Kiểu nhà nước ra đời sau thay the kiểu nhà nước trước mang tính
Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự thay thế kiểu nhà nước Show 1 – Kiểu nhà nước là gì?Kiểu nhà nước là tổng thể những đặc điểm, đặc thù của một nhóm nhà nước, qua đó phân biệt với nhóm nhà nước khác. 2 – Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về kiểu nhà nướcTheo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì có thể phân chia kiểu nhà nước dựa vào sự phân chia các hình thái kinh tế – xã hội. Mác phân chia lịch sử phát triển của xã hội loài người thành 5 giai đoạn tương ứng với 5 hình thái kinh tế – xã hội là cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Mỗi hình thái kinh tế – xã hội đó có một kiểu quan hệ sản xuất riêng biệt, đặc trưng cho xã hội đó, đồng thời có một cơ sở hạ tầng và một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Trong thượng tầng kiến trúc của xã hội có giai cấp luôn tồn tại nhà nước. Do vậy, tương ứng với một hình thái kinh tế – xã hội có giai cấp là một kiểu nhà nước, đó là các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản và xã hội chủ nghĩa. Mỗi kiểu nhà nước trên là một loại hay một nhóm nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Như vậy, căn cứ để xác định kiểu nhà nước chính là hình thái kinh tế -xã hội mà nhà nước đã ra đời, tồn tại và phát triển. Đặc điểm của mỗi kiểu nhà nước là do kiểu quan hệ sản xuất đặc thù trong xã hội tương ứng quy định. Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, sự thay thế kiểu nhà nước này bằng kiểu nhà nước khác tiến bộ hơn là một quy luật tất yếu, phù hợp với quy luật thay thế các hình thái kinh tế – xã hội. Cụ thể, kiểu nhà nước phong kiến ra đời để thay thế cho kiểu nhà nước chủ nô, kiểu nhà nước tư sản ra đời đế thay thế cho kiểu nhà nước phong kiến và kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời để thay thế cho kiểu nhà nước tư sản. Kiểu nhà nước sau luôn tiến bộ hơn kiểu nhà nước trước vì nó được xây dựng trên cơ sở quan hệ sản xuất phù hợp hơn với trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển cao hơn, cơ sở xã hội của nhà nước rộng rãi hơn; xung đột giai cấp trong xã hội đó thường đỡ gay gắt hơn. Tuy nhiên, đối với mỗi nước cụ thể, do điều kiện lịch sử khách quan, có thể bỏ qua một hoặc một số kiểu nhà nước nhất định (ví dụ: nhà nước ở Việt Nam không có kiểu nhà nước chủ nô và kiểu nhà nước tư bản chủ nghĩa). Nguyên nhân sâu xa của sự thay thế kiểu nhà nước là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong một phương thức sản xuất xã hội. Khi mâu thuẫn này được giải quyết thì phương thức sản xuất mới được thiết lập, cùng với nó có một kiểu kiến trúc thượng tầng mới và tương ứng là một kiểu nhà nước mới. Lịch sử cho thấy, có nhiều con đường đưa đến sự thay thế các kiểu nhà nước, có thể thông qua cách mạng xã hội dưới hình thức khởi nghĩa vũ trang, cũng có thể thông qua các cuộc cải cách xã hội một cách toàn diện và triệt đế, trong đó kiểu quan hệ sản xuất cũ dần dần bị thay thế bởi kiểu quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn. Đó chính là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định. Thực tế, sự phát triển của nhà nước rất đa dạng và phức tạp, do vậy, sự phân chia kiểu nhà nước theo tiêu chí này chỉ có ý nghĩa tương đối bởi vì: Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế – xã hội là cả một quá trình, từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác đều phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ đó sẽ có những nhà nước không thuộc vào kiểu nào trong bốn kiểu nhà nước đã nêu. Đó là những nhà nước hình thành ở thời kỳ mà các giai cấp đang đấu tranh với nhau đã đạt tới một thế cân bằng lực lượng hoặc các lực lượng xã hội khác nhau có thể tạm thời hoà hoãn với nhau vì một mục đích chung nào đó khiến cho chính quyền nhà nước tạm thời có sự độc lập nhất định đối với các giai cấp, các lực lượng xã hội, tựa hồ như một bên trung gian đứng giữa các giai cấp, lực lượng đó. Ví dụ: Chế độ quân chủ chuyên chế ở thế kỷ XVII và XVIII, chế độ Bô-na-pac của Đế chế thứ nhất và thứ hai ở Pháp, chế độ Bi-xmac ở Đức,… Như vậy, giữa các kiểu nhà nước không thể có ranh giới tách bạch, dứt khoát về mặt thời gian tại một thời điểm nhất định. Ngay trong cùng một kiểu, nhà nước ở thời kỳ đầu của mỗi hình thái kinh tế – xã hội có thể có nhiều điểm khác biệt so với nhà nước ở thời kỳ sau đó. Các ví dụ và quan điểm trong bài viết này có thể không thể hiện tầm nhìn toàn cầu về chủ đề này. Vui lòng giúp cải thiện bài viết này hoặc thảo luận về vấn đề này tại trang thảo luận, hoặc tạo bài viết mới sao cho phù hợp. Đừng nhầm lẫn với Quốc gia. Nhà nước, hiểu theo nghĩa pháp luật thì tương đương với một quốc gia, là một tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà nước vì thế mang bản chất giai cấp. Nhà nước xuất hiện kể từ khi xã hội loài người bị phân chia thành những lực lượng giai cấp đối kháng nhau; nhà nước là bộ máy do lực lượng nắm quyền thống trị (kinh tế, chính trị, xã hội) thành lập nên nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy toàn bộ hoạt động của xã hội trong một quốc gia do vậy nhà nước mang vai trò xã hội, trong đó chủ yếu để bảo vệ các quyền lợi của lực lượng thống trị. Nhà nước xuất hiện khi có chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xuất hiện những giai cấp đối kháng nhau do vậy mà nó cần một tổ chức chính trị đứng ra để điều hòa những mâu thuẫn ấy và để quản lí xã hội.
Bài chi tiết: Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa Mác-Lênin Theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin, nhà nước mang bản chất giai cấp. Nhà nước chỉ ra đời từ khi xã hội phân chia giai cấp. Giai cấp nào thì nhà nước đó. Do trong xã hội nguyên thủy không có phân chia giai cấp, nên trong xã hội nguyên thủy không có Nhà nước. Cho đến nay, đã có 4 kiểu Nhà nước được hình thành: Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước vô sản (Nhà nước xã hội chủ nghĩa). Nhà nước được giai cấp thống trị thành lập để duy trì sự thống trị của giai cấp mình, để làm người đại diện cho giai cấp mình, bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Bản chất nhà nước có hai thuộc tính: tính xã hội và tính giai cấp cùng tồn tại trong một thể thống nhất không thể tách rời và có quan hệ biện chứng với nhau. Tính giai cấp là thuộc tính cơ bản, vốn có của bất kỳ nhà nước nào. Nhà nước ra đời trước hết phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị; tính xã hội của nhà nước thể hiện ở chỗ nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội, và ở mức độ này hay mức độ khác nhà nước thực hiện bảo vệ lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gia dân tộc và công dân mình. Theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin, nhà nước có năm đặc trưng cơ bản sau đây:
Bộ máy nhà nước được tổ chức thành các cơ quan nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng Nhà nước. Có thể phân loại thành ba hệ thống cơ quan Nhà nước, đó là hệ thống các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
Các cơ quan Nhà nước khác với các tổ chức xã hội khác là có quyền lực Nhà nước, có nhiệm vụ, chức năng Nhà nước và thẩm quyền theo quy định của pháp luật (nghĩa là chỉ được làm những việc luật cho phép), có hình thức hoạt động theo quy định của pháp luật. Hình thức của Nhà nước được xác định thông qua chính thể, cấu trúc lãnh thổ và chế độ chính trị. Hình thức theo chủ quyền
Hình thức chính thểTheo nguyên thủMachiavelli (1469-1527) phân chia hình thức nhà nước theo cách thức mà người đứng đầu nhà nước (president of the state/ Staatsoberhaupt) được lập nên: Nhà nước Cộng hòa (Republik), tức người đứng đầu nhà nước qua bầu cử và Nhà nước quân chủ (Monarchie), tức người đứng đầu nhà nước qua cha truyền con nối.
Hình thức cấu trúc
Chế độ chính trịChế độ chính trị của nhà nước có hai dạng:
Kiểu nhà nước
Tổng cộng có 195 nước được Liên Hợp Quốc công nhận là các quốc gia có chủ quyền. Trong đó 193 nước là thành viên của Liên Hợp Quốc cùng với Thành quốc Vatican và Nhà nước Palestine. Tòa Thánh (không phải Thành quốc Vatican)[2] và Nhà nước Palestine được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc cho quyền quan sát. Các nước không được Liên Hợp Quốc công nhận, nhưng được thiểu số các nước trên thế giới công nhận gồm:
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nhà_nước&oldid=69042756” |