Tại sao lại gọi trần tế xương là tú xương

Cùng làng, cùng phố, cùng trường. Ông nhớ rất rõ hình ảnh Tú Xương, trán rộng, tai dày, nước da trắng như tuyết, miệng tươi, mũi thẳng và đôi mắt trong như gương. Một âm thanh vàng lung linh vang lên mái tóc phú quý, gót ngọc đào quanh phố vọng tới. Mấy chục năm, kỳ đà vắng bóng, dấu vết hương trầm ngàn năm.

Tran Ti Zong Ông là nhà văn trào phúng – trữ tình nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Cuộc đời anh không mấy thuận lợi trong thi cử, thi trượt cả tám kỳ, nhưng anh chọn cách kiên trì đến cùng. Sự nghiệp văn học của ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị cho đất nước cho đến ngày nay. Để người đọc tìm hiểu thêm Cuộc đời và sự nghiệp của tác giả Tran Tie Zong Xin lỗi cho tôi hỏi!

    Tiểu sử và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Minh Châu Tiểu sử và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Tuân Tiểu sử và sự nghiệp của nhà thơ Lữ

1. Tiểu sử

Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, 5 tháng 9 năm 1870 – 29 tháng 1 năm 1907, là một nhà thơ Việt Nam.

Trần Ti Phông sinh ngày 5 tháng 9 năm 1870 [tức mùng 10 tháng 8 âm lịch] tại số 247 phố Hàng Nâu, thành phố Nam Định, hiệu là Trần Đội Ổn. Ông thuộc dòng họ Nho, nguyên là họ Fam, đổi họ Trần vì thời Trần ông có công lớn, lập quốc [nhà vua cho phép đổi họ]. Ông nội của Trần Ti Tòng tên là Trần Đội Năng. Cha của Trần Ti Tòng là Trần Đới Nãn, cũng là một nhà Nho, thi trượt nhiều trường cao đẳng. Sau làm Đốc học Nam Định, ông sinh được 9 người con, 6 trai, 3 gái, Tú Xương là trưởng tử.

Anh đi học sớm và sớm nổi tiếng thông minh. Năm lên mười tuổi, có khách vào nhà chơi, thấy trước nhà có một hàng chậu hoa, người khách đã tặng cho bà một câu đối: “Nhà hoa bốn màu” [trong trước sân có hoa ngũ sắc], Owen chỉ ngay. Trong lồng treo thịt ba chỉ ngoài ban công và nói: “Chim Lũng Trung Bách Thành” [trong lồng là chim trăm tiếng]. Ông khách nghe xong khen mà thở dài “Đời nó như chim sổ lồng”. Ông học chữ Hán với cụ kép ở làng Thanh Thị, hiệu là Trần Chấn Tài, học ở Thanh Nam.

Cuộc đời ngắn ngủi 37 năm của ông đã kết thúc trong một trong những giai đoạn bi thảm nhất của đất nước. Ba năm trước khi ông sinh ra, sáu quận của Kushinchina đã mất vào tay người Pháp. Khi Tú Xương được ba tuổi, Bắc Kỳ, trong đó có Nam Định, lần đầu tiên bị tấn công. Tú Xương 12 tuổi, Pak Ki, Nam Định bị tấn công lần thứ hai, mất sạch. Hiệp ước Harmand năm 1883 và Hiệp ước Patnotre năm 1884 công nhận quyền kiểm soát của Pháp đối với Việt Nam. Các phong trào kháng chiến chống Pháp diễn ra sôi nổi nhưng cũng bị thất bại. Tú Xương sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh lịch sử này.

Tú Xương lấy chồng năm 16 tuổi, vợ là bà Phạm Thị Mẫn.

Ông thi Đại khoa Bính Tuất năm 17 tuổi [1886]. Các tài liệu khác vô tình được sao chép tại trường Cao đẳng Dow [1885].

2. Phương pháp cấu hình

Tuy sự nghiệp sáng tác không dài nhưng số tác phẩm mà Trần Ti Tòng để lại cho nền văn học dân tộc quả là đáng kinh ngạc. Với số lượng tác phẩm hơn 150 bài thơ đủ các thể loại.

Hầu hết nội dung tác phẩm của ông xoay quanh khoa cử, Nho học, hình ảnh Nho giáo ngày càng suy tàn, và sự nghèo khó của người dân trong bối cảnh đất nước.

Ngoài ra, ông còn được biết đến là nhà văn châm biếm, phê phán chế độ phong kiến ​​thối nát, bọn thực dân Pháp tàn ác, bọn quan lại và tay sai của giặc. Anh luôn đứng về phía người nghèo.

Đặc biệt, trong sự nghiệp sáng tác của mình, anh còn tìm hiểu đề tài viết về vợ để bày tỏ tình yêu thương đối với người đã hy sinh, chịu thương, chịu khó chăm lo cho gia đình, cho chồng con. Đáng chú ý, có bài thơ Thương vợ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt luật. Không chỉ sáng tác thơ để bày tỏ tình yêu thương với người phụ nữ bên cạnh, Tế Xương còn muốn mượn hình ảnh ấy để ca ngợi hình ảnh người phụ nữ Việt Nam tần tảo sớm hôm, yêu thương chồng con.

3. Tác phẩm tiêu biểu

Thơ Trần Tiếp Cheong – NXB Giáo dục Hà Nội

Tú Xương con người và nhà thơ Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lữ – NXB Văn hóa

Thơ Trần Ti Tòng – NXB Văn học [1970]

Đề thi Tú Xương từ Thư viện Phúc Chỉ – 95 Hàng Bồ, Hà Nội

Ngắm sông Vị [Văn học và cuộc đời Trần Tế Xương]

Tuyển tập thơ Vị Xuyên cho Sở Cương [tức Lê Dư], Nam Kỳ Sách [1931 – sau tái bản]

4. Nhận xét

Nguyen Kong Hwan Tú Xương được suy tôn là ông thần của thơ thiêng.

Xuan Dio Tú Xương đứng thứ năm sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm.

Tản Đà Khi còn sống, “trong số các nhà thơ của tổ tiên, ông ngưỡng mộ nhất Tú Xiêm” [Xuân Duo nói]. Tản Đà tự nhận trong đời thơ của mình chỉ một lần đánh bại được Tú Xương bằng chữ “voo” trong bài Cảm hoài, Tạm biệt Thu: Vút nhìn lá rụng ngoài sân. Nguyễn Kông Huân cũng nói như vậy.

Nguyễn Tuân đã ca ngợi Tú Xương là: nhà thơ, nhà thơ có nhiều công lao trong cuộc đấu tranh lâu dài xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam.

Cảm ơn bạn đọc đã luôn theo dõi và ủng hộ Bạn đọc trong thời gian qua, rất mong nhận được sự ủng hộ của các bạn ở các chuyên mục khác, thân mến!

*** Vui lòng đọc kỹ yêu cầu

Bản quyền – Cộng tác Trước khi sao chép hoặc trích dẫn nội dung của blog


Nhà thơ Tú Xương được xem là một hiện tượng hiếm trong thơ ca Việt Nam. Ông sáng tác dường như chỉ để mua vui, để đọc cho bạn bè và người thân nghe, rồi tùy ý truyền khẩu. Trong thơ của Tú Xương có thể cảm nhận được sự hài hòa giữa yếu tố hiện thực và trào phúng, nhưng trữ tình là gốc rễ. Hôm nay CAYBUTTRE.VN xin giới thiệu đến các bạn bài viết tổng hợp về cuộc đời và sự nghiệp của ông!

Cuộc đời

Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, tên khác là Trần Duy Uyên, tự Mộng Tích, Tử Thịnh, hiệu Mặc Trai. Chữ Xương trong bút danh Tú Xương có nghĩa là “thịnh vượng” [còn có nghĩa là đẹp, thẳng]. Tuy nhiên, hàm nghĩa của chữ “Xương” này đã bị những người chuyên làm thơ trào phúng về sau đã cố tình “xuyên tạc” thành “xương thịt”. Và từ đó họ suy tôn ông thành bậc tổ sư một “môn phái” quy tụ những môn đệ “ăn theo” học vị khoa bảng như: Tú Mỡ, Tú Sụn, Cử Nạc, Tú Poanh, Đồ Phồn…

Ông sinh ra tại số nhà 247 phố Hàng Nâu, thành phố Nam Định với tên là Trần Duy Uyên. Ông thuộc dòng dõi nho gia, vốn là họ Phạm. Tổ tiên ông được đổi thành họ Trần là bởi vào đời Nhà Trần, do lập công lớn nên được phong quốc tính [vua cho đổi theo họ nhà vua]. Ông nội Trần Tế Xương tên là cụ Trần Duy Năng. Thân sinh của Trần Tế Xương là cụ Trần Duy Nhuận cũng là một nhà nho. Cũng là người dự nhiều khoa thi mà không đậu. Sau làm Tự thừa ở dinh đốc học Nam Định, sinh được 9 người con, 6 trai, 3 gái, Tú Xương là con trưởng trong gia đình.

Hồi mới lên 10 tuổi, nhà có khách đến chơi, thấy trước nhà có một dãy chậu hoa, vị khách bèn ra câu đối “Đình tiền ngũ sắc hoa” [trước sân có hoa năm sắc], ông liền chỉ vào lồng chim khướu treo ở hiên và đối lại: “Lung trung bách thanh điểu” [trong lồng có chim trăm tiếng]. Khách nghe đối tấm tắc khen nhưng lại thở dài “đời thằng bé lại luẩn quẩn như chim nhốt trong lồng “. Tú Xương từng học chữ Hán với cụ kép làng Thành Thị, tên là Trần Chấn Thái.

Tú Xương vốn thuộc dòng dõi nho gia họ Phạm nhưng đã đổi thành họ Trần. Ông nội Trần Tế Xương là Trần Duy Năng. Cha của Trần Tế Xương là cụ Trần Duy Nhuận là một nhà nho làm Tự thừa ở dinh đốc học Nam Định.

Ông cưới vợ rất sớm, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn, một phụ nữ quê. Ông bà có với nhau 8 người con – 6 trai và 2 gái. Vợ ông được xem là một phụ nữ tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam xưa: tần tảo, thương chồng, thương con, nhẫn nại quên mình… Chính bà đã đi vào thi phẩm của chồng như một nhân vật điển hình hấp dẫn.

Cuộc đời của Trần Tế Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết là một trí thức phong kiến. Ông thuộc loại nhà nho “dài lưng tốn vải” như trong bài Hỏi ông trời của ông:

Ta lên ta hỏi ông trời:
Trời sinh ta ở trên đời biết chi?
Biết chăng cũng chẳng biết gì:
Biết ngồi Thống Bảo, biết đi ả đầu
Biết thuốc lá, biết chè tàu
Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi

Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào thơ ca của ông: Tiền bạc phó cho con mụ kiếm hoặc là Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ hay là Nuôi đủ năm con với một chồng, rồi ông cũng tự cười mình trong bài Phỗng sành:

Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành
Mắt thời thao láo, mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh
Thế mà cứ nghĩ rằng ta giỏi,
Cứ việc ăn chơi chẳng học hành

Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả 8 lần. Đó là các khoa: Bính Tuất [1886]; Mậu Tý [1888]; Tân Mão [1891]; Giáp Ngọ [1894]; Đinh Dậu [1897]; Canh Tý [1900]; Quý Mão [1903] và Bính Ngọ [1906]. Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ [1894] ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ [lấy thêm]. Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão [1903] Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng, đến phát cắu lên:

Tế đổi làm cao mà chó thế,
Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi !

Xã hội bấy giờ, cái bằng tú tài thuộc loại dang dở dở dang [tú tài không được thi Hội, cử nhân mới được thi, tú tài không được bổ quan, cử nhân mới được bổ]. Cho nên đậu tú tài, muốn đậu cử nhân phải đợi 3 năm sau thi lại.

Cuộc sống của ông về vật chất rất thiếu thốn. Đúng năm ông đậu tú tài [1894] thì ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu [nay là phố Minh Khai] bị cháy. Cụ Nhuận làm lại xây bằng gạch Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu, câu thơ đó là Tú Xương nhắc đến sự kiện này, nhưng rồi ngôi nhà đó lại bị bà Hai An chiếm đoạt. Tú Xương đã phải than:Nhà cửa giao canh nợ phải bồi. Nghèo đói đã cứa xé Tú Xương. Sự đểu cáng đã vả vào Tú Xương. Hoàn cảnh đó được in đậm trong thơ phú của Tú Xương sự vất vả, cay cú, phát phẫn, buồn phiền.

Tú Xương mất sớm vào ngày 29.01.1907 khi mới 37 tuổi.

Sự nghiệp sáng tác

Tú Xương mất sớm, ông chưa đi trọn con đường sáng tác của mình. Nhưng những tác phẩm Tú Xương để lại có tác dụng như một bản cáo trạng đanh thép lên án xã hội thực dân nửa phong kiến trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.

Tú Xương sáng tác rất nhiều và thất lạc cũng nhiều. Ông viết khoảng 151 bài thơ bằng chữ Nôm với đủ các thể loại. Ngoài ra, ông có dịch một số thơ Ðường.

Tình hình văn bản tác phẩm của Tú Xương hết sức phức tạp. Không có di cảo. Không có những công trình đáng tin cậy tập hợp tác phẩm khi tác giả còn sống hoặc vừa nằm xuống. Sinh thời, nhà thơ sáng tác dường như chỉ để tiêu sầu hoặc mua vui, thơ làm đọc lên cho vợ con, bạn bè nghe, rồi tùy ý truyền khẩu. Thành Nam thuở ấy còn có nhiều người hay thơ và thơ hay, cùng nỗi niềm và khuynh hướng với Tú Xương như Trần Tích Phiên, Phạm Ứng Thuần, Trần Tử Chi, Vũ Công Tự…Thơ họ cũng được phổ biến không ít. Lại 3 năm một lần thi hương, sĩ tử cả Bắc Kỳ tụ hội về đây, thơ hay được lan truyền càng rộng rãi. Vì thế thơ Tú Xương càng dễ bị lẫn lộn.

Nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ của ông là tiếng cười phê phán những mặt trái bắt đầu nảy sinh giữa đời sống thị thành, tiếng cười châm biếm và tự trào vừa mang sắc thái tiễn biệt quá khứ “một cách vui vẻ” vừa bất đắc dĩ chấp nhận lối sống thị dân đang từng bước định hình.

Thơ Tú Xương là tiếng nói của tầng lớp bình dân – một phong cách thơ trào phúng gần gũi với Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Kì Đồng,…

Thơ ông là sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là gốc. Với Tú Xương, vẫn chưa thấy chắc chắn có bài thơ chữ Hán nào, chỉ thấy thơ Nôm viết bằng các thể loại cổ điển: thơ luật Đường: thất ngôn bát cú, tứ tuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát nói; lục bát.

Ở thể loại nào Tú Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy. Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời [Vịnh khoa thi hương, Giễu người thi đỗ, Học trò ngủ cạnh thầy, Phường nhơ,…]. Bên cạnh đó đề tài người vợ trong thơ của Tú Xương cũng rất được quan tâm và đón nhận. Tú Xương rất trân trọng vợ mình, ông viết về vợ như một sự tri ân. [Thương vợ, Văn tế sống vợ,…] Không chỉ vậy, ông còn hiểu rõ nỗi khổ của những người nông dân và viết về họ với một sự cảm thương chân thành [Đại hạn, Thề với người ăn xin,…].

Về nội dung, thơ trào phúng và trữ tình của Tú Xương có giá trị hiện thực cao. Thơ Tú Xương là tiếng nói, là nỗi lòng của tầng lớp nho sĩ đang đứng giữa thời cuộc không đành tâm theo giặc cũng không cầm vũ khí chống giặc.

Về nghệ thuật, cả hai mặt trào phúng và trữ tình, Tú Xương xứng đáng là nhà thơ lớn của dân tộc, xứng đáng được Yên Ðỗ [ Nguyễn Khuyến] nhà thơ cùng thời xếp vào loại thi hào bất tử :

Kìa ai chín suối Xương không nát
Có nhẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.

Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Đó là người vợ tần tảo buôn bán nhỏ, luôn cho lo cho chồng học hành thi cử mà nhà lại đông con [8 người con] nên họ luôn sống trong cảnh thiếu thốn. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào thơ ca của ông: “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm” hoặc là “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ” hay là “Nuôi đủ năm con với một chồng”, rồi ông cũng tự cười mình trong bài Phỗng sành:

“Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành
Mắt thời thao láo, mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh
Thế mà cứ nghĩ rằng ta giỏi,
Cứ việc ăn chơi chẳng học hành”.

Chính điều này đã góp phần khiến cho tác phẩm của ông thêm nhiều cảm xúc khác người mà vợ ông là hình mẫu, là cảm xúc hình thành nên nhiều bài thơ điển hình cho người phụ nữ Việt Nam thời đó.

Ông là một nhà thơ nổi tiếng, có ảnh hưởng lớn đến nhiều nhà thơ hiện đại. Xuân Diệu đã viết về tài năng thơ phú nơi ông như sau:

“Ông nghè ông thám vô mây khói
Đứng lại văn chương một tú tài”.

Nhiều người từng nhớ về Nhà thơ Tú Xương khi nhắc đến bài thơ “Năm mới chúc nhau”. Ý thơ thật sâu cay, trào lộng. Ông viết:

“Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:
Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu?
Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc
Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:
Đứa thì mua tước; đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp, người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non.

Bắt chước ai ta chúc mấy lời
Chúc cho khắp hết ở trong đời
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người”.

Nói về thơ Tú Xương, nhiều người cho rằng, nhiều những thực trạng được ông khắc họa trong thơ vẫn còn ý nghĩa phản ánh cho đến tận ngày hôm nay.

♦ Các nguồn tổng hợp


Trong giấc mơ Con mơ mình bé lại Cứ dại khờ cho quên hết phiền lo Tay con nắm một lời ru của mẹ Cánh võng trưa hè...

Mến gửi các thành viên, bạn đọc, các quản trị viên… qua các thế hệ! Cộng đồng Cây Bút Trẻ Việt Nam [CBT]đang ch...

Ai đem lưng chừng chữ thương Treo lơ lửng giữa vô thường bể dâu Chênh vênh bắc mấy nhịp cầu Vờn mây đùa gió gieo ...

Mẹ sinh con giữa mùa đông Cây bàng rực đỏ, cầu vồng hiện ra Nặng mang chín tháng đã qua Nụ cười rạng rỡ món quà trời...

Nếu ngày mai cuộc sống chẳng êm đềm Thì anh nhé bên em đừng xa nữa Hãy gìn giữ những lời anh từng hứa Để thấy rằng em...

Bão về lạnh buốt mình ơi Về em nhóm bếp cùng ngồi hàn huyên Phận người dẫu biết truân chuyên Nghĩa nhân gìn giữ vẹn ...

Mến gửi các thành viên, bạn đọc, các quản trị viên… qua các thế hệ! Cộng đồng Cây Bút Trẻ Việt Nam [CBT]đang chuẩn bị đón tuổi thứ 5 cho hành trình xây dựng và phát triển của mình. Chính thức...

Trong khuôn khổ nội dung của chương trình gặp gỡ “Ngày ấy & Bây giờ” sẽ có một chương trình đặc biệt có tên là “Đổi sách 1-1” miễn phí! Như các bạn đã biết, chúng ta có ...

Mến gửi các thành viên, bạn đọc, các quản trị viên… qua các thế hệ! Cộng đồng Cây Bút Trẻ Việt Nam [CBT]đang chuẩn bị đón tuổi thứ 5 cho hành trình xây dựng và phát triển của mình. Chính thức...

Thứ Ba, Tháng Bảy 19, 2022 Biên tập viên Nguyễn Phương Thơ

Thứ Ba, Tháng Bảy 19, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Thơ

Thứ Bảy, Tháng Bảy 16, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Thơ

Thứ Bảy, Tháng Bảy 16, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Thơ

Thứ Năm, Tháng Bảy 14, 2022 BTV Huyền Trang Thơ

Thứ Ba, Tháng Bảy 12, 2022 Biên tập viên Nguyễn Phương Thơ

Thứ Bảy, Tháng Bảy 09, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Thơ

Thứ Sáu, Tháng Bảy 08, 2022 Biên tập viên Khánh Linh Thơ

Thứ Năm, Tháng Bảy 07, 2022 BTV Huyền Trang Thơ

Thứ Hai, Tháng Bảy 04, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Thơ

Chủ Nhật, Tháng Bảy 03, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Thơ

Thứ Bảy, Tháng Bảy 02, 2022 Biên tập viên Khánh Linh Thơ

Thứ Sáu, Tháng Bảy 01, 2022 Biên tập viên Khánh Linh Thơ

Thứ Năm, Tháng Sáu 30, 2022 BTV Huyền Trang Thơ

Chủ Nhật, Tháng Sáu 26, 2022 Biên tập viên Thùy Linh Thơ

Thứ Bảy, Tháng Sáu 25, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Uncategorized

Thứ Bảy, Tháng Sáu 25, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Tản văn

Thứ Bảy, Tháng Sáu 25, 2022 Biên tập viên Khánh Linh Thơ

Thứ Sáu, Tháng Sáu 24, 2022 Biên tập viên Khánh Linh Thơ

Thứ Sáu, Tháng Sáu 24, 2022 Biên tập viên Thùy Linh Thơ

Thứ Sáu, Tháng Sáu 24, 2022 Biên tập viên Thùy Linh Thơ

Thứ Ba, Tháng Sáu 21, 2022 Biên tập viên Nguyễn Phương Thơ

Thứ Hai, Tháng Sáu 20, 2022 CÂY BÚT TRẺ Thông báo Quản trị

Thứ Bảy, Tháng Sáu 18, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Thơ

Thứ Bảy, Tháng Sáu 18, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Thơ

Thứ Bảy, Tháng Sáu 18, 2022 Biên tập viên Khánh Linh Thơ

Thứ Sáu, Tháng Sáu 17, 2022 Biên tập viên Khánh Linh Thơ

Thứ Ba, Tháng Sáu 14, 2022 Biên tập viên Nguyễn Phương Thơ

Thứ Hai, Tháng Sáu 13, 2022 Biên tập viên Thùy Linh Thơ

Thứ Hai, Tháng Sáu 13, 2022 Biên tập viên Thùy Linh Thơ

Thứ Hai, Tháng Sáu 13, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Thơ

Chủ Nhật, Tháng Sáu 12, 2022 Biên tập viên Khánh Linh Thơ

Thứ Bảy, Tháng Sáu 11, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Thơ

Thứ Bảy, Tháng Sáu 11, 2022 Biên tập viên Nguyễn Phương Thơ

Chủ Nhật, Tháng Sáu 05, 2022 Biên tập viên Khánh Linh Thơ

Thứ Bảy, Tháng Sáu 04, 2022 Biên tập viên Khánh Linh Tản văn

Thứ Sáu, Tháng Sáu 03, 2022 Biên tập viên Khánh Linh Thơ

Thứ Hai, Tháng Năm 30, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Thơ

Thứ Hai, Tháng Năm 30, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Thơ

Chủ Nhật, Tháng Năm 29, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Thơ

Thứ Hai, Tháng Năm 23, 2022 Biên tập viên Hương Tràm Thơ

Video liên quan

Chủ Đề