Việt công thức tuần hoàn của tư bản tiền tệ

Download Lý luận về tuần hoàn tư bản tiền tệ miễn phí Tư bản tiền tệ đối diện với công nhân với tư cách là một phương diện để mua sức lao động của họ và tư liệu sản xuất; tư bản sản xuất gồm bản thân công nhân; một thoáng những bộ phận cấu thành của tư bản sản xuất; tư bản hàn hóa là sản phẩm lao động của công nhân đã được tách khỏi họ. Tư bản hàng hóa là hàng hóa, nhưng không phải của công nhân mà của nhà tư bản .Tư bản hàng hóa là sự thống nhất biện chứng giữa hàng hóa và tư bản. /tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-34667/

Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

I. Một số vấn đề chung: Khái niệm tuần hoàn tư bản: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tư bản luôn luôn vận động và trong quá trình vận động, nó lớn lên không ngừng. Để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh nhà tư bản không được để tư bản nhàn rỗi, mà phải sử dụng triệt để dưới nhiều hình thức, chức năng khác nhau. Tư bản phải được tuần hoàn và chu chuyển liên tục, hợp lý để kết quả sản xuất kinh doanh thu được lượng tư bản lớn hơn lượng đầu tư ban đầu. Theo Mác - Lênin thì: “Tuần hoàn của tư bản là sự biến chuyển liên tiếp của tư bản qua ba giai đoạn, trải qua ba hình thức, thực hiện ba chức năng tương ứng, để trở về hình thái ban đầu với lượng giá trị lớn hơn” Khái quát chung về ba hình thái của tư bản: Mỗi hình thái của tư bản đều có thể làm điểm mở đầu và làm điểm kết thúc của tuần hoàn, tạo nên ba hình thái tuần hoàn khác nhau của tư bản: Tuần hoàn của tư bản tiền tệ, tuần hoàn của tư bản sản xuất và tuần hoàn của tư bản hàng hoá. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ: T-H … Sx … H’-T’: Biểu thị toàn bộ quá trình lưu thông là sự vận động của tiền tệ, hình thái sản xuất và hình thái hàng hóa chỉ là những khâu trung gian nhất thời giữa T đầu tiên và T’ cuối cùng. Tuần hoàn của tư bản sản xuất: Sx… H’-T’-H … Sx : Biểu thị T và H là những giai đoạn không thể thiếu được và ngắn ngủi trong quá trình sản xuất liên tục. Tuần hoàn của tư bản hàng hóa: H’-T’-H … Sx … H’ : Biểu thị toàn bộ quá trình quay vòng của tư bản là quá trình lưu thông hàng hóa, còn sản xuất và lưu thông tiền tệ chỉ là những tiền đề cần thiết mà nếu không có thì không thể thực hiện được sự lưu thông hàng hóa. Trong tập thứ nhất của bộ Tư Bản, giai đoạn thứ nhất và giai đoạn thứ ba chỉ được nghiên cứu ở mức độ cần thiết để hiểu được giai đoạn thứ hai, tức là quá trình sản xuất của tư bản.Vì thế nên lúc đó, chúng ta chưa bàn đến các hình thái khác nhau của tư bản trong các giai đoạn tuần hoàn khác nhau của nó. II. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ: Đối tượng nghiên cứu: Mác nói : “Tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái phiến diện nhất, và do đó cũng là hình thái nổi bật nhất và đặc trưng nhất trong số những hình thái biểu thị tuần hoàn của tư bản công nghiệp”. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ vừa là hình thái đặc biệt [phiến diện nhất], vừa là hình thái chung nhất[đặc trưng nhất] của sự vận động của tư bản, Mác nghiên cứu tuần hoàn của tư bản tiền tệ vừa như là tuần hoàn của tư bản nói chung, vừa như một tuần hoàn đặc thù-tuần hoàn của chính tư bản tiền tệ. Trong bất cứ tuần hoàn nào, tư bản khi thì khoác lấy, khi thì trút bỏ đi một trong các hình thái của nó.Trong mọi tuần hoàn, chức năng của các hình thái tư bản đều như nhau: ví dụ, trong mọi tuần hoàn, T đều phải chuyển hóa thành: H Slđ Tlsx Đó là chức năng của nó. Nhưng điều này cũng đúng với Sx và H’, tức là các chức năng của chúng không thay đổi, dù chúng là các giai đoạn tuần hoàn của tư bản tiền tệ, của tư bản sản xuất hay tư bản hàng hóa. Những tuần hoàn này khác những tuần hoàn kia ở điểm xuất phát và điểm kết thúc, do đó khác ở trình tự nối tiếp giai đoạn này với giai đoạn khác. Vì vậy, nghiên cứu những biến hóa hình thái và tuần hoàn của những biến hóa hình thái ấy có nghĩa là: nghiên cứu chung cho mọi hình thái tuần hoàn và nghiên cứu tính đặc thù của các hình thái riêng biệt. a. Giai đoạn thứ nhất T-H: - Hình thức và nội dung Một mặt, T-H thuộc về lưu thông hàng hóa nói chung. Mặc khác, T-H đặt cơ sở cho một sự lưu thông đặc biệt, cho tuần hoàn của tư bản tiền tệ. Nói cách khác, T-H vừa là hình thái chung, hình thái của bất cứ hành vi trao đổi nào, vừa là một hình thái đặc biệt của hành vi trao đổi. T-H từ hành vi trao đổi nói chung trở thành hành vi trao đổi đặc biệt là do nội dung vật chất của nó. Vì H phân giải thành Slđ và Tlsx làm biến đổi T-H [thuộc về lưu thông hàng hóa nói chung] thành T-H{Slđ, Tlsx}[thuộc về lưu thông hàng hóa đặc biệt]. Sự phân giải H thành Slđ và Tlsx tất nhiên gây ra sự phân giải T thành hai bộ phận có một tỷ lệ nhất định về lượng. cần mua Tlsx với số lượng đủ cho quá trình lao động, không những trong thời gian lao động tất yếu, mà cả trong thời gian thặng dư nữa. - Tư bản tiền tệ và tư bản sản xuất Chuyển hóa T-H từ hành vi trao đổi nói chung thành hành vi trao đổi đặc biệt T-H{Slđ, Tlsx}, do đó chuyển hóa tiền tệ thành tư bản tiền tê, chuyển hóa tư liệu sản xuất thành các yếu tố của tư bản sản xuất, còn toàn bộ sự tiến hóa hình thái cũng trở thành quá trình chuyển hóa tư bản tiền tệ thành tư bản trong lưu thông. Nói cách khác, quá trình ra đời của tư bản trong lưu thông là một quá trình hai mặt: quá trình chuyển hóa tiền tệ thành tư bản tiền tệ và quá trình chuyển hóa tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất. Nói cách khác, ở đây có sự thay thế hình thái tư bản này bằng hình thái tư bản khác. Trong biến hóa hình thái T-H{Slđ, Tlsx}, tiền tệ được thực hiện với tư cách là tư bản tiền tệ, nhưng sự thực hiện đó biểu hiện ở chỗ giá trị tư bản trút bỏ hình thái tiền tệ của nó và khoác lấy hình thái sản xuất. Kết quả chung của sự thực hiện là tư bản tiền tệ chuyển hóa thành tư bản sản xuất. - Vị trí của T-H trong điều kiện cách sản xuất tư bản chủ nghĩa Tiền tệ trong hình thái chung cũng như trong hình thái đặc biệt của nó chỉ thực hiện những chức năng của tiền tệ thôi. Tiền tệ trong giai đoạn T-H đối với những người mua H{Slđ, Tlsx} là tư bản, nhưng đối với những người khác như công nhân hay người bán TLSX thì chỉ là tiền tệ mà thôi. Sức lao động và tư liệu sản xuất được liên kết lại trong hành vi T-H{Slđ, Tlsx} và trở thành những yếu tố của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hành vi T-H{Slđ, Tlsx} là cách liên kết người lao động với tư liệu sản xuất để tiến hành quá trình sản xuất, cách đó là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. - T-Slđ và T-Tlsx Đặc trưng cho cách sản xuất tư bản chủ nghĩa là hành vi T-Slđ, chứ không phải hành vi T-Tlsx, vì giữa những người sản xuất hàng hóa giản đơn cũng có việc mua bán tư liệu sản xuất. Nhưng hành vi T-Slđ là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản, không phải vì tiền tệ là một phương tiện mua sức lao động, tức là không phải vì sức lao động được đem bán để lấy tiền, mà vì sức lao động nói chung đem ra bán, được coi là hàng hóa. T-Slđ là một hành vi đặc trưng cho chủ nghĩa tư bản không phải tự bản thân nó mà phải gắn liền với T-Tlsx. Trong hành vi T-H{Slđ, Tlsx}, quan hệ giữa công nhân và nhà tư bản, về mặt hình thức, là quan hệ tiền tệ. Trong hành vi T-Slđ, sức lao động đã mua được biểu hiện thành lao động đã mua được, còn giá trị của nó thì biểu hiện thành tiền công. Kết quả là, giữa công nhân và nhà tư bản chỉ có quan hệ tiền tệ mà thôi. b. Giai đoạn thứ hai Sx: - Chức năng của Tư Bản sản xuất

Tư bản sản xuất tức là H{Slđ, Tlsx}, phải được tiêu dùng cho sản xuất. Nhưng ti...

[Last Updated On: 02/04/2022 By Lytuong.net]

Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và quá trình lưu thông. Lưu thông của tư bản, theo nghĩa rộng, là sự vận động của tư bản, nhờ đó mà tư bản lớn lên và thu được giá trị thặng dư. Vận động của tư bản cá biệt xét về mặt chất, đó là tuần hoàn của tư bản; xét về mặt lượng, đó là chu chuyển của tư bản.

Tuần hoàn của tư bản và chu chuyển của tư bản là gì?

1. Tuần hoàn của tư bản

Tư bản công nghiệp [với nghĩa là tư bản trong các ngành sản xuất vật chất] trong quá trình tuần hoàn đều vận động qua ba giai đoạn, tồn tại dưới ba hình thức và thực hiện ba chức năng:

a] Giai đoạn thứ nhất

Nhà tư bản dùng tiền để mua tư liệu sản xuất và sức lao động. Quá trình lưu thông đó được biểu thị như sau:

Chức năng giai đoạn này là biến tư bản tiền tệ thành hàng hóa dưới dạng tư liệu sản xuất và sức lao động để đưa vào sản xuất, gọi là tư bản sản xuất.

b] Giai đoạn thứ hai

Nhà tư bản tiêu dùng những hàng hóa đã mua, tức là tiến hành sản xuất. Trong quá trình sản xuất, công nhân hao phí sức lao động, tạo ra giá trị mới, còn nguyên liệu được chế biến, máy móc hao mòn thì giá trị của chúng được bảo tồn và chuyển dịch vào sản phẩm mới. Quá trình sản xuất kết thúc, lao động của công nhân làm thuê đã tạo ra những hàng hóa mới mà giá trị của nó lớn hơn giá trị các yếu tố sản xuất mà nhà tư bản đã mua lúc ban đầu, vì trong đó có giá trị thặng dư do công nhân tạo ra.

Sự vận động của tư bản ở giai đoạn này biểu thị như sau:

Trong công thức này H’ chỉ tư bản dưới hình thái hàng hóa mà giá trị của nó bằng giá trị của tư bản đã hao phí để sản xuất ra nó cộng với giá trị thặng dư.

Kết thúc của giai đoạn thứ hai: tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư bản hàng hóa.

c] Giai đoạn thứ ba:

Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng. Hàng hóa của nhà tư bản được chuyển hóa thành tiền. Công thức vận động của tư bản ở giai đoạn thứ ba biểu thị như sau:

H’ – T’

Kết thúc giai đoạn ba, tư bản hàng hóa chuyển hóa thành tư bản tiền tệ. Đến đây mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư bản quay trở lại hình thái ban đầu trong tay chủ của nó, nhưng với số lượng lớn hơn trước.

Số tiền bán hàng hóa đó, nhà tư bản lại đem dùng vào việc mua tư liệu sản xuất và sức lao động cần thiết để tiếp tục sản xuất và toàn bộ quá trình trên được lặp lại.

Tổng hợp quá trình vận động của tư bản công nghiệp trong cả ba giai đoạn ta có sơ đồ sau đây:

Trong sơ đồ này, với tư cách là một giá trị, tư bản đã trải qua một chuỗi biến hoá hình thái có quan hệ với nhau, quy định lẫn nhau. Trong các giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất.

Tuần hoàn của tư bản là sự vận động của tư bản trải qua ba giai đoạn, lần lượt mang ba hình thái, thực hiện ba chức năng rồi trở về hình thái ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn tăng lên.

Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường trong điều kiện các giai đoạn khác nhau của nó không ngừng được chuyển tiếp. Mặt khác, tư bản phải nằm lại ở mỗi giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Vì vậy, sự vận động tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục không ngừng; đồng thời là sự vận động đứt quãng không ngừng.

Phù hợp với ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản có ba hình thái của tư bản công nghiệp: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa.

Để tái sản xuất diễn ra một cách bình thường thì tư bản xã hội cũng như từng tư bản cá biệt đều tồn tại cùng một lúc dưới cả ba hình thái. Tái sản xuất của mọi doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa trong cùng một lúc đều gồm có: tư bản tiền tệ chi ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động; tư bản sản xuất dưới hình thái tư liệu sản xuất và sức lao động đang hoạt động; tư bản hàng hóa sắp đưa ra bán. Đồng thời, trong lúc một bộ phận của tư bản là tư bản tiền tệ đang biến thành tư bản sản xuất, thì một bộ phận khác là tư bản sản xuất đang biến thành tư bản hàng hóa và bộ phận thứ ba là tư bản hàng hóa đang biến thành tư bản tiền tệ. Mỗi bộ phận ấy đều lần lượt mang lấy và trút bỏ một trong ba hình thái đó.

Ba hình thái của tư bản không phải là ba loại tư bản khác nhau, mà là ba hình thái của một tư bản công nghiệp biểu hiện trong quá trình vận động của nó. Song cũng trong quá trình vận động ấy đã chứa đựng khả năng tách rời của ba hình thái tư bản. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, khả năng tách rời đó đã làm xuất hiện tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay, hình thành các tập đoàn khác nhau trong giai cấp tư bản: chủ công nghiệp, nhà buôn, chủ ngân hàng… chia nhau giá trị thặng dư.

2. Chu chuyển của tư bản

Chu chuyển của tư bản là sự tuần hoàn của tư bản nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới, và lặp đi lặp lại không ngừng. Chu chuyển của tư bản nói lên tốc độ vận động của tư bản cá biệt.

a] Thời gian chu chuyển của tư bản

Thời gian tư bản thực hiện được một vòng tuần hoàn gọi là thời gian chu chuyển của tư bản.

Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.

Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm ở trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian sản xuất bao gồm: thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất. Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của các nhân tố sau:

  • Tính chất của ngành sản xuất, như ngành đóng tàu thời gian sản xuất nhất định phải dài hơn ngành dệt vải; dệt thảm trơn thời gian ngắn hơn dệt thảm trang trí hoa văn.
  • Quy mô hoặc chất lượng các sản phẩm, như xây dựng một xí nghiệp mất thời gian dài hơn xây dựng một nhà ở thông thường.
  • Thời gian vật sản xuất chịu tác động của quá trình tự nhiên dài hay ngắn.
  • Năng suất lao động.
  • Dự trữ sản xuất đủ hay thiếu.
  • – v.v..

Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không sản xuất ra hàng hóa, cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán hàng hóa. Thời gian lưu thông dài hay ngắn là do các nhân tố sau đây quy định: thị trường xa hay gần, tình hình thị trường xấu hay tốt, trình độ phát triển của ngành giao thông vận tải…

Thời gian chu chuyển của tư bản càng ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng dư được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.

b] Tốc độ chu chuyển của tư bản

Các tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thì số lần chu chuyển trong một đơn vị thời gian [một năm] không giống nhau, nói cách khác, tốc độ chu chuyển của chúng khác nhau.

Tốc độ chu chuyển của tư bản đo bằng số lần [vòng] chu chuyển của tư bản trong một năm.

Ta có công thức tính tốc độ chu chuyển của tư bản như sau:

n = [TGn / TGa]

Trong đó:

  • n: Số lần chu chuyển của tư bản trong 1 năm.
  • TGn: Thời gian trong năm.
  • TGa: Thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định

Như vậy, tốc độ chu chuyển của tư bản tỉ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản. Muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của nó.

Lực lượng sản xuất phát triển, kỹ thuật tiến bộ, những tiến bộ về mặt tổ chức sản xuất, việc áp dụng những thành tựu của hoá học, sinh học hiện đại vào sản xuất, phương tiện vận tải và bưu điện phát triển, tổ chức mậu dịch được cải tiến… cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của tư bản, do đó, tăng tốc độ chu chuyển của tư bản.

Video liên quan

Chủ Đề