Dầu mỡ khác nhau ở điểm cầu tạo trạng thái như thế nào tại sao người già không nên ăn nhiều mỡ

Cách phân biệt mỡ và dầu, mỡ và dầu dùng cái nào tốt hơn

18946 lượt xem

Tại sao người già không nên ăn nhiều mỡ?

Người lớn tuổi nên tránh ăn mỡ động vật và các thực phẩm chiên rán, thức ăn nhanh vì những lý do sau:

1. Chúng chứa quá nhiều calo

Người già cần chú trọng quản lý cân nặng để ngăn ngừa các bệnh tim mạch và tiểu đường. Trong khi đó, mỡ động vật và đồ ăn chiên rán lại chứa một lượng calo khá lớn. Nếu ăn những thực phẩm này thường xuyên, người cao tuổi sẽ có nguy cơ thừa cân, làm tăng rủi ro dẫn đến các bệnh lý nguy hiểm.

2. Ít chất dinh dưỡng

Cách chế biến thức ăn ở nhiệt độ cao [chiên, nướng…] sẽ phá vỡ cấu trúc thành phần dinh dưỡng có trong thực phẩm. Việc tiêu thụ một chén đậu bắp chiên sẽ cung cấp lượng dưỡng chất ít hơn nhiều so với một chén rau tươi. Để tối đa hóa lượng vitamin nạp vào cơ thể, người cao tuổi nên tuân theo chế độ “ăn sạch” – tức sử dụng các thực phẩm ở trạng thái tự nhiên, ít qua chế biến nhất có thể.

Bên cạnh đó, khi khẩu phần ăn quá nhiều mỡ, bạn sẽ khó đưa vào thực đơn các thực phẩm lành mạnh tốt cho sức khỏe. Điều này khiến bữa ăn hàng ngày của bạn kém đa dạng, thiếu cân bằng, thiếu dưỡng chất cần thiết.

3. Làm tăng cholesterol, tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch

Phần lớn những lời giải thích phổ biến cho việc tại sao người lớn tuổi không nên ăn mỡ động vật đều xoay quanh chủ đề tim mạch.

Ở người già, hoạt động của enzyme Lipase giảm. Đây là enzyme giúp chuyển đổi mỡ và triglyceride thành các acid béo và glycerol. Do đó, nếu ăn nhiều mỡ, người già rất dễ bị tăng cholesterol trong máu. Theo thời gian, sự tích tụ cholesterol ở tế bào nội mạc sẽ phát triển các mảng xơ vữa, gây tắc nghẽn động mạch và cao huyết áp ở người cao tuổi.

4. Tiêu thụ thức ăn nhiều mỡ gây rối loạn tiêu hóa

Quá nhiều dầu mỡ trong chế độ ăn có thể gây trào ngược axit. Đối với người cao tuổi, nguy cơ bị trào ngược, ợ chua và các vấn đề tiêu hóa khác như hội chứng ruột kích thích, bệnh Crohn… cao hơn nhiều so với những người trẻ tuổi. Do đó, nếu muốn bảo vệ hệ tiêu hóa của mình, người cao tuổi nên tránh xa các thực phẩm chứa chất béo không lành mạnh.

5. Tại sao người già không nên ăn thức ăn nhiều dầu mỡ? Vì chúng gây ung thư!

Các món chiên rán ở nhiệt độ cao có thể tạo ra acrylamide – một hợp chất đã được chứng minh có khả năng gây ung thư. Hấp thụ nhiều acrylamide vào cơ thể sẽ làm tăng nguy cơ mắc ung thư thực quản, ung thư nội mạc tử cung, ung thư buồng trứng, ung thư phổi, ung thư thận…

Dầu không thể thay thế cho mỡ trong bữa ăn hàng ngày

Mỡ heo hay dầu ăn tốt hơn?

Hoạt động chuyên môn

  • Nghiên cứu khoa học
    • Lĩnh vực nghiên cứu
      • Dinh dưỡng lâm sàng
      • An toàn thực phẩm
      • Dinh dưỡng cộng đồng
    • Các đề tài và xuất bản phẩm
  • Đào tạo
    • Giới thiệu trung tâm đào tạo
    • Chương trình đào tạo
    • Thư viện Giáo trình/Bài giảng
    • Hoạt động Đào tạo
    • Dành cho học viên
  • Hợp tác quốc tế
    • Lĩnh vực hợp tác
    • Đối tác quốc tế
    • Các hoạt động
  • Chỉ đạo tuyến
    • Sơ đồ mạng lưới
    • Văn bản pháp luật
    • Chiến lược dinh dưỡng
  • Quản lý nhà nước
    • Kiểm tra nhà nước về thực phẩm nhập khẩu
    • Thanh tra, kiểm tra về ATTP

Chất béo là gì?

Trước đây mọi người thường khuyên rằng phải tránh xa chất béo vì chúng không tốt cho sức khỏe. Điều này có một phần đúng bởi vì một số loại chất béo có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư và béo phì. Tuy nhiên, nếu tiêu thụ ở mức độ vừa phải, một số chất béo có vai trò thiết yếu và tốt cho sức khỏe. Một số chức năng cơ thể cũng phụ thuộc vào chất béo, ví dụ, chất béo đóng vai trò thiết yếu trong quá trình hấp thụ một số vitamin để thúc đẩy các chức năng khác nhau trong cơ thể.

Tất cả các thực phẩm đều chứa hỗn hợp axit béo nhưng loại chất béo trong các thực phẩm này là yếu tố quyết định thực phẩm là “có lợi” hay “có hại”.

Các chất dinh dưỡng đa lượng

Các chất dinh dưỡng đa lượng cấu thành phần lớn của chế độ ăn và cung cấp năng lượng và nhiều dưỡng chất thiết yếu. Carbohydrate, Protein [bao gồm các axit amin thiết yếu], các chất béo [bao gồm các axit béo thiết yếu], các chất khoáng đa lượng và nước là các chất dinh dưỡng đa lượng. Carbohydrate, chất béo và protein có thể thay thế cho nhau thành nguồn năng lượng; chất béo cung cấp 9 kcal/g [37,8 kJ/g]; protein và carbohydrate cung cấp 4 kcal/g [16,8 kJ/g].

Carbohydrate

Carbohydrate trong chế độ ăn được chuyển thành glucose và các monosaccharid khác. Carbohydrate làm tăng mức glucose trong máu, cung cấp năng lượng.

Carbohydrate đơn giản được tạo thành bởi các phân tử nhỏ, thường là các monosaccharid hoặc các disaccharid, làm tăng mức glucose trong máu nhanh.

Carbohydrate phức tạp được tạo thành bởi các phân tử lớn hơn, được chuyển thành các monosaccharid. Các carbohydrate phức tạp làm tăng mức đường trong máu chậm hơn nhưng trong một thời gian dài.

Glucose và sucrose là những carbohydrate đơn giản; tinh bột và chất xơ là các carbohydrate phức tạp.

Chỉ số đường huyết đo mức độ tăng đường trong huyết tương khi sử dụng carbohydrate. Giá trị dao động từ 1 [tăng chậm nhất] đến 100 [tăng nhanh nhất, tương đương với đường glucose nguyên chất - xem bảng Xxem Bảng: Chỉ số đường huyết của Một số Thực phẩm Chỉ số đường huyết của Một số Thực phẩm Dinh dưỡng là khoa học về thực phẩm và mối quan hệ của nó tới sức khoẻ. Các chất dinh dưỡng là các chất hóa học trong thực phẩm được cơ thể sử dụng cho sự tăng trưởng, duy trì và hoạt động.... đọc thêm ]. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng thực tế cũng phụ thuộc vào loại thực phẩm nào được tiêu thụ với carbohydrate.

Carbohydrate với chỉ số đường huyết cao có thể làm tăng nhanh glucose huyết tương lên mức cao. Có giả thuyết cho răng hậu quả là mức insulin tăng, gây hạ đường huyết và đói, có xu hướng dẫn đến tiêu thụ calo vượt ngưỡng và tăng cân. Carbohydrate với chỉ số đường huyết thấp sẽ làm tăng chậm nồng độ glucose huyết tương, dẫn đến mức insulin sau ăn thấp hơn và ít đói hơn, có thể làm cho ít bị tiêu thụ calo vượt ngưỡng hơn. Những ảnh hưởng này được cho là dẫn đến tình trạng lipid thuận lợi hơn và giảm nguy cơ béo phì, đái tháo đường, và biến chứng của bệnh đái tháo đường nếu có.

Các Protein

Protein trong chế độ ăn được chuyển thành các peptide và amino acid. Protein cần phải có để duy trì, thay đổi, hoạt động và phát triển mô. Tuy nhiên, nếu cơ thể không nhận được đủ calo từ chế độ ăn hoặc kho dự trữ trong mô [đặc biệt là chất béo], protein có thể được sử dụng để lấy năng lượng.

Khi cơ thể sử dụng protein trong chế độ ăn cho sản xuất mô, có một sự tăng lên của protein [cân bằng nitơ tích cực]. Trong các trạng thái dị hóa [ví dụ như đói, nhiễm trùng, bỏng], có thể sử dụng nhiều protein hơn [vì mô của cơ thể bị phân hủy] hơn là hấp thụ, dẫn đến giảm protein trên tổng thể [cân bằng nitơ âm]. Cân bằng nitơ được xác định tốt nhất bằng cách lấy lượng nitơ tiêu thụ trừ lượng nitơ thải qua nước tiểu và qua phân.

Trong số 20 axit amin, 9 axit amin thiết yếu [EAAs]; chúng không thể được tổng hợp và phải được lấy từ chế độ ăn. Tất cả mọi người có nhu cầu 8 axit amin thiết yếu [EAAs]; Trẻ sơ sinh cần thêm histidine.

Điều chỉnh nhu cầu protein trong chế độ ăn dựa vào cân nặng có tương quan với tỷ lệ tăng trưởng, trong đó sẽ giảm từ trẻ sơ sinh đến tuổi trưởng thành. Nhu cầu protein trong chế độ ăn hàng ngày giảm từ 2,2 g/kg ở trẻ sơ sinh 3 tháng tuổi xuống 1,2 g/kg ở trẻ 5 tuổi và 0,8 g/kg ở người trưởng thành. Nhu cầu về protein tương ứng với các nhu cầu của EAA [xem Bảng: Những nhu cầu axit amin thiết yếu tính bằng mg/kg trọng lượng cơ thể Những nhu cầu axit amin thiết yếu tính bằng mg/kg trọng lượng cơ thể Dinh dưỡng là khoa học về thực phẩm và mối quan hệ của nó tới sức khoẻ. Các chất dinh dưỡng là các chất hóa học trong thực phẩm được cơ thể sử dụng cho sự tăng trưởng, duy trì và hoạt động.... đọc thêm ]. Người trưởng thành khi muốn tăng khối lượng cơ cần thêm rất ít protein so với yêu cầu khuyến nghị.

Thành phần acid amin của protein thay đổi rất nhiều. Giá trị sinh học [BV] phản ánh sự tương đồng trong thành phần acid amin của protein so với mô của động vật; do đó, BV chỉ ra tỷ lệ của EAA được cung cấp cho cơ thể từ protein trong chế độ ăn:

  • Một sự kết hợp hoàn hảo là protein trong trứng, với giá trị là 100.

  • Protein động vật trong sữa và thịt có một chỉ số BV cao [~ 90].

  • Protein trong ngũ cốc và rau có chỉ số BV thấp hơn [~ 40]

  • Một số protein được chiết xuất [ví dụ, gelatin] có chỉ số BV là 0.

Mức độ mà các loại protein trong chế độ ăn cung cấp mỗi axit amin còn thiếu khác [Bổ sung] xác định tổng thể chỉ số BV của chế độ ăn. Nhu cầu khuyến nghị hàng ngày [RDA] đối với protein giả định chế độ ăn kết hợp trung bình có chỉ số BV là 70.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề