Tại sao trong nhận thức và thực tiễn, con người cần tôn trọng và tìm cách phát hiện mâu thuẫn?

Giải quyết mâu thuẫn, xung đột xã hội hiện nay

Ngày phát hành: 12/06/2020 Lượt xem 103596

1. Nhận thức về kiểm soát, xử lý mâu thuẫn, xung đột xã hội.

Nền kinh tế thị trường [và nói chung mọi nền kinh tế] đều có 2 mặt: tích cực và tiêu cực. Cạnh tranh là chất xúc tác có tác dụng kích thích tính năng động sáng tạo, huy động tối đa tiềm lực trí tuệ của con người, cộng đồng và xã hội. Song cạnh tranh cũng làm xuất hiện những thứ không lành mạnh như chủ nghĩa cá nhân cực đoan, tính cơ hội và nói chung là thói ích kỷ, sự xấu xa vốn là mặt trái trong bản năng của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhận xét: “mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng”. Mâu thuẫn và xung đột xã hội cũng từ đây mà ra. Mọi mâu thuẫn xã hội đều có nguồn gốc từ mâu thuẫn giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng, tầng lớp, giai cấp, quốc gia mà ra. Theo “Từ điển sơ lược xã hội học”, xung đột xã hội là giai đoạn phát triển cao nhất của mâu thuẫn trong hệ thống các quan hệ giữa con người, các tập đoàn xã hội, các thiết chế xã hội, xã hội nói chung; được đặc trưng bằng sự đẩy mạnh các khuynh hướng và lợi ích đối lập nhau giữa các cộng đồng xã hội và các cá nhân với nhau.

Nhiều mâu thuẫn và xung đột hôm nay còn là sự tích tụ của mâu thuẫn và xung đột trước đây, là kết quả của việc xử lý các mâu thuẫn và xung đột trước đây. Xung đột xã hội là một hiện tượng đã tồn tại lâu dài trong lịch sử và sẽ còn tồn tại cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Xung đột xã hội một mặt là hiện tượng khách quan, tất yếu, mặt khác là kết quả của hoạt động có chủ đích của con người. Do đó, vấn đề là phải thấy được quá trình vận động và sự đấu tranh của 2 mặt thiện ác, giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái đúng và cái sai và quan trọng hơn là phải làm cho cái tốt, cái đúng được thắng thế, được phát huy, được đơm hoa kết trái.

Quá trình phát triển luôn có sự chuyển đổi các giá trị đạo đức và mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật và điều này đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý phát triển xã hội. Hê ghen nói: “đạo đức là hình thái cao nhất trong sự phát triển của ý niệm pháp lý”. Do đó, khi nói đến kiểm soát, xử lý mâu thuẫn, xung đột xã hội thì không thể không bàn đến mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa đạo đức và pháp luật. Ở đây xuất hiện 2 câu hỏi [1] đạo đức bàn ở đây là đạo đức nào và [2] pháp luật là phục vụ ai. Để kiểm soát, xử lý mâu thuẫn, xung đột xã hội nhất thiết phải có các bộ công cụ mà trước hết là các chuẩn mực và quy phạm; cần có hệ thống kiểm soát, xử lý mâu thuẫn, xung đột xã hội vận hành với các thiết chế phù hợp và con người đủ năng lực [thể lực, trí lực và tâm lực]. Việc giải quyết mâu thuẫn và xung đột xã hội có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm xã hội vận động theo hướng phát triển hơn. Đối với chúng ta, đương nhiên là xây dựng đạo đức và pháp luật trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và quan hệ giữa đạo đức và pháp luật là trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

2. Những mâu thuẫn, xung đột xã hội, nguyên nhân và các giải pháp xử lý trong thời gian vừa qua.

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, mâu thuẫn và xung đột xã hội đang có chiều hướng gia tăng trên rất nhiều lĩnh vực, tính chất của các xung đột xã hội cũng ngày càng phức tạp. Ngoài ra, cuộc sống nhiều áp lực, căng thẳng khiến con người dễ bị tổn thương về mặt tâm lý, bị ức chế, dễ dẫn đến xung đột xã hội:

1. Trong lĩnh vực kinh tế: tranh chấp đất đai [giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể, giữa cá nhân với các cơ quan quản lý nhà nước, giữa các cộng đồng, nhóm người với nhau về giải tỏa, đền bù]; tranh chấp hợp đồng kinh tế; phân chia tài sản, . . . .

2. Trong lĩnh vực xã hội: chính sách, chế độ xã hội và thực hiện chính sách. Những xung đột này thường xảy ra giữa các cá nhân, các nhóm dân cư, các nhóm xã hội với các cơ quan thực thi chính sách, pháp luật ở địa phương. Sự đòi hỏi của người dân không được giải quyết một cách thỏa đáng các vấn đề của mình cũng có thể dẫn tới xung đột xã hội.

3. Trong lĩnh vực y tế [giữa bệnh nhân, người nhà bệnh nhân với bác sĩ, với cơ quan y tế]. Nhiều xung đột cũng xảy ra giữa các cộng đồng dân cư [làng, xóm, dòng họ…] với các cơ quan thực thi quyền lực.

4. Trong lĩnh vực giao thông, xung đột xảy ra khá phổ biến, nhất là ở các đô thị lớn [do mật độ giao thông đông, người sử dụng phương tiện giao thông chưa có ý thức, văn hóa thấp kém của người tham gia giao thông, tình trạng tắc đường]; thu phí BOT; đền bù giải phóng mặt bằng, . . .

5. Trong lĩnh vực giáo dục: dạy thêm học thêm; các khoản phí; trường công trường tư; chi phí và chất lượng; chất lượng và bằng cấp;

6. Trong lĩnh vực văn hóa, các xung đột diễn ra trong các lễ hội [như lễ hội đền Trần, lễ hội đền Gióng…]. Những vụ việc tranh chấp, xô xát liên quan đến các di tích lịch sử văn hóa, cơ sở thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo không phải là ít.

7. Trong lĩnh vực tôn giáo: tranh chấp về đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự, truyền đạo trái pháp luật, vi phạm luật pháp hiện hành về tôn giáo, chứ không phải do nguyên nhân xung đột về niềm tin tôn giáo.

8. Trong lĩnh vực môi trường: xung đột giữa các cộng đồng dân cư với các công ty, doanh nghiệp hủy hoại môi trường. Trong thời gian tới, dưới tác động của ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, các thảm họa môi trường, thảm họa do thiên tai mang lại sẽ có nhiều hơn các cuộc xung đột xã hội trong lĩnh vực môi trường.

9. Trong gia đình: xung đột giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em. Những xung đột xã hội ở cấp độ cá nhân, gia đình đang ngày càng mở rộng và phức tạp.

10. Trong quan hệ lao động giữa người lao động và chủ sử dụng lao động: tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể liên quan đến HĐLĐ, tiền công, thời gian làm thêm, điều kiện lao động, BHXH, phúc lợi xã hội; vấn đề đình công.

Có thể thấy các mâu thuẫn và xung đột ở nước ta đều liên quan đến quyền và lợi ích của các bên. Trình độ nhận thức của người dân được nâng cao, thông tin được minh bạch hơn, Nhà nước tăng cường và đẩy mạnh dân chủ, người dân ngày càng phát huy vai trò làm chủ của mình, tham gia nhiều hơn vào quá trình giám sát xã hội, phản biện xã hội cũng làm lộ ra nhiều mâu thuẫn và xung đột xã hội.

Đặc biệt, những xung đột xã hội có nội dung đấu tranh, đòi hỏi về dân chủ, công khai, công bằng trong thực hiện các quyền, nghĩa vụ và chống quan liêu, tham nhũng, làm sai chính sách, pháp luật của một bộ phận cán bộ trong các tổ chức Đảng, chính quyền có chiều hướng tăng.

3. Nguyên nhân dẫn đến xung đột xã hội

1. Những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế [xuất hiện nhiều hơn với mức độ, quy mô khác nhau, tính chất khác nhau] đã dẫn đến những xung đột xã hội không thể tránh khỏi. Đây là nguyên nhân phổ biến của các xung đột xã hội ở nước ta thời gian gần đây.

2. Sự biến đổi về mặt xã hội như tình trạng phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội. Sự phát triển kinh tế xã hội, sự gia tăng quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa đã phá vỡ những cấu trúc xã hội truyền thống [như cấu trúc làng, xã, cấu trúc gia đình…] cũng là nguyên nhân gây nên xung đột xã hội. Tâm lý xã hội khủng hoảng, bức xúc xã hội, các vấn đề an ninh phi truyền thống. Đạo đức xuống cấp, lối sống thực dụng, chủ nghĩa khủng bố.

3. Môi trường tự nhiên [như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, phá rừng] cũng chứa đựng những mầm mống gây xung đột xã hội.

4. Một số chính sách, pháp luật trong lĩnh vực đất đai, kinh doanh, lao động, an sinh xã hội, quản lý xã hội và bảo đảm quyền lợi cho người dân chưa được đồng bộ, nhất quán, còn bất cập, gây bức xúc trong cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân.

5. Thiếu hệ thống các chuẩn mực đạo đức dể làm thước đo: đạo đức công vụ; đạo đức trong chính trị; đạo đức trong kinh doanh; chuẩn mực ứng xử trong gia đình, cơ quan, xã hội để giáo dục và xử lý các mẫu thuẫn xã hội.

6. Một số cuộc xung đột xã hội còn có sự tham gia, xúi giục, tổ chức của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, tìm cách kích động biểu tình, bạo loạn, tạo cớ gây xung đột xã hội để can thiệp.

7. Cách thức giải quyết mâu thuẫn và xung đột

- Sự yếu kém của hệ thống chính trị ở cơ sở tại một số địa phương; sự thoái hóa biến chất của một số cán bộ, cả cán bộ lãnh đạo, quản lý; tình trạng chính quyền quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, cố ý làm sai chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; cách giải quyết những đòi hỏi, bức xúc, nguyện vọng của nhân dân không hợp tình, không hợp lý, không dứt điểm; sự sai sót trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp trong nội bộ nhân dân; sự bất cập trong việc thực thi pháp luật, . . .

- Hình sự hoá quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự. Thực hiện truy tố quan hệ kinh tế, dân sự không đúng bản chất khách quan của hành vi, đã xảy ra trên khắp cả nước như vụ chủ quán cà phê Xin Chào Nguyễn Văn Tấn ở TP.HCM, doanh nhân Hoàng Minh Tiến [Hà Nội], Phùng Thị Thu [Thái Bình], Nguyễn Văn Lượng [Nam Định],... bị "khép" các tội danh trốn thuế, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản oan khuất, gây hoang mang, sợ hãi trong không chỉ giới doanh nghiệp. Việc hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế tại Ngân hàng Nam Á [Nam A Bank] tại TP.HCM.

- Cách tiếp cận không hợp lý như giải quyết đình công tại các doanh nghiệp [hành chính thay vì thương lượng]; cai nghiện ma túy [tội phạm hay con bệnh]; người trực tiếp xử lý thiếu chuyên nghiệp, thiếu hểu biết, . . . dẫn đến một tỷ lệ lớn mâu thuẫn, xung đột chỉ được giải quyết phần nào [chủ yếu là phần ngọn] chứ không giải quyết được triệt để, điều này đã tạo ra những nhân tố gây mất ổn định xã hội.Ngoài ra, vai trò của các tổ chức đoàn thể trong giải quyết mâu thuẫn, xung đột xã hội còn rất hạn chế.

4. Giải pháp giải quyết, hạn chế, giảm nhẹ mâu thuẫn, xung đột xã hội trong giai đoạn mới.

Khi nói đến giải quyết mâu thuẫn và xung đột xã hội, tức là nói đến vai trò quyết định của nhà nước, của chính quyền; sự tham gia của các tổ chức xã hội chỉ có vai trò hỗ trợ.

- Các mâu thuẫn và xung đột xã hội đều có nguyên nhân gốc rễ, do đó các mâu thuẫn và xung đột xã hội chỉ có thể được giải quyết triệt để khi xử lý được vấn đề gốc rễ của nó. Điều này đòi hỏi phải có cách tiếp cận, phương pháp và bộ công cụ giải quyết phù hợp với từng loại mâu thuẫn và xung đột xã hội cụ thể;

- Cần xây dựng một hệ thống chuẩn mực đạo đức được thực hành rộng rãi và quy phạm pháp lý chặt chẽ được tôn trọng, đồng thời nâng cao năng lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước trong xây dựng và thực thi những nguyên tắc đạo đức và pháp luật.

- Yếu tố con người. Cần thực thi đạo đức công vụ, văn hóa trong chính trị, văn hóa trong kinh tế và đảm bảo thượng tôn luật pháp. Xây dựng đạo đức và pháp luật trong sự thấm nhuần bản sắc văn hóa dân tộc. - Thực hiện đúng nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội trong giải quyết, hạn chế, giảm nhẹ mâu thuẫn, xung đột xã hội.

- Cần xây dựng hệ thống kiểm soát quyền lực và phát hiện xung đột lợi ích hiệu quả, tránh chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa tập thể. Quy định trách nhiệm cá nhân khi xử lý các mâu thẫn và xung đột xã hội.

- Không hình sự hoá quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự.

- Cần làm tốt công tác dự báo nguy cơ xuất hiện xung đột xã hội để sớm hóa giải những mầm mống gây xung đột xã hội./.

TS. Đào Quang Vinh,

Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội

Một số vấn đề về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập

24/03/2021

Hồ Sĩ Quý*

Tóm tắt: Là một trong ba quy luật cơ bản, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hạt nhân và là thực chất của phép biện chứng duy vật. Với quy luật này, nguyên nhân, nguồn gốc và động lực của sự tự vận động và phát triển, được giải quyết triệt để trong triết học Mác. Ngày nay, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập vẫn là công cụ triết học hữu hiệu giúp con người kiểm soát được động lực của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, vận dụng đúng và có hiệu quả quy luật này vào đời sống xã hội bao giờ cũng không giản đơn. Trong khi đó, đồng thuận xã hội, ổn định xã hội, đoàn kết xã hội,... lại cũng là những động lực của sự phát triển xã hội mà từng quốc gia cũng như cộng đồng thế giới, từ lâu đã coi là hiển nhiên và vẫn đang không mệt mỏi thực hiện.

Từ khóa: Mâu thuẫn, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, đồng thuận xã hội, đoàn kết xã hội, động lực phát triển xã hội.

1. Triết học duy vật biện chứng là học thuyết kế thừa được những tinh hoa hợp lý nhất của các học thuyết triết học từ thời cổ đại đến Hêghen về mâu thuẫn

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, thường được gọi tắt là quy luật mâu thuẫn [trong Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen còn gọi là “Quy luật về sự xâm nhập lẫn nhau của các mặt đối lập”[1], là quy luật phổ quát của hiện thực, kể cả trong tư duy và sự nhận thức hiện thực đó bằng chính tư duy của con người.

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chứa đựng thực chất và hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Chính V.I.Lênin đã khẳng định như vậy. Ông viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng”[2]. Theo V.I.Lênin, “sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận đối lập của nó..., đó là thực chất... của phép biện chứng”[3]. Trong phép biện chứng, mối liên hệ giữa các mặt đối lập chính là mâu thuẫn; sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập chính là quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.

Cần thiết phải nói rõ rằng, mâu thuẫn không phải là tri thức của riêng chủ nghĩa duy vật biện chứng hay của chủ nghĩa Mác. Mặc dù chủ nghĩa Mác đã có công cải tạo phép biện chứng từ duy tâm trở thành duy vật, làm cho quy luật mâu thuẫn đạt tới trình độ “mô hình tư tưởng” gần như vạn năng để con người giải thích và cải tạo thế giới, tuy nhiên việc phê phán triết học Mác - Lênin nhằm vào học thuyết mâu thuẫn là sự phê phán không đúng địa chỉ và không đúng đối tượng.

Bởi lẽ, ngay từ thời Cổ đại, bằng sự cảm nhận và “phỏng đoán thiên tài”, các nhà thông thái Hy Lạp đã xác nhận được những mối liên hệ phổ biến của mọi tồn tại, trong đó sự tác động qua lại của các mặt đối lập được xem là cái “hoàn toàn khách quan, là nguyên lý của tất cả cái gì tồn tại”[4]. Những nhà tư tưởng được biết đến trong lịch sử triết học như là những người có công đặt nền móng cho học thuyết mâu thuẫn là Heraclitus, Lão Tử, Zeno, N.Kuzansky, D.Bruno..., và Hêghen. Nhưng công bằng mà nói, công lao đặc biệt đối với học thuyết mâu thuẫn [trước C.Mác] thuộc về Hêghen. Chính là nhờ Hêghen mà lý luận triết học về mâu thuẫn và về phép biện chứng trở nên có giá trị và có sức sống mãnh liệt kể từ thế kỷ XIX đến nay.

Với G.Hêghen, “tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó”... Mâu thuẫn “là cái phủ định trong sự quy định bản chất của nó, là nguyên tắc của mọi sự tự vận động, mà sự tự vận động này không phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện nào đấy của mâu thuẫn... Vận động là bản thân mâu thuẫn đang tồn tại”... “Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sức sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, mới có xung lực [импульс] và hoạt động”[5]. Theo C.Mác, “sai lầm chủ yếu của Hêghen là ở chỗ ông hiểu mâu thuẫn của hiện tượng là sự thống nhất trong bản chất, trong ý niệm, kỳ thực bản chất của mâu thuẫn ấy cố nhiên là một cái gì đó sâu sắc hơn, cụ thể là mâu thuẫn bản chất”[6].

Cải tạo phép biện chứng Hêghen, chủ nghĩa Mác đã giải thích một cách duy vật về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như là “định luật của tri thức” và của thế giới khách quan.

2. Mâu thuẫn tồn tại khách quan với sự thống nhất tương đối và sự đấu tranh tuyệt đối của các mặt đối lập

Mặt đối lập [opposites, contraires, противоположности - thực ra không chỉ là “mặt” như trong tiếng Việt, mà là đối lập, cái đối lập, sự đối lập] là các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng, các quá trình, các sự vật, hiện tượng... vốn có trong “cái thống nhất” [đối tượng được xem xét]. Chúng là “sự phân đôi của cái thống nhất” nên tồn tại và vận động trong sự phụ thuộc lẫn nhau, theo chiều hướng trái ngược nhau và loại trừ lẫn nhau, tạo thành mâu thuẫn nội tại của sự vật; nhưng đồng thời lại thống nhất với nhau. Nghĩa là, được gọi là mặt đối lập bởi vì chúng chỉ tồn tại trong sự phụ thuộc lẫn nhau [mặt đối lập này không thể tồn tại mà không có mặt kia] và loại trừ lẫn nhau [sự vận động của chúng đối lập trực tiếp với nhau].

Trong thực tế, mâu thuẫn không chỉ là mối quan hệ giữa các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập của một đối tượng hoặc giữa các đối tượng [thuộc sự vật và hiện tượng], mà còn là mối quan hệ của đối tượng với chính nó. Nghĩa là mâu thuẫn còn là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo nên sự tự vận động của một đối tượng.

Khi sự đối lập chưa vận động tới trình độ cực đoan cần phải được giải quyết [mâu thuẫn chưa chín muồi], các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau phản ánh sự đấu tranh chưa thắng thế giữa cái mới với cái cũ. Tuy thế, triết học duy vật biện chứng nhấn mạnh, sự thống nhất của các mặt đối lập chỉ là tương đối, thể hiện sự ổn định tương đối, nhất thời của sự vật và hiện tượng. Sự đấu tranh của các mặt đối lập mới là tuyệt đối, thể hiện tính vô hạn của quá trình vận động và phát triển. Ph.Ăngghen viết: “Tính đồng nhất và tính khác biệt - tính tất yếu và tính ngẫu nhiên - nguyên nhân và kết quả - đó là những đối lập chủ yếu, những đối lập, nếu xét một cách riêng rẽ, thì sẽ chuyển hoá lẫn nhau”[7]. Khi nghiên cứu vấn đề này, V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất [phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau] của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”[8]. Điều này phản ánh một thực tế là, trong thế giới này, chẳng có sự ổn định hay đứng im nào là vĩnh viễn tồn tại - “Vận động là một mâu thuẫn, là một sự thống nhất của các mâu thuẫn”[9].

Trong lôgíc hình thức cũng có quy luật mâu thuẫn, gọi đầy đủ và chính xác là “quy luật cấm mâu thuẫn”. Tuy nhiên, đây là quy luật đòi hỏi các thao tác tư duy không được phép mâu thuẫn với nhau khi đưa ra các phán đoán về cùng một đối tượng. Mâu thuẫn ở đây chỉ là mâu thuẫn lôgíc nảy sinh khi tư duy mắc sai lầm. Quy luật này dĩ nhiên cũng vô cùng quan trọng, nhưng chỉ tồn tại trong lôgíc học hình thức với chức năng là giúp cho con người tư duy đúng.

Khác với lôgíc học hình thức, quy luật mâu thuẫn trong phép biện chứng có đối tượng của nó là mâu thuẫn biện chứng. Ph.Ăngghen khẳng định, mâu thuẫn biện chứng “tồn tại một cách khách quan ở trong bản thân các sự vật và các quá trình và có thể bộc lộ ra dưới một hình thức hữu hình”[10]; “trong sinh vật học cũng như trong lịch sử xã hội loài người, quy luật ấy đều được xác nhận”[11]. Nghiên cứu vấn đề này, V.I.Lênin nhận xét: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”[12].

Triết học duy vật biện chứng khẳng định, mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan, phổ biến. Nghĩa là, mâu thuẫn biện chứng cũng tồn tại trong tư duy. Nhưng đó không phải là tư duy có mâu thuẫn hay sự ngụy biện, mà là kết quả của sự phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực, kể cả hiện thực của bản thân tư duy [tự nhận thức, phản tư]. Và do vậy, mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là nguồn gốc vận động của nhận thức, của tư duy trong quá trình tìm kiếm chân lý. Ph.Ăngghen viết: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, resp [tương tự] với những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”[13].

Trong đời sống xã hội, sự đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập là sự thống nhất và đấu tranh của các lực lượng, các nhóm, các hệ thống xã hội theo các mặt, các tính chất, các khuynh hướng xã hội đã quy định và tạo thành các thực thể xã hội đó. Toàn bộ đời sống vật chất và đời sống tinh thần xã hội đều bao hàm những mặt đối lập, những mâu thuẫn như vậy. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã nhiều lần bàn đến mâu thuẫn xã hội, và thực ra toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của các ông cũng là nhằm giải quyết các vấn đề về mâu thuẫn xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Theo quan điểm của chúng tôi - tất cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp”[14] [“Hình thức giao tiếp” về sau được C.Mác gọi là “Quan hệ sản xuất”]. Theo Ph.Ăngghen, “mâu thuẫn giữa sản xuất xã hội và sự chiếm hữu tư bản chủ nghĩa biểu hiện ra thành sự đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”[15]. Với V.I.Lênin, “tính chất biện chứng của sự phát triển xã hội, diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn”[16].

Cần lưu ý rằng, đối với mỗi con người, trạng thái đối lập, mâu thuẫn với chính mình, với những người xung quanh và với xã hội... [loại trừ trường hợp mâu thuẫn lôgíc] là trạng thái tự nhiên, vốn có, vận động theo các bước, các trình độ đối lập khác nhau đi từ đồng nhất, khác biệt đến mâu thuẫn hoặc xung đột. Những mâu thuẫn biện chứng ấy đóng vai trò là nguồn gốc và động lực để thúc đẩy phát triển con người, hình thành và phát triển nhân cách cá nhân. Con người mẫu thuẫn với chính mình, đó không phải là một căn bệnh - đối lập càng gay gắt, động lực phát triển càng mạnh.

3. Về vai trò động lực của mâu thuẫn trong sự vận động và phát triển

Mặc dù các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin không nói mâu thuẫn là động lực của phát triển, nhưng từ tinh thần của lý thuyết C.Mác, cũng một phần là từ tư tưởng coi mâu thuẫn là xung lực [Импульс] của Hêghen, mà các nhà triết học mácxít hậu thế đều coi mâu thuẫn là động lực của sự vận động và phát triển của thế giới nói chung, đặc biệt của sự vận động và phát triển xã hội. Nội dung này của lý luận mâu thuẫn đã gây tranh cãi không có hồi kết suốt từ cuối những năm 70 thế kỷ XX đến nay. Đều thừa nhận mâu thuẫn là động lực của phát triển, nhưng ở mỗi tác giả, cách giải thích và chi tiết biện luận thì luôn có sự khác nhau. Ngay trong các tài liệu giáo khoa việc lý giải cũng không thống nhất[17].

Một số tác giả cho rằng, mâu thuẫn tự nó không phải động lực của sự phát triển, việc con người can thiệp vào mâu thuẫn, tìm cách giải quyết nó mới là cái có ý nghĩa thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển. Mâu thuẫn nói chung chỉ là nguồn gốc của sự phát triển, vì nó giải thích nguyên nhân tận gốc của sự vận động. Còn động lực của sự phát triển chỉ có thể là việc giải quyết mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn vận động đến một giai đoạn nhất định, xung lực của các mặt đối lập đạt đến trình độ “chín muồi” [Зрелости, Maturity], lúc đó mâu thuẫn mới có đủ điều kiện để được giải quyết. Giải quyết mâu thuẫn, thậm chí giải quyết mâu thuẫn theo đúng tinh thần của quy luật, nghĩa là được giải quyết kịp thời, triệt để, không khoan nhượng, mặt tích cực, đại diện cho sự tiến bộ thắng thế... khi đó mâu thuẫn mới đóng vai trò là nguồn gốc của sự phát triển. Không được giải quyết kịp thời, hay giải quyết mâu thuẫn để cho mặt tiêu cực thắng thế, mâu thuẫn sẽ gây thêm những hậu quả và hệ lụy cho sự vận động và phát triển của sự vật.

Một vài tác giả khác nữa coi mâu thuẫn có vai trò động lực của sự phát triển chỉ ở một trong những mặt, những khâu, những giai đoạn, những yếu tố... đại diện cho cái mới, cái tiến bộ của sự đấu tranh của các mặt đối lập. Chẳng hạn, động lực của sự phát triển chỉ thuộc về một trong hai mặt đối lập, hoặc chỉ ở giai đoạn mâu thuẫn chưa chín muồi, hoặc chỉ ở sự đấu tranh, chứ không phải ở sự thống nhất của các mặt đối lập...

Mặc dù việc nhận thức các mâu thuẫn biện chứng đòi hỏi phải nhận thức được quá trình và phương thức chúng vận động và được giải quyết như thế nào, tuy nhiên, chúng tôi không muốn trình bày kỹ hơn những ý kiến vừa nêu, vì thật khó biết đúng sai. Hơn thế nữa, theo chúng tôi, với một học thuyết triết học phổ quát như học thuyết mâu thuẫn, đến Hêghen còn bị phê phán suốt gần 200 năm qua, thì việc chia nhỏ các công đoạn, các nội dung, các yếu tố... của mâu thuẫn để xem xét vai trò của chúng, chưa chắc đã phải là cách tư duy hợp lý.

Bởi vậy, có thể tạm chấp nhận ý kiến của số đông các nhà triết học hậu thế rằng, mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển ở tất cả các khâu, các mặt, các giai đoạn và các phương diện của nó - thống nhất, đấu tranh và giải quyết với tính cách là những quá trình diễn ra từ khi mâu thuẫn được hình thành đến khi bị thủ tiêu để cái mới xuất hiện. Nếu thừa nhận động lực là cái có ý nghĩa kích thích, thúc đẩy, đóng vai trò là xung lực của sự vận động[18], thì khó có thể phủ nhận vai trò của các nhân tố, các mặt trong giai đoạn mâu thuẫn chưa đạt tới trình độ chín muồi. Hơn thế nữa, nếu coi động lực là cái luôn có sự tham gia của yếu tố tinh thần, ý chí thì động lực là cái chỉ có ở con người và ở một số loài động vật ít nhiều có trí khôn khi chủ thể có nhu cầu giải quyết mâu thuẫn. Không thể nói đến ý chí giải quyết mâu thuẫn của bản thân thế giới vật chất ngoài con người.

Thời gian trôi đi cho thấy, tham vọng thiết kế thật chi tiết các bước, các thao tác của cơ chế giải quyết mâu thuẫn có thể khiến triết học duy vật biện chứng từ chỗ là những chỉ dẫn thế giới quan và phương pháp luận lại trở thành một thứ tri thức cứng nhắc, máy móc trong hoạt động thực tiễn.

4. Đoàn kết xã hội, đồng thuận xã hội là động lực của sự vận động và phát triển

Ngày nay, trong đời sống xã hội, hầu hết các mâu thuẫn xã hội và các hiện tượng có liên quan đến xung đột xã hội, dù ở phạm vi nhóm nhỏ hay cộng đồng, quốc gia cũng như quốc tế, cũng đều tiềm ẩn những nguy cơ tiêu cực, luôn có khuynh hướng dẫn tới những hậu quả nguy hiểm làm đổ vỡ xã hội, thậm chí chiến tranh. Không phải ngẫu nhiên mà các chủ đề đồng thuận xã hội, đoàn kết xã hội, giảm thiểu xung đột xã hội, chung sống hòa bình, giải quyết tranh chấp bằng phương pháp phi bạo lực, hòa giải và hoà hợp dân tộc hay mềm dẻo về sách lược... luôn luôn là chủ đề thường trực trong đời sống chính trị xã hội của các quốc gia và cộng đồng thế giới.

Vấn đề là ở chỗ, nếu chủ trương không thể sử dụng giải pháp nhân nhượng trong việc giải quyết mâu thuẫn, mọi mâu thuẫn xã hội cần phải được giải quyết triệt để, cả hai mặt đối lập đều cần phải đấu tranh đến mức tự xóa bỏ, làm cho sự vật trở thành cái mới..., như đòi hỏi của lý thuyết mâu thuẫn, thì hậu quả xã hội của điều đó rõ ràng là khôn lường. Học thuyết mâu thuẫn của triết học duy vật biện chứng trong những trường hợp rất phổ biến này, cần phải được giải thích như thế nào, liệu nó [học thuyết mâu thuẫn - quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập] có sai hay hoặc có gì bất hợp lý ở đây không?

Thực ra vấn đề này không mới. Từ lâu các nội dung có liên quan đến vấn đề đã được tranh cãi và thảo luận trong khuôn khổ các chủ đề như điều hòa mâu thuẫn, sự kết hợp giữa các mặt đối lập hay sự thỏa hiệp, liên minh nhất thời giữa các lực lượng đối lập, sự tự tiêu hủy của mâu thuẫn... Lý luận về xung đột xã hội được cho là khởi nguồn từ C.Mác, nhưng ngày nay cũng trở thành một bộ môn trong xã hội học phương Tây có mục đích là giải quyết xung đột xã hội chủ yếu bằng các công cụ pháp lý và chính trị, để tránh bạo lực xã hội.

Về phương diện triết học, những người ủng hộ phương thức triệt để trong giải quyết mâu thuẫn thường cho rằng, ở đây có sự lầm lẫn trong phân loại mâu thuẫn xã hội: Không phải tất cả, mà chỉ có số ít mâu thuẫn xã hội hay xung đột xã hội là mâu thuẫn biện chứng. Chỉ những hiện tượng nào chứa trong nó sự đối lập về một thuộc tính hoặc về một khuynh hướng đối lập nhau thì mới được xem là mâu thuẫn biện chứng. Tuy vậy, ngay cả điều này cũng đã từng tranh cãi không hồi kết. Bởi ngay cả mâu thuẫn giữa hai cá nhân, mâu thuẫn trong nội bộ dân cư, hay các xung đột ngẫu nhiên trong đời sống xã hội... cũng hoàn toàn có thể tìm thấy sự đối lập về lợi ích hoặc đối lập về một khuynh hướng, một tính chất nào đó.

Không cần thiết phải sa vào những tranh cãi khá phức tạp đó, chúng tôi muốn nói rằng những vấn đề như điều hòa mâu thuẫn, sự kết hợp giữa các mặt đối lập, đoàn kết xã hội, đồng thuận xã hội. [trong đa số các trường hợp] đều là những nội dung lý luận có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội. Không thể chỉ vì trung thành với lý luận về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập mà buộc phải xem nhẹ hay phủ nhận ý nghĩa tích cực của việc giải quyết mâu thuẫn xã hội theo các chiều hướng đó.

Trong khi thừa nhận mâu thuẫn là động lực của sự phát triển, chúng tôi cho rằng việc giải quyết mâu thuẫn xã hội bằng các biện pháp điều hòa mâu thuẫn, kết hợp giữa các mặt đối lập, đoàn kết xã hội, đồng thuận xã hội, thương lượng giữa các lực lượng xã hội,... cũng đều là các phương thức có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển xã hội, nếu việc giải quyết triệt để mâu thuẫn xã hội có thể gây những tổn thất lớn hơn đối với xã hội. Với những vấn đề như mâu thuẫn cá nhân, mâu thuẫn nhóm xã hội trong nội bộ dân cư, xung đột sắc tộc, mâu thuẫn quốc gia, chiến tranh và hòa bình..., thì điều hòa mâu thuẫn để đạt tới đoàn kết xã hội, đồng thuận xã hội, ổn định xã hội và tránh chiến tranh... gần như có nghĩa tuyệt đối. Nghĩa là không thể phủ nhận đó là những động lực thực sự của sự phát triển xã hội, có ý nghĩa tích cực cả trước mắt và lâu dài đối với tiến bộ xã hội.

Không nên coi một thái độ như trên là thiếu trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, mặc dù C.Mác đã từng viết rất rõ rằng, “cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh của hai mặt ấy là sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới. Chỉ với việc tự đề ra cho mình vấn đề loại bỏ mặt xấu, người ta cũng đã chặn đứng sự vận động biện chứng rồi”[19].

Chính V.I.Lênin lúc sinh thời cũng đã nhiều lúc sử dụng các phương thức thỏa hiệp, nhân nhượng, dung hợp để giải quyết các mâu thuẫn thời kỳ Cách mạng tháng Mười Nga mới thành công. Về sự thỏa hiệp, V.I.Lênin viết: “Thái độ của chủ nghĩa Mác đối với con đường quanh co của lịch sử, về thực chất, cũng giống như thái độ của chủ nghĩa đó đối với sự thỏa hiệp. Mọi bước chuyển biến quanh co của lịch sử đều là sự thỏa hiệp, sự thỏa hiệp giữa cái cũ không còn đủ sức để phủ định hoàn toàn cái mới, và cái mới còn chưa đủ sức để lật đổ hoàn toàn cái cũ. Chủ nghĩa Mác không khăng khăng khước từ những sự thỏa hiệp, chủ nghĩa Mác cho rằng cần phải lợi dụng những sự thỏa hiệp, nhưng tuyệt nhiên không phải vì thế mà chủ nghĩa Mác, với tư cách là một lực lượng lịch sử sinh động và hành động, lại không mang hết nghị lực của mình ra để đấu tranh chống những sự thỏa hiệp. Người nào không có khả năng lĩnh hội được cái điều tựa hồ như mâu thuẫn ấy, thì người đó không hiểu những điều sơ đẳng của chủ nghĩa Mác”[20].

Đối với Việt Nam, ngay từ khi cách mạng thành công, trong khi trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, với lý thuyết mâu thuẫn của triết học Mác, Đảng và Nhà nước Việt Nam chưa khi nào xem nhẹ vấn đề đoàn kết các dân tộc, đoàn kết trong và ngoài Đảng, đại đoàn kết toàn dân hay liên minh giai cấp công nông và đội ngũ trí thức. Tất cả các văn kiện Đảng qua các thời kỳ đều đã đề cao vai trò của đoàn kết; nhiều đại hội gần đây coi đoàn kết là động lực của sự phát triển đất nước. Văn kiện Đại hội IX viết: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”[21]. Văn kiện Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lồi chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[22]. Tại Đại hội XI, Đảng ta không những khẳng định mà còn nhấn mạnh thêm vai trò động lực tầm vóc chiến lược của khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[23]. Tại Đại hội XII, một lần nữa, Đảng ta khẳng định và nhấn mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[24].

Chúng tôi muốn nói rằng, đoàn kết chắc chắn là một động lực của sự phát triển xã hội. Hay nói chính xác hơn, đoàn kết đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới coi là động lực của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Không thể coi quan điểm này là trái với tư tưởng về mâu thuẫn và quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin.

Tóm lại, Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật không dễ vận dụng. Quan điểm và thái độ của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về mâu thuẫn trong các tác phẩm kinh điển đều rất triệt để. Sứ mệnh lịch sử của các ông thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là làm cách mạng xã hội nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, nên tư tưởng về mâu thuẫn của các ông rất phù hợp với thái độ triệt để cách mạng, không khoan nhượng, đẩy sự vận động của mâu thuẫn đến tận cùng, xóa bỏ cái cũ đến tận gốc, xây dựng cái mới. Tuy nhiên, thái độ tuyệt đối hóa tính triệt để trong việc giải quyết các mâu thuẫn xã hội, về mặt lôgíc sẽ đương nhiên có xu hướng dẫn đến phá vỡ ổn định chính trị, xóa bỏ trật tự hiện tồn, xóa bỏ sự đồng thuận xã hội, đoàn kết xã hội..., và kết cục sẽ là xung đột xã hội gia tăng. Đó là điều có thể tránh được. □

[1] Xem: C.Mác và Ph.Ănghen [1994], Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.510.

[2] V.I.Lênin [1981], Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.240

[3] V.I.Lênin [1981], Sđd., t.29, tr.378

[4] Xem: V.I.Lênin [1981], Sđd., t.29, tr.277.

[5] V.I.Lênin [1981], Sđd., t.29, tr.148-149.

[6] C.Mác và Ph.Ăngghen [1995], Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.447.

[7] C.Mác và Ph.Ăngghen [1994], Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.701.

[8] V.I.Lênin [1981], Sđd., t.29, tr.379-380.

[9] V.I.Lênin [l981], Sđd., t.29, tr.207-208.

[10] C.Mác và Ph.Ăngghen [1994], Sđd., t.20, tr.173.

[11] C.Mác và Ph.Ăngghen [1994], Sđd., t.20, tr.517.

[12] V.I.Lênin [1981], Sđd., t.29, tr.379.

[13] C.Mác và Ph.Ăngghen [1994], Sđd., t.20, tr.694.

[14] C.Mác và Ph.Ăngghen [1995], Sđd., t.3, tr.107.

[15] C.Mác và Ph.Ăngghen [1994], Sđd., t.20, tr.377.

[16] V.I.Lênin [1980], Sđd., t.20, tr.77-78.

[17] Xem: диалектическое противоречие [Mâu thuẫn biện chứng] [1979], Политиздат, Mocквa, tr.16.

[18] Xem: Lê Hữu Tầng [Chủ biên] [1997], Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

[19] C.Mác và Ph.Ăngghen [1995], Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.191.

[20] V.I.Lênin [1980], Toàn tập, 1.16, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.11.

[21] Đảng Cộng sản Việt Nam [2001], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quồc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.23.

[22] Đảng Cộng sản Việt Nam [2006], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quồc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.116.

[23] Đảng Cộng sản Việt Nam [2011], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quồc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.48.

[24] Đảng Cộng sản Việt Nam [2016], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quồc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.158.

* Giáo sư, tiến sĩ, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Email: hosiquy

Nguồn: Tạp chí Triết học, số 4 [347], năm 2020

File đính kèm
  • 5 - HO SI QUY- so 4-2020.pdf
In bài viết
Gửi Email
Các tin đã đưa ngày:

Để Triết học không còn là nỗi ám ảnh của sinh viên

TDTU, 20/06/2020 | 09:14, GMT+7
Submitted by anh.chau on 20 June 2020

1. Trước tiên, bạn phải hiểu thế nào là chủ nghĩa duy tâm, thế nào là chủ nghĩa duy vật.

Duy tâm là bạn coi trọng ý thức hơn vật chất, xem ý thức có vai trò quyết định vật chất, kiểu như chỉ cần có niềm tin là có thể sống được.

Còn duy vật là bạn coi trọng vật chất hơn ý thức, xem vật chất có vai trò quyết định vật chất, điển hình là câu nói “Có thực với vực được đạo”.

Từ đó, có khái niệm “duy vật biện chứng”, đó là mọi sự vật tồn tại luôn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau và nó có vai trò quyết định ý thức.

Phép biện chứng duy vật gồm 2 nguyên lý, 3 quy luật và 6 cặp phạm trù:

2 nguyên lý: mối liện hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển

- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:

Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại luôn có mối quan hệ tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau, không có sự vật hiện tượng nào mà chỉ tồn tại một cách độc lập, tách rời nhau, từ đó, rút ra được bài học thực tế:

+ Muốn nhận xét đúng một sự việc hoặc sự vật, hiện tượng cần phải xem xét chúng ở các mặt, các phương diện và yếu tố để đánh giá chính xác, tránh quan điểm phiến diện, chỉ nhìn vào một sự việc mà đánh giá chung cho toàn bộ. Điển hình đó là câu chuyện “Thầy bói xem voi”

+ Đồng thời, cần phải đặt các sự việc hoặc sự vật, hiện tượng đó trong những điều kiện hoàn cảnh lịch sử khác nhau để đánh giá. Điển hình là khi đưa ra bản án cho một kẻ phạm tội trộm cắp cần phải xem xét rằng tiền sử của người đó đã từng phạm tội hay chưa, nếu chưa thì lý do gì mà người đó phạm tội, có thể vì lý do đang túng thiếu cần tiền chữa bệnh cho con để thực hiện hành vi chẳng hạn, từ đó mới xem xét giảm án thích hợp cho người này.

- Nguyên lý về sự phát triển:

Mọi sự vật, hiện tượng luôn tồn tại trong trạng thái vận động và phát triển theo đường xoắn ốc, cái mới ra đời thay thế cái cũ, trên cơ sở cái cũ. Nhận thức được nguyên lý này, bạn phải hiểu rằng mọi thứ luôn cần phải có thời gian tích lũy, khi tích lũy đạt đến một mức độ nhất định thì đòi hỏi bạn phải bước tiến lên một bậc mới, tiến bộ hơn, phát triển hơn.

Từ đó cần phải tránh tâm lý ù lì, không chấp nhận sự phát triển như một quy luật tất yếu hoặc nôn nóng, chưa tích lũy đủ mà đã muốn tiến lên bậc mới.

3 quy luật: Quy luật lượng – chất, quy luật mâu thuẫn và quy luật phủ định của phủ định

- Quy luật lượng – chất: Chỉ ra cách thức của sự vận động và phát triển

Lượng là cái thường xuyên biến đổi, còn chất là cái tương đối ổn định, lượng biến đổi đến một mức độ nhất định sẽ chuyển hóa thành chất mới thay thế chất cũ.

Trong quy luật này có dùng một số từ như “độ”, “bước nhảy”, “điểm nút”. Cụ thể: Độ là khoảng giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, điểm nút là thời điểm mà tại đó, sự thay đổi về lượng đủ để làm thay đổi về chất của sự vật và bước nhảy là chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật.

Lấy một ví dụ cụ thể cho các bạn về quy luật này như sau:

Sinh viên tích lũy một lượng kiến thức đủ mới trở thành cử nhân. Trong đó: lượng là lượng kiến thức phải đạt được, chất là sinh viên. Độ là từ năm 1 đến năm 4, còn điểm nút chính là năm 1 và năm 4, bước nhảy chính là từ sinh viên lên cử nhân. Lúc này, chất là cử nhân.

Rút ra bài học thực tế: Cần phải tích lũy đủ về lượng thì mới có thể thay đổi về chất, tránh tư tưởng nóng vội chưa tích lũy đủ về lượng đã muốn thay đổi về chất [chưa học xong đã muốn đi làm công việc mình đang học] hoặc bảo thủ, trì trệ khi đã tích lũy đủ về lượng nhưng lại không muốn thay đổi về chất [học xong rồi nhưng lại không muốn đi làm]

- Quy luật mâu thuẫn: Chỉ ra nguồn gốc của sự vận động và phát triển

Trong mỗi sự vật, hiện tượng hay quá trình nào đó luôn chứa đựng những mặt, khuynh hướng đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn bên trong bản thân sự vật, hiện tượng đó. Và sự thống nhất, đấu tranh giữa các mặt đối lập này là nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát triển, dẫn đến cái mới ra đời thay thế cái cũ.

Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên cần phải phân tích, sự vật, hiện tượng để tìm ra những mâu thuẫn trong các mặt, khuynh hướng và mối liên hệ giữa chúng mà giải quyết, tránh việc điều hòa các mâu thuẫn đó.

Đơn cử là câu chuyện không biết thì phải học.

- Quy luật phủ định của phủ định:

Cái mới ra đời thay thế cái cũ nhưng trên nền tảng kế thừa cái cũ. Cái mới này trong quá trình phát triển tiếp theo lại dần trở nên cũ, lỗi thời nên nó lại bị phủ định bởi một cái mới cao hơn. Cứ như thế mà thông qua số lần phủ định kế tiếp nhau mà sự vật, hiện tượng sẽ phát triển không ngừng theo đường xoắn ốc.

Điển hình là văn bản pháp luật mới ra đời luôn dựa trên nền tảng của văn bản pháp luật cũ, giữ lại những điểm hay của văn bản pháp luật cũ, đồng thời bãi bỏ những điểm chưa hay, chưa tốt để thay thế bằng điểm mới hay hơn, tốt hơn tại văn bản pháp luật mới.

Rút ra được bài học thực tế: Cái mới ra đời là tất yếu, cái mới thay thế cái cũ, nhưng dựa trên nền tảng cái cũ, tránh phủ định sạch trơn cái cũ hoặc là không đón nhận sự ra đời của cái mới.

6 cặp phạm trù: Cái riêng và cái chung; Nguyên nhân và kết quả; Tất nhiên và ngẫu nhiên; Nội dung và hình thức; Bản chất và hiện tượng; Khả năng và hiện thực

Cái riêng và cái chung: Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình.

Ví dụ: mỗi con người là một thực thể riêng biệt, phân tích kỹ bên trong mỗi con người đều có những điểm chung như đều có khối óc có thể điều khiển được hành vi của mình và trái tim cảm nhận được thế giới xung quanh.

Nguyên nhân và kết quả: Nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, nguyên nhân như thế nào sẽ sinh ra kết quả như thế ấy.

Ví dụ: Gieo nhân nào thì gặt quả nấy.

Tất nhiên và ngẫu nhiên: Tất nhiên vạch ra đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên, tất nhiên quy định ngẫu nhiên, đồng thời, ngẫu nhiên bổ sung cho tất nhiên. Do vậy trong thực tế phải căn cứ vào cái tất nhiên, chứ không phải căn cứ vào cái ngẫu nhiên, nhưng cũng không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, không tách rời cái tất nhiên ra khỏi cái ngẫu nhiên.

Ví dụ: Để đạt được kết quả tốt trong học tập thì chăm chỉ, siêng năng học tập là điều tất nhiên, nhưng nhưng đến ngày thi thì bị vấn đề về sức khỏe làm kết quả thi thấp là điều ngẫu nhiên.

Nội dung và hình thức: Nội dung và hình thức có mối liên hệ thống nhất, gắn bó chặt chẽ lẫn nhau. Không có nội dung nào mà lại không có hình thức, cũng không có một hình thức nào lại không chứa nội dung. Nội dung quyết định hình thức và hình thức cũng tác động trở lại đối với nội dung. Hình thức phù hợp sẽ thúc đẩy nội dung phát triển và ngược lại.

Ví dụ: Nội dung một quyển sách như thế nào thì mới quyết định phải làm trang bìa như thế nào, nếu như nội dung vui nhộn nhưng trang bìa có cách bố trí tiêu đề và màu bìa là gam màu buồn thì không thể tạo sự hứng khởi cho người đọc quyết định đọc quyển sách đó.

Bản chất và hiện tượng: Bản chất bao giờ cũng biểu hiện ra thành những hiện tượng nhất định, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của một bản chất nhất định. Bản chất quyết định hiện tượng, bản chất như thế nào thì hiện tượng sẽ như thế ấy.

Ví dụ: bản chất của nước là chất lỏng được thể hiện bằng hiện tượng

Khả năng và hiện thực: Khả năng và hiện thực tồn tại thống nhất, không tách rời nhau và luôn chuyển hóa lẫn nhau; khả năng trong những điều kiện nhất định sẽ biến thành hiện thực. Vì thế mà trong thực nhận thức và thực tiễn cần dựa vào hiện thực và để khả năng biến thành hiện thực cần phát huy tối đa tính năng động chủ quan của con người trong nhận thức và thực tiễn.

Ví dụ: Trước mắt, là giấy, bút và thước kẻ là hiện thực thì khả năng có thể tạo ra hộp đựng quà.

Lý luận nhận thức duy vật biện chứng là nhận thức và thực tiễn

Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử và xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

Thực tiễn bao gồm hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động khoa học, trong đó, hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định, chi phối đối với các hoạt động còn lại. [Có tiền và tài sản rồi thì mới nghĩ đến chuyện đảm bảo ổn định an ninh xã hội và phát triển khoa học là tiền đề để tạo ra của cải, vật chất mới]

Nhận thức là quá trình phản án tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc của con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm tạo ra tri thức về thế giới khách quan đó. Nhận thức gồm nhận thức cảm tính [cảm giác, tri giác và biểu tượng] và nhận thức lý tính [khái niệm, phán đoán và suy lý]

Mối liên hệ giữa thực tiễn và nhận thức: Đối với nhận thức, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và tiêu chuẩn chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức. Thực tiễn là cơ sở và mục đích của nhận thức. Đồng thời, qua hoạt động thực tiễn đem lại cho con người những tài liệu cho nhận thức, giúp nhận thức nắm bắt được bản chất, quy luật vận động của thế giới.

Ví dụ: Khi học các môn vật lý, hóa học, học sinh thường được tham gia các buổi thí nghiệm song song với các buổi học lý thuyết, các buổi thí nghiệm này chính là thực tiễn để kiểm tra lại đúng đắn của lý thuyết mình vừa học. Đồng thời, trước khi đưa ra các chân lý thì các nhà khoa học đã có quá trình nghiên cứu thực tiễn để đưa ra quy luật.

Hết phần chủ nghĩa duy vật biện chứng, giờ đến phần chủ nghĩa duy vật lịch sử

- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:

Lực lượng sản xuất là toàn bộ lực lượng được con người sử dụng trong quá trình sản xuất tạo ra của cải, vật chất, bao gồm: người lao động [thể lực, trí lực và sức lao động] và tư liệu sản xuất [tư liệu lao động và đối tượng lao động]

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, bao gồm quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối. [ai nắm quyền sở hữu thì người đó cũng có quyền tổ chức, quản lý và phân phối]

Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, cụ thể, trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời, cần phải đổi mới để phù hợp với lực lượng sản xuất mới. Quan hệ sản xuất cũng có tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, nếu phù hợp nó sẽ là động lực để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, bằng không sẽ kiềm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Ví dụ: nguyên nhân tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa của các nước Đông Âu đó chính là không có sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, và ở nước ta cũng vậy, đã mắc phải sai lầm nóng vội, chủ quan duy ý chí, duy trì quá lâu quan hệ sản xuất bao cấp tập trung dân chủ, dẫn đến người lao động ỷ lại, trì trệ trong lao động sản xuất, không phát huy được sáng kiến mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sau này, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, chúng ta mới dám nhìn thẳng nhìn đúng vào vấn đề để giải quyết tình trạng này, tuân thủ theo đúng quy luật.

- Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:

Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ các quan hệ sản xuất tác động qua lại lẫn nhau tạo nên cơ cấu kinh tế của xã hội đó. Bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội trước và quan hệ sản xuất mầm mống, trong đó quan hệ sản xuất thống trị đóng vai trò quyết định, chi phối các quan hệ sản xuất còn lại.

Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội [ý thức chính trị, pháp quyền, tôn giáo] cùng với các thiết chế chính trị xã hội [nhà nước, đảng phái, giáo hội] tương ứng được hình thành trên cơ sở kiến trúc thượng tầng nhất định.

Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối liên hệ thống nhất với nhau, trong đó, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, song kiến trúc thượng tầng cũng tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng.

Ví dụ: Tầng lớp nào nắm giữ quyền lực về kinh tế thì cũng sẽ nắm giữ quyền lực về chính trị xã hội.

- Tồn tại xã hội và ý thức xã hội:

Tồn tại xã hội: Toàn bộ đời sống vật chất của xã hội và những điều kiện sinh hoạt vật chất của nó, bao gồm: môi trường tự nhiên, điều kiện dân số.

Ý thức xã hội: toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, tâm tư, tình cảm, tập tục truyền thống…của xã hội phản ánh lại tồn tại xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, bao gồm: ý thức xã hội thông thường, ý thức lý luận [tâm lý xã hội và hệ tư tưởng]

Tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội. Tồn tại xã hội như thế nào sẽ sinh ra ý thức xã hội như thế ấy, tức là người ta không thể tìm nguốc gốc tư tưởng trong đầu óc con người mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội.

Ví dụ: Mình không thể tìm ra ý tưởng để viết bài này khi không có sự tồn tại những ám ảnh khi học môn này của các bạn sinh viên.

Các hình thái kinh tế xã hội

Lịch sử xã hội đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội, bao gồm:

- Hình thái kinh tế xã hội công xã nguyên thủy.

- Hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ.

- Hình thái kinh tế xã hội phong kiến

- Hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa tư bản

- Hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa xã hội

Mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau sẽ tương ứng với lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất khác nhau, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng khác nhau.

Như vậy, về cơ bản các bạn sinh viên chỉ cần nắm những nội dung cơ bản sau:

1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng

2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng

Vật chất, ý thức, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận

3. Phép biện chứng duy vật

2 nguyên lý: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển

3 quy luật: Quy luật lượng chất; quy luật mâu thuẫn và quy luật phủ định của phủ định.

6 cặp phạm trù: Cái riêng và cái chung; Nguyên nhân và kết quả; Tất nhiên và ngẫu nhiên; Nội dung và hình thức; Bản chất và hiện tượng; Khả năng và hiện thực

Lý luận nhận thức duy vật biện chứng

4. Chủ nghĩa duy vật lịch sử

- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

- Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

- Tồn tại xã hội và ý thức xã hội

5. Các hình thái kinh tế xã hội

Theo: danluat.vn

  • Log in to post comments

Video liên quan

Chủ Đề