Ý nghĩa của việc học môn lịch sử

Bác Hồ của chúng ta đã chỉ rõ “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Theo đó, “Sử ta dạy cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta.Dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng để muôn đời”. Lịch sử và cuộc sống là một quá trình phát triển biện chứng mà hôm nay phải là sự kế thừa và phát triển của hôm qua và chuẩn bị cho hôm sau. Về phương diện này, lịch sử là cả một kho tàng kinh nghiệm vô cùng phong phú mà con người cần nhận thức để rút ra những bài học. “Ôn cố tri tân” là một nhu cầu của con người đã trưởng thành và có ý thức được cuộc sống và vận mệnh của mình, luôn muốn vươn lên để nhận thức và cải tạo thế giới.Vì thế, có thể khẳng định rằng, có lịch sử mới có tương lai. Học lịch sử để dạy các em biết, tổ tiên ông cha ta đã lập quốc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc như thế nào, đặc biệt là trong thời đại ngày nay. Do đấy, đối với chúng ta, nếu không quan tâm đến lịch sử là có tội với tổ tiên.Theo đó, từ nhận thức dựng lại quá khứ tiến lên nhận thức bản chất của lịch sử, để từ đó khám phá ra những đặc điểm và quy luật phát triển của lịch sử, cung cấp những cơ sở khoa học để hoạch định con đường phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc cũng như của mỗi cộng đồng cư dân trên mọi lĩnh vực. Lịch sử không diễn ra theo một con đường giản đơn và thẳng tắp mà thường gập ghềnh, quanh co, phức tạp. Vấn đề là liệu chúng ta có đủ bản lĩnh và trí tuệ để học một cách thực sự và nghiêm túc tất cả các bài học lịch sử hay không thôi chứ bài học lịch sử nào cũng đều hết sức quý giá. Nếu như cả thế giới nghiêng mình trước sự lớn mạnh của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, thì khi đánh giá sức mạnh tổng hợp tạo nên, điều đầu tiên họ khẳng định đó là sức mạnh của lịch sử đem lại, đó là giá trị gốc, tạo nên một cái móng vững chắc, bền và dẻo như chiếc lò xo, tạo ra sự phát triển, tính bền vững của quốc gia, dân tộc, đó là bài học đắt giá cho các dân tộc khác trong đó có Việt Nam.Lịch sử là quá trình phát triển khách quan của xã hội loài người nói chung cũng như của mỗi quốc gia, dân tộc. Lịch sử như một dòng chảy không ngừng từ khi con người xuất hiện, phát triển liên tục đến ngày nay và cả mai sau. Sử học [nói rộng ra là Khoa học Lịch Sử] là một trong những ngành trí thức sớm nhất của con người và luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, trong kho tàng tri thức nhân loại cũng như trong mọi hoạt động của con người, trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Sử học đáp ứng một nhu cầu tự nhiên và ngày càng nâng cao của con người vì ai cũng cần biết mình sinh ra từ đâu và quá khứ như thế nào. Chúng ta không thể hình dung được sự tồn tại và phát triển của loài người nếu như chúng ta bị tách rời khỏi quá khứ hoặc với cả một quá khứ mù mịt. Nếu Lịch sử dân tộc ngừng chảy, hoặc chảy không mạnh, nó sẽ sinh ra một thế hệ con người Việt Nam mới “vô thức”.Có thể nói đó như là những người máy, không có quê hương, đất nước, gia đình, dòng họ, không có sự yêu thương đùm bọc, chia sẻ, thêm vào đó là sẵn không có sự tôn trọng, thích thì làm, không có trên có dưới, xem thường các đạo lý mà trước hết là đạo làm người.Những tri thức lịch sử trang bị cho chúng ta những kiến thức tinh hoa của văn hóa nhân loại, của dân tộc để học hỏi, giao lưu, hội nhập. Xu hướng toàn cầu hóa hiện nay đã làm cho các quốc gia dân tộc không phân biệt thể chế chính trị xích lại gần nhau. Vì thế, muốn hội nhập phải nói rõ lịch sử dân tộc mình cho thế giới hiểu đúng. Đồng thời, nước ta là nước đang phát triển, cần phải học hỏi kinh nghiệm của các nước khác. Vì vậy, việc tìm hiểu lịch sử nước ngoài, nhất là lịch sử các nước láng giềng trong khu vực, các nước lớn có quan hệ mật thiết với chúng ta để hiểu họ và học hỏi tinh hoa văn hóa của họ là điều không thể thiếu.Kiến thức lịch sử có tác dụng to lớn trong giáo dục các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ truyền thống, bản sắc dân tộc để không bị hòa tan khi hội nhập với thế giới, khu vực. Lịch sử là bản thân những hoạt động xã hội loài người, dân tộc trên tất cả các lĩnh vực với những biểu hiện muôn màu, muôn vẻ, mà nhờ đó con người có thể đúc kết được các kinh nghiệm làm gương cho đời sau. Những bài học kinh nghiệm của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc còn có ý nghĩa sâu sắc trong công cuộc phát triển đất nước hiện nay. Vì vậy, muốn phát triển đất nước trong điều kiện hiện nay, phải hiểu sâu sắc các bài học kinh nghiệm của quá khứ và phải biết sử dụng những hiểu biết về lịch sử vào thực tiễn sinh động phong phú, đa dạng. Xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc đã cho thấy, Việt Nam là một nước nhỏ, nghèo, lại luôn bị nước lớn chèn ép tìm cách vừa dụ dỗ vừa đe dọa để thôn tính đất nước. Thực tế, lịch sử dựng nước và giữ nước cũng dạy cho chúng ta bài học là ở bất kỳ hoàn cảnh nào, giải quyết nhiệm vụ gì thì yếu tố nhân dân và xây dựng khối đoàn kết toàn dân cũng phải được coi trọng hàng đầu.Đó là bài học đắt giá được rút ra từ lịch sử. Có thể nhìn nhận một cách chân thực rằng, không biết Toán có thể gặp khó khăn khi cộng trừ tiền lương, quy chiếu ngoại tệ ra tiền Việt.Nhưng nếu không biết lịch sử thì điều gì sẽ xảy ra khi con cái không biết cha mẹ, ông bà tổ tiên, dòng họ mình là ai? Còn xét về giá trị hiện thực, thì lịch sử là những gì có thật đã xảy ra trong quá khứ theo quy luật của tự nhiên. Cho nên lịch sử là những bài học vô giá đã được rút ra từ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Mà để có được những bài học lịch sử vô giá đó, biết bao xương máu và nước mắt của dân tộc đã phải đánh đổi. Vì thế, học và tìm hiểu về Lịch sử Việt Nam còn là để ghi nhớ biết ơn công lao vĩ đại của bao thế hệ tiền nhân đã hi sinh xương máu để gìn giữ đất nước Việt Nam cho thế hệ về sau. Và quan trọng hơn bao giờ hết, lịch sử xác định nguồn gốc của một dân tộc, qua đó chủ quyền quốc gia, biên giới lãnh thổ của một đất nước được xác lập, từ đó khẳng định ví trí và vị thế của một quốc gia trên trường quốc tế.Đối với giáo dục, dạy lịch sử còn là dạy làm Người, dạy cho thế hệ trẻ giữ gìn phẩm giá, nhân cách con người, đồng thời góp phần quan trọng vào việc nâng cao cái “phông” văn hóa cho học sinh. Học lịch sử còn để biết giá trị của ngày hôm nay và từ đó biết ý nghĩa của thành ngữ “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Con người xuất hiện từ khi nào thì khoa học lịch sử cũng ra đời từ đó, lịch sử xã hội loài người từ khi hình thành cho đến nay đã có biết bao đổi thay, có những thứ đã vĩnh viễn biến mất hoàn toàn khỏi trái đất, song khoa học lịch sử thì vẫn vậy, nó như cây cổ thụ ngày càng vươn cao, tán lá càng rộng.Với tư cách là một môn khoa học, Lịch sử là một bộ môn nền tảng của khoa học xã hội và nhân văn, là cơ sở quan trọng bậc nhất để trang bị một hệ thống kiến thức về cội nguồn dân tộc, về các thành quả xây dựng và bảo vệ đất nước, về các giá trị tiêu biểu của truyền thống, văn hóa dân tộc và nhân loại; Để từ đó, bồi dưỡng các giá trị của truyền thống của dân tộc, nhất là chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập tự cường, tinh thần nhân ái..; từ đó xây dựng phẩm chất và bản lĩnh con người Việt Nam. Môn học này có một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục, hình thành nhân cách, lòng yêu nước và sự hiểu biết, nhận thức về truyền thống dân tộc của con người nói chung. Lịch sử tạo niềm tin cho học sinh qua các bằng chứng chứng xác thực [không phải bằng mệnh lệnh]. Ví như, tin vào vai trò của Đảng, của Bác, của nhân dân trong đấu tranh và xây dựng; tin vào các quy luật sản xuất vật chất, đấu tranh. Lịch sử cung cấp cho học sinh những kinh nghiệm quý báu về cách xử lý tình huống thông minh của người xưa trong cuộc sống, nhất là trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử giáo dục lòng yêu nước qua các tấm gương khắc phục khó khăn, không ngại gian khổ, hy sinh, xả thân vì nước, thể hiện tinh thần “mình vì mọi người”.Qua đó học sinh ý thức được trách nhiệm của mình đối với xã hội, Tổ quốc. Lịch sử là bộ môn khoa học, về mặt văn hóa nó gắn liền với hình hài đất nước, đó là dòng sông, bến nước, sân đình, cây đa, giếng nước, lũy tre làng, là gia đình, tổ tiên. Lịch sử nuôi dưỡng thế hệ con người Việt Nam, giáo dục góp phần hình thành cái tâm, tính, cần cù, chăm chỉ, sáng tạo, yêu thương đùm lẫn nhau, gắn tình yêu gia đình, làng xóm với quê hương đất nước.

Mới đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đề nghị “tích hợp” môn Lịch sử với môn Cuộc sống quanh ta [từ lớp 1 đến lớp 3], môn Tìm hiểu xã hội [lớp 4 và lớp 5], môn Khoa học xã hội [Trung học cơ sở] và môn Công dân với Tổ quốc [Trung học phổ thông]. Trước những làn sóng phản đối dữ dội của dư luận, Bộ Giáo dục và Đào tạo phân trần là họ không có ý định “khai tử” môn Lịch sử mà chỉ sáp nhập nó vào những môn học khác thiết thực hơn. Dù vậy, khi sáp nhập hay, nói theo chữ họ thường dùng, “tích hợp” như thế, thứ nhất, cái tên môn Lịch sử sẽ không còn nữa, và khi cái tên không còn, ý nghĩa của nó sẽ giảm hẳn xuống; thứ hai, tất cả các kiến thức liên quan đến lịch sử sẽ được dạy, nếu còn dạy, một cách phân tán và rời rạc, không có tính hệ thống như vốn nó cần có với tư cách một môn học chính thức. Nói cách khác, cho dù bộ Giáo dục và Đào tạo không có ý định xoá trắng môn Lịch sử, qua việc “tích hợp” ấy, họ đã hạ thấp một trong những môn học được xem là quan trọng nhất trong mọi hệ thống giáo dục.

Tại sao họ lại cố tình hạ thấp một môn học như thế?

Những người hay phê phán cộng sản có thể cho qua việc làm ấy, nhà cầm quyền Việt Nam muốn đào tạo nên những thế hệ không còn biết gì đến lịch sử, xa lạ với truyền thống, không có lòng tự hào dân tộc, nhằm phục vụ cho một âm mưu sâu xa và thâm hiểm hơn: để Việt Nam dễ lệ thuộc vào Trung Quốc.

Trước khi có bằng chứng, tôi không muốn đẩy sự phê phán đến mức xa như thế. Tôi chỉ dừng lại ở hai nguyên nhân chính:

Thứ nhất, đó có thể là một phản ứng vụng về trước sự thất bại của môn Lịch sử lâu nay: Thầy thì không muốn dạy còn trò thì không muốn học. Tuy nhiên, sự thất bại như thế không nằm trong bản thân môn học. Ở Úc và các quốc gia Tây phương, theo chỗ tôi biết, Lịch sử là một trong những môn học lôi kéo nhiều học sinh và sinh viên nhất. Vấn đề là ở nội dung và cách dạy. Về nội dung, ở Việt Nam, Lịch sử bị chính trị hoá nặng nề: Người ta dùng lịch sử chủ yếu để tuyên truyền cho sự thống trị của đảng Cộng sản thay vì để tìm kiếm những sự thật trong quá khứ. Về cách thức giảng dạy, người ta chủ yếu chỉ yêu cầu học sinh học thuộc lòng các sự kiện và các con số vô hồn và vô vị trong sách giáo khoa thay vì rèn luyện và phát huy khả năng phân tích và phán đoán của học sinh.

Thứ hai, quan trọng hơn, tôi cho là bộ Giáo dục và Đào tạo không hiểu hết ý nghĩa của môn lịch sử. Người ta chỉ xem lịch sử là những chuyện gì đã thuộc về quá khứ, học sinh biết được càng tốt, còn không biết thì cũng chả sao cả. Nhưng người ta lại quên mất một điều thiết yếu: Trong khi những môn học khác chỉ giới hạn trong việc cung cấp kiến thức và kỹ năng cho học sinh, môn Lịch sử, bên cạnh các kiến thức và kỹ năng, còn có tác dụng góp phần hình thành tư cách cá nhân cũng như tư cách công dân của con người.

Có thể tóm gọn ý nghĩa của lịch sử vào ba điểm chính:

Một, đồng ý lịch sử là chuyện quá khứ. Tuy nhiên, biết những chuyện trong quá khứ như thế, người ta mới có thể hiểu rõ và sâu hơn về đất nước và xã hội chung quanh, và mới có thể giải thích được các biến động chính trị và xã hội trong hiện tại. Không biết lịch sử, người ta sẽ không hiểu tại sao Việt Nam vẫn có thể trường tồn bên cạnh một nước lớn, đông dân và có đầu óc bá quyền như Trung Quốc. Không biết lịch sử, người ta cũng không hiểu được nhiều lãnh vực khác trong đời sống, chẳng hạn, về văn học nghệ thuật: Tại sao trước đây người Việt dùng chữ Hán, sau, lại đổi sang chữ quốc ngữ; tại sao quá trình hiện đại hoá xã hội Việt Nam lại có lắm gập ghềnh và khúc khuỷu như vậy. Vân vân.

Hai, lịch sử có khả năng hun đúc đạo đức của con người. Qua việc nghiên cứu lịch sử, người ta phân biệt được cái đúng và cái sai, cái hay và cái dở, sự cao thượng và sự thấp hèn, anh hùng và tiểu nhân, bán nước và yêu nước; người ta cũng biết yêu quý và tự hào về đất nước, để, khi cần, sẵn sàng hy sinh cho đất nước. Nói cách khác, lịch sử có khả năng tạo nên những công dân tốt.

Ba, quan trọng nhất, lịch sử góp phần định hình bản sắc của cả đất nước. Xin lưu ý: lịch sử là một dạng ký ức. Mà ký ức nào cũng có hai kích thước chính: một phần, thuộc về quá khứ; phần khác, thuộc về hiện tại. Chính ký ức, với hai kích thước ấy, tạo nên bản sắc cá nhân: Mất trí nhớ bao giờ cũng đồng nghĩa với việc mất ý niệm về bản sắc: Người ta không còn biết mình là ai nữa. Ký ức tập thể của cả cộng đồng cũng có vai trò tương tự: Nó góp phần định hình nên bản sắc của dân tộc, thậm chí, có thể nói, nó chính là yếu tố thiết yếu để tạo nên cái gọi là dân tộc hay đất nước.

Trước, người ta cho đất nước là một tập thể sống trên cùng một lãnh thổ, chia sẻ cùng một nền kinh tế, một nền văn hoá và một lịch sử. Ngay từ đầu thế kỷ 15, Nguyễn Trãi đã nhận ra đầy đủ các yếu tố ấy trong phần mở đầu bài Bình Ngô đại cáo: “Như nước Đại Việt ta từ trước / Vốn xưng văn hiến đã lâu / Núi sông bờ cõi đã chia / Phong tục Bắc Nam cũng khác”. Gần đây, giới nghiên cứu phát hiện thêm một kích thước khác của đất nước: đó là một “cộng đồng tưởng tượng” [imagined community] bao gồm những người chia sẻ với nhau một ký ức chung và một tưởng tượng chung, để bất chấp những khác biệt về phương diện xã hội, nghề nghiệp, địa lý hay tôn giáo, mọi người vẫn tự thấy mình tương tự với những người khác trong cả nước; mỗi người tự thấy mình là một thành viên trong cả cộng đồng rộng lớn chung quanh. Ở Việt Nam, truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ với sự sự tích trăm trứng trăm con cũng như bao nhiêu câu chuyện khác trong lịch sử là những ký ức tập thể như thế.

Có thể nói thiếu một ký ức tập thể [hay lịch sử nói chung] để dựa theo đó, người ta có thể tự hào về dân tộc, sẽ không có đất nước, hơn nữa, cũng sẽ không có cả những công dân biết yêu nước và sẵn sàng tranh đấu cho độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Video liên quan

Chủ Đề