Thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới

Nhận định này được Vinatex đưa ra trong tài liệu họp đại hội cổ đông 2021 vừa công bố, trên cơ sở, Trung Quốc sẽ không tập trung sản xuất hàng may mặc như theo chiến lược mới 5 năm lần thứ 14 của ngành dệt may.

Dữ liệu quý I cho thấy, xuất khẩu dệt may Việt Nam sang nước láng giềng tăng trưởng tốt nhất trong 5 thị trường lớn, bằng kim ngạch xuất sang EU. Hiện các thị trường xuất khẩu truyền thống của dệt may Việt Nam "vẫn chưa ổn định" do diễn biến Covid-19 còn khó lường trên toàn cầu. Khi vẫn còn thách thức ở các thị trường xuất khẩu lớn, có thể kỳ vọng Trung Quốc sẽ trở thành nước tiêu thụ hàng dệt may lớn của Việt Nam.

Chẳng hạn, thị trường EU, Nhật Bản vẫn gặp thách thức, khi châu Âu đang đứng trước nguy cơ tái bùng phát dịch, còn kinh tế Nhật Bản chưa phục hồi. Vì thế, lượng xuất khẩu của dệt may Việt Nam sang hai thị trường này chưa thể tăng trở lại năm nay.

Thị trường Mỹ khả quan hơn nhờ tốc độ tiêm vaccine đang được đẩy nhanh tại quốc gia này và gói kích thích kinh tế trị giá gần 2.000 tỷ USD được chính quyền Tổng thống Biden "tung" ra nhằm hồi phục nền kinh tế lớn nhất toàn cầu.

Theo dự báo của McKinsey, với kịch bản sớm nhất, đến quý III/2022, dệt may toàn cầu mới phục hồi trở lại như năm 2019, còn kịch bản chậm là quý IV/2023.

Công nhân sản xuất áo sơ mi tại Tổng công ty May 10. Ảnh: May 10

Đại dịch đã làm thay đổi xu hướng tiêu dùng hàng may mặc trên toàn cầu. Người tiêu dùng tăng nhu cầu hàng mặc thông thường [casual wear], hàng thể thao [Sport wear] trong khi hàng công sở [sơ mi, veston, quần âu...] vốn là thế mạnh của Vinatex chưa phục hồi. Vì thế, có đơn hàng tới hết quý III, nhưng phần lớn giá đơn hàng thấp, hiệu quả không cao.

Bên cạnh đó, khách hàng vẫn yêu cầu duy trì chính sách kéo dài thời gian thanh toán như năm 2020. Thách thức nữa là lạm phát dự báo tăng dẫn đến tăng lãi suất ngân hàng, đẩy chi phí tài chính tăng.

Không chỉ xu hướng tiêu dùng, Covid-19 cũng thay đổi phương thức kinh doanh, cùng sự sắp xếp lại chuỗi cung ứng, đòi hỏi ngành thích ứng với các điều kiện bình thường mới: nâng cao năng lực sản xuất theo mô hình OEM; chuyển đổi số trong quản trị sản xuất - tồn kho - logistics...

Mục tiêu của Vinatex năm 2021 là doanh thu công ty mẹ đạt 1.552 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế trên 200 tỷ, tăng hơn 37% so với 2020. Quý I, tập đoàn này đã thực hiện khoảng 22% mục tiêu doanh thu và 31% lợi nhuận cả năm. Họ cũng sẽ tiếp tục thoái vốn tại các doanh nghiệp không hiệu quả theo kế hoạch vốn đã được duyệt.

Anh Minh

Gỡ khó cho hàng dệt may vào thị trường EU

[ĐCSVN] - Để tìm kiếm cơ hội vào EU, nhiều doanh nghiệp đã chuẩn bị sẵn sàng, đầu tư từ nhà xưởng, máy móc công nghệ đến việc đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật của các nhà nhập khẩu. Tuy nhiên, việc thiếu hụt về nguồn cung nguyên liệu vẫn đang là trở ngại cần giải quyết nếu muốn nắm bắt cơ hội từ thị trường này mang lại.

Ảnh minh họa [Nguồn: A.N]

Theo Bộ Công Thương, EU là thị trường có quy mô lớn nhất về nhu cầu tiêu thụ hàng dệt may với kim ngạch nhập khẩu trị giá hơn 250 tỷ USD/năm. Năm 2019, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU đạt 4,3 tỷ USD, tăng 3,8% so với năm trước; nhưng thị phần mới chỉ chiếm khoảng 2%. Con số này cho thấy, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU vẫn còn rất nhỏ so với những tiềm năng mà thị trường này đem lại.

Dự báo của Bộ Công Thương cho hay, khi có Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu [EVFTA], kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU sẽ tăng nhanh với mức khoảng 67% đến năm 2025 so với kịch bản không có hiệp định.

Dù vậy, theo cam kết tại EVFTA, bên cạnh việc đáp ứng tiêu chí khắt khe về chất lượng, để hưởng lợi ích về thuế suất, các doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu về nguồn gốc xuất xứ rất chặt chẽ. Cụ thể, quy tắc xuất xứ “từ vải trở đi”, tức là vải nguyên liệu được dùng để may quần áo phải được dệt tại Việt Nam hoặc các nước thành viên EU.

Nhiều ý kiến cho rằng, đây vẫn là điểm yếu của ngành dệt may trong nước do phần lớn nguyên phụ liệu đang nhập khẩu từ các nguồn không phải là thành viên của EVFTA và cũng không phải là quốc gia đã ký kết thương mại tự do [FTA] với EU.

Để tìm kiếm cơ hội vào EU, nhiều doanh nghiệp đã chuẩn bị sẵn sàng, đầu tư từ nhà xưởng, máy móc công nghệ đến việc đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật của các nhà nhập khẩu.

Ông Trần Như Tùng, thành viên HĐQT Công ty CP Dệt may - Đầu tư - Thương mại Thành Công [TCM] cho biết, công ty đặt mục tiêu xuất khẩu vào EU tăng từ 30-50% vài năm tới. Công ty đã xây dựng một nhà máy nhuộm vải, mỗi năm có thể cung ứng số lượng vải đủ cho nhu cầu sản xuất của công ty và lâu dài hơn, dự kiến sẽ xúc tiến mở thêm một nhà máy nữa tại khu vực miền Tây để có thể tự chủ nguyên liệu trong sản xuất.

Cũng theo các chuyên gia, để giải bài toán xuất xứ cho ngành dệt may trong thời gian tới, bên cạnh sự nỗ lực từ phía doanh nghiệp, Chính phủ cần sớm ban hành Quy hoạch phát triển ngành tới năm 2040 gồm cả dệt may và da giày. Quy hoạch phải đặt trọng tâm vào việc xây dựng các khu công nghiệp dệt may có xử lý nước thải hiện đại, để chu trình dệt - nhuộm - may - hoàn tất được đầu tư phát triển, đóng góp vào nguồn cung toàn cầu và giảm bớt phụ thuộc nhập khẩu, tận dụng tối đa ưu đãi từ EVFTA hay những hiệp định thương mại khác.

Ngoài ra, những vấn đề về chính sách thuế với hàng hóa nhập khẩu, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất và xuất khẩu còn nhiều bất cập cũng cần sự điều chỉnh của Nhà nước để tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp./.

A.N

Thị trường EU với dân số 340 triệu là nơi tiêu thụ lớn và đa dạng các loại quần áo. Mức tiêu thụ thị trường này là khá cao: 17 kg / người / năm. Ở đây, người ta có thấy đủ loại hàng hoá từ các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Hồng Kông, Đài Loan. Hàng năm EU nhập khoảng 63 tỷ USD quần áo vừa qua hạn ngạch mà EU dành cho công nghệ là 22 nghìn tấn hàng dệt may giá trị khoảng 450 triệu USD và hiệp định ký cho giai đoạn tới 2001-200 giá trị sẽ tăng 40% và so với giá trị hiệp định cũ [chi giai đoạn 1996-2000]. Đây là thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam và EU ký hiệp định buôn bán dệt may từ năm 1995 trong đó có hạn ngạch gia công thuần tuý [TPP]. Có nghĩa là khách hàng gửi nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba thuê gia công tại Việt Nam, sau đó xuất sang EU. Còn nếu khách hàng EU gửi nguyên phụ liệu từ EU sang gia công tại Việt Nam, sau đó xuất ngược lại sang EU thì không tính vào hạn ngạch. Qua 5 năm thực hiện hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU sản xuất hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường này đã có bước tiến vững chắc. Năm 1996 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vào EU đạt được khoảng 250 triệu USD, năm 1999 đạt 400 triệu USD và dự kiến năm 2001 sẽ đạt 650 triệu USD.

Bảng 5: Một số chủng loại hàng đạt mức xuất khẩu cao của Việt Nam

vào EU qua các năm [Đơn vị: Triệu chiếc]

Tên hàng Chủng loại 1998 1999 2000
Jacket Cat 21 8,9 9,4 11,7
T- Shirt Cat 4 2,9 3,71
áo len Cat 5 1,65 1,81
Quần Cat 6 1,65 2,4
áo sơ mi nữ Cat 7 0,91 1,49
áo khoách nữ Cat 15 0,13 0,17
áo dài nữ Cat 26 0,19 0,39
Váy ngắn Cat 27 0,14 0,23

[Nguồn: Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.]

Cũng như các năm trước đây mặt hàng áo Jacket luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu may mặc đi EU và thường chiếm 50% trong tổng kim ngạch. Chất lượng hàng may mặc Việt Nam đã được khách hàng chấp nhận, chỉ tính riêng năm 1999 hàng dệt-may Việt Nam đã xuất sang tất cả các nước EU với giá trị hàng trăm triệu USD, đứng đầu là Đức [ 150 triệu USD], Pháp [60 triệu USD], Tây Ban Nha [ 16 triệu USD], Bỉ [ 10 triệu USD], Thuỵ Điển [7,5 triệu USD], Bồ Đào Nha [ 1,3 triệu USD]...

Thị trường may mặc EU có tiềm năng và triển vọng rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để có được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ những quy định khá nghiêm ngặt khi xuất khẩu vào thị trường này như:

- Không được mua bán, chuyển nhượng hạn ngạch để xuất khẩu các mặt hàng có xuất xứ từ các nước khác vào EU.

- Các doanh nghiệp Việt Nam không được lợi dụng thuế ưu đãi, giá nhân công trong nước rẻ để bán hàng rẻ hơn mức giá hiện hành gây bất lợi cho các nhà sản xuất cùng loại hàng đó hoặc các mặt hàng trực tiếp bị cạnh tranh của EU. Có thể sẽ bị áp dụng quy định cụ thể đã được hai bên thoả thuận.

- Các doanh nghiệp Việt Nam không được phép bán hàng cho nước thứ ba để tái xuất vào EU.

- Đối với hàng gia công tại Việt Nam khi xuất sang EU phải ghi rõ phí gia công, giá trị nguyên vật liệu mua tại Việt Nam để làm căn cứ giảm thuế nhập khẩu vào EU.

Trong hiệp định cũng quy định rõ danh mục hàng hoá và kim ngạch mà Việt Nam đưa vào EU [ tổng cộng 151 nhóm mặt hàng với 108 nhóm thoe hạn ngạch và 43 nhóm tự do]. Hạn ngạch năm trước không dùng hết có thể chuyển sang năm sau. Đặc biệt trong hiệp định này còn quy định hàng năm Việt Nam và EU sẽ xem xét khả năng xuất khẩu của Việt Nam để nới lỏng hạn ngạch cấp cho Việt Nam. Bởi vậy, đây là thị trường tiềm năng lớn, các doanh nghiệp của ta cần tuân thủ tốt các quy định này, tránh làm tổn hại đến quan hệ buôn bán giữa nước ta và cộng đồng kinh tế Châu Âu.

Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế giới và đây là thị trường phi hạn ngạch. Nhưng đây cũng là một thị trường khó tính với những đòi hỏi khắt khe cả về chất lượng và giá cả, họ thường yêu cầu kiểm tra chất lượng chi tiết và quan tâm nhiều tới mẫu mốt. Ví dụ như:

- Đồ lót, tất: mốt chiếm 70,5%

- Quần áo nữ: 56,4%là mốt; 37,5% là giá và còn lại là phẩm chất.

- Comple nam: 50% là phẩm chất; 43,7% là mốt và còn lại là giá cả.

Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người 26 nghìn USD/năm thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ, hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khoảng 7-8 tỷ USD hàng may mặc. Năm 1997 hàng may Việt Nam xuất sang Nhật xấp xỉ 130 triệu USD, năm 1999 xuất sang Nhật chiếm 90% kim ngạch của mảng thị trường không hạn ngạch và đạt 500 triệu USD. Mặt khác, xuất sang Nhật thường là áo Jacket, quần áo sơ mi do các đơn vị phía Bắc gia công, áo Kimono do các đơn vị phía Nam thực hiện.

Đây tuy là thị trường đòi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, neus như đầu tư tốt, nâng cao được chất lượng, mẫu mã phong phú, màu sắc đa dạng, nắm vững thị hiếu thì có khả năng hàng may mặc của ta sé phát triển mạnh ở thị trường này.

Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt-may vì dân số Mỹ khá đông, hiện có 253 triệu người, đa số sống ở thành thị có mức thu nhập quốc dân cao. Do đó người Mỹ có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Riêng hàng dệt may nhu cầu nhập khẩu hàng năm lên tới 30-36 tỷ USD như năm 1999 là 34 tỷ USD. Nguồn nhập chủ yếu là từ các nước Châu Á:

Bảng 6: Một số nguồn nhập khẩu chính về hàng may mặc tại Châu Á của Hoa Kỳ.

Nước Giá trị [ tỷ USD]
Trung Quốc 6,1
Hồng Kông 5
Hàn Quốc 1,8
Đài Loan 2,3
Các nước ASEAN khác 4,5

[Nguồn: Tổng Công ty dệt may Việt Nam.]

Tháng 2/1997 Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, tháng 8/1997 Mỹ bỏ cấm vận viện trợ và tháng 7/1998 Mỹ bình thường hoá mối quan hệ với Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta đang mong chờ được hưởng quy chế tối huệ quốc [MFN-The Most Favourel Nation] cho hàng nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam. Đây cũng là điều kiện chìa khoá để xâm nhập thị trường Mỹ.

Phải nói rằng, thị trường may mặc Bắc Mỹ là một miếng mồi béo bở, hấp dẫn ngay bởi mức cầu lơn, tính thời trang, mẫu mốt và thị hiếu thể hiện rất rõ phong cách của người Mỹ; đó là sự phong phú và khác biệt. Song với Việt Nam sự lạc quan đó vẫn nằm trong nỗi ô âu vì Mỹ chưa dành cho Việt Nam MFN và như vậy hàng may Việt Nam qua Mỹ phải chịu thuế nhập khẩu còn rất cao, từ 40-49% giá trị nhập khẩu. Trong khi Trung Quốc và một số nước khác được hưởng quy chế này chỉ phải chịu thuế 25%. Ưu thế cạnh tranh đã không tthuộc về các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác, ngân hàng hai nước chưa có mối quan hệ bạn hàng bang giao chặt chẽ nên việc thanh toán còn là một vấn đề bất cập. Trường hợp này đã có thực tế khi có một Công ty Mỹ muốn trả tiền cho Công ty may Phương Đông, họ không thể mở L/C từ Mỹ mà phải sang tận Việt Nam yêu cầu Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh cho phép vừa mở vừa nhận tiền và họ phải trả bằng tiền mặt.

Do những hạn chế nêu trên, kim ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ mới chỉ là mức tương đối. Năm 1997 đạt 2 triệu USD, năm 1998 đạt 5 triệu, năm 1999 đạt 25 triệu và năm 2000 đạt trên 30 triệu USD. Đây mới chỉ là những con số rất nhỏ bé so với nhu cầu của thị trường Mỹ và khả năng xuất khẩu của ta. Vậy chúng ta phải làm gì để tích cực xâm nhập được vào thị trường đầy triển vọng này đang là câu hỏi đặt ra là hết sức cấp bách cho nhiều nhà quản lý và cả phía doanh nghiệp.

Trong những năm trước khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan vỡ thì tỷ trọng kim ngạch của ta vào thị trường này chiếm vị trí khá lớn và đóng vai trò quan trọng, xuất khẩu theo những hiệp định hàng đổi hàng. Qua thời gian dài đó nhà xuất khẩu của ta phần nào nắm bắt được thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng ở khu vực này và người tiêu dùng cũng đã phần nào quen với hàng may mặc của ta. Tuy nhiên, kể từ khi các nước XHCN Đông Âu tan vỡ thì kim ngạch hàng may mặc của ta vào thị trường này giảm mạnh. Hiện nay, hàng may mặc của ta vào thị trường này chủ yếu do các thương gia buôn theo từng chuyến còn về phía doanh nghiệp thì chỉ mức thấp do chưa tìm được phương thức thanh toán hợp lý thây thế cho phương thức hàng đổi hàng trước đây.

Như vậy có thể nói, với Việt Nam đây là thị trường truyền thống mà mấy năm vừa qua chúng ta để vượt khỏi tầm tay. Cần nhanh chóng tìm ra giải pháp cần thiết để nối lại quan hệ với thị trường không kém phần hấp dẫn này. Các doanh nghiệp cần mạnh dạn triển khai phương thức thanh toán mới phát huy lợi thế vốn có của ta trong nhiều năm qua trên thị trường này.

Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và đang trên tiến trình thực hiện AFTA, bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cũng còn nhiều thách thức. Phải tiến hành cắt giảm thuế quan và hàng hoá được lưu chuyển tự do giữa các nước ASEAN tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá Việt Nam, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực cải tiến công nghệ, áp dụng phương thức quản lý hiện đại và phải tạo được cho mình một nền tảng vững chắc về mọi mặt để trụ vững trên thương trường. Sản phẩm có được thị trường chấp nhận hay không quyết định đến sự tốn tại của Công ty. Dưới sức ép đó sẽ xoá bỏ đi được các Công ty làm ăn trì trệ. Tuy nhiên về phía Việt Nam chắc chắn sẽ có nhiều Công ty cần phải “lột xác “.

Bù lại, thị trường ASEAN với 430 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người hàng năm 1.608 USD, tốc độ phát triển bình quân 6-8%/ năm, thì đây quả là một thị trường lớn cho hàng may mặc. ASEAN còn là một thị trường có nền văn hoá tương đồng lẫn nhau. Do đó thị hiếu, lối sống cũng tương đối giống nhau, điều này là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam xâm nhập dế ràng hơn.

Chúng ta chủ yếu chú trọng đến sản xuất hàng may xuất khẩu và đã có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Song chúng ta đã để lại khoảng trống sau lưng mình đó là thị trường nội địa. Hiện nay, dân số Việt Nam trên 75 triệu người, chỉ tính khiêm tốn sức mua cũng vào khoảng 750 triệu USD/năm [10 USD/người/năm]. Đây là con số không nhỏ có sức hấp dẫn đối với bất kỳ nhà đầu tư nào.

Thực tế trên thị trường Việt Nam còn nhiều mặt hàng second-hand của nước ngoài, chứng tỏ rằng nhu cầu đã vượt khả năng cung cấp trong nước. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam một mặt tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu, một mặt phải chú ý đến sản xuất hàng phục vụ nhu cầu nội địa. Nhà nước chỉ có biện pháp như giao chỉ tiêu cho một số doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc đáp ứng tiêu dùng trong nước. Tránh bỏ trống thị trường ngay trong tầm tay.

Trên đây là một số thị trường lớn mà chúng ta đã và đang có được. Cần phải có biện pháp và định hướng đúng đắn để khai thác nó một cách triệt để. Mặt khác phải tăng cường mở rộng và tìm kiếm những thị trường đang bị bỏ ngỏ, đây cũng là mục tiêu mà chúng ta đang đặt ra. Chẳng hạn sẽ tìm cách tiếp cận thị trường Trung Cận Đông và Mỹ La Tinh là một ví dụ.

Thị trường thế giới sau nhiều năm vận hành độc lập nay đã trở nên có tổ chức và đang hoạt động trong sự ràng buộc chặt chẽ các thể chế sau:

- Các định chế kinh tế như WTO. GSP. MFA, các công ước về lao động, về sở hữu trí tuệ...

- Các thể chế về khu vực: EU, NAPTA, ASEAN...

- Các thể chế về tài chính: WB,IMF, ADB và các hiệp định liên ngân hàng.

- Các hiệp định về hàng hoá như về cao su thiên nhiên, cà phê, dầu mở , hàng dệt may...

- Các trung tâm giao dịch: Sỏ giao dịch hàng hoá ở Luân Đôn, Paris, Singapore, Chicago...

- Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế [ICAO], tổ chức du lịch quốc tế, các tính chất liên lạc viễn thông quốc tế, các mạng lưới và trung tâm dịch vụ tiêu thụ...

Hoạt động của các thể chế quốc tế và khu vực đã đưa lại hiệu quả giúp cho thương mại quốc tế được ổn dịnh và phát triển. Trong tương lai các định chế này sẽ không thể không tham gia một cách tích cực vào các định chế thế giới và khu vực nói trên.

Với cơ chế hoạt động của thị trường thế giới như vậy đã ảnh hưởng tới việc sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may trên thế giới. Như khu vực EU đã có các mức thuế ưu đãi đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển xuất khẩu vào thị trường này. Hiệp định các nước EU đã có hiệp định về hàng may mặc với từng nước cụ thể, dưới các quy định các sản phẩm Dệt may của Trung Quốc.

Với các định chế này, nó tạo ra sự công bằng giữa các nước có nền công nghiệp may phát triển và các nước đang phát triển.

Trong bối cảnh chung của thị trường thế giới như hiện nay, tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều biến động và nổi lên một số đặc điểm sau:

+ Năm 2000 đã kết thúc hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU hạn ngạch 22 nghìn tấn dệt may đạt giá trị 450 triệu. Gần đây, Việt Nam đã ký hiệp định trong lĩnh vực này cho giai đoạn 2001-2003, điều đó sẽ mở ra một triển vọng to lớn về xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.

+ Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ được cải thiện một cách cơ bản, song quy chế tối huệ quốc cho Việt Nam vẫn còn là một câu hỏi chưa chính xác. Nếu chế độ này được áp dụng thì đây sẽ là cơ hội lớn về thị trường hàng dệt may cho Việt Nam.

+ Kinh tế khu vực phát triển chận lại : việc trao trả Hồng Kông cho Trung Quốc vào 1/7/2000 vừa qua có thể ảnh hưởng đến kinh tế thị trường khu vực. Hiện nay một số khách hàng Hồng Kông đang đặt gia công hàng may mặc tại Việt Nam như vậy sẽ ít nhiều bị biến động. Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu Á vừa qua làm ảnh hưởng nặng nề tới việc tiêu thụ cũng như khả năng sản xuất trên thị trường các mặt hàng nói chung và hàng may mặc nói riêng.

+ Trước đây khách hàng EU tập trung vào thuê gia công áo Jacket ba lớp [cat 21] và sơ mi [cat 8] tại Việt Nam. Thời gian tới xu hướng chung là giảm cat 21 và cat 8, đi vào một số cat khác như quần [cat 78], áo [cat 161].

+ Xí nghiệp may không ngừng cải tiến trang thiết bị, máy móc nâng cao năng suất lao động. Bên cạnh đó một số xí nghiệp liên doanh sản xuất hàng may mặc đã đi vào hoạt động.

+ Mọi năm các xí nghiệp có quota cat 21 thì bắt buộc các khách hàng nước ngoài phải làm gia công ở xí nghiệp đó để tận dụng quota cat 21. Thời gian tới, những xí nghiệp nào làm chất lượng tốt, đảm bảo thời gian giao hàng đúng hạn thì khách hàng mới đặt hàng.

+ Giá cả sợi để dệt vải trên thế giới tăng cao đã ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm quần áo và liên quan tới gia công. Trong khi đó, giá cả sản phẩm bán ra lại hạ mà giá gia công của Việt Nam nói chung thì ngày càng cao do yêu cầu của đời sống và lượng thu nhập ngày càng tăng lên của nhân dân. Nó đã tạo sự mâu thuẫn giữa phía Việt Nam và phí các khách hàng nước ngoài.

+ Bộ Thương mại có chủ trương sắp tới bỏ hoạt động cấp quota cho các doanh nghiệp sản xuất mà tổ chức đấu thầu quota. Thông tư liên bộ Thương mại - Công nghiệp điều chỉnh cơ chế giao quyền sử dụng hạn ngạch hàng dệt may xuất đi EU. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự quyết định giá cả.

+ Đặc biệt, Viện Mốt của Việt Nam đã đi vào hoạt động đang từng bước nghiên cứu các kiểu mốt được thịnh hành trên các thị trường thế giới và trong nước.

+ Hàng may mặc của Việt Nam xuất đi chủ yếu dưới hình thức gia công, xuất khẩu trực tiếp còn rất thấp. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong việc cung cấp nguyên liệu dầu vào các ngành dệt cho ngành may mặc.

Tính theo kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thì hàng may mặt Việt Nam có tốc độ tăng trưởng lớn nhất. Năm 1998 tăng gấp 5 lần so với năm 1994. Đây là con số khả quan đánh giá sự phát triển ngành may mặc xuất khẩu, song nhìn vào thực tế thì giá trị ngoại tệ thực thu từ gia công đem lại là 150 triệu USD trên tổng giá trị xuất khẩu là 874 triệu USD, còn năm 1999 là 194 triệu USD trên tổng số kim ngạch xuất khẩu là 1,1 tỷ USD thì quả là xuất khẩu kiểu này không mấy hiệu quả.

Hiện nay năng lực sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể đạt 2,15 tỷ USD. Đó là kết quả của sự đầu tư không ngừng của các doanh nghiệp, xí nghiệp Việt Nam - hầu hết các địa phương đều có xí nghiệp may ra đời, các xí nghiệp may như : Công ty may 10, Công ty may Việt Tiến, Công ty may Đức Giang, Công ty may Nhà Bè.. không ngừng cải tiến trang thiết bị, đào tạo đội ngũ quản lý, công nhân phục vụ quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm chất lượng cao.

Hiệp hội các xí nghiệp may của Việt Nam hoạt động tích cực, mới đây đã thành lập Viện mốt với nhiệm vụ tạo mốt, mẫu mã kỹ thuật phục vụ các Công ty may sản xuất có hiệu quả. Bên cạnh sự đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam các Công ty nước ngoài cũng đã tham gia đáng kể trong việc đầu tư vào ngành may mặc, nhiều liên doanh trong lĩnh vực may mặc đã đi vào hoạt động thu kết quả khả quan. Tất cả đã tạo ra một năng lực sản xuất mới cho ngành may mặc Việt Nam. Quy mô sản xuất được mở rộng, tay nghề công nhân không ngừng được nâng lên, mẫu mã được cải tiiến phong phú, đa dạng. Các yếu tố này gây nên sự hấp dẫn đối với các khách hàng có ý định hợp tác.

Ngành công nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ và được nhiều đơn vị, thành phần kinh tế tham gia. Hệ thống các Công ty , xí nghiệp may từ Trung ương đến địa phương đều trưởng thành đáng kể. Năm 2000 có trên 400 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu dự kiến 2001 con số này sẽ là gần 500 doanh nghiệp. Không những đội ngũ may xuất khẩu tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp mà quy mô doanh nghiệp công nghệ sản xuất, chất lượng, đội ngũ công nhân lành nghề đang từng bước được nâng cao. Tất cả những điều này đang là dấu hiệu tốt cho sự khởi sắc của ngành may Việt Nam khi vươn ra thị trường thế giới.

Tuy nhiên, để làm tốt hơn nữa chứng từ xuất khẩu may mặc, phát huy hết mọi sức mạnh tiềm tàng của đất nước thì bên cạnh các biện pháp chuyên môn các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm từ các cơ sở may xuất khẩu trong nước và ngoài nước. Thường xuyên coi trọng công tác tự đánh giá và rút ra những bài học chính mình để kịp thời điều chỉnh những vấn đề còn yếu kém, tránh thua thiệt trong cạnh tranh, tránh xu hướng đầu tư sai lầm mà trong thời gian ngắn khó có thể thay đổi được.. Cụ thể trong thực tiễn hoạt động của chúng ta đang còn nổi cộm lên một số vấn đề lớn sau và cần được nhìn nhận lại một cách nghiêm túc.

Trong đầu tư mua sắc, chuyển giao máy móc công nghệ một số đơn vị do nguồn vốn hạn hẹp phải mua thiết bị Second-hand đã để khách hàng nước ngoài lợi dụng đưa thiết bị quá cũ, tân trang lại nên hiệu quả sử dụng rất hạn chế ; nguy cơ là bãi thải công nghiệp với những cỗ máy lạc hậu tới hàng thế kỷ. Bên cạnh đó công tác lập luận chứng đầu tư còn phiến diện, thiếu đồng bộ. Có trường hợp khi mua thiết bị sợi về thấy thiếu thiết bị lạnh lại phải chờ lập luận chứng mua thiết bị lạnh nên phải mất thêm 2 năm mới sử dụng được, hoặc thiếu sự phối hợp giữa các khâu trong đầu tư dẫn đến máy móc thiết bị nhập về rồi mới tính chất đào tạo công nhân. Tình trạng đã dẫn tới thời gian vay nợ kéo dài nhiều khi ảnh hưởng lớn tới uy tín Công ty vì nguồn vốn vay đầu tư không được trả đúng hạn thậm chí có trường hợp mất khả năng chi trả.

Khi giao nhận nguyên vật liệu và thành phẩm có trường hợp Công tylàm hàng gia công trong nước do sơ xuất trong việc cụ thể hoá các chỉ tiêu như : định mức tiêu hao vật liệu, kiểu cách kết hợ gam màu thời gian và địa điểm giao nhận, phương thức thanh toán nên khi thực hiện hợp đồng đã để xảy ra những kết cục tranh chấp đáng tiếc.

Như chúng ta đã biết, hàng may mặc luôn đi kèm với yếu tố thời trang, khi tham gia thị trường trên thế giới thì các yếu tố đó lại càng phức tạp. Do đó tăng cường thực hiện chiến lược sản phẩm là con đường thiết thực nhất, thường xuyên cách tân, thay đổi mẫu mốt, kiểu dáng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Hãy để chính sản phẩm lên tiiếng là việc làm hiệu quả hơn bất cứ nỗ lực nào. Đây cũng là bí quyết tất cả các doanh nghiệp thành công nhất trên trường quốc tế.

Học hỏi kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài cũng đang được coi là việc làm cần thiết. Công tác đàm phán cần được chuẩn chu đáo bởi đây sẽ là thời điểm xác định lợi ích kinh tế của các bên. Muốn đạt được lợi ích lớn trước hết phải có nghệ thuật đàm phán khôn khéo, nhiều khi khách hàng đang có rất nhiều mối hàng nhưng do nghệ thuật thuyết phục của ta mà họ vẫn chấp nhận đặt hàng với những điều kiện có lợi cho chúng ta. Trong đàm phán rất cần thiết phải hiểu rõ đối phương [về văn hoá, tài chính, thái độ, phong tục..]; tuỳ theo từng đối tượng mà sử dụng các chiến lược đàm pháp kiểu cứng, chiến lược đàm phán kiểu mềm hay chiến lược đàm phán kiểu hợp tác. Ngoài ra còn phải chủ ý tới việc nên áp dụng chiến thuật đàm phán gì ? chiến thuật tri thức hay chiến thuật tâm lý.

Kinh nghiệm tạo uy tín và tạo khả năng xâm nhập vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp thành đạt cho thấy cần phải thực hiện song song hai chiến lược đó là : chiến lược marketing và chiến lược sản phẩm một cách tốt nhất. Thực hiện chiến lược marketing hợp lý sẽ cho phép sản phẩm của Công ty được mọi người quan tâm, chú ý. Khi sản phẩm đã được nhiều người biết đến cần tiếp tục củng cố lòng tin và uy tín với khách hàng bằng chính với yếu tố nội tại sản phẩm, nhất là với hàng may mặc cần luôn luôn tạo ra tính đặc thù, có như vậy mới mong duy trì được trên thị trường một cách bền vững. Có câu nói thấy triết lý mà bao hàm toàn bộ nội dung trên, đó là : “Hãy tạo dựng uy tín so cho khách hàng sẽ mua sản phẩm của Công ty như một thói quen”.

Ngoài ra kinh nghiệm xuất khẩu một số nước cũng cho thấy: trong thời gian mới đầu các đơn vị tham gia xuất khẩu may mặc còn gặp nhiều hạn chế về vốn, công nghệ, thị trường.. do đó cần phải tăng cường chính sách hỗ trợ xuất khẩu từ phía Nhà nước. Các nước đã đi lên từng bước, từ chỗ nhận hàng gia công đến xuất khẩu trực tiếp, từ chỗ chỉ xuất được một số lượng nhỏ với những mặt hàng may mặc thấp cấp tới việc xuất đi những sản phẩm cao cấp nhất đạt giá trị cao mà cụ thể là các nước châu Á đã làm được điều đó như: Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan.. với Việt Nam hiện nay sản phẩm may mặc xuất khẩu chủ yếu dưới dạng nhận gia công do đó thị trường xuất khẩu của ngành may Việt Nam thực chất là của người đặt ra công. Việc phân phối sản phẩm hoàn chỉnh đi thị trường nào là quyền của họ. Như vậy dưới hình thức này Việt Nam sẽ bị tước đi rất nhiều quyền lợi, vừa hạn chế sử dụng nguyên liệu trong nước vừa mất đi khả năng xâm nhập thị trường chưa kể đến giá trị lợi nhuận xuất khẩu thu về là rất nhỏ. Do đó Nhà nước cần có chính sách tập trung đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp là việc làm thiết thực và cấp bách.

Có nhiều nước đã thực hiện thành công bước nhảy này bằng con đường liên doanh liên kết, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may mặc bước đầu tạo sức mạnh bứt phá về công nghệ, kiểu cách, ấn tượng sản phẩm. Phương pháp phát huy nội lực kết hợp với sử dụng ngoại lực cần được chúng ta xem xét vận dụng để sớm tìm ra hướng đi và chỗ đứng vững chắc cho hàng may Việt Nam trong thị trường may thế giới.

Video liên quan

Chủ Đề