Trí huệ la gì
Thích Nhất Chân Theo đạo Phật, không bao giờ có tâm thức hoạt động mà lại không có cảnh hay đối tượng. Đạo Phật chia thức ra làm sáu lãnh vực giới hạn bởi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và sáu cảnh đối tượng (sắc, thanh, hương, vị xúc và pháp mà thành ra sáu thức). Tâm thức có để làm gì? Để tiếp nhận và phân biệt sáu cảnh. Do đó không thể có một tâm thức thuần túy trống không, không có cảnh hay đối tượng gì hết. Nhưng trong sáu thức ấy tính chất phân biệt hầu như không có tác dụng gì nơi năm thức đầu, mà phân biệt dường như là thức. Và vì trong các kinh luận (tiểu thừa) chỉ chấp nhận có sáu thức mà thôi, thế nên hầu như toàn thể mọi hoạt động của tâm đều tùy thuộc vào ý thức. Trong khi thân chỉ trực tiếp đón nhận
lấy hình tướng của năm cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc mà thôi, thì việc phân biệt tốt hay, xấu đẹp, phải trái, đúng sai để rồi khởi lên mọi thứ tâm sở hoặc ác là phần vụ của ý thức. Tuy đối tượng của sáu thức và của Trí huệ đều là sáu cảnh. Song sự nhận biêõt cảnh theo xu hướng nghiệp riêng biệt của nó. Như thức loài người biết nước là nước, thức loài cá biết nước là chỗ ở, thức ngạ quỉ biết nước là lửa, thức chư thiên biết nước là lưu li. Còn Huệ nhận biết là
nhận biết về sự thật, về thật tướng của các cảnh. Sáu cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đề có sự thật là vô thường, là khổ, là vô ngã (theo giáo lý tiểu thừa), là KHÔNG, là duy thưõc, duy tâm, là pháp thân, là chân như … (theo giáo lý đại thừa). Tóm lại cảnh hay đối tượng của Trí huệ là chân lý của tất cả các pháp được thâu nhiếp trong sáu lãnh vực sắc, thanh, hương, vị xúc và pháp. Đa số người Phật tử hiểu lầm, nghe nói đến Trí huệ thời chỉ biết lờ mờ là vô phân biệt gì đó, hoặc đừng chấp tướng, hay phá chấp này nọ và hễ cứ nghe lý luận, nói năng trình bày là cho là thế trí, chấp ngôn ngữ, chưa chứng… nhưng nếu ngay chính Đức Phật mà cứ vô phân biệt, không nói năng không trình bày, thì Phật có đó có ích gì và có khác gì một khúc gỗ đâu, và làm sao để cho mọi người đả thông được để thể nhập vào chân lý đây? Sự giác ngộ của Đức Phật không
phải chỉ để giác ngộ mà là để độ chúng sanh, Phật dùng vô phân biệt trí để chứng ngộ thật tướng chân thật của vạn pháp không phải để vô phân biệt, mà là để phân biệt giảng nói cho chúng sinh sáng tỏ. Tâm giác ngộ là cả sáu thức đều giác ngộ, chứ không phải chỉ có năm thức đầu vô phân biệt còn thức thứ sáu tức ý thức thì bỏ đi vì bản chất của nó là phân biệt. Trái lại khi tâm giác ngộ thể hiện ra qua năm thức thì thành ra vô phân biệt và khi thể hiện qua thức thứ sáu thì thành ra là phương tiện
trí (nói theo đại thừa), bởi vì chính nhờ cái khả năng phân biệt ấy làm phương tiện nên Đức Phật mới độ được chúng sanh bằng caõch phân biệt thuyết pháp cho chúng sanh được ngộ nhập và chân lý. Như đã nói một tâm thức thời phải có đối tượng, nếu không có đối tượng thời tâm thức sẽ diệt mất. Trí huệ là tâm thức, nên Trí huệ phải có đối tượng và ở đây đối tượng là chân lý đệ nhứt (paramārtha). Theo tiểu thừa chân lý ấy là Niết bàn (nīrvāna), theo đại thừa thời là tính KHÔNG, cả hai đều lý tưởng tuyệt ngôn, cả hai đều không thuộc vào lãnh vực của có. Nếu thế đối tượng của Trí huệ không phải là một cái gì có thuộc về hoặc sắc hoặc thanh, hương, v.v… Nếu đối tượng không có thì đâu còn có tâm thức nào hiện khởi nữa để mà gọi là Trí huệ. Điều này không phải là lạ gì trong giáo lý đại thừa, những danh từ như vô phân biệt, vô tâm, vô niệm, tuyệt lự hoặc các phương châm như vô tâm tiện thị Đạo (vô tâm chính là Đạo), ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt (trừ hết mọi ngôn từ, diệt hết mọi trạng thái tâm) Đối cảnh mạc sinh tâm (đối cảnh đừng sinh tâm)… đều cho thấy sự xác nhận cảnh giới không có tâm (hay ít ra là ý thức phân biệt) nữa mới là đạo, là chân lý cứu cánh. Trên phương diện lý luận cảnh giới vô tâm hết sức phi lý. Tại sao? Vì phải không có đối tượng thì tâm đâu còn có đó nữa để mà gọi là chân lý. Để tỏ rõ vấn đề trên, chúng ta phải nên hiểu rằng tâm thức tuy có sáu lãnh vực khác nhau, song vẫn là một tòan thể bất khả phân ly. Thế nên nơi năm thức cảm quan đầu không thể thiếu ý
thức phân biệt được. Các nhà A Tỳ Đàm gọi loại ý thức này là “ngũ câu thức” nghĩa là ý thức cùng khởi với năm thức cảm quan. Một khi năm thức khởi lên là ý thức khởi theo ngay liền mà phân biệt. Nên tuy bản chất của năm thức cảm quan là trực tiếp nhận cảnh. Song trong thái độ trực tiếp ấy đã có sẵn thái độ phân biệt suy luận gián tiếp của ý thức rồi. Thế nên mọi kinh nghiệm trực tiếp đều được ý thức, được nhận ra là gì (tức phân biệt), được ghi nhận ý nghĩa, và được cho danh xưng. Phân biệt kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy toàn thể tâm thức của chúng ta có một phần không phân biệt luôn luôn trực tiếp liên hệ chặt chẽ với chân lý của sự vật, đó là năm thức cảm quan. Năm thức này trình diện toàn thể sự thật của sự vật ra trước ý thức cho ý thức phân biệt. Ý thức là phần đón nhận, đánh giá và thưởng thức các sự vật của tâm thức, tức thuộc phần
phân biệt của tâm thức. Phần ý thức là phức tạp hơn hết: một mặt nó đi sát cùng với năm thức cảm quan để nhận diện các sự vật đúng với sự thật của chúng. Mặt khác nó liên hệ với mọi tạm sở thiện, bất thiện khác qua các sự chi phối của tâm vô minh và các kiến chấp, nhất là ngã chấp, rồi duyên khắp ba thời quá khứ, hiện tại vị lai để rồi không ngót hoạt động theo chiều hướng thúc đẩy của tham, sân và si. Ở mặt này nó rối loạn và đầy bất an. Tâm thức bị kết án và bị đối trị qua sự tu tập giớị định,
huệ là phần tâm thức này của ý thức. Ví như tôi nhìn một quyển sách, nhãn thức trực tiếp chiếu rọi quyển sách ấy đúng như nó là và không chút phân biệt nó là gì hết, tức thời ý thức đi cùng với nhãn thức phân biệt ngay đó là một quyển sách. Ngay giai đoạn này sự thật của quyển sách được nhận ra, Trí huệ ở ngay tại đây. Song lập tức cái phần ý thức vô minh chấp ngã sẽ ào ạt hưng khởi,
nào là “đây là một quyển sách của tôi mua cách đây hai hôm, của một tác giả mà tôi rất thích như đáng giận thay, thằng cháu tôi đã làm cháy mất mấy chục trang…” trong một tâm niệm như thế, nó duyên đủ nào tôi, của tôi, người khác, nào vui, nào buồn, nào quá khứ, hiện tại … và làm che mờ đi mất Trí huệ của tâm thức đối với thật tướng của sự vật, chỉ là một vật với màu sắc, hình tướng, do nhân duyên mà có đó, được gọi là quyển sách. Tóm lại không có phân biệt (như năm thức cảm quan) thời không thể là Trí huệ được, mà phân biệt theo xu hướng ngã và tham, sân, si cũng không thể nào là Trí huệ được. Phải có phân biệt nhưng không phân biệt theo ngã hay tham, sân, si mà phân biệt đi sát với năm thức cảm quan chiếu hiện, mới chính là Trí huệ. Nhờ có
phân biệt cho nên chân lý của sự vật mới có ý nghĩa là vô thường, vô ngã, là Niết bàn, là Không, là Chân Như … và mới được có các danh xưng như vậy. Và cũng nhờ có phân biệt nên các ý nghĩa này mới được trình bày rành mạch, rõ ràng, đúng lý cho người nghe hiểu rõ mà tin nhận. Vấn đề Trí huệ thật ra còn rất là phức tạp. Chúng ta còn cần phải biết rõ Trí huệ của Phật khác với Trí huệ của A La Hán, Bích Chi Phật ra sao? Phải chăng nếu chúng ta đã có sẵn Trí huệ trong tâm rồi
thời chắc chắn là chúng ta có Trí huệ? Tại sao (theo Đại thừa) Phật lại thuyết đối tượng của Trí huệ là Không, là mộng, huyễn, bào, ảnh… Tại sao Trí huệ không thôi chưa đủ là giác ngộ hay sao mà lại còn cần phải có đại bi? Có đại bi rồi cũng chưa đủ hay sao mà còn phải có công đức nữa? Công đức và đại bi liên hệ thế nào với Trí huệ? Rồi còn hạnh nguyện là gì nữa? Rồi Phật là Giác (Sambuddha), Giác là khác hay là một với Trí huệ(Prajnā). Với Trí huệ làm nền tảng, Phật pháp trở nên hết sức tâm sâu và bao la vô hạn, thế nên làm người con Phật phải nên cẩn trọng lắng nghe cho kỹ và lắng nghe thật nhiều, suy xét cho kỹ và sao cho thật rộng trước khi tiến vào phương tiện thực hành. Trích từ Chùa Khuông Việt, Na Uy |