Thơ và văn vần khác nhau thế nào

Thụy KhuêCấu Trúc Thơ

IV. Thơ, văn xuôi và văn vần

Khái niệm về Thể forme, khác với volume đối với chúng ta thường mơ hồ, tuy rất cần thiết để nhận diện cái Ðẹp. Thể, đây khơng chỉ là hình thức mà gần gụi với kết cấu, Thểbao gồm cả hình thức lẫn nội dung: Tại sao cái bình này đẹp? Cái kia xấu? Tại sao miếng đá ong xù xì kia lại có gì quyến rũ ta trong khi viên thạch cao nhẵn nhụi, phẳng lì,khơng gợi cho ta một cảm xúc nào? Tại sao câu thơ này hay? Câu thơ kia dở? Ta nhận diện sự vật đầu tiên bằng trực giác qua Thể. Theo Valéry, Nếu bạn là nhà thơ, thì baogiờ bạn cũng hy sinh ý tưởng cho Thể, vì Thể là cứu cánh và chính là động tác của sáng tạo.Thể tức khắc cho chúng ta biết có thể cảm hay khơng cảm: Bức tranh xấu hay đẹp, bài hát hay hay dở. Thể tiềm ẩn trong hình thức hay trong nội dung? Ở bên ngồi haybên trong sự vật? Các nhà mỹ học và phê bình khơng dứt khốt trong định nghĩa hoặc nhận định chính xác về Thể, nhưng dường như cùng đồng ý với nhau ở một điểm: Thểhiện ra một cách tổng qt, tồn bộ. Hình ảnh gần gụi nhất của Thể là con người: Con người là một toàn bộ duy nhất, độc đáo, không thể tách rời.Thể trong hội họa là bứctranh hoàn tất. Thể trong điêu khắc là bức tượng thành hình. Thể trong ca nhạc là bài hát hát lên. Thể trong thơ là tồn bộ hình ảnh, âm và nghĩa quyện với nhau, gây nên cảmxúc. Thể là nhân, cảm xúc là quả. Thể truyền cho người đọc cảm xúc, rung động. Và ởđâu có rung động là có thơ: Tình u là một bài thơ không chữ, không vần. Chúng ta cảm thơ như cảm một mùi hương, một bức tranh, một bài hát, mà đơi khikhơng hiểu tại sao. Nhà phê bình căn cứ vào Thể và dựa theo một số quan niệm về cái đẹp để nhận định, giúp chúng ta hiểu sau khi cảm tác phẩm nghệ thuật. Vậy tìm hiểuthơ đi đơi với tìm hiểu cái đẹp.Ðịnh nghĩa xa xơi nhất về cái đẹp đến từ Socrate: Cái đẹp là cái bổ ích le beau c est l utile. Gần đây hơn, Jakobson định nghĩa: Thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩmmỹ của nó. Xuân Thu Nhã Tập nhận diện tính chất của thơ: Nó hòa hợp ta trong cái Ðẹp và ấp ta trong Sự Thật.Thơ, cũng như mỹ quan hay cái đẹp, mang hai tính chất chung của nghệ thuật: đồng đại synchronique vì mỗi thời có một số quy luật về cái đẹp, mỗi thời có một lối suynghĩ, hành trang tư tưởng ... và lịch đại diachronique vì quan niệm đẹp, quan niệm sống, hành trình tư tưởng ... biến đổi và tiến triển theo thời gian.Cho nên, thơ, văn hay bất cứ công trình nghệ thuật nào muốn đi vào vĩnh cửu, trước hết phải đáp ứng tiêu chuẩn mỹ quan và hành trang tư tưởng của một thời và sau đó cònphải chịu đựng sự thử thách, dãi dầu qua nhiều thế hệ. Ngược lại, nhà phê bình muốn nhận định đúng mức một tác phẩm cổ điển, không thểchỉ căn cứ vào những mẫu mực về cái đẹp, về chiều hướng tư tưởng của hôm nay để đánh giá những công trình nghệ thuật dựa trên những tiêu chuẩn về cái đẹp, về lối suynghĩ, về thao tác văn chương của hơm qua, mà còn phải trầm mình trong q khứ, sống với người xưa, cảm thông với nhãn quan và thấu triệt môi trường cổ điển về cáiđẹp.Trở lại địa hạt thơ-văn, hai câu hỏi được đặt ra: Tại sao văn chương truyền khẩu lại vận chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác qua thơ mà không qua văn, và vì sao thơ lạicó tác động trong trí nhớ con người như thế?Yếu tố đầu tiên tác động vào trí nhớ là Vần: Vần có tác dụng tạo nhạc điệu cho câunói, câu văn, do đó khơng chỉ là sở hữu và sở đắc của thơ hay ca dao. Vần là thành tố của nhịp điệu: nhịp câu nói có khi cần vần ăn vóc học hay , có khi khơng uống nước,nhớ nguồn. Từ chức năng đó, vần có tác dụng giúp trí nhớ, chủ yếu trong tục ngữ, ca dao; đơi khingười ta còn dùng như một phương tiện giáo khoa: học chữ Hán Tam tự kinh hay lịch sử Ðại Nam quốc sử diễn ca bằng văn vần. Thậm chí còn học chữ Pháp, học tốn bằngvăn vần. Thời mà sách in còn khan hiếm, thì các truyện Nơm, mục đích để truyền khẩu,được sáng tác bằng văn vần, từ thể Ðường luật như Truyện Vương Tường thế kỷ XV- XVI đến thể lục bát như Tống Trân Cúc Hoa, Trê cóc thế kỷ XVIII-XIX. Cáctruyện Hoa Tiên, Nhị Ðộ Mai, Phan Trần, Kiều, Bích Câu Kỳ Ngộ, Lục Vân Tiên ...nằm trong truyền thống đó.Nhưng người xưa đã phân biệt thơ thi với văn vần vận văn và diễn ca. Chúng tacó nhiều thi tập từ thời Nguyễn Trãi như Quốc Âm thi tập, Ức Trai di tập. Không thể nhầm lẫn với những tập diễn ca như Ðại Nam quốc sử diễn ca ... Sau này, thơ tuyêntruyền, thơ quảng cáo thuốc cao đơn hoàn tán ... cũng dựa trên chức năng ứng dụng của vần để ghi vào trí nhớ.Tuy nhiên, vần chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ. Trần Lê Văn kể lại giai thoạiQuang Dũng xuất thần tặng chủ qn miến lươn hiếu khách, thích thơ: Ðói lòng, làm bát miến lươnRăm, hành cũng gợi quê hương ít nhiều Miến lươn là của dễ tiêuXem trong sách thuốc có điều bổ âmÐấy là thơ vì miến của Quang Dũng, cao hơn nữa có thơ vì nước: Chẳng thà chịu cảnh hiếm hoiCòn hơn sinh phải cái nòi Việt gian Chẳng thà chịu cảnh cơ đơnCòn hơn lấy đứa Việt gian vơ lồi ...T.H. Cả hai bài vần bất tận, ý cũng cao siêu, nhưng khó có hy vọng được để đời. Mụcđích vụ lợi vì miến, vì nước quá lộ liễu, trái với bản chất vô vụ lợi của nghệ thuật và thi ca.Vần chỉ có tác dụng trong trí nhớ con người nếu vần quyện với lời hay, ý đẹp. Có bốn trường hợp xẩy ra:I.Những câu vớ vẩn, nhớ làm gì? Thà nhớ một kinh nghiệm thường thức được mùa lúa, úa mùa cau; được mùa cau, đau mùa lúa hay bài học chữ Hán, hoặc cơng thứctốn chớ sao lại nhớ những câu đại khái như: Trèo lên cây bưởi hái hoa,Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếcEm đã có chồng anh tiếc lắm thay.khơng những vớ vẩn mà còn vơ lý. Anh tiếc lắm thay thì ăn nhập gì đến hoa bưởi, hoa cà? Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền đã có lần hỏi như thế trong một bài báo. Ăn nhập lắmchứ. - Trước hết, có thể câu ca dao trên đã ngẫu hứng từ Kinh Thi:Ðào yêu dịch:Ðào chi yêu yêu Ðào tơ xinh tươi Chước chước kỳ hoa nhiều hoaChi tử vu quy Nàng đi lấy chồng Nghi kỳ thất gia Chắc êm ấm gia đìnhCòn tại sao người ta nhớ những câu ca dao vớ vẩn ấy? - Người dân tầm thường nhớ câu hát vì lời nói đẹp, diễn tả tâm trạng nhớ nhung, tiếcnuối. Trèo lên, bước xuống ... những cử chỉ bâng quơ của kẻ lạc mất người u: khơng có em, vũ trụ trở thành trống trải, phi lý và mọi cử chỉ của anh đều trở thành vô nghĩa;chút hương hoa bưởi âm thầm như nỗi nhớ, khuya khoắt như trăn trở ăn năn, màu hoa cà tím nhạt bâng khng đi tìm mùa xn qua nụ tầm xuân ... Cả không gian thiết thadồn lại ở vần xanh biếc, tiếc lắm thay như lấp một khoảng trống; câu trước không vần, nhịp điệu được thay thế bằng hình ảnh, luyến láy nụ tầm xuân ... nụ tầm xn trả lại lờigọi vơ vọng vì khơng còn đối tượng. Vần tiếc làm trung tâm của đoạn ca dao: tất cả hình ảnh, âm thanh đồng quy về hồng tâm tiếc nuối, trái tim gọi về mọi huyết cầu. Giữ vầnlại mà thay nghĩa đi: Ví dụ em đã có chồng nhiều việc lắm thay thì tồn bộ bài ca dao sẽ trở nên vơ nghĩa, vơ dun.II. Ngược lại, người ta cũng có thể nhớ một câu thơ mà khơng cần biết ý nghĩa. Ví dụtrong truyện Lục Vân Tiên: Thôi thôi em hỡi Kim LiênÐẩy xe cho chị qua miền Hà Khê Câu này nhiều người nhớ vì dư vang của từ ngữ, chứ Kim Liên là ai, Hà Khê ở đâu,không cần biết, mà có biết cũng chẳng lợi ích gì.

Văn học đề cập đến công việc sáng tạo bằng văn bản, đặc biệt là những tác phẩm có giá trị cao và lâu dài. Nó được biết đến với hình thức mà thông điệp được trình bày hoặc truyền đạt và nội dung của nó. Văn xuôi và thơ là hai hình thức phổ biến của văn học; trong đó văn xuôi là tác phẩm viết, trong đó có câu và đoạn văn, và không có bất kỳ cấu trúc siêu hình nào. Ngược lại, thơ là một thể loại văn học dựa trên một hình thức cụ thể, tạo ra một vần điệu.

Sự khác biệt cơ bản giữa văn xuôi và thơ là chúng ta có câu và đoạn văn, trong khi các dòng và khổ thơ có thể được tìm thấy trong một bài thơ. Hơn nữa, có văn bản thường xuyên trong văn xuôi, nhưng có một phong cách độc đáo của việc viết thơ.

Chúng ta có thể tìm thấy văn xuôi trong các bài báo, blog, truyện ngắn, v.v., tuy nhiên, thơ được sử dụng để chia sẻ một cái gì đó đặc biệt, thẩm mỹ. Để biết thêm về chủ đề này, bạn có thể đọc các khác biệt khác bên dưới:

Nội dung: Thơ văn xuôi

  1. Biểu đồ so sánh
  2. Định nghĩa
  3. Sự khác biệt chính
  4. Ví dụ
  5. Làm thế nào để nhớ sự khác biệt

Biểu đồ so sánh

Cơ sở để so sánhVăn xuôiThơ
Ý nghĩaVăn xuôi là một hình thức văn học thẳng tiến, trong đó tác giả thể hiện suy nghĩ và cảm xúc của mình một cách sáng suốtThơ là hình thức văn học mà nhà thơ sử dụng một phong cách và nhịp điệu độc đáo, để thể hiện kinh nghiệm mãnh liệt.
Ngôn ngữChuyển tiếp thẳngBiểu cảm hoặc trang trí
Thiên nhiênThực dụngTưởng tượng
Bản chấtTin nhắn hoặc thông tinKinh nghiệm
Mục đíchĐể cung cấp thông tin hoặc để truyền tải một thông điệp.Để vui thích hoặc thích thú.
Ý tưởngÝ tưởng có thể được tìm thấy trong câu, được sắp xếp trong đoạn văn.Ý tưởng có thể được tìm thấy trong các dòng, được sắp xếp trong khổ thơ.
Ngắt dòngKhôngĐúng
Diễn giảiKhả thiParaphrasing chính xác là không thể.

Định nghĩa văn xuôi

Văn xuôi là một phong cách viết thông thường trong văn học, bao gồm các nhân vật, cốt truyện, tâm trạng, chủ đề, quan điểm, bối cảnh, vv làm cho nó trở thành một hình thức ngôn ngữ đặc biệt. Nó được viết bằng cách sử dụng các câu ngữ pháp, tạo thành một đoạn văn. Nó cũng có thể bao gồm các cuộc đối thoại, và đôi khi, được hỗ trợ bởi hình ảnh nhưng không có cấu trúc siêu hình.

Văn xuôi có thể là hư cấu hoặc không hư cấu, anh hùng, dị thường, làng, đa âm, thơ văn xuôi, vv

Tiểu sử, tự truyện, hồi ký, tiểu luận, truyện ngắn, truyện cổ tích, bài báo, tiểu thuyết, blog và vv sử dụng văn xuôi để viết sáng tạo.

Định nghĩa thơ

Thơ là một thứ gì đó khơi dậy một cảm giác tưởng tượng hoàn chỉnh, bằng cách chọn ngôn ngữ phù hợp và các từ chọn lọc và sắp xếp chúng theo cách tạo ra một khuôn mẫu, vần điệu [hai hoặc nhiều từ có âm kết thúc giống hệt nhau] và nhịp điệu [nhịp của bài thơ].

Thơ sử dụng một cách nghệ thuật để truyền đạt một cái gì đó đặc biệt, tức là một ngữ điệu âm nhạc của âm tiết nhấn mạnh [âm dài] và không nhấn [âm ngắn] để diễn tả hoặc mô tả cảm xúc, khoảnh khắc, ý tưởng, kinh nghiệm, cảm xúc và suy nghĩ của nhà thơ cho khán giả. Các thành phần cấu trúc của thơ bao gồm các dòng, couplet, Strophe, khổ thơ, v.v.

Nó ở dạng câu thơ, tạo thành khổ thơ, sau một mét. Số lượng câu thơ trong một khổ thơ tùy thuộc vào loại bài thơ.

Sự khác biệt chính giữa văn xuôi và thơ

Sự khác biệt giữa văn xuôi và thơ có thể được rút ra rõ ràng dựa trên các lý do sau:

  1. Văn xuôi đề cập đến một hình thức văn học, có cấu trúc ngôn ngữ và câu thông thường. Thơ là hình thức văn học, có tính thẩm mỹ, tức là nó có âm thanh, nhịp, vần, mét, v.v., làm tăng thêm ý nghĩa của nó.
  2. Ngôn ngữ của văn xuôi khá trực tiếp hoặc đơn giản. Mặt khác, trong thơ, chúng tôi sử dụng một ngôn ngữ biểu cảm hoặc sáng tạo, bao gồm các so sánh, vần điệu và nhịp điệu mang lại cho nó một nhịp điệu và cảm nhận độc đáo.
  3. Trong khi văn xuôi là thực dụng, tức là hiện thực, thơ là nghĩa bóng.
  4. Văn xuôi chứa các đoạn văn, bao gồm một số câu, có một thông điệp hoặc ý tưởng ngụ ý. Như chống lại, thơ được viết bằng những câu thơ, được bao phủ trong khổ thơ. Những câu này để lại rất nhiều điều chưa được trả lời, và cách giải thích của nó phụ thuộc vào trí tưởng tượng của người đọc.
  5. Văn xuôi là thực dụng, trong đó truyền đạt một đạo đức, bài học hoặc ý tưởng ẩn. Ngược lại, thơ nhằm mục đích làm hài lòng hoặc thích thú người đọc.
  6. Điều quan trọng nhất trong văn xuôi là thông điệp hoặc thông tin. Ngược lại, nhà thơ chia sẻ kinh nghiệm hoặc cảm xúc của mình với người đọc, đóng vai trò cốt yếu trong thơ.
  7. Trong văn xuôi, không có ngắt dòng, trong khi khi nói đến thơ, có một số ngắt dòng, chỉ là để theo nhịp hoặc nhấn mạnh vào một ý tưởng.
  8. Khi nói đến diễn giải hoặc tóm tắt, cả văn xuôi và thơ đều có thể được diễn giải, nhưng cách diễn đạt của bài thơ không phải là bài thơ, bởi vì bản chất của bài thơ nằm ở phong cách viết, tức là cách mà nhà thơ đã thể hiện / kinh nghiệm của cô ấy trong những câu thơ và khổ thơ. Vì vậy, mô hình viết và nhịp này là vẻ đẹp của thơ, không thể tóm tắt.

Làm thế nào để nhớ sự khác biệt

Bí quyết tốt nhất để nhớ sự khác biệt giữa hai điều này là hiểu phong cách viết của họ, tức là trong khi văn xuôi được viết thông thường, thơ có các đặc điểm thẩm mỹ, và do đó nó có một kiểu viết đặc biệt.

Hơn nữa, văn xuôi là hình thức ngôn ngữ mở rộng truyền tải một thông điệp hoặc ý nghĩa thông qua cấu trúc kể chuyện. Trái lại, thơ là một hình thức văn học như vậy, với một định dạng viết độc đáo, tức là nó có một khuôn mẫu, vần điệu và nhịp điệu.

Thêm vào đó, văn xuôi xuất hiện như những khối từ lớn, trong khi kích cỡ của thơ có thể thay đổi theo độ dài dòng và ý định của nhà thơ.

Video liên quan

Chủ Đề