Doanh hề là ai
(Bạn hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để trả lời bài viết.) Tần Thủy Hoàng, tên huý là Chính, họ Doanh, thị Triệu, là vị vua thứ 36 của nước Tần, đồng thời là hoàng đế đầu tiên thống nhất Trung Hoa sau khi tiêu diệt sáu nước chư hầu, chấm dứt thời kỳ Chiến Quốc vào năm 221 TCN. Về vấn đề tại sao 2 người con trai của Tần Thủy Hoàng đề không mang họ Doanh như cha, thực ra nghe có vẻ khó hiểu nhưng lại có cách lý giải cụ thể khá đơn giản. Thứ nhất, gọi Tần Thủy Hoàng là Doanh Chính là một cách gọi sai vào thời đại Tiên Tần Chúng ta luôn thuận miệng gọi Tần Thủy Hoàng là Doanh Chính Tần Vương, thực ra đây là một cách gọi không đúng. Tại sao lại như vậy? "Doanh" là họ của vua Tần Thủy Hoàng, "Chính" là tên của ông, trong thời đại ngày nay, họ + tên đương nhiên gọi là "Doanh Chính". Tuy nhiên, thời Tiên Tần tên họ của mỗi người không được gọi như vậy. Thời Tiên Tần không gọi một người bằng họ + tên. Trong tình huống thông thường sẽ là thị + tên. (Thời xưa phân biệt họ (姓) có nguồn mẫu hệ - dòng dõi của bên mẹ và (thị) 氏 có nguồn phụ hệ - dòng dõi người cha) Họ và thị ngày nay không còn tách biệt nữa mà gọi chung là họ. Nhưng vào thời Tiên Tần có sự phân biệt rất rõ ràng. Sự khác biệt giữa hai điều này tương đương với sự khác biệt giữa một gia tộc lớn và một gia tộc nhỏ. Ví dụ như họ Doanh, không chỉ có nước Tần có họ Doanh mà nước Triệu cũng có họ Doanh, hai nước có chung một tổ tiên nhưng có lẽ chúng ta chưa từng nghe đến một ông vua nào của nước Triệu được gọi là "Doanh XX", nguyên nhân là bởi họ thời đó không được dùng để xưng hô. Thứ hai, không gọi là "Doanh Chính" thì sẽ gọi là gì? Không gọi Tần Thủy Hoàng là Doanh Chính thì nên gọi ông bằng cái tên nào đây? Trong "Sử ký" có nói rằng, sau khi Tần Thủy Hoàng được sinh ra, lấy Thị là Triệu, gọi là Triệu Chính. Vậy cách gọi Triệu Chính có đúng hay không? Cách gọi này đúng mà cũng không đúng. Việc nghiên cứu dòng họ thời Tiên Tần vô cùng phức tạp. Dưới đây là một ví dụ sơ bộ. Phía trước tên không thêm "Thị" trong các tình huống sau: Tình huống thứ nhất, các ông vua thường lấy tên nước chứ không lấy Thị. Một khi lên làm vua một nước, sẽ không dùng "Thị" trước đây nữa, mà đổi thành tên của đất nước. Ví dụ trước đây Tần Thủy Hoàng được gọi là Triệu Chính, nhưng sau khi lên làm Tần vương thì không thể gọi ông là Triệu Chính nữa, mà gọi là "Tần Vương Chính" hoặc là "Tần Chính". Tình huống thứ hai, Công tử được gọi theo tên nước thay vì Thị. Công tử chính là con trai của vua, cũng không thêm họ mà thêm tên nước. Tình huống thứ ba, Công tôn cũng được gọi theo tên nước thay vì Thị. Công tôn chính là con trai của Công tử, cũng không thêm họ mà thêm tên nước như Công Tử. Như vậy, sẽ có thời điểm không thể gọi Tần Thủy Hoàng là "Triệu Chính". Khi Tần Thủy Hoàng được sinh ra, ông cố của ông là Tần Chiêu Vương, ông nội An Quốc quân là Thái tử, chính là "Công tử", còn cha là Doanh Tử Sở là con trai của An Quốc quân, chính là "Công tôn". Chân dung Tần Thủy Hoàng. Tần Vương, Công tử, Công tôn đều không thêm "Thị" trước tên của mình. Khi Tần Thủy Hoàng vừa mới ra đời, thì ông là đời thứ tư, không thuộc vào hàng ngũ "Vua", "Công tử", "Công tôn", vì vậy có thể có "Thị", lấy "Triệu" làm Thị của mình, gọi là Triệu Chính. Tuy nhiên, cách gọi tên cũng sẽ thay đổi theo thân phận của ông. Sau khi trở thành "Công tôn", "Công tử", thì không thể dùng Thị "Triệu" nữa, mà nên gọi là "Công Tôn Chính", "Công Tử Chính", hoặc là thêm một chữ "Tần", sẽ thành "Tần Công Tử Chính", "Tần Công Tôn Chính". Sau khi trở thành vua một nước thì gọi là "Tần Vương Chính". Thứ ba, Phù Tô và Hồ Hợi đều là tên, không có Thị Phù Tô và Hồ Hợi đều là con trai của vua Tần Thủy Hoàng. Phù Tô không phải họ "Phù" tên "Tô", Hồ Hợi cũng không phải họ "Hồ" tên "Hợi". Phù Tô và Hồ Hợi đều là tên chứ không liên quan đến họ. Có người gọi Phù Tô là "Doanh Phù Tô", gọi Hồ Hợi là "Doanh Hồ Hợi", là chưa đúng. Phù Tô và Hồ Hợi đều là Hoàng tử, nhưng dựa theo truyền thống thì vẫn gọi là "Công tử". Bởi vì, cách gọi chính xác của Phù Tô là "Công Tử Phù Tô" hoặc "Tần Công Tử Phù Tô", và cách gọi chính xác của Hồ Hợi là "Công Tử Hồ Hợi" hoặc "Tần Công Tử Hồ Hợi". Chính bởi cách gọi này mà trong tên của 2 người con Tần Thủy Hoàng không có sự xuất hiện của họ Doanh. Chuyện thật như đùa, phiên bản cosplay gái xinh My Hero Academia còn nóng bỏng hơn cả bản gốc Theo Pháp luật và bạn đọc Copy link
Link bài gốc Lấy link Xem các nghĩa khác tại Tần. Tần (tiếng Trung Quốc: 秦; PinYin: Qin, Wade-Giles: Qin hoặc Ch'in) (778 TCN-221 TCN) là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. Cuối cùng nó đã lớn mạnh giữ vị trí thống trị toàn bộ các nước và lần đầu tiên thống nhất Trung Quốc, từ thời điểm này nó được gọi là Nhà Tần. Họ của gia đình hoàng gia nước Tần là Doanh (嬴). Thời Tây ChuTheo truyền thuyết, các quân chủ nước Tần là hậu duệ Chuyên Húc nhưng không phải ngành dọc mà là ngành ngang. Cháu gái Chuyên Húc là Nữ Tu đang ngồi dệt vải thì bỗng nhiên trên trời có con chim én bay ngang đẻ trứng, quả trứng rơi trúng miệng Nữ Tu bấy giờ đang ngẩng mặt lên há ngáp. Từ đó Nữ Tu thụ thai rồi sinh ra người con trai đặt tên là Đại Nghiệp, Đại Nghiệp còn gọi là Cao Dao lấy con gái bộ lạc Thiếu Điển là Nữ Hoa mà sinh ra Đại Phí. Đại Phí còn gọi là Bá Ích làm quan ở nước Hữu Ngu có công lớn được Đế Thuấn ban thưởng cho Diêu Khương Nữ và phong ấp Doanh ăn lộc, từ đó hậu duệ Bá Ích lấy họ Doanh. Trước đây vua Vũ nhà Hạ định nhường ngôi cho Cao Dao là người hiền nhưng Cao Dao đã chết trước vua Vũ nên ông quyết định truyền cho con của Cao Dao là Bá Ích, khi vua Vũ mất Bá Ích chủ trì quốc tang 3 năm rồi trao lại ngôi cho con vua Vũ là Khải (có thuyết nói rằng Khải không nghe lời cha mà đoạt ngôi của Bá Ích). Bá Ích sinh Đại Liêm, Đại Liêm còn gọi là Nhược Mộc được vua Khải phong cho làm vua nước Từ hiệu là Điểu Tục thị. Hậu duệ 5 đời Đại Liêm là Mạnh Sác sống dưới thời Thái Mậu Đế tức vua Trung Tông nhà Thương, em Mạnh Sác là Trung Diễn giữ chức quan trong triều đình. Hậu duệ 5 đời Trung Diễn là Trung Quyết làm quan dưới thời Thương đế Ất, con Trung Quyết là Phi Liêm tiếp tục làm quan cho Thương Trụ Vương. Phi Liêm cùng với con trai trưởng là Ác Lai phò tá Thương Trụ chống lại Chu Vũ vương nên đều bị giết. Con cháu Phi Liêm ly tán, phân thành 2 dòng chính, về sau hình thành nên tổ tiên của các quân chủ của nước Tần và nước Triệu. Ác Lai sinh Nữ Phòng, Nữ Phòng sinh Bàng Cao, Bàng Cao sinh Thái Cơ, Thái Cơ sinh Đại Lạc, Đại Lạc sinh Phi Tử. Phi Tử làm nghề chăn ngựa ở đất Khuyển Khâu, được Chu Hiếu vương triệu kiến và giao cho việc cai quản nghề chăn ngựa ở vùng đất giữa 2 sông Thiên Thủy và Vị Thủy. Nhờ có thành tích, Phi Tử được Chu Hiếu vương phong cho ấp Tần, làm phụ dung cho nhà Chu. Quyền lực của nước Tần bắt đầu tăng lên từ thời điểm vua nhà Chu (người theo danh nghĩa là vua trên toàn bộ Trung Quốc) phong tước Công cho vua Tần sau khi quân đội Tần tham gia bảo vệ cho vua Chu khi ông phải bỏ chạy và di chuyển kinh đô trước các cuộc tấn công của bộ tộc Khuyển Nhung phía Bắc vào năm 771 TCN.
Tần (秦) Tấn (晋) Yên (北燕) Tề (齐) Sở (楚) Ngô (吴) Cử (莒) Lỗ (鲁) Tống (宋) Vệ (卫) Trịnh (郑) Ba (巴) Đất do thiên tử nhà Chu cai quản Tần tiếp tục phát triển trở nên hùng mạnh hơn trong những thế kỷ tiếp sau. Các vị vua Tần thực hiện nhiều dự án nhằm thúc đẩy sự cường thịnh của quốc gia như đào các kênh tưới tiêu và xây dựng các thành quách phòng thủ kiên cố. Do lãnh địa cai trị của các vua Tần chủ yếu thuộc địa bàn các bộ tộc được cho là con cháu của tộc Nhung ở thảo nguyên và mới chỉ tiếp xúc với văn hóa nhà Chu. Những yếu tố đó khiến nó khá khác biệt so với các nước chư hầu khác ở Trung Quốc thời điểm ấy và ngay từ khi mới thành lập, Tần đã luôn đối mặt với nguy cơ đối nghịch từ mọi phía. Sự kiện đáng chú ý nhất trong lịch sử Tần trước thế kỷ thứ 3 TCN là sự xuất hiện của Thương Ưởng. Thương Ưởng là một người tin tưởng nhiệt thành vào các triết lý hệ phái Pháp gia, mà sau này Hàn Phi Tử, một quý tộc của nước Hàn đã hệ thống thành hệ tư tưởng Pháp gia. Pháp gia cho rằng tất cả mọi người đều bình đẳng và rằng luật pháp chặt chẽ và sự trừng phạt hà khắc là cần thiết để giữ gìn trật tự xã hội. Thương Ưởng trở thành tể tướng Tần thời Tần Hiếu công và dần biến nước này trở thành một bộ máy hùng mạnh, được quản lý chặt chẽ, mục tiêu duy nhất của quá trình này là hạn chế mọi đối thủ. Thương Ưởng loại bỏ quý tộc và đưa ra một hình mẫu chính quyền do người tài cầm đầu - chỉ những người có chiến công, thành tích mới được giữ các chức vụ cao và đặc quyền gia tộc chỉ còn được giữ duy nhất cho hoàng gia. Khi thực hiện kế hoạch này, Thương Ưởng đã khiến nhiều kẻ bất bình, và ngay sau cái chết của Tần Hiếu Công, ông phải bỏ chạy khỏi triều đình và bị giết. Tuy nhiên, những cải cách theo đường lối Pháp gia của Thương Ưởng rõ ràng đã mang lại nhiều lợi ích và những nhà vua về sau này không dại dột mà thay đổi các chính sách đó. Một trong những kết quả dễ nhận thấy nhất của chương trình cải cách là quân sự. Trước đó, quân đội do quý tộc kiểm soát và là đội quân phong kiến. Từ thời Thương Ưởng, các vị tướng có thể xuất thân từ bất kỳ tầng lớp nào trong xã hội, chỉ cần họ có đủ tài năng. Hơn nữa, quân lính được huấn luyện tốt và có kỷ luật. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là quân đội Tần luôn luôn có ưu thế số lượng vượt trội và được nhà nước hậu thuẫn nhiều. Kết quả của nhiều dự án công cộng với mục tiêu thúc đẩy nông nghiệp khiến Tần có khả năng cung cấp và duy trì cho một lực lượng quân đội lên tới hơn một triệu người - một con số mà không một nước chư hầu nào khác (có lẽ trừ Sở, một nước hùng mạnh khác, về danh nghĩa vẫn là chư hầu của nhà Chu, dù đã tự xưng Vương và xem mình ngang hàng với vua Chu) có thể đạt tới. Tất cả chúng đã tạo ra những sự thay đổi to lớn; những sự biến đổi mang tính cách mạng trong phương thức tiến hành chiến tranh của Tần chỉ diễn ra ở Châu Âu vào thời Cách mạng Pháp, hai ngàn năm sau. Có được lực lượng quân sự hùng mạnh đó, Tần dần tiêu diệt các nước chư hầu nhỏ bên cạnh và từ thời Tần Huệ Văn vương về sau, vua Tần bỏ tước Công mà xưng Vương. Năm 260 TCN, tất cả các nước chư khầu khác nhận thấy toàn bộ tầm vóc mà các cuộc cải cách ở Tần mang lại trong phương pháp tiến hành chiến tranh. Tất cả những kiểu cách lịch sự quý tộc đã bị loại bỏ nhường chỗ cho ưu tiên về tính hiệu quả. Sau trận Trường Bình, các tướng Tần đã ra lệnh hành quyết 400.000 tù binh chiến tranh nước Triệu. Tới giữa thế kỷ thứ 3 Tần đã bắt đầu thực hiện nhiều dự án to lớn khác khiến vị trí ưu việt của họ ngày càng được củng cố vững chắc. Nước Hàn sợ Tần mở rộng về phía Đông sẽ gây hại đến mình vì thế vua Hàn tìm cách phá hoại Tần không phải bằng quân đội, vì lực lượng quá chênh lệch, mà bằng các kỹ sư thuỷ lợi. Tần có khuynh hướng xây dựng những kênh đào to lớn, một ví dụ là hệ thống tưới sông Mân. Hàn bèn gửi kỹ sư Trịnh Quốc tới triều đình Tần nhằm thuyết phục vua Tần đổ các nguồn tài lực của họ vào các kênh đào còn lớn hơn nữa. Tần đồng ý xây dựng kênh, nhưng không may thay cho Hàn, kế hoạch của họ mang lại hiệu quả trái ngược. Dù nó thực sự đã làm chậm bước tiến của Tần, cùng lúc ấy nó lại không thể tiêu diệt bớt nguồn tài lực của họ và cái gọi là kênh Trịnh Quốc hoàn thành năm 246 TCN, tất cả chi phí bỏ ra đã được thu về đầy đủ với một khoản lời kếch sù khác. Nhờ thế, Tần trở thành nước trù phú nhất Trung Quốc và lại có khả năng cung cấp thêm lương thực cho hàng trăm ngàn binh sĩ nữa.
Tới thời điểm ấy, từ con số hàng ngàn, các nước chư hầu đã giảm xuống chỉ còn bảy nước lớn. Hai nước mạnh nhất là Tần và Sở. Tuy nhiên, Sở không có nhiều ưu thế, bởi vì nó không mở rộng thêm lãnh thổ được vì các nước đệm xung quanh toàn là nước mạnh. Trái lại Tần dễ dàng sáp nhập các nước chư hầu yếu xung quanh và dù cuối cùng Sở đã thắng nước Việt vào cuối thế kỷ thứ 4, thì nước này cũng phải chịu nhiều tổn thất quân sự. Dù có những điều đó, Sở vẫn là một đối thủ tiềm tàng đối với việc phát triển quyền lực của Tần. Hai đối thủ khác của Tần là Triệu và Hàn - cả hai đều mạnh, nhưng họ lại không bao giờ trở thành những mối đe doạ thực sự với Tần, cùng với đội quân đông đảo của họ. Hơn nữa, vẫn còn cái bóng của thiên tử nhà Chu, trên lý thuyết vẫn còn đang cai trị Trung Hoa. Năm 256 TCN, cuối cùng vấn đề này cũng kết thúc khi Tần tiêu diệt nhà Chu. Hành động này gửi một tín hiệu rõ ràng tới các nước chư hầu kia: Tần đang có ý định thống trị Trung Quốc. Năm 247 TCN Doanh Chính 13 tuổi đã lên ngôi vua Tần. Mười bảy năm sau, Doanh Chính đã bắt đầu một cuộc chiến tranh cuối cùng, nhằm giành lấy uy quyền tối cao với tất cả các chư hầu khác, bắt đầu từ nước Hàn. Quân đội Tần dễ dàng đánh bại Hàn rồi quay sang Triệu, một đất nước đã suy yếu từ khi quân đội của họ bị tiêu diệt 30 năm trước đó trong trận Trường Bình. Triệu rơi vào tay Tần năm 228 TCN, và ngay sau đó, Nguỵ cũng bại trận. Tới lúc ấy, thắng lợi tuyệt đối của Tần đã gần kề. Tuy nhiên, vẫn còn đó một đối thủ mạnh sau cùng - nước Sở Khi ấy, hai đội quân đông đảo nhất trong lịch sử thế giới cho tới tận thời điểm Cách mạng Pháp đã lao vào trận chiến giành ngôi vị thống lĩnh Trung Quốc. Năm 223 TCN, Sở bị tiêu diệt, và việc Tần thống nhất Trung Quốc không còn tránh được nữa. Vài tháng sau họ tiêu diệt và sáp nhập nước Yên. Khi ấy, chỉ còn lại duy nhất nước Tề, và nhận thấy tình huống của mình không còn cứu vãn được nữa, Tề đầu hàng mà không chống cự. Năm 221 TCN, một trong những năm quan trọng nhất trong lịch sử Trung Quốc, vua Doanh Chính nước Tần không chỉ tuyên bố mình là vua cai trị Trung Hoa mà còn lấy danh hiệu chưa từng có cho đến thời điểm bấy giờ (bắt nguồn từ các truyền thuyết về Hoàng Đế và các nhân vật thần thoại khác) Hoàng đế Trung Quốc. Ông đã đổi tên hiệu thành Thủy Hoàng Đế, có nghĩa Hoàng đế đầu tiên, và ra lệnh mọi vị vua tiếp sau của triều đại ông đều phải theo truyền thống đó, lấy danh hiệu theo thế hệ cai trị của mình, Nhị Thế, Tam Thế, cho đến muôn đời. Biểu thời gian
Các vị vua
Xem thêm
Tham khảo
(Nguồn: Wikipedia) |