triển kinh tế và thương mại, hơn 50 nước trên thế giới đã cùng nhau nỗ lực kiến tạo một tổ chức mới điều chỉnh hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế, đồng thời với sự ra đời của các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và gắn bó chặt chẽ với các định chế này. Ban đầu, các nước dự kiến thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là một tổ chức chuyên môn thuộc Liên hiệp quốc. Tháng 2/1946, Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc triệu tập một "Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Việc làm" với mục tiêu dự thảo Hiến chương cho Tổ chức Thương mại Quốc tế. Dự thảo Hiến chương thành lập ITO không những chỉ điều chỉnh các quy tắc thương mại thế giới mà còn mở rộng ra cả các quy định về công ăn việc làm, các hành vi hạn chế thương mại, đầu tư quốc tế và dịch vụ. Công việc chuẩn bị cho hiến chương này đã được các quốc gia tiến hành trong năm 1946 và 1947. Từ tháng 4 đến tháng 10/1947, các nước đã tiến hành một hội nghị chuẩn bị toàn diện. Tại hội nghị này, bên cạnh việc tiếp tục triển khai các công việc liên quan đến hiến chương thành lập ITO, các nước còn tiến hành đàm phán để giảm và ràng buộc thuế quan đa phương. Trong vòng đàm phán đầu tiên, các nước đã đưa ra được 45.000 nhân nhượng thuế quan có ảnh hưởng đến khối lượng thương mại giá trị khoảng 10 tỷ USD, tức là khoảng 1/5 tổng giá trị thương mại thế giới. Các nước cũng nhất trí áp dụng ngay lập tức và "tạm thời" một số quy tắc thương mại trong Dự thảo Hiến chương ITO nhằm bảo vệ giá trị của các nhân nhượng nói trên. Kết quả trọn gói gồm các quy định thương mại và các nhân nhượng thuế quan được đưa ra trong Hiệp đinh chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Theo dự kiến, Hiệp định GATT sẽ là một hiệp định phụ trợ nằm trong Hiến chương ITO. Cho đến thời điểm cuối 1947, Hiến chương ITO vẫn chưa được thông qua. Chiến tranh Thế giới II vừa kết thúc, các nước đều muốn sớm thúc đẩy tự do hoá thương mại, và bắt đầu khắc phục những hậu quả của các biện pháp bảo hộ còn sót lại từ đầu những năm 1930. Do vậy, ngày 23/10/1947, 23 nước đã ký "Nghị định thư về việc áp dụng tạm thời" (PPA), có hiệu lực từ 1/1/1948, thông qua nghị định thư này, Hiệp định GATT đã được chấp nhận và thực thi.

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

LỜI MỞ ĐẦU MỤC LỤC GIỚI THIỆU VỀ WTO BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) - tiền thân của tổ chức thương mại quốc tế (WTO) Sau chiến tranh Thế giới II, nhằm khôi phục sự phát triển kinh tế và thương mại, hơn 50 nước trên thế giới đã cùng nhau nỗ lực kiến tạo một tổ chức mới điều chỉnh hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế, đồng thời với sự ra đời của các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và gắn bó chặt chẽ với các định chế này. Ban đầu, các nước dự kiến thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là một tổ chức chuyên môn thuộc Liên hiệp quốc. Tháng 2/1946, Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc triệu tập một "Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Việc làm" với mục tiêu dự thảo Hiến chương cho Tổ chức Thương mại Quốc tế. Dự thảo Hiến chương thành lập ITO không những chỉ điều chỉnh các quy tắc thương mại thế giới mà còn mở rộng ra cả các quy định về công ăn việc làm, các hành vi hạn chế thương mại, đầu tư quốc tế và dịch vụ. Công việc chuẩn bị cho hiến chương này đã được các quốc gia tiến hành trong năm 1946 và 1947. Từ tháng 4 đến tháng 10/1947, các nước đã tiến hành một hội nghị chuẩn bị toàn diện. Tại hội nghị này, bên cạnh việc tiếp tục triển khai các công việc liên quan đến hiến chương thành lập ITO, các nước còn tiến hành đàm phán để giảm và ràng buộc thuế quan đa phương. Trong vòng đàm phán đầu tiên, các nước đã đưa ra được 45.000 nhân nhượng thuế quan có ảnh hưởng đến khối lượng thương mại giá trị khoảng 10 tỷ USD, tức là khoảng 1/5 tổng giá trị thương mại thế giới. Các nước cũng nhất trí áp dụng ngay lập tức và "tạm thời" một số quy tắc thương mại trong Dự thảo Hiến chương ITO nhằm bảo vệ giá trị của các nhân nhượng nói trên. Kết quả trọn gói gồm các quy định thương mại và các nhân nhượng thuế quan được đưa ra trong Hiệp đinh chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Theo dự kiến, Hiệp định GATT sẽ là một hiệp định phụ trợ nằm trong Hiến chương ITO. Cho đến thời điểm cuối 1947, Hiến chương ITO vẫn chưa được thông qua. Chiến tranh Thế giới II vừa kết thúc, các nước đều muốn sớm thúc đẩy tự do hoá thương mại, và bắt đầu khắc phục những hậu quả của các biện pháp bảo hộ còn sót lại từ đầu những năm 1930. Do vậy, ngày 23/10/1947, 23 nước đã ký "Nghị định thư về việc áp dụng tạm thời" (PPA), có hiệu lực từ 1/1/1948, thông qua nghị định thư này, Hiệp định GATT đã được chấp nhận và thực thi. Trong thời gian đó, Hiến chương ITO vẫn tiếp tục được thảo luận. Cuối cùng, tháng 3/1948, Hiến chương ITO đã được thông qua tại Hội nghị về Thương mại và Việc làm của Liên hiệp quốc tại Havana. Tuy nhiên, quốc hội của một số nước đã không phê chuẩn Hiến chương này. Đặc biệt là Quốc hội Mỹ rất phản đối Hiến chương Havana, mặc dù Chính phủ Mỹ đã đóng vai trò rất tích cực trong việc nỗ lực thiết lập ITO. Tháng 12/1950, Chính phủ Mỹ chính thức thông báo sẽ không vận động Quốc hội thông qua Hiến chương Havana nữa, do vậy trên thực tế, Hiến chương này không còn tác dụng. Và mặc dù chỉ là tạm thời, GATT trở thành công cụ đa phương duy nhất điều chỉnh thương mại quốc tế từ năm 1948 cho đến tận năm 1995, khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ra đời. Trong 48 năm tồn tại, GATT đã tổ chức 8 vòng đàm phán: Năm Địa điểm/Tên Chủ đề đàm phán Số nước 1947 Geneva Thuế quan 23 1949 Annecy Thuế quan 13 1951 Torquay Thuế quan 38 1956 Geneva Thuế quan 26 1960-1961 Geneva (Vòng Dillon) Thuế quan 26 1964-1967 Geneva (Vòng Kenedy) Thuế quan và các biện pháp chống bán phá giá 62 1973-1979 Geneva (Vòng Tokyo) Thuế quan, các biện pháp phi quan thuế, các hiệp định "khung" 102 1986-1994 Geneva (Vòng Uruguay) Thuế quan, các biện pháp phi quan thuế, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp, hàng dệt, nông nghiệp, thành lập WTO, v.v... 123 Năm vòng đàm phán đầu tiên chủ yếu tập trung vào đàm phán giảm thuế quan. Bắt đầu từ Vòng đàm phán Kenedy, nội dung của các vòng đàm phán mở rộng dần sang các lĩnh vực khác. Vòng đàm phán cuối cùng - Vòng Uruguay - đã mở rộng nội dung sang hầu hết các lĩnh vực của thương mại bao gồm: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ... và cho ra đời một tổ chức mới thay thế cho GATT - Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Có thể nói, trong 48 năm tồn tại của mình, GATT đã có những đóng góp to lớn vào việc thúc đẩy và đảm bảo thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại thế giới. Số lượng các bên tham gia cũng tăng nhanh. Cho tới trước khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 1/1/1995, GATT đã có 124 bên ký kết và đang tiếp nhận 25 đơn xin gia nhập. Nội dung của GATT ngày một bao trùm và quy mô ngày một lớn: bắt đầu từ việc giảm thuế quan cho tới các biện pháp phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, và tìm kiếm một cơ chế quốc tế giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các quốc gia. Từ mức thuế trung bình 40% của năm 1948, đến năm 1995, mức thuế trung bình của các nước phát triển chỉ còn khoảng 4% và thuế quan trung bình của các nước đang phát triển còn khoảng 15%. Lúc đầu, GATT chỉ có 16 thành viên như Anh, Mỹ, Pháp, Canada, Brazil... Sau đó, số lượng các thành viên GATT tăng dần lên, đến năm 1994 thì GATT có 128 thành viên.  Nhưng các nước thành viên của tổ chức này nhận thấy khuôn khổ hoạt động của GATT đã quá chật chội và cản trở buôn bán trong một thế giới luôn luôn vận động, biến đổi. Sau Vòng đàm phán Uruguay kéo dài 8 năm, đến năm 1995, GATT được thay thế bằng WTO - Tổ chức Thương mại thế giới. Đó là một bước tiến dài của nền thương mại toàn cầu. Đến nay, WTO có 150 thành viên chính thức, 29 quan sát viên chiếm khoảng 90% dân số thế giới, 95% GDP và 95% giá trị thương mại toàn cầu. WTO là tổ chức quốc tế lớn thứ hai thế giới sau Liên Hiệp Quốc. WTO có trụ sở tại Geneva (Thụy Sĩ) chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995. Các nguyên tắc của GATT a) Không phân biệt đối xử(non-discrimination): theo tinh thần không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa của các nước khác nhau. Nguyên tắc này được quy định cụ thể qua "quy tắc tối huệ quốc" và " quy tắc đối xử quốc gia". - Quy tắc tối huệ quốc(MFN)với nội dung chủ yếu: yêu cầu mỗi thành viên phải áp dụng các quy tắc thuế quan một cách công bằng cho tất cả các thành viên trong WTO. - Quy tắc đối xử quốc gia: Yêu cầu mỗi thành viên WTO phải đối xử các sản phẩm nhập khẩu một cách công bằng như những sản phẩm nội địa của họ một khi sản phẩm nhập khẩu vào bên trong biên giới nước này. b) Bảo hộ thông qua thuế quan: Nguyên tắc quan trọng thứ hai của GATT là mỗi quốc gia thành viên chỉ có thể bảo hộ ngành công nghiệp của nước mình thông qua việc áp dụng thuế quan. Hạn ngạch và các hạn chế định lượng khác bị ngăn cấm áp dụng. c) Minh bạch: Các quy định của thành viên GATT phải được công bố một cách công khai cho các thành viên. Ngoài ra còn có một số nguyên tắc về sự miễn trừ cho một số thành viên khỏi việc tuân thủ các nghĩa vụ của GATT chỉ trong những trường hợp đặc biệt đã được quy định cụ thể và không nhằm mục đích" hạn chế trá hình đối với thương mại quốc tế" và " phân biệt đối xử tuỳ tiện và không lý giải được. Sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Mặc dù đã đạt được những thành công lớn, nhưng đến cuối những năm 80, đầu 90, trước những biến chuyển của tình hình thương mại quốc tế và sự phát triển của khoa học-kỹ thuật, GATT bắt đầu tỏ ra có những bất cập, không theo kịp tình hình. - Thứ nhất, những thành công của GATT trong việc giảm và ràng buộc thuế quan ở mức thấp cộng với một loạt các cuộc suy thoái kinh tế trong những năm 70 và 80 đã thúc đẩy các nước tạo ra các loại hình bảo hộ phi quan thuế khác nhau để đối phó với hàng nhập khẩu; hoặc ký kết các thoả thuận song phương dàn xếp thị trường giữa các chính phủ Tây Âu và Bắc Mỹ, đồng thời nhiều hình thức hỗ trợ và trợ cấp mới đã xuất hiện trong thời gian này. Những biến đổi này có nguy cơ làm giảm và mất đi những giá trị mà việc giảm thuế quan mang lại cho thương mại quốc tế. Trong khi đó, phạm vi của GATT không cho phép đề cập một cách cụ thể và sâu rộng đến các vấn đề này. - Thứ hai, đến những năm 80, GATT đã không còn thích ứng với thực tiễn thương mại thế giới. Khi GATT được thành lập năm 1948, Hiệp định này chủ yếu điều tiết thương mại hàng hoá hữu hình. Từ đó tới nay, thương mại quốc tế đã phát triển nhanh chóng, mở rộng sang cả các lĩnh vực thương mại dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, xây dựng, tư vấn... và các loại hình thương mại dịch vụ này, cùng với các vấn đề thương mại trong đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại đã phát triển nhanh chóng và trở thành một bộ phận quan trọng của thương mại quốc tế. - Thứ ba, trong một số lĩnh vực của thương mại hàng hoá, GATT còn có những lỗ hổng cần phải được cải thiện. Ví dụ, trong nông nghiệp và hàng dệt may, các cố gắng tự do hoá thương mại đã không đạt được thành công lớn. Kết quả là còn rất nhiều ngoại lệ với các quy tắc chung trong hai lĩnh vực thương mại này. - Thứ tư, về mặt cơ cấu tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp, GATT cũng tỏ ra không thích ứng với tình hình thế giới. GATT chỉ là một hiệp định, việc tham gia mang tính chất tuỳ ý. Thương mại quốc tế ở những năm 80 và 90 đòi hỏi phải có một tổ chức thường trực, có nền tảng pháp lý vững chắc để đảm bảo thực thi các hiệp định, quy định chung của thương mại quốc tế. Về hệ thống giải quyết tranh chấp, GATT chưa có một cơ chế điều tiết thủ tục tố tụng chặt chẽ, không đưa ra một thời gian biểu nhất định, do đó, các vụ việc tranh chấp thường bị kéo dài, dễ bị bế tắc. Để thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế một cách hiệu quả, rõ ràng hệ thống này cần phải được cải tiến. Những yếu tố trên, kết hợp với một số nhân tố khác đã thuyết phục các bên tham gia GATT cần phải có nỗ lực để củng cố và mở rộng hệ thống thương mại đa biên. Từ năm 1986 đến 1994, Hiệp định GATT và các hiệp định phụ trợ của nó đã được các nước thảo luận sửa đổi và cập nhật để thích ứng với điều kiện thay đổi của môi trường thương mại thế giới. Hiệp định GATT 1947, cùng với các quyết định đi kèm và một vài biên bản giải thích khác đã hợp thành GATT 1994. Một số hiệp định riêng biệt cũng đạt được trong các lĩnh vực như Nông nghiệp, Dệt may, Trợ cấp, Tự vệ và các lĩnh vực khác; cùng với GATT 1994, chúng tạo thành các yếu tố của các Hiệp định Thương mại đa phương về Thương mại Hàng hoá. Vòng đàm phán Uruguay cũng thông qua một loạt các quy định mới điều chỉnh thương mại Dịch vụ và Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến thương mại. Một trong những thành công lớn nhất của vòng đàm phán lần này là, cuối Vòng đàm phán Uruguay, các nước đã cho ra Tuyên bố Marrakesh thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995. Năm 1999, WTO tổ chức vòng đàm phán thứ 9-Vòng đàm phán Doha tại thành phố Doha (một thành phố của Quatar). Nội dung chính của vòng Doha là bàn biện pháp giảm thuế quan, mở cửa thị trường hàng nông sản, phi nông sản, dịch vụ nhằm thúc đẩy thương mại hóa toàn cầu. Đối với những nước đang phát triển, đây là một vòng đàm phán rất có ý nghĩa, vì nếu Doha kết thúc thì hàng hóa của các nước đang phát triển, chủ yếu là hàng nông sản, sẽ có cơ hội thâm nhập thị trường các nước phát triển do hàng rào thuế quan sẽ được giảm rất lớn. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) Trụ sở chính WTO: Centre William Rappard, Geneva, Thụy Sĩ Cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức của WTO bao gồm (xếp theo thứ tự thẩm quyền từ cao xuống thấp): •    Hội nghị Bộ trưởng: Bao gồm các Bộ trưởng thương mại – kinh tế đại diện cho tất cả các nước thành viên; Họp 2 năm 1 lần để quyết định các vấn đề quan trọng của WTO; •    Đại hội đồng: Bao gồm đại diện tất cả các thành viên; thực hiện chức năng của Hội nghị Bộ trưởng trong khoảng giữa hai kỳ hội nghị của cơ quan này; Đại hội đồng cũng đóng vai trò là Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) và Cơ quan rà soát các chính sách thương mại; •    Các Hội đồng Thương mại Hàng hoá, Thương mại dịch vụ, Các vấn đề Sở hữu trí tuệ liên quan đến Thương mại; Các Uỷ ban, Nhóm công tác: Là các cơ quan được thành lập để hỗ trợ hoạt động của Đại hội đồng trong từng lĩnh vực; tất cả các thành viên WTO đều có thể cử đại diện tham gia các cơ quan này; •    Ban Thư ký: Ban Thư ký bao gồm Tổng Giám đốc WTO, 03 Phó Tổng Giám đốc và các Vụ, Ban giúp việc với khoảng 500 nhân viên, làm việc độc lập không phụ thuộc vào bất kỳ chính phủ nào. Ÿ Ngày 1/9/2013 nhà ngoại giao người Brazil Roberto Azevedo đã chính thức nhậm chức Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thay ông Pascal Lamy kết thúc nhiệm kỳ ngày 31/8/2013. Ông Roberto Azevedo được Đại hội đồng WTO bổ nhiệm vào vị trí người đứng đầu tổ chức thương mại lớn nhất thế giới sau 3 vòng bầu chọn. Ông Azevedo là một trong hai gương mặt lọt vào vòng đề cử cuối cùng với cựu Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp Mexico Herminio Blanco Mendoza. 15/4/2016, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã tiếp Tổng Giám đốc WTO Roberto Azevedo Nguyên tắc hoạt động a/ Thương mại không phân biệt đối xử: Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) b/ Thương mại ngày càng tự do hơn (từng bước và bằng con đường đàm phán) c/ Dễ dự đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch Về phương diện pháp lý, Ðịnh ước cuối cùng của vòng đàm phán Uruguay ký ngày 15-4-1999 tại Marrakesh là một văn kiện pháp lý có phạm vi điều chỉnh rộng lớn nhất và có tính chất kỹ thuật pháp lý phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao và luật pháp quốc tế. Về dung lượng, các hiệp định được ký tại Marrakesh và các phụ lục kèm theo bao gồm 50.000 trang, trong đó riêng 500 trang quy định về các nguyên tắc và nghĩa vụ pháp lý chung của các nước thành viên như sau: Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới; - 20 hiệp định đa phương về thương mại hàng hoá; - 4 hiệp định đa phương về thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp, kiểm điểm chính sách thương mại; - 4 hiệp định nhiều bên về Hàng không dân dụng, mua sắm của chính phủ, sản phẩm sữa và sản phẩm thịt bò; - 23 tuyên bố (declaration) và quyết định (decision) liên quan đến một số vấn đề chưa đạt được thỏa thuận trong vòng đàm phán Uruguay. Tổ chức thương mại thế giới được xây dựng dựa trên bốn nguyên tắc pháp lý nền tảng là: tối huệ quốc; đãi ngộ quốc gia; mở cửa thị trường và cạnh tranh công bằng 3. Mục tiêu: WTO thừa nhận các mục tiêu của GATT, tức là quan hệ giữa các nước thành viên trong thương mại và kinh tế sẽ được tiến hành nhằm: Nâng cao mức sống; Bảo đảm tạo đầy đủ việc làm, đảm bảo tăng trưởng vững chắc thu nhập và nhu cầu thực tế; Phát triển việc sử dụng các nguồn lực của thế giới; Mở rộng sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nhiệm vụ của WTO WTO được thành lập với 04 nhiệm vụ chủ yếu: •    Thúc đẩy việc thực hiện các Hiệp định và cam kết đã đạt được trong khuôn khổ WTO (và cả những cam kết trong tương lai, nếu có); •    Tạo diễn đàn để các thành viên tiếp tục đàm phán, ký kết những Hiệp định, cam kết mới về tự do hoá và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại; •    Giải quyết các tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên WTO; và •    Rà soát định kỳ các chính sách thương mại của các thành viên. Chức năng Theo Hiệp định Marrakesh thành lập WTO, tổ chức này có năm chức năng cơ bản như sau: 1)Tạo thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và tiến hành các mục tiêu của Hiệp định này và các Hiệp định thương mại đa biên khác, cũng như các Hiệp định nhiều bên. 2) Tạo ra diễn đàn đàm phán giữa các nước thành viên về quan hệ thương mại giữa các nước này về các vấn đề được đề cập đến trong các Hiệp định WTO, và thực thi kết quả của các cuộc đàm phán đó. 3) Giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên trên cơ sở Quy định và Thủ tục Giải quyết Tranh chấp. 4) Thực hiện rà soát chính sách thương mại thông qua Cơ chế Rà soát Chính sách Thương mại 5) Nhằm đạt được một sự nhất quán hơn nữa trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, khi thích hợp, WTO sẽ phối hợp với IMF, WB và các cơ quan của các tổ chức này. SO SÁNH GATT VÀ WTO Giống nhau Tổ chức quốc tế quản lý luật lệ giữa các quốc gia trong hoạt động thương mại quốc tế. Lấy MFN (nguyên tắc tối huệ quốc) là nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất – giành sự ưu đãi công bằng cho tất cả quốc gia thành viên. Là hệ thống các quy định quốc tế chung, diễn đàn thương lượng đa phương lớn nhất, cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia thành viên nhằm thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại giữa các thành viên. Nền tảng để xây dựng các vòng đàm phán đa phương giữa các quốc gia thành viên. VD: vòng đàm phán Uruguay (1968-1994) tiến tới thành lập WTO từ GATT. Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác như IMF (Quỹ tiền tệ Quốc tế), WB (Ngân hang thế giới), trong việc hoạch định chính sách và dự báo xu hướng phát triển của kinh tế toàn cầu. Đưa ra một só ngoại lệ (exception) và miễn trừ (waiter) quan trọng đối với MFN khi áp dụng với các nước đang phát triển. Khác nhau Tiêu chí GATT WTO Cơ cấu Không có thể chế, chỉ có ban thư kí nhỏ à thành lập tổ chức thương mại quốc tế vào những năm 40. Cơ cấu rõ ràng: bộ máy tổ chức, thư kí thường trực, 450 nhân viên được lãnh đạo bởi 1 giám đốc và 4 phó giám đốc. Bản chất Áp dụng các hiệp định mang tính tạm thời (thay đổi và bổ sung qua các vòng đàm phán). Là những công cụ đa phương (Plurilateral agreement), áp dụng mang tính chọn lựa. Mang tính cam kết cố định và vĩnh viễn (gồm gói 56 văn kiện Hiệp định mà tất cả các thành viên phải áp dụng). Là những hiệp định đa biên (multilateral agreement), áp dụng mang tính bắt buộc. Phạm vi áp dụng Được áp dụng cho thương mại hàng hóa. Áp dụng cho cả thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ,sở hữu trí tuệ, biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại. Phương thức hoạt động Không quản lý luật lệ thương mại của các thành viên. Giải quyết tranh chấp khó khan không dựa trên cơ chế chuẩn mực. Tổ chức quản lí luật lệ giữa các quốc gia trong hoạt động thương mại. Giải quyết tranh chấp nhanh chóng: có quy trình và thời gian biểu chặt chẽ. B)CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỚI WTO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA WTO ĐẾN VIỆT NAM. I) CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỚI WTO 1)Hiệp định GATT a)Thuế quan - Đàm phán mở cửa thị trường hàng hóa của Việt Namkhi gia nhập WTO tập trung vào vấn đề thuế nhập khẩu và các biện pháp phi thuế. Về thuế nhập khẩu,Việt Nam đã đàm phán với các nước đối tác WTO trong các vấn đề: Ràng buộc tất cả các dòng thuế trong Biểu thuế nhập khẩu (tức là Việt Nam đưa ra cam kết vềcác mức thuế nhập khẩu tối đa có thể áp dụngđối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam) Chỉ dùng thuế nhập khẩu làm công cụ để bảo hộ duy nhất. Cắt giảm thuế nhập khẩu, nhất là đối với cácmặt hàng đang có thuế suất áp dụng cao (haycòn gọi là thuế suất đỉnh) và các mặt hàng màcác nước thành viên WTO khác có lợi ích thương mại lớn Tham gia các hiệp định tự do hoá theo ngànhcủa WTO để cắt giảm toàn bộ thuế áp dụng chongành đó xuống mức 0% (Hiệp định công nghệthông tin, Hiệp định về thiết bị máy bay dân dụng,thiết bị y tế) hoặc hài hoà thuế suất ở mức thấp (Hiệp định hoá chất, Hiệp định hàng dệt may). Sơ lược kết quả đàm phán thuế quan trong WTO của Việt Nam Số dòng thuế có cam kết : toàn bộ Biểu thuế (10.600 dòng); Mức giảm thuế bình quân toàn Biểu thuế : khoảng 23% (từ mức là 17,4% năm 2006 xuống còn 13,4%, thực hiện dần trong vòng 5-7 năm); Số dòng thuế cam kết giảm : khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế); nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị điện-điện tử, thịt (lợn, bò), phụ phẩm; Số dòng thuế giữ ở mức thuế hiện hành (cam kết không tăng thêm): khoảng 3.700 dòng (chiếm 34,5% số dòng của Biểu thuế); Số dòng thuế ràng buộc theo mức thuế trần (cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3.170 dòng thuế (chiếm 30% số dòng của Biểu thuế), chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hoá chất, một số phương tiện vận tải. - Ngoài ra VN còn tham gia vào các hiệp định có mức giảm thuế rất cao. Việt Nam cam kết