So sánh vào thế kỉ v tcn nhà nước a-ten quyền lực cao nhất thuộc về tổ chức nào

Mục lục

  • 1 Các lãnh đạo
  • 2 Vị trí và bản chất
  • 3 Những đặc điểm tiêu biểu
  • 4 Các lý tưởng của nền dân chủ cổ điển
  • 5 Giải thích của Aristotle về dân chủ
  • 6 Các nguyên tắc của nền dân chủ
  • 7 Sau đây là những nguyên tắc
  • 8 Phê bình
    • 8.1 Có một số chỉ trích như sau:
  • 9 Xem thêm
  • 10 Tham khảo
  • 11 Liên kết ngoài

Các lãnh đạoSửa đổi

Những người như Solon (594 TCN), Cleisthenes (509 TCN) và Ephialtes của Athena (462 TCN) đã đóng góp vào sự phát triển của dân chủ Athena. Các nhà sử học không tán thành ai trong số họ chịu trách nhiệm về những thể chế nào, và ai trong số họ đã đại diện chính cho một phong trào dân chủ thực sự. Ý kiến thường thấy nhất cho đến ngày nay cho rằng dân chủ Athena do Cleisthenes khởi xướng, bởi vì việc thiết lập của Solon đổ vỡ và được thay thế bằng chính thể chuyên chế của Peisistratus, trong khi đó Ephialtes đã của Cleisthenes một cách hòa bình.

Hipparchus, anh trai của bạo chúa Hippias, bị Harmodius và Aristogeiton giết. Những người đó sau này được người dân Athena tôn kính vì có công khôi phục lại tự do cho người Athena.

Pericles là lãnh đạo dân chủ vĩ đại và lâu dài nhất; sau khi chết, nền dân chủ Athena bị gián đoạn trong thời gian ngắn hai lần do cuộc cách mạng đầu sỏ nhằm kết thúc Chiến tranh Peloponnesian. Nền dân chủ này bị thay đổi đôi chút sau khi nó được khôi phục dưới thời Eucleides; giá trị chi tiết nhất là ở sự điều chỉnh ở thế kỷ thứ 4 TCN này chứ không phải dưới thời Pericles.

Nền dân chủ Athena bị người Macedonia đàn áp năm 322 TCN. Chính thể Athena sau đó được phục hồi, nhưng mức độ dân chủ thực sự của nó thì vẫn còn tranh cãi.

Các lãnh đạo (basileus) của nhà nước dân chủ Athena (1068 - 332 TCN: Medon: 1068 - 1048 TCN. Acastus: 1048 - 1012 TCN. Archippus: 1012 - 993 TCN. Thersippus: 993 - 952 TCN. Phorbas: 952 - 922 TCN. Megacles: 922 - 892 TCN. Diognetus: 892 - 864 TCN. Pherecles: 864 - 845 TCN. Ariphron: 845 - 825 TCN. Thespieus: 824 - 797 TCN. Agamestor: 796 - 778 TCN. Aeschylus: 778 - 755 TCN. Alcmaeon: 755 - 753 TCN. Charops: 753 - 743 TCN, thời kỳ này, quyền lực của basileus bị giới hạn xuống còn 10 năm. Aesimides: 743 - 733 TCN Clidicus: 733 - 723 TCN Hippomenes: 723 - 713 TCN Leocrates: 713 - 703 TCN Apsander: 703 - 693 TCN Eryxias: 693 - 683 TCN Creon: 682 - 681 TCN. Lysiades: 681 - 680 TCN Tlesias: 679 - 671 TCN Leostratus: 671 - 669 TCN Pisistratus: 669 - 668 TCN Autosthenes: 668 - 665 TCN Miltiades: 664 - 646 TCN Dropides: 645 - 639 TCN Damasias: 639 - 634 TCN Epaenetus: 634 - 632 TCN Megacles: 632 - 625 TCN. Năm 630, Cylon nổi loạn chống chính quyền. Aristaechmus: 624 - 621 TCN Dracon: 621 - 615 TCN. Luật Dracon ban hành là bộ luật nghiêm khắc nhất Hy Lạp (621 TCN) Heniochides: 614 - 605 TCN Aristocles: 605 - 600 TCN Critias: 600 - 597 TCN Cypselus: 597 - 596 TCN Telecles: 596 - 595 TCN Philombrotus: 595 - 594 TCN Solon: 594 - 593 TCN; tiến hành cải cách lớn làm thay đổi nước Athena. Dropides: 593 - 592 TCN Eucrates: 592 - 591 TCN Simon: 591 - 590 TCN Phormion: 589 - 588 TCN Philippus: 588 - 586 TCN Damasias: 582 - 580 TCN Archestratidas: 577 - 570 TCN Aristomenes: 570 - 566 TCN Hippocleides: 566 - 561 TCN Peisistratos: 560 - 527 TCN Hippias: 527 - 510 TCN Hipparchus: 527 - 514 TCN Scamandrius: 510 - 509 TCN, dân chủ Athena thành lập. Lysagoras: 509 - 508 TCN Cleisthenes: 508 - 506 TCN Acestorides: 504 - 501 TCN Hermocreon: 501 - 500 TCN Smyrus: 500 - 499 TCN Lacratides: 499 - 498 TCN Archias: 497 - 496 TCN Hipparchus: 496 - 495 TCN Philippus: 495 - 494 TCN Pythocritus: 494 - 493 TCN Themistocles: 493 - 490 TCN Callimachus, Miltiades: 490 - 489 TCN Aristides: 489 - 488 TCN Anchises: 488 - 487 TCN Telesinus: 487 - 486 TCN Ceures: 486 - 485 TCN Philocrates: 485 - 484 TCN Leostratus: 484 - 483 TCN Nicodemus: 483 - 482 TCN Hypsichides: 481 - 480 TCN Calliades: 480 - 479 TCN Xanthippus: 479 - 478 TCN Timosthenes: 478 - 477 TCN Adimantus: 477 - 476 TCN Phaedon: 476 - 475 TCN Dromoclides: 475 - 474 TCN Acestorides: 474 - 473 TCN Menon: 473 - 472 TCN Chares: 472 - 471 TCN Praxiergus: 471 - 470 TCN Apsephion: 469 - 468 TCN Theagenides: 468 - 467 TCN Lysistratus: 467 - 466 TCN Lysanias: 466 - 465 TCN Sophanes: 465 - 464 TCN Cimon: 464 - 462 TCN Ephialtes: 462 - 461 TCN Euthippus: 461 - 460 TCN Phrasicles: 460 - 459 TCN Philocles: 459 - 458 TCN Habron: 458 - 457 TCN Mnesitheides: 457 - 456 TCN Callias: 456 - 455 TCN Sosistratus: 455 - 454 TCN Ariston: 454 - 453 TCN Lysicrates: 453 - 452 TCN Chaerephanes: 452 - 451 TCN Antidotus: 451 - 450 TCN Euthydemus: 450 - 449 TCN Pedieus: 449 - 448 TCN Philiscus: 448 - 447 TCN Timarchides: 447 - 446 TCN Callimachus: 446 - 445 TCN Lysimachides: 445 - 444 TCN;

Hòa bình giữa Athena và Sparta

Pericles: 444 - 430 TCN Apollodorus: 430 - 429 TCN Phormio: 429 - 428 TCN Cleon: 423 - 422 TCN Nicias: 421 - 418 TCN Nicostratus: 418 - 417 TCN Alcibiades: 418 - 416 TCN Nicias: 416 - 415 TCN Alcibiades: 415 - 414 TCN Lamachus: 414 - 413 TCN Eurymedon, Demosthenes và Nicias: 413 - 411 TCN Simichus và Aristarchus: 411 - 409 TCN Anytus: 409 - 407 TCN Alcibiades, Adeimantus, và Aristocrates: 406 - 405 TCN Pericles Archestratus, Thrasylus,, Lysias, Diomedon, Aristocrates, Erasinides, Protomachus và Aristogenes: 406 - 405 TCN Alexias: 405 - 404 TCN Pythodorus: 404 - 403 TCN, Sparta thành lập chính quyền 30 bạo chúa. Eucleides: 403 - 402 TCN, Ba mươi bạo chúa bị trục xuất, dân chủ thiết lập lại. Micon: 402 - 401 TCN Xenaenetus: 401 - 400 TCN Aristocrates: 399 - 398 TCN, Triết gia Socrates tự tử. Euthycles: 398 - 397 TCN Souniades: 397 - 396 TCN Phormion: 396 - 395 TCN Diophandus: 395 - 394 TCN, Athens tham gia vào cuộc chiến tranh Coring chống lại Sparta Ebulides: 394 - 393 TCN 393 BC-392 BC Demostratus 392 BC-391 BC Philocles 391 BC-390 BC Nicoteles

(còn tiếp)...

So sánh hình thức chính thể của nhà nước thành bang Aten và Xpác. Đánh giá về nền dân chủ của nhà nước Aten

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.52 KB, 5 trang )

Nội dung
I. So sánh hình thức chính thể của nhà nước Aten và Spác
1. Sơ lược về nhà nước thành bang Aten và Spác.
Thời kì thành bang (thế kỉ VIII - IV TCN) là thời kì quan trọng nhất trong
lịch sử Hy Lạp cổ đại. Do sự phát triển của các ngành kinh tế và sự phân hóa giai
cấp, đến thế kỉ VIII TCN, ở Hy Lạp một lần nữa lại xuất hiện nhiều nhà nước nhỏ.
Nhưng nhà nước này đều có một thành phố làm trung tâm nền gọi là những thành
bang.
Thành bang Xpác là một thành bang được xây dựng sớm nhất trong lịch sử
Hy Lạp cổ đại (khoảng thế kỉ VIII – VII TCN) nằm trên vùng đồng bằng Laconia
thuộc phía Nam Hy Lạp, là một thành bang bảo thủ về chính trị, lạc hậu về kinh tế
và văn hóa nhưng lại là một thành bang hùng mạnh về quân sự. Với những điều
kiện tự nhiên rất thuận lợi, nền nông nghiệp ở Spác rất phát triển. Spác là nhà nước


điển hình cho hình thức chính thể cộng hòa quý tộc chủ nô.
Thành bang Aten nằm ở trung tâm vùng đồng bằng Attic thuộc miền Trung
của Hy Lạp. Đây chủ yếu là một vùng đồi núi, không thuận tiện đối với việc sản
xuất nông nghiệp, nhưng lại có nhiều khoáng sản và hải cảng tốt nên công thương
nghiệp có điều kiện phát triển. Thành bang Aten thành lập vào thế kỉ VIII TCN Khi
mới ra đời, tính chất dân chủ của nhà nước Aten còn hạn chế, nhưng do sự đấu
tranh không ngừng của quần chúng, trải qua nhiều lần cải cách, Aten trở thành
thành bang có chế độ chính trị dân chủ nhất ở Hy Lạp cổ đại. Tuy vậy đó chỉ là chế
độ dân chủ chủ nô, vì khoảng 4/5 dân cư Aten là nô lệ và ngoại kiều không được
hưởng quyền dân chủ. Nó là nhà nước điển hình cho hình thức chính thể cộng hòa
dân chủ chủ nô.
2. So sánh hai hình thức chính thể của nhà nước Aten và Spác .

a. Giống nhau:
- Cả Aten và Spác đều là hai thành bang thuộc Hy Lạp, chính thể nhà nước
đặc trưng là chính thể cộng hòa chủ nô.
1
- Nhà nước được xây dựng và thống trị bởi giai cấp chủ nô – giai cấp nắm
các đặc quyền về kinh tế và chính trị; chung mục đích bảo vệ quyền lợi và địa vị
của giai cấp chủ nô trong xã hội.
- Cả hai nhà nước trên đều tồn tại trên cơ sở tư hữu và quan hệ bóc lột nô lệ.
b. Khác nhau:
- Hình thức chính thể:
 Hình thức chính thể của nhà nước Spác là chính thể cộng hòa quý tộc chủ nô
với đặc trưng quyền lực nhà nước không tập trung vào tay một người mà tập trung

vào các hội đồng gồm Hội đồng Trưởng lão, Hội đồng Năm quan giám sát và Hội
nghị Công dân; trong đó quyền lực lớn nhất thuộc về Hội đồng Năm quan giám sát.
Đứng đầu nhà nước Spác là hai vua có quyền lực ngang nhau, nắm giữ chức vụ và
quyền hạn như nhau – thủ lĩnh quân sự, vừa là tăng lữ tối cao vừa là người xử án
đồng thời cũng là thành viên trong Hội đồng trưởng lão. Tuy nhiên khác với các
nhà nước quân chủ chuyên chế phương Đông, nhà vua không có thực quyền mà chỉ
là tàn dư của chế độ công xã nguyên thủy.
Trong tổ chức bộ máy nhà nước, Hội nghị công dân giữ vai trò thứ yếu
trong các quyết định của nhà nước, là cơ quan đại diện cho tầng lớp bình dân trong
xã hội nhưng không có thực quyền. Hội đồng trưởng lão nắm giữ vai trò quan trọng
trong việc quyết sách các vấn đề liên quan đến vận mệnh của đất nước như chiến
tranh hay hòa bình. Hội đồng này là cơ quan nhà nước tiêu biểu cho hình thức

chính thể cộng hòa quý tộc chủ nô Spác. Tuy nhiên, Hội đồng trưởng lão vẫn phải
chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt bởi Hội đồng năm quan giám sát – cơ quan quyền
lực tối cao của thành bang Spác.
Nhìn chung, nhà nước Spác là một hình thức nhà nước cộng hòa quý tộc điển
hình; là thành trì của tầng lớp quý tộc chủ nô lạc hậu, phản động và ở đó quyền dân
chủ của công dân bị hạn chế tới mức tối đa.
2
 Hình thức chính thể của thành bang Aten là hình thức chính thể cộng hòa dân
chủ chủ nô. Aten được tổ chức theo hình thức chính thể cộng hoà dân chủ, hình
thức chính thể này được hoàn thiện qua 3 cuộc cải cách: cải cách Xôlông (594
TCN), cải cách Clixten (509 TCN) và cải cách của Pêriclet (giữa thế kỷ V TCN).
Cải cách của Xôlông đặt nền móng cho sự hình thành chính thể cộng hoà dân chủ.

Với tư cách là quan chấp chính ông căn cứ vào số lượng tài sản để chia cư dân tự
do ra thành 4 đẳng cấp. Đẳng cấp 1 được giữ những chức vụ quan trọng nhất của
nhà nước và có nghĩa vụ cung cấp tiền để xây dựng hạm đội và chi phí cho những
ngày lễ quan trọng của đất nước. Đẳng cấp 2 , 3 được bầu người vào Hội đồng 400
người, được gia nhập kỵ binh và phục vụ bộ binh. Đẳng cấp 4 được tham gia Hội
nghị nhân dân nhưng không có quyền quyết định. Trong tổ chức nhà nước thành
lập thêm toà án đảm nhận công việc xét xử
 Nhìn chung, nhà nước dân chủ chủ nô Aten tiêu biểu cho hình thức chính thể
cộng hòa dân chủ chủ nô, có nhiều điểm tiến bộ hơn so với thành bang Spác. Mặc
dù quyền dân chủ của công dân tự do khá rộng rãi nhưng vẫn bị giới hạn trong một
chừng mực nhất định bởi các quy định đặt ra.
- Vai trò, quyền hạn và hoạt động của cơ quan quyền lực tối cao:

• Ở thành bang Spác, cơ quan nhà nước có thực quyền và nắm giữ
quyền hạn lớn nhất chính là Hội đồng năm quan giám sát – đại diện cho các tầng
lớp quý tộc bảo thủ nhất. Hội đồng năm quan giám sát thực hiện quyền giám sát và
giải quyết mâu thuẫn, bảo vệ lợi ích của hội nghị công dân, có quyền hành rất lơn,
bao trùm lên các cơ quan khác: Giám sát 2 vua, hội đồng trưởng lão, triệu tập và
chủ trì hội đống trưởng lão và hội nghị công dân, có quyền giải quyết các công việc
quan trọng của nhà nước trên các lĩnh vực ngoại giao, tài chính, tư pháp và còn có
quyền kiểm tra tư cách công dân . Hình thức này chứng tỏ sự thụ động của Hội
nghị công dân và ý chí tối cao của Hội đồng năm quan giám sát. Về thực chất, công
dân không có quyền tự quyết định các vấn đề quan trọng của nhà nước mà phụ
thuộc hoàn toàn vào tầng lớp quý tộc chủ nô.
3

• Ở thành bang Aten, thực quyền lại thuộc về Hội nghị công dân – cơ
quan quyền lực tối cao của nhà nước, với phiên họp định kì 10 ngày. Mọi công dân
có đủ tư cách tham gia đều có quyền thảo luận và đi đến các quyết định những vấn
đề lớn của nhà nước như giám sát các cơ quan nhà nước; bầu quan chức cấp cao
của nhà nước; xét duyệt các vụ việc quan trọng của tòa án; đi đến chiến tranh hay
hòa bình trong chính sách đối ngoại hoặc các quyết định về cung cấp lương thực
cho thành phố…Các chức vụ trong các cơ quan nhà nước hầu hết đều được bỏ
phiếu hay biểu quyết. Hội nghị còn có quyền ban hoặc tước quyền công dân. Hội
đồng 500 người chỉ thi hành các quyết định của Hội nghị công dân và quyết định
các vấn đề không quan trọng giữa hai kì họp của Hội nghị. Hội nghị công dân là cơ
quan có thực quyền trong chính trị, là nét khác nhau cơ bản giữa hai chính thể cộng
hòa dân chủ chủ nô Aten và cộng hòa quý tộc chủ nô Spác.

II. Nền dân chủ của nhà nước Aten.
Nền dân chủ của thành bang Aten đã được đánh giá cao trong lịch sử nhân
loại. Tuy vậy, khi nhìn theo góc độ Nhà nước, ta có thể thấy nền dân chủ ấy vừa có
những tiến bộ vượt bậc lại vừa tồn tại những hạn chế nhất định:
a. Mặt tiến bộ:
- Giai cấp bình dân được tham gia sinh hoạt chính trị, quyền hạn này ngày
càng được mở rộng do giai cấp bình dân là hậu thuẫn cho giai cấp chủ nô trong giai
đoạn cải cách nên chủ nô công thương buộc phải nhưọng bộ một số quyền lợi cho
giai cấp bình dân trong nhà nước.
- Nền dân chủ Aten được coi là đỉnh cao của nền dân chủ cổ đại, là điểm
sáng của văn minh chính trị cổ đại, nó đã đưa vào một nền dân chủ trực tiếp trong
sinh hoạt chính trị.

- Hội nghị công dân là cơ quan thực quyền chứ không tồn tại hình thức như
trong chính thể cộng hòa quý tộc chủ nô.
4
- Các cơ quan nhà nước hoạt động thường xuyên và theo nhiệm kì (thường là
một năm). Các quan chức cấp cao đều được công dân trực tiếp tín nhiệm và bầu ra
dưới nhiều hình thức (bỏ phiếu bằng vỏ sò hoặc biểu quyết…).
b. Mặt hạn chế:
- Nền dân chủ trở nên thiểu số hơn khi cách thức hoạt động còn chưa phù
hợp với thực tế như quyền hạn còn hạn chế, việc các kì họp cách nhau 10 ngày ở
thủ đô Aten không phù hợp với các công dân ở xa…
- Một nền dân chủ không phổ cập ngay trong nội bộ những người được pháp
luật thừa nhận là công dân tự do mà lại đặt ra các quy định khắt khe như: phải là

công dân tự do, có cha hoặc mẹ là người Aten; phụ nữ, kiều dân, nô lệ hoàn toàn
không có tư cách tham gia chính trị…
- Nền dân chủ ở Aten vẫn là nền dân chủ chủ nô, phục vụ lợi ích và bảo vệ
địa vị, quyền lợi cho giai cấp chủ nô. Một “Nền dân chủ thiểu số người áp bức,
thống trị đa số người” trong đó phần lớn giai cấp bị áp bức là giai cấp nô lệ (chiếm
đến 8/10 dân cư của thành bang).
III. Nhận định chung:
Lịch sử nhà nước Hi Lạp cổ đại được lưu giữ lại chính là lịch sử hình thành
và phát triển của các thành bang lúc bấy giờ. Và Aten – Xpác đã trở thành hai thành
bang huyền thoại trong lịch sử nhà nước Hi Lạp cổ đại với những đặc trưng riêng
biệt về hình thức chính thể nhà nước và sự nổi trội trong tổ chức bộ máy nhà nước
trong thời kì lúc bấy giờ và ngay cả trên Thế giới.

5

Điều kiện hình thành nhà nước Athens

Cư dân sống trên bán đảo Attích là nhánh người Hi Lạp – người Iônien. Trước khi nhà nước ra đời, các cư dân này vẫn còn đang sống trong giai đoạn mạt kì của xã hội thị tộc. Có 4 bộ lạc, mỗi bộ lạc bao gồm 30 thị tộc, cư trú ở 4 khu vực khác nhau. Theo truyền thống, Đại hội nhân dân vẫn là cơ quan có quyền lực cao nhất quyết định các vấn đề hệ trọng của mỗi bộ lạc. Ngoài ra, mỗi bộ lạc đều có một hội đồng quý tộc (gồm các tộc trưởng của 30 thị tộc) và một thủ lĩnh quân sự – người Hi Lạp gọi là Badilơ (Basilêus), do Đại hội nhân dân bầu ra, phụ trách quân sự, xét xử các vụ kiện tụng và tổ chức các buổi tế lễ tôn giáo.

Theo thời gian và cùng với sự phát triển của nền kinh tế Công thương nghiệp, ranh giới ngăn chặn giữa các thị tộc, bộ lạc dần dần bị xoá nhoà. Cư dân của 4 bộ lạc đã sống đan xen nhau, mối quan hệ huyết thống lỏng lẻo dần. Kết quả là 4 bộ lạc ở xứ Attích đã tập hợp lại thành một liên minh bộ lạc, lấy Athens làm thủ phủ. Những điều kiện và tiền đề cho việc xuất hiện xã hội có giai cấp, nhà nước đã chín muồi.

Đặc trưng của nhà nước Athens

Sự hình thành nhà nước Athens có những đặc trưng riêng biệt.

  • Thứ nhất, Nhà nước Athens ra đời trong bối cảnh lịch sử hoàn toàn không có sự can thiệp, xâm lược của các thế lực bên ngoài. Nhà nước Athens xuất hiện trên cơ sở tan rã của xã hội thị tộc của chính cư dân vùng Attích.
  • Thứ hai, Nhà nước Athens xuất hiện không phải là kết quả của các cuộc chiến tranh, xung đột, đổ máu, mà nó được hình thành một cách hòa bình dần dần, từng bước hoàn thiện thông qua hàng loạt các cuộc cải cách xã hội, từ cải cách đầu tiên của Tede, đến những cải cách cuối cùng của Pericolet. Những tàn dư của xã hội nguyên thủy bị đẩy lùi và bị thủ tiêu một cách triệt để.
  • Thứ ba, Nhà nước Athens được xây dựng và hoàn thiện theo hướng xây dựng thiết chế nhà nước dân chủ chủ nô – một thể chế hết sức đề cao và đảm bảo những quyền lợi kinh tế, chính trị của những công dân tự do.

Trả lời câu hỏi mục 2 trang 47 SGK Lịch sử và Địa lí 6 Kết nối tri thức với cuộc sống

Quảng cáo

Đề bài

Hãy trình bày những nét chính về tổ chức thành bang ở Hy Lạp. Những ưu điểm của nhà nước thành bang là gì?

Video hướng dẫn giải

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Dựa vào thông tin trong bài

Lời giải chi tiết

- Những nét chính về tổ chức thành bang A-ten:

+ Bộ máy nhà nước A-ten được tổ chức theo kiểu dân chủ chủ nô, đây là thành bang quan trọng nhất, tiêu biểu cho chế độ dân chủ ở Hy Lạp cổ đại. Để bảo vệ nền dân chủ và ngăn chặn những âm mưu đảo chính.

+ Nhà nước A-ten gồm có 4 cơ quan chính: Đại hội nhân dân, Hội đồng 10 tư lệnh, Hội đồng 500 người và Tòa án 6000 thẩm phán.

- Ưu điểm của nhà nước thành bang:

+ Không như ở phương Đông, quyền lực tối cao tập trung trong tay hoàng đế (chế độ quân chủ chuyên chế), ở Aten (Hi Lạp) quyền lực cao nhất thuộc về Đại hội nhân dân.

+ Tất cả những công dân 18 tuổi trở nên (chỉ giành cho nam giới), đều được tham gia. Cơ quan này có quyền thảo luận những vấn đề quan trọng nhất của đất nước như giảng hòa hay tuyên chiến, đề ra các dự luật, bầu chọn và cử các viên chức nhà nước như chức chấp chính quan hay tư lệnh quân đội.

+ Ngoài ra, còn có Hội đồng 500 người, mà tất cả các công dân tự do (nam) từ 18 tuổi trở lên đều được tham gia. Đây là cơ quan hành chính cao nhất. Số đại biểu của mỗi tiểu khu cử lên được căn cứ theo tỉ lệ dân số nhiều hay ít.

+ Ở A-ten, còn quy định chế độ “bỏ phiếu bằng vỏ sò”. Có nghĩa là mọi công dân A-ten đều có thể ghi tên những người, kể cả quan chức bị nghi ngờ phản trắc. Nếu có 6000 vỏ sò cùng ghi tên một người thì trong vòng 10 ngày họ bị trục xuất khỏi thành bang, của cải bị niêm phong.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

So sánh vào thế kỉ v tcn nhà nước a-ten quyền lực cao nhất thuộc về tổ chức nào

  • Trả lời câu hỏi mục 3 trang 47 SGK Lịch sử và Địa lí 6 Kết nối tri thức với cuộc sống

    Dựa vào sơ đồ trên, hãy trình bày tổ chức nhà nước đế chế ở La Mã.

  • Trả lời câu hỏi mục 4 trang 49 SGK Lịch sử và Địa lí 6 Kết nối tri thức với cuộc sống

    Hãy kể tên một số thành tựu văn hóa tiêu biểu của Hy Lạp và La Mã cổ đại. Thành tựu nào còn được bảo tồn đến ngày nay?

  • Soạn giải bài 1 phần Luyện tập - vận dụng trang 49 SGK Lịch sử và Địa lí 6 Kết nối tri thức với cuộc sống

    Điều kiện tự nhiên tác động như thế nào đến sự hình thành và phát triển của văn minh Hy Lạp, La Mã.

  • Soạn giải bài 2 phần Luyện tập - vận dụng trang 49 SGK Lịch sử và Địa lí 6 Kết nối tri thức với cuộc sống

    Có ý kiến cho rằng: Người Hy Lạp và La Mã cổ đại đạt được những thành tựu của người phương Đông cổ đại. Em có đồng ý với ý kiến trên không? Vì sao?

  • Soạn giải bài 3 phần Luyện tập - vận dụng trang 49 SGK Lịch sử và Địa lí 6 Kết nối tri thức với cuộc sống

    Theo em, thành tựu văn hóa nào của Hy Lạp, La Mã cổ đại còn được bảo tồn đến ngày nay?

Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Nguồn gốc về tư tưởng dân chủ đại diện

24/08/2020

THS. ĐẬU CÔNG HIỆP

Khoa Pháp luật Hành chính Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn
Tóm tắt:Bài viết này trình bày về nguồn gốc của tư tưởng dân chủ đại diện (từ thời cổ đại ở phương Tây cho đến châu Âu thời Khai Sáng) và qua đó cho thấy, dân chủ đại diện đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử và trở thành một hình mẫu phổ biến trong tổ chức quyền lực nhà nước hiện nay.
Từ khóa: Dân chủ đại diện, tư tưởng dân chủ đại diện.
Abstract:This article describes the source of representative democratic idea, from the ancient occident to the Enlightenment Europe and it is shown the fact that representative democracy has experienced a long history and became a common modality on the recent state power arrangements.
Keywords:Representative democracy, ideas of representative democracy
So sánh vào thế kỉ v tcn nhà nước a-ten quyền lực cao nhất thuộc về tổ chức nào
Ảnh minh họa: ChâuÂu thời kỳ Khai sáng (internet)
Tư tưởng về dân chủ đại diện có một lịch sử rất sâu xa và bên cạnh đó, sự thực hành của dân chủ đại diện đã và đang bồi đắp thêm những kinh nghiệm cho nhân loại về việc thúc đẩy vai trò của nó. Thời kỳ cổ đại với những tư tưởng sơ khai nhưng lại đóng vai trò là nền móng cho sự ra đời của tư tưởng dân chủ đại diện.
1. Thời kỳ cổ đại ở phương Tây
Khi nghiên cứu về lịch sử thế giới cổ đại, thông thường người ta phân chia thế giới thành hai khu vực chính: phương Đông và phương Tây với những điểm khác biệt nhau cơ bản về văn hóa, sắc tộc, kinh tế cũng như tư tưởng. Phương Tây mà trung tâm là nền văn minh Hy Lạp - La Mã được coi là cái nôi khai sinh tư tưởng dân chủ có vị trí quan trọng trong lịch sử chính trị của nhân loại. Cụ thể, khi nói đến tư tưởng dân chủ ở nơi đây, chúng ta cần chú ý một số điểm:
- Các dòng tư tưởng đáng lưu ý
Khi nói đến dân chủ, không thể không quan tâm tới ý thức của người dân về quyền làm chủ của mình. Từ rất sớm, Hêraclít (530-470 TCN) đã nhận thức được về điều này. Ông cho rằng, hạnh phúc của con người không phải ở sự thỏa mãn nhu cầu thể xác mà là ở sự tư duy, ở chỗ biết nói sự thật, biết lắng nghe tiếng nói của tự nhiên và biết hành động theo tự nhiên[1]. Tư tưởng này tiến bộ ở chỗ, nó thúc đẩy sự tự chủ của con người thông qua hành động dựa trên lý tính, khuyên răn con người biết vươn tới làm chủ chính mình thay vì hưởng thụ những hạnh phúc, tự do được ban phát. Đối với Đêmôcrít (460-370 TCN), bên cạnh tư tưởng triết học duy vật tiến bộ so với thời đại thì ông cũng rất ủng hộ nền dân chủ. Theo ông “nghèo trong một nước dân chủ còn hơn là giàu có trong một nước độc tài, vì tự do tốt hơn nô lệ”[2]. Đối với ông, hạnh phúc nằm ở việc được tận hưởng một bầu không khí chính trị dân chủ chứ không nằm ở sự giàu có hay nghèo khổ. Bên cạnh đó, Arixtốt(384-322 TCN) đã có những nghiên cứu khá khách quan về vấn đề nhà nước, chính quyền trong đó có dân chủ. Trong tác phẩm của mình, ông đã dùng khái niệm “dân chủ” để chỉ loại chính quyền thuộc về nhiều người, và so sánh nó với chế độ quân chủ (quyền lực thuộc về một người) và quả đầu (quyền lực thuộc về một thiểu số)[3]. Tính khách quan trong nghiên cứu của ông thể hiện ở chỗ, ông đã chỉ ra những ưu, nhược điểm của cả ba hình thức chính quyền trên. Tư tưởng của Arixtốt còn tiếp tục gây ảnh hưởng lên các học giả La Mã sau khi đế quốc này chiếm được Hy Lạp, với những nhân vật điển hình như Polybe và Ciceron, vốn không tán dương một chính thể thuần túy nào mà cần dung hòa cả các yếu tố của quân chủ, quý tộc và dân chủ[4].
- Nền dân chủ tại Aten
Trong lịch sử phương Tây, thành bang Aten được coi là “đỉnh cao của nền dân chủ cổ đại”[5]. Điều này cho chúng ta thấy, dân chủ không chỉ đơn thuần là một luồng tư tưởng mà thực sự đã trở thành một hình mẫu. Sự tồn tại của nền dân chủ Aten là kết quả của sự phát triển, tiến hóa của xã hội với những động lực và đấu tranh nhất định. Đỉnh cao này thể hiện ở những điểm như[6]: (1) Công dân Aten được quyền tham gia vào Hội nghị công dân để quyết định các vấn đề quan trọng nhất và bầu ra những cơ quan khác; (2) Nền dân chủ được bảo vệ bằng luật cho phép trục xuất những người độc tài khi có số đông dân cử bỏ phiếu (Ostracism); (3) Dân cư được quản lý dựa trên các đơn vị hành chính được phân chia rõ ràng nhằm phá bỏ sự tồn tại của chế độ quý tộc. Quá trình hình thành nền dân chủ ở Aten thường được mô tả qua ba cuộc cải cách lớn của Xôlông, Clitxten và Pêriclét. Nhìn chung, mục đích và động lực cho sự tồn tại của nền dân chủ ở Aten thể hiển ở chỗ: Ở Aten, giai cấp chủ nô mới giàu có nhờ buôn bán thương nghiệp (Aten là một hải cảng lớn) luôn muốn chống lại giai cấp chủ nô cũ vốn chiếm nhiều đất đai canh tác nên sớm liên kết với giới bình dân để mở rộng quyền làm chủ chính quyền vốn do giới quý tộc nắm giữ[7]. Như vậy, dân chủ ở phương Tây cổ đại không đơn thuần là một ý niệm, một học thuyết mà đã trở thành một hiện thực để nghiên cứu và học hỏi. Nền dân chủ Aten tuy có nhiều khiếm khuyết nhưng nó đã khơi lên một cảm hứng cho việc xây dựng chính quyền mà ở đó người dân có nhiều quyền lực hơn trong việc quyết sách các vấn đề quan trọng. Cảm hứng đó một phần đến từ việc nền dân chủ Aten chính là bệ đỡ cho sự thăng hoa về văn hóa, triết học, nghệ thuật cũng như quân sự của thành bang này khi Aten đã dẫn đầu Hy Lạp hai lần đánh thắng đế quốc Ba Tư.
- Mô hình dân chủ gián tiếp tại La Mã
Lịch sử La Mã trải qua ba giai đoạn chính. Thời kỳ đầu gắn với sự hình thành nhà nước và chế độ vương quyền. Giai đoạn thứ hai đánh dấu thời kỳ thịnh trị và bành trướng của đất nước này, từ một thành bang nhỏ bé dần vươn ra khắp khu vực Địa Trung Hải. Thời kỳ này cũng gắn với nền cộng hòa nổi tiếng tại đây. Cuối cùng là giai đoạn La Mã quay về với mô hình quân chủ với nhiều biến động trước khi suy vong vào năm 476 SCN. Mặc dù Nhà nước cộng hòa ở La Mã thường được xếp vào loại hình thức cộng hòa quý tộc[8], nhưng những mô thức của dân chủ “đại diện” như bầu cử, giám sát việc thực hành dân chủ đã tồn tại ở đây. Điển hình nhất là trong bộ máy nhà nước La Mã thời kỳ này có Viện Nguyên lão đóng vai trò cơ quan quyền lực cao nhất được bầu ra bởi những người quý tộc và Viện Dân biểu được bầu ra bởi người dân; những quyết sách của Nhà nước được thông qua bởi một bộ máy hình thành do bầu cử và có thể bị xem xét nếu như chúng xâm phạm lợi ích của người dân.
Có thể thấy rằng, cả Aten và La Mã đều để lại những bài học về dân chủ. Tuy nhiên, nếu như ở Aten, hình mẫu dân chủ trực tiếp có phần bó hẹp trong khuôn khổ một thành bang với dân số và diện tích nhỏ, thì những yếu tố mang tính dân chủ đại diện của nền cộng hòa La Mã lại được học tập và mô phỏng nhiều hơn[9]. Ngay trong những cuộc tranh luận làm nên Hiến pháp Hoa Kỳ, một thiết chế cổ xưa của La Mã là Viện Dân biểu đã được đưa ra xem xét và cân nhắc[10]. Như vậy, có thể thấy xã hội phương Tây cổ đại đã thai nghén không chỉ tư tưởng dân chủ mà còn cả những nền dân chủ trong thực tế.
2. Thời kỳ Khai sáng và các cuộc cách mạng hình thành nền dân chủ đại diện
Châu Âu bước vào thế kỷ XVII, XVIII với những thay đổi to lớn về kinh tế, xã hội và kéo theo đó là các cuộc cách mạng cả về tư tưởng. Sự ra đời và lớn mạnh của giai cấp tư sản cùng những mâu thuẫn sâu sắc với chế độ phong kiến khiến cho họ phải liên kết với nông dân và giới bình dân cho cuộc tranh đấu của mình. Đó là căn nguyên sâu xa cho sự ra đời của những dòng tư tưởng cổ vũ dân chủ nói chung và dân chủ đại diện nói riêng.
Là người đóng góp cho cả thuyết khế ước xã hội và thuyết phân quyền, John Locke (1632-1704) đã đặt ra những nền móng hết sức cơ bản cho nền dân chủ đại diện. Điều này thể hiện ở hai điểm. Trước hết, John Locke khẳng định quy luật cơ bản của nền dân chủ, đó là đa số thắng thiểu số. Trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền – Chính quyền dân sự”, ông viết: “Họ vì thế cũng đã tạo cho cộng đồng đó một cơ quan có quyền lực để hành động, với tư cách là một cơ thể chung, chỉ theo ý chí và quyết định của đa số”[11]. Có thể thấy, John Locke đã nhắc đến cả nguyên tắc đa số và việc thiết lập một cơ quan phục vụ ý chí của đa số. Và với chính bản chất phục vụ đa số này, chính cơ quan có quyền lực tối cao (cơ quan lập pháp), theo Locke, cũng phải chịu những giới hạn nhất định. Theo ông, “quyền lực đó, ở ranh giới cuối cùng của nó, chịu sự giới hạn vào lợi ích công của xã hội”[12]. Điều này cũng phản ánh bản chất “đại diện” của cơ quan lập pháp, tức là nó mặc dù có quyền lực rất lớn nhưng không thể làm gì khác ngoài những thứ mà nó đại diện. So sánh với các nhà nước chuyên chế, ta có thể thấy Locke đã chỉ ra vai trò cực kỳ quan trọng của nền dân chủ đại diện đó là khả năng giới hạn quyền lực nhà nước. Thứ hai, Locke cũng đề cập đến một vấn đề tối quan trọng mà dân chủ đại diện đem tới, đó là khả năng người dân có quyền dùng lá phiếu để quyết định việc thiết lập một chính quyền phù hợp với mình hơn. Quyền lực này thuộc về nhân dân và nhân dân là người xứng đáng nhất. Theo ông, “Nhân dân sẽ là người phán xét, vì còn ai là người phán xét rằng người được ủy thác hay thay mặt cho mình có hành động xứng đáng và có theo sự ủy thác được đặt vào hay không, ngoài người đã ủy nhiệm cho ông”[13]. Có thể thấy rằng, tư tưởng của Locke nói chung cũng như lý thuyết của ông về dân chủ đại diện nói riêng nổi lên tinh thần cách mạng trong việc giới hạn quyền lực nhà nước và trao quyền làm chủ cho nhân dân. Tư tưởng này đã soi đường, làm sáng tỏ tinh thần của cách mạng tư sản Anh (1688) và gây ảnh hưởng lớn tới cách mạng Mỹ (1774)[14].
Trào lưu Khai sáng ở Pháp lại chứng kiến những quan niệm đối lập nhau về dân chủ đại diện. Montesquieu (1689-1755) được coi là người tiếp nối và phát triển học thuyết phân chia quyền lực lên tầm cao nhất. Bản thân ông cũng có những kiến giải nhất định về vấn đề dân chủ. Trong tác phẩm nổi tiếng “Bàn về tinh thần pháp luật”, ông đã khẳng định rằng: “luật về cách bầu cử cũng là một luật cơ bản trong nền dân chủ… Vì cách bầu cử ở mỗi nước cộng hòa một khác, nên tôi cho rằng cũng nên bàn thêm: tất nhiên khi dân đi bỏ phiếu thì cuộc bầu cử phải công khai. Đây phải là một điều luật cơ bản của nền dân chủ”[15]. Như vậy, Montesquieu đã khẳng định và cổ vũ cho việc công khai hóa bầu cử và coi đây là điều cơ bản cho sự tồn tại của nền dân chủ. Điều này có thể bắt gặp trong nguyên tắc bầu cử của hầu hết các quốc gia đương đại. Bên cạnh đó, Montesquieu còn đi sâu vào vấn đề mang tính tranh luận giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, mặc dù cả hai đều là cách thức người dân làm chủ quyền lực nhà nước.
Rousseau (1712-1778), là người đề xướng thuyết chủ quyền nhân dân với tác phẩm “Khế ước xã hội”,cũng chỉ ra một vài điểm bất hợp lý của phương thức đại diện. Đầu tiên, ông nhấn mạnh việc ý chí của tập thể là rất khó để thay mặt, cụ thể “quyền tối thượng, vì lý do không thể di nhượng được, nên không thể để ai đại diện; nó cốt yếu nằm trong ý chí tập thể, và sẽ không để cho người khác đại diện được”[16]. Tiếp theo, ông cũng chỉ ra rằng, việc bầu cử ra những quan chức có vai trò đại diện có thể rơi vào tình trạng những người này xa rời vai trò của mình. Montesquieu thì lập luận rằng, dân chủ đại diện sẽ đẩy từng người dân đến việc phải thực hiện những việc mà họ không đủ sức làm. Chẳng hạn, nếu bất kỳ công việc nào cũng cần tất cả người dân quyết sách thì sẽ có những việc mà đa số người dân không đủ trình độ để hiểu. Ông cho rằng, “dân chúng chỉ nên tham gia việc nước bằng cách chọn đại biểu của mình là những người đủ năng lực làm việc”[17]. Ông phê phán nước Đức, nơi các vị đại biểu phải hỏi ý kiến cử tri với từng việc nhỏ bởi ông cho rằng lối làm việc này sẽ dẫn đến việc kéo dài thời gian xử lý các công việc và làm ngưng trệ sức mạnh quốc gia trong những trường hợp cấp bách. Bên cạnh đó, ông cũng rất sâu sắc khi chỉ ra một điểm yếu của nền dân chủ đại diện. Cụ thể, “khi cơ quan lập pháp khóa này thay thế khóa kia liên tục, nhân dân sẽ có quan niệm xấu đối với nghị viện đương thời, chi hy vọng ở nghị viện khóa sau nhưng rồi khóa nào cũng như nhau thì nhân dân sẽ thấy rõ cơ quan lập pháp đã bại hoại, chẳng hy vọng gì ở luật pháp nữa, họ sẽ tức giận hoặc hững hờ với việc nước”[18].
Một trong những học giả nghiên cứu toàn diện về dân chủ đại diện phải kể tới trong thời kỳ này là John Stuart Mill (1806-1873). Ông đã nhận diện được vấn đề cốt lõi nhất của dân chủ đại diện, đó là bình đẳng. Theo ông, “Ý tưởng thuần khiết của dân chủ theo định nghĩa của nó là chính quyền của toàn thể nhân dân do toàn thể nhân dân đều được đại diện bình đẳng”[19]. Đối với ông, nền dân chủ hoàn hảo không chỉ dựa trên sức mạnh số đông mà còn cần phải có đại diện theo giai cấp. Đặc biệt, ông chỉ ra một vấn đề rất được quan tâm, đó là bảo vệ quyền lợi của thiểu số trong khi vẫn tôn trọng quyết định đa số. Ông khẳng định “các nhóm thiểu số phải được đại diện đầy đủ, ấy chính là một phần mang tính bản chất của nền dân chủ. Không có điều này thì không thể nào có dân chủ thực sự mà chỉ là màn trình diễn giả dối của dân chủ mà thôi”[20]. Ông cũng đòi hỏi quyền bầu cử cho nữ giới, thể hiện qua tác phẩm “Sự áp bức phụ nữ” được viết năm 1869 và đệ đơn yêu cầu quyền bầu cử cho phụ nữ với 1.500 chữ ký lên Hạ viện Anh. Đây có thể coi là một nỗ lực đầy tiến bộ của ông nếu xét trong bối cảnh thời bấy giờ. Nhìn chung, đóng góp của Mill thể hiện ở chỗ, ông đã chú giải tỉ mỉ về chính thể - cơ quan quyền lực nhà nước chịu trách nhiệm tối cao trong việc tổ chức, quản lý con người và xã hội, về quyền lực nhà nước, về dân chủ, ông đi sâu phân tích hình thức chính thể thức lý tưởng bằng cách phân biệt dân chủ chính hiệu và dân chủ giả hiệu, dựa trên thuyết công lợi đưa ra tiêu chuẩn đánh giá chính thể, vạch ra phương hướng xây dựng một chính thể đại diện cho tất cả chứ không phải cho số đông cơ học[21].
Ở Hoa Kỳ, dân chủ đại diện được coi là một truyền thống từ thời lập quốc[22]. Vì vậy, điều dễ hiểu là các nhà tư tưởng và cách mạng ở đây đã ra sức bảo vệ cho nền dân chủ đại diện như thế nào. James Madison (1751-1836), người được coi là cha đẻ của Hiến pháp Hoa Kỳ đã khẳng định: “Hiệu quả của một nền dân chủ đại diện là tinh chỉnh và mở rộng quan điểm của công chúng, bằng cách đưa những quan điểm đó thông qua trung gian là một công dân được lựa chọn, người mà có trí tuệ để nhận ra rõ nhất lợi ích thực sử của quốc gia là gì”[23]. Những tranh luận về việc cho phép người dân bầu cơ quan lập pháp liên bang ở Hoa Kỳ chủ yếu xoay quanh góc độ tính hiệu quả của điều này[24]. Với cơ cấu hai viện, các nhà lập hiến Hoa Kỳ chấp nhận một viện sẽ do người dân trực tiếp bầu ra, còn viện kia sẽ do cơ quan lập pháp tiểu bang bầu[25]. Nói chung, việc lựa chọn mô hình dân chủ đại diện ở Hoa Kỳ là một quá trình tranh đấu. Bản chất của một nhà nước liên bang khiến cho dân chủ đại diện lại càng có cơ hội phát triển bởi tính chất khác biệt và đa dạng trong xã hội. Một mô hình dân chủ trực tiếp có thể bị lợi dụng để khiến người dân đồng thuận theo những phương án đã được định sẵn. Trong khi đó, dân chủ đại diện sẽ giúp các cuộc thảo luận xung quanh những khác biệt về quan điểm chính sách được sâu sắc hơn do những người đại diện thường có tiếng nói mạnh mẽ và hiểu biết chuyên sâu. Nền dân chủ đại diện ở Hoa Kỳ đã trải qua gạn lọc lịch sử với hàng trăm năm tồn tại. Đó cũng là lý do tại sao khi nghiên cứu về Nhà nước Hoa Kỳ, học giả Alexis de Tocqueville đã tán thưởng sự pha trộn khéo lẽo giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện ở đây[26]. Ông mô tả: “Khi thì nghị hội làm luật giống như ở Athènes, khi thì các dân biểu được bầu tiến hành việc này dưới sự giám sát gần như trực tiếp của nhân dân”[27]. Như vậy, dân chủ đại diện ở Hoa Kỳ là một yếu tố đóng góp vào sức mạnh của nền dân chủ ở nơi đây. Nó cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều quốc gia khi xây dựng nền dân chủ của mình.
Kết luận
Những tư tưởng về dân chủ đại diện đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử. Nó thai nghén từ các nền văn minh phương Tây, và tiếp tục được các quốc gia châu Âu nuôi dưỡng trong suốt thời kỳ Khai sáng. Lịch sử tư tưởng về dân chủ đại diện cho thấy, nó không chỉ ra đời một cách tự nhiên, trong những bối cảnh kinh tế, xã hội nhất định, mà còn trở thành một hệ giá trị mà ngày nay, nhân loại vẫn tìm về tham khảo nhằm hoàn thiện hệ thống chính quyền để bảo vệ tốt hơn quyền con người. Bên cạnh đó, dân chủ đại diện còn là kết quả của những cuộc đấu tranh khốc liệt thời kỳ cách mạng tư sản. Do đó, nó là sự kết tinh không chỉ của trí tuệ mà còn từ thực tiễn sống động của nhân loại./.


[1] Trần Văn Phòng, Triết học Hy Lạp cổ đại, Nxb. Lý luận chính trị, 2006, tr.26.
[2] Theo N.M. Voskresenskaia, N. B. Davletshina, Chế độ dân chủ - nhà nước và xã hội, Phạm Nguyên Trường dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2009, tr.5.
[3] Aristole, Chính trị luận, Nông Duy Trường dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2015, tr.167.
[4] Nguyễn Ngọc Huy, Lịch sử các học thuyết chánh trị, Nxb. Cấp tiến, Sài Gòn, 1970, tr.133-138.
[5] Lương Ninh (chủ biên), Lịch sử thế giới cổ đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2012, tr. 184.
[6] Đậu Công Hiệp, Cải cách dân chủ của Cleisthènes ở Athènes cổ đại và giá trị tham khảo đối với Việt Nam hiện nay, Tạp chí Luật học, số 4/2017.
[7] Nguyễn Minh Tuấn, Giáo trình lịch sử nhà nước và phát luật thế giới, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, 2014, tr.97-104.
[8] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2014, tr.101.
[9] Loke Hagberg, Mikael Nordfors, Demosocracy, the solution to the political dilemma?: How slavery started, still continues and can be ended, Books on Demand, Stockholm, Sweden, 2019, p.72.
[10] Nguyễn Cảnh Bình, Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào, Nxb. Thế giới, 2012, tr.102.
[11] John Locke, Khảo luận thứ hai về chính quyền – chính quyền dân sự, Lê Tuấn Huy dịch và giới thiệu, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2005, tr.144.
[12] John Locke, Sđd, tr.194.
[13] John Locke, Sđd, tr.323.
[14] A. R. M. Murray, An introduction to political philosophy, Routledge Revivals, 2010.
[15] Montesquieu, Bàn về tinh thần pháp luật, Hoàng Thanh Đạm dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2018, tr.66-67.
[16] Rousseau, Khế ước xã hội, Dương Văn Hóa dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2018, tr.165.
[17] Montesquieu, Sđd, tr.143.
[18] Montesquieu, Sđd, tr.146.
[19] John Stuart Mill, Chính thể đại diện, Nguyễn Văn Trọng dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2016, tr. 208.
[20] John Stuart Mill, Sđd, tr. 215.
[21] Đinh Thị Quỳnh Anh, Quan niệm về bầu cử của John Stuart Mill trong tác phẩm “Chính thể đại diện” và ý nghĩa của nó đối với Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, 2016, tr.27-28.
[22] Joseph E. Stiglitz, Can American Democracy Come Back?, Project Syndicate, 06/11/2018.
[23] The Federalist Papers: No.10 https://avalon.law.yale.edu/18th_century/fed10.asp.
[24] Nguyễn Cảnh Bình, Sđd, tr. 79-83.
[25] Điều này đã thay đổi từ năm 1913 khi Tu chính án số 17 yêu cầu Thượng viện phải do bầu cử trực tiếp.
[26] Bùi Văn Nam Sơn, Alexis de Tocqueville và sự trầm tư về nền dân trị, http://www.nxbtrithuc.com.vn/Tin-tuc/2654755/321/Alexis-de-Tocqueville-va-su-tram-tu-ve-nen-dan-tri-Phan-1.html.
[27] Alexis de Tocqueville, Nền dân trị Mỹ, Phạm Toàn dịch, Nxb. Trí thức, Hà Nội, 2015.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 11 (411), tháng 6/2020.)