Ví dụ về quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng

Hôn nhân là cơ sở để hình thành gia đình – tế bào của xã hội. Sự kiện kết hôn làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. Nội dung của quan hệ pháp luật này bao gồm các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản, trong đó quan hệ nhân thân là cơ bản, đã được ghi nhận từ lâu, có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ thể. Có thể thấy, có khá nhiều quyền và nghĩa vụ nhân thân tồn tại giữa vợ và chồng, đảm bảo cho quan hệ hôn nhân được gắn bó khăng khít, bền vững.

Pháp luật về hôn nhân gia đình Việt Nam cũng đã có sự ghi nhận, đưa ra những quy định điều chỉnh vấn đề này một cách cụ thể. Tuy nhiên, thực tế thực hiện những quy định trên như thế nào, có thực sự hiệu quả hay không? Khi có vi phạm xảy ra, chúng ta đã xử lý kịp thời, đảm bảo tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể hay chưa? Đó chính là những hạn chế bất cập mà chúng ta nên nhìn nhận lại, tìm kiếm giải pháp tốt nhất.

Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: Cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng.

Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam [Nhà xuất bản Công an nhân dân].
  • Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 2014.
  • Bài viết “Quyền, nghĩa vụ nhân thân của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân”.

Một số đặc điểm khái quát chung

Định nghĩa quyền, nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng

Đây là mối quan hệ giữa vợ và chồng về các mặt lợi ích tinh thần, tình cảm, gắn liền với mỗi bên vợ chồng trong suốt thời kì hôn nhân. Nó không có nội dung kinh tế, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho người khác.

Đặc điểm của quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng

Thứ nhất, thông thường, quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ, chồng phát sinh do sự kiện kết hôn, trừ trường hợp những trường hợp hai bên nam nữ chung sống với nhau trước ngày 03/01/1987 mà không có giấy đăng ký kết hôn. Như vậy, khi có sự kiện nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn thì đương nhiên xuất hiện các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa họ.

Thứ hai, quyền và nghĩa vụ nhân thân gắn liền với mỗi bên vợ chồng và không thể chuyển giao. Có nghĩa là nó có tính độc lập, cá biệt hoá cá nhân này với cá nhân khác, không thể trộn lẫn. Các quyền, nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng không thể là đối tượng chuyển dịch cho bất kì ai, không thể do người khác thực hiện thay mà chỉ phụ thuộc giữa vợ và chồng. Nó chấm dứt khi quan hệ hôn nhân không còn tồn tại nữa.

Thứ ba, quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ, chồng được quy định tương ứng giữa hai bên. Tức là, quyền của người này chính là nghĩa vụ của người kia. Chúng tồn tại song hành lẫn nhau, tạo ra mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa hai bên chủ thể trong suốt thời kì hôn nhân này.

Nội dung quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng

Quyền và nghĩa vụ thể hiện mối quan hệ tình cảm với nhau

Nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, quan tâm, chăm sóc nhau được điều chỉnh bằng các nguyên tắc đạo đức, truyền thống và theo phong tục, tập quán của người Việt Nam rồi sau đó được nâng dần lên thành luật. Vi phạm những quy tắc đạo đức chỉ bị xã hội lên án, vi phạm các quy tắc pháp luật sẽ bị xử phạt theo quy định.

Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình nêu rõ:

“1.Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; cùng nhau chia sẻ , thực hiện các công việc trong gia đình.

2.Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ, chồng có có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lí do chính đáng khác.”

Như vậy, có thể thấy, luật rất đề cao sự gắn kết chặt chẽ giữa vợ, chồng trong đời sống hôn nhân gia đình. Hai bên có nghĩa vụ hỗ trợ, cùng nhau sinh sống, tạo lập sợi dây liên kết chung khăng khít bắt đầu từ nền tảng tình cảm tình yêu chân thành. Chỉ có sự yêu thương, quan tâm, chia sẻ thường xuyên, kịp thời giữa hai người thì hôn nhân mới có thể lâu dài, bền vững. Mục đích của việc quy định vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương nhau, chung thủy với nhau là để ngăn các quan hệ bất chính, bảo vệ hạnh phúc gia đình.

Về nghĩa vụ chung sống, có thể hiểu rằng hôn nhân trước hết là cuộc sống chung giữa người đàn ông và người phụ nữ: chung nhà, chung bàn ăn và chung chăn gối.

Tất nhiên, vợ và chồng không nhất thiết phải ở chung, ăn chung, ngủ chung một cách liên tục, thường xuyên trong suốt thời kỳ hôn nhân; song, ít nhất giữa họ luôn phải có mối liên hệ sâu đậm về phương diện sinh hoạt vật chất và tinh thần. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ghi nhận một cách rõ ràng nghĩa vụ chung sống; tuy nhiên, không thể nói rằng mục đích của hôn nhân đã đạt được một khi hai bên kết hôn không thực sự chung sống với nhau.

Việc không chung sống liên tục trong một thời gian dài có thể dẫn đến những khó khăn trong việc duy trì cơ sở đạo lý và cơ sở thực tế của quy tắc suy đoán con chung của vợ chồng. Vợ chồng sống chung với nhau dưới cùng một mái nhà, không bị chia cắt về vấn đề chỗ ở, không gian, địa lý…sẽ đảm bảo được sự gắn kết giữa hai bên, trừ các trường hợp khác luật đã dự liệu.

Ngoài ra, việc thể hiện tình cảm thương yêu, sẻ chia giữa vợ chồng còn được nhìn nhận thông qua việc hai người cùng nhau thực hiện các công việc trong gia đình. Sau khi kết hôn, cuộc sống của cặp nam, nữ đã trở thành đời sống sinh hoạt chung và mọi công việc trong gia đình đó không thể là nghĩa vụ sắp xếp, chăm lo thuộc về một người. Sự chia sẻ, hỗ trợ nhau là cần thiết để mọi thứ diễn ra dễ dàng, hiệu quả, gắn kết hơn.

Bên cạnh đó, vợ chồng còn có nghĩa vụ thể hiện mối quan hệ tình cảm bằng việc luôn tôn trọng, bảo vệ danh dự, nhân phẩm cho đối phương. Điều 21 Luật hôn nhân gia đình đã quy định:

“Vợ chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.”

Có thể thấy, vấn đề này có sự liên quan ảnh hưởng mật thiết giữa cả hai bên vợ và chồng. Khi vợ chồng có ý thức, trách nhiệm bảo vệ danh dự, uy tín của người kia thì đồng thời chính bản thân mình cũng sẽ được mọi người tôn trọng. Pháp luật không cho phép các trường hợp vợ, chồng xúc phạm, bôi nhọ, làm xấu đi danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau vì bất cứ mục đích nào.

Bởi bất cứ ai có lời nói, cử chỉ, hành vi làm nhục người khác, xâm phạm đến danh dự uy tín đã là trái pháp luật thì vợ chồng-những người gắn kết với nhau bằng tình yêu, tự nguyện kết hôn chung sống tạo lập cuộc sống gia đình chung càng cần phải ý thức sâu sắc vấn đề bảo vệ, tôn trọng uy tín của nhau. Một khi vợ, chồng còn chưa trọng nhau thì việc để người khác tôn trọng mình là rất khó. Nếu sau khi kết hôn, giữa hai bên không tồn tại nền tảng tôn trọng cơ bản này thì sẽ không thể là hôn nhân hạnh phúc, bền vững.

Trong mối quan hệ vợ chồng, thể hiện tình cảm yêu thương, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau là điều cần thiết phải được thực hiện chân thành, thường xuyên, tự nhiên nhất. Bởi nó chỉ phát sinh giữa hai chủ thể đặc biệt là vợ-chồng thông qua sự kiện pháp lí quan trọng là kết hôn, không ai có thể thay thế vợ/ chồng trong việc thể hiện tình cảm với người còn lại.

Quyền bình đẳng, tự do, dân chủ giữa vợ và chồng

Hiện nay, quyền bình đẳng, dân chủ giữa vợ và chồng được BLDS và Luật HNGĐ 2014 điều chỉnh. Điều này thể hiện sự bình đẳng của vợ chồng khi cùng nhau bàn bạc, quyết định các vấn đề liên quan đến nhân thân của vợ chồng và của mỗi thành viên trong gia đình, liên quan đến đời sống chung của gia đình.

Quyền bình đẳng của vợ chồng được thể hiện qua quyền lựa chọn nơi cư trú [Điều 20 Luật HNGĐ 2014]

Việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng không bị ràng buộc theo phong tục tập quán, địa giới hành chính, vợ chồng lựa chọn nơi cư trú hoàn toàn dựa vào hoàn cảnh thực tế, tính chất hoạt động nghề nghiệp, khả năng tài chính… Ngoài ra, trong trường hợp vợ chồng vì lí do công việc mà không thể cùng lựa chọn một nơi cư trú thì họ hoàn toàn có thể tự lựa chọn nơi cư trú riêng mà không ảnh hưởng tới việc thực hiện nghĩa vụ với nhau và với gia đình.

Vợ, chồng bình đẳng, tự do thỏa thuận cùng nhau và đưa đến quyết định chung về việc chọn nơi cư trú. Không bên nào có quyền ép buộc người kia phải chọn nơi cư trú theo ý kiến của mình, thuận lợi cho bản thân mà gây khó khăn cho đối phương.

Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc nuôi dạy con:

Vợ, chồng đều bình đẳng với nhau trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con… tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường lành mạnh, yêu thương, tôn trọng ý kiến của con, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con, quan tâm, chăm lo cho sự phát triển của con về cả thể chất lẫn tinh thần… Đồng thời, vợ chồng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật khi họ không thực hiện tốt nghĩa vụ của mình trong việc chăm sóc, giáo dục con.

Nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số – kế hoạch hóa gia đình: Nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số là nghĩa vụ chung của vợ chồng, vợ chồng phải cùng nhau tạo điều kiện cho nhau thực hiện tốt nghĩa vụ này. Vợ chồng thỏa thuận với nhau về việc lựa chọn số con, các biện pháp phòng tránh thai phù hợp theo chính sách chung về dân số cũng như các vấn đề khác liên quan.

Quyền được lựa chọn nghề nghiệp, học tập và tham gia các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội [Điều 23 Luật HNGĐ 2014]:

  • Dựa trên nguyên tắc vợ chồng bình đẳng với nhau về mọi mặt theo Luật HNGĐ hiện hành và nguyên tắc nam nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, gia đình và xã hội; việc vợ chồng được tự lựa chọn nghề nghiệp riêng cho bản thân là hoàn toàn chính đáng, nhằm xóa bỏ quan hệ bất bình đẳng trong quan hệ vợ chồng vẫn tồn tại hiện nay, đồng thời việc học tập nâng cao trình độ không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của mỗi công dân, do vậy vợ chồng cần có sự bình đẳng và không có sự ngăn cản nhau trong việc thực hiện quyền này.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: Quyền này được quy định tại Điều 22 Luật HNGĐ 2014: “Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau.”

Đây là môt quy định nhằm xóa bỏ hiện tượng khi kết hôn một bên vợ hoặc chồng ngăn cản sự tự do tín ngưỡng, tôn giáo của bên kia làm ảnh hưởng không chỉ quyền của công dân được pháp luật quy định mà còn ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Vợ, chồng không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

Quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng

Quyền đại diện giữa vợ và chồng

Nghĩa vụ đại diện giữa vợ và chồng là việc vợ, chồng thay mặt người kia khi người kia mất NLHVDS hoặc hạn chế NLHVDS hoặc một số trường hợp khác thực hiện trên giấy tờ chỉ đứng tên vợ hoặc chồng được giới hạn người đứng tên trên giấy tờ được phép đại diện.

Thứ nhất, Luật hôn nhân và gia đình 2014 là quy định cụ thể về các căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng như sau:

“1.Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2.Vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.

Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn.”

Thứ hai, khoản 1 Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình có quy định và việc đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh: “Trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì người trực tiếp kinh doanh là người đại diện cho bên kia trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật này và các luật liên quan có quy định khác.”

Trường hợp vợ chồng có thỏa thuận bằng văn bản về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó.

Thứ ba, Luật hôn nhân và gia đình 2014 còn quy định về đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng.

Trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi theo quy định của pháp luật.

Xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích chung của gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ/chồng thì việc đặt ra vấn đề đại diện là vô cùng cần thiết. Như vậy có thể tránh việc các giao dịch dân sự giữa vợ, chồng với người thứ ba bị gián đoạn, hạn chế, tránh kìm hãm sự phát triển chung của xã hội.

Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ thân nhân giữa vợ và chồng

Thực tế cho thấy, có khá nhiều cặp vợ chồng trong thời kì hôn nhân đã tôn trọng, đảm bảo thực hiện quyền, nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng, cuộc sống gia đình hạnh phúc, êm ấm. Họ quan tâm, yêu thương, chia sẻ cùng nhau những khó khăn, vui buồn, bảo vệ nhân phẩm, danh dự, uy tín của đối phương trước các vấn đề xã hội.

Khi một người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, vợ/chồng của họ sẽ là người đại diện, thay họ thực hiện những giao dịch dân sự quan trọng, cần thiết, đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp mà họ được hưởng. Nhờ sự gắn bó tin tưởng, đồng thuận cao mà các cặp vợ chồng thường đại diện nhau trong kinh doanh hay trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng.

Việt Nam với nền tảng văn hóa xem trọng đạo đức xã hội, nhất là tình nghĩa vợ chồng trong hôn nhân, thông thường, những vấn đề phát sinh về quyền và nghĩa vụ nhân thân khá dễ giải quyết, hầu hết dựa trên cơ sở bao dung vị tha, sự hi sinh giữa vợ và chồng.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế là, việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng vẫn tồn tại không ít hạn chế, bất cập.

Tình trạng bạo lực gia đình vẫn còn xảy ra khá phức tạp mà nạn nhân chủ yếu là người vợ. Theo Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam được Chính phủ Việt Nam và Liên hợp Quốc công bố gần đây cho thấy: Hơn một nửa phụ nữ tại Việt Nam đều có nguy cơ bị bạo lực tại một thời điểm nào đó trong cuộc đời. Báo cáo nêu rõ 32% phụ nữ từng kết hôn cho biết đã trải qua bạo lực thể chất trong cuộc đời và 6% đã trải qua bạo lực thể chất trong vòng 12 tháng qua.

Tỷ lệ bạo lực tinh thần ở mức cao: có 54% phụ nữ cho biết đã từng bị bạo lực tinh thần trong cuộc đời và 25% bị bạo lực tinh thần trong 12 tháng qua.Tất cả những phụ nữ cho biết đã trải qua bạo lực thể chất và tình dục thì đồng thời cũng chịu bạo lực tinh thần. Nếu kết hợp dữ liệu của cả 3 hình thức bạo lực cho thấy 58% phụ nữ đã từng trải qua cả bạo lực thể chất, tình dục và tinh thần. 27% phụ nữ cho biết đã chịu ít nhất một trong 3 hình thức bạo lực này trong 12 tháng qua.

Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ bị chồng mình lạm dụng nhiều hơn gấp ba lần so với khả năng họ bị người khác lạm dụng. Các số liệu mới được đưa ra đã nêu bật một thực trạng là đa số phụ nữ Việt Nam đều có nguy cơ tiềm tàng bị bạo lực gia đình ở một hay một vài thời điểm nào đó trong cuộc sống của họ.

Tại một số vùng ở Việt Nam đặc biệt ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cứ 10 phụ nữ thì có 4 người nhận thấy gia đình không phải là nơi an toàn đối với họ. Mặc dù bạo lực gia đình là một hiện tượng rất phổ biến nhưng vấn đề này vẫn bị giấu giếm nhiều.

Sự kỳ thị và sự xấu hổ khiến phụ nữ phải giữ im lặng, nhiều phụ nữ còn nghĩ rằng bạo lực trong quan hệ vợ chồng là điều “bình thường” và người phụ nữ cần bao dung, nhẫn nhịn chịu đựng để gìn giữ sự êm ấm cho gia đình. Rõ ràng là bạo lực gia đình đã gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe, thể chất và tinh thần của người phụ nữ.

Ở Việt Nam, cứ bốn phụ nữ từng bị chồng bạo hành thể chất hoặc tình dục thì có một người cho biết họ phải chịu đựng những vết thương trên cơ thể và hơn một nửa trong số này cho biết họ đã bị thương tích nhiều lần. So với những phụ nữ chưa từng bị bạo hành thì những người đã từng bị chồng bạo hành có nhiều khả năng bị bệnh tật và sức khỏe kém hơn gần hai lần và khả năng nghĩ đến việc tự tử nhiều hơn gấp ba lần. Phụ nữ có thai cũng là đối tượng có nguy cơ bị bạo hành.

Theo báo cáo nghiên cứu, khoảng 5% phụ nữ từng có thai cho biết họ đã bị đánh đập trong thời gian mang thai. Trong hầu hết các trường hợp này, họ đã bị chính người cha của đứa trẻ mình đang mang trong bụng lạm dụng.

Kèm theo những tổn thương về thân thể trong bạo hành gia đình, nạn nhân cũng bị xâm phạm sâu sắc danh dự, nhân phẩm. Có những người vợ/chồng vì mâu thuẫn không thể giải quyết còn tìm cách bôi nhọ, làm ảnh hưởng đến uy tín của người kia.

Tình trạng vợ chồng thiếu tôn trọng nhau, hạn chế quyền tự do, sự bình đẳng của người kia cũng xảy ra khá phổ biến. Nhiều người vợ/ chồng tạo sức ép với đối phương trong vấn đề lựa chọn nơi ở ổn định, cách nuôi dạy con cái, vấn đề việc làm hay tín ngưỡng tôn giáo… Đây cũng là những nguyên nhân phổ biến gây ra sự căng thẳng, mâu thuẫn, lục đục trong gia đình.

Hai bên không có được tiếng nói chung trong việc quyết định những vấn đề liên quan đến đời sống chung của gia đình. Sự tự do, bình đẳng đưa ra ý kiến đóng góp không được đảm bảo mà nói một cách sâu sắc là đã xâm phạm đến quyền nhân thân giữa vợ và chồng. Có nhiều trường hợp vợ/chồng bị người kia áp đặt, ép buộc phải di chuyển chỗ ở, thay đổi việc làm, sinh thêm con hay thay đổi tôn giáo tín ngưỡng theo yêu cầu của mình.

Tình trạng này diễn ra không ít nhưng thường được mọi người dàn xếp cho qua, chấp nhận vì nghĩ chỉ là mâu thuẫn thường ngày. Thế nhưng cũng có những vụ việc chỉ vì thiếu đi sự lắng nghe, thiếu sự tôn trọng quyền tự do, bình đẳng trong quan hệ vợ chồng khiến cho hôn nhân bế tắc, đổ vỡ. Giữa vợ chồng với nhau, có được bình đẳng, dân chủ là điều cần thiết để hôn nhân bền vững.

Bên cạnh đó, về vấn đề đại diện giữa vợ và chồng cũng tồn tại nhiều bất cập. Có những người lợi dụng điều này để dùng tài sản chung vợ chồng cho mục đích riêng, không hiệu quả, không có sự đồng thuận của người còn lại. Có những giao dịch dân sự đã bị tuyên vô hiệu vì có dấu hiệu lừa dối trong xác lập giao dịch cần sự đồng ý của 2 bên vợ chồng.

Cũng có trường hợp, vợ chồng từ chối, trốn tránh việc đại diện cho người kia đã bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự gây khó khăn cho các cá nhân, tổ chức có liên quan.

Kiến nghị giải pháp đảm bảo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng

Có thể thấy, vấn đề xử lí, xử phạt những vi phạm liên quan đến lĩnh vực hôn nhân gia đình không thực sự phổ biến, hiệu quả trên thực tế. Bởi mọi người thường quan niệm việc vợ chồng nên để đôi bên hòa giải, tự giải quyết với nhau, trừ những trường hợp vấn đề quá phức tạp, để lại hậu quả nghiêm trọng.

Nhất là trong lĩnh vực quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng thì nó lại càng ít được quan tâm, không được kịp thời phản ánh, xử lí. Vì vậy, giải pháp để đảm bảo được quyền nhân thân giữa vợ chồng, theo em, cần có sự thay đổi nhận thức từ sâu bên trong mỗi người dân

Mỗi người vợ/chồng cần ý thức, nắm rõ được những quyền và nghĩa vụ của bản thân trong quan hệ hôn nhân. Chỉ khi hiểu được địa vị pháp lí của mình ở đâu trong mối quan hệ đó, biết được mình mong muốn điều gì từ người bạn đời thì mới có thể cùng nhau yêu thương, san sẻ, tôn trọng, chung thủy, xây dựng gia đình hạnh phúc.

Chúng ta cũng nên dần học cách ứng xử thoáng hơn, cởi mở hơn trước về vấn đề hôn nhân. Nếu một khi bản thân cảm thấy không được tôn trọng trong một mối quan hệ, gắn kết mà không hạnh phúc thì nên có sự thay đổi. Nhiều người vì ngại va chạm, biến cố, sợ hãi dư luận xã hội mà chấp nhận chịu đựng, chỉ mong níu giữ được gia đình mình. Hầu hết, những cặp vợ chồng đều không nhận thức được việc quyền nhân thân của mình đang bị xâm phạm và bối rối, bất lực trong tình trạng đó.

Bên cạnh chế độ tài sản theo thỏa thuận, em nghĩ, việc hình thành chế độ quyền nhân thân theo thỏa thuận cũng là một giải pháp hợp lí. Vợ/chồng có thể cùng nhau đưa ra những ý kiến, thỏa thuận cụ thể về những quyền/nghĩa vụ nhân thân mà mình mong muốn và văn bản đó được nhà nước ghi nhận.

Các cơ quan, tổ chức có hoạt động liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hôn nhân gia đình, hội phụ nữ cần có sự quan tâm sát sao hơn nữa, kịp thời phát hiện các trường hợp bạo hành gia đình, giúp đỡ các nạn nhân vượt qua khủng hoảng.

Hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao dân trí cũng cần được tiến hành thường xuyên, nhất là ở các địa phương ở nông thôn, vùng núi, vùng sâu vùng xa. Xóa bỏ được các phong tục tập quán, tư tưởng lạc hậu lỗi thời đã và đang kìm hãm, xâm phạm đến quyền, lợi ích nhân thân của vợ/ chồng trong hôn nhân cũng rất quan trọng.

Đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ nhân thân vợ chồng, cần hoàn thiện các chế tài, hình thức xử lí, xử phạt hành chính, hình sự nghiêm minh nhằm mục đích răn đe, giáo dục, nâng cao ý thức của mọi người.

Như vậy, quyền, nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng là một vấn đề pháp lí quan trọng, có ý nghĩa đối với mỗi chủ thể. Quyền của người này là nghĩa vụ của người kia, và ngược lại, nó khiến cho mối quan hệ hôn nhân có sự ràng buộc, gắn kết chặt chẽ. Tuy nhiên việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng trên thực tế vẫn còn tồn tại khá nhiều bất cập, tình trạng vi phạm còn phổ biến.

Có thể thấy, để thay đổi điều này theo hướng tích cực lên trong một sớm một chiều là rất khó khăn. Nó đòi hỏi sự thay đổi trong nhận thức của mỗi người trong quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình. Hôn nhân là việc của hai bên, vì vậy, khi cả hai đều có sự hiểu biết về pháp luật, nắm rõ các chuẩn mực đạo đức xã hội thì mọi việc sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.

Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Lý luận, thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.

Trân trọng./.

Video liên quan

Chủ Đề