So sánh vai trò của nhân viên tiếp xúc với vai trò của công nhân trong các nhà máy sản xuất hàng hoá

Quy định về trung gian thương mại

  • 1. Khái niệm hoạt động trung gian thương mại
  • 2. Đặc điểm của hoạt động trung gian thương mại
  • 3. Vai trò của hoạt động trung gian thương mại trong xu thế toàn cầu hoá thương mại
  • 4. Sự hình thành pháp luật về hoạt động trung gian thương mại
  • 5. Nguồn luật chủ yếu điều chỉnh các quan hệ trung gian thương mại

1. Khái niệm hoạt động trung gian thương mại

Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các thương nhân thông qụa mua bán là điều kiện quan họng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khi mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường, tùy thuộc vào đối tượng giao dịch, thời gian giao dịch, thị trường cũng như tính chất, thời cơ của từng thương vụ, thương nhân có thể lựa chọn phương thức giao dịch cho phù hợp.

Trong lịch sử phát triển thương mại có rất nhiều phương thức giao dịch khác nhau. Phương thức giao dịch mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ phổ biến nhất là phương thức giao dịch trực tiếp.

Giao dịch trực tiếp là phương thức giao dịch trong đó người bán và người mua trực tiếp bàn bạc và thỏa thuận với nhau về các nội dung giao dịch như: Đối tượng, giá cả, phương thức thanh toán và các điều kiện giao dịch khác. Phương thức giao dịch này có những ưu điểm như:

- Các bên trực tiếp thương thảo hợp đồng nên ít xảy ra hiểu lầm, sai sót đáng tiếc, do đó nâng cao hiệu quả của đàm phán giao dịch;

- Thương nhân có điều kiện trực tiếp tiếp cận thị trường, do đó có thể nhanh chóng thích ứng với nhu cầu thị trường một cách tốt nhất;

- Thương nhân có thể trực tiếp phát triển mối quan hệ với bạn hàng một cách nhanh chóng.

Bên cạnh những ưu điểm nói trên, phương thức giao dịch trực tiếp sẽ không thuận lợi khi thương nhân mua bán hàng hoá ở thị trường mới hay đối với sản phẩm mới, do còn bỡ ngỡ nên dễ bị ép giá, dễ phạm sai lầm và rủi ro sẽ lớn. Mặt khác, phương thức giao dịch trực tiếp chỉ có thể đạt hiệu quả khi thương nhân có đội ngũ thực hiện giao dịch giàu kinh nghiệm và phải tốn khá nhiều chi phí giao dịch.

Do đó, đôi với các thương nhân vừa và nhỏ hoặc lần đầu tiên tham gia thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế hoặc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ mới hoặc tại thị trường mới thì phương thức giao dịch trực tiếp chưa hẳn đã tốt, dễ gây rủi ro. Trong những trường hợp này, thương nhân có thể lựa chọn phương thức giao dịch qua trung gian.

Giao dịch qua trung gian trong hoạt động thương mại là phương thức giao dịch trong đó mọi việc thiết lập quan hệ giữa người mua và người bán hàng hoá [người cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ] và việc xác định các điều kiện giao dịch phải thông qua một người trung gian. Trong phương thức giao dịch qua trung gian sẽ xuất hiện một chủ thể thứ ba, người này đứng ở vị trí độc lập với hai bên còn lại trong quan hệ và là người thực hiện dịch vụ theo sự ủy quyền và vì lợi ích của người khác để hưởng thù lao. Phương thức giao dịch qua trung gian được thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực phân phối thương mại và đối với nhà sản xuất thì thông qua bên trung gian giúp họ tiếp cận với khách hàng, với người tiêu dùng một cách nhanh chóng hơn.

Dưới giác độ pháp lý, hiện tượng thương nhân nhận ủy quyền của người khác để tiến hành các hoạt động vì lợi ích của bên ủy quyền để mua, bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ thương mại được pháp luật một số nước khái quát bằng khái niệm “trung gian tiêu thụ” hoặc “đại diện thương mại”. Các hiện tượng này được khái quát theo luật Anh - Mĩ dưới khái niệm Agency, luật Pháp: Agent commercial, luật Đức: Absazmittler.

ở Việt Nam, hoạt động trung gian thương mại được xác định là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định và bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại [Khoản 11 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005].

2. Đặc điểm của hoạt động trung gian thương mại

Thứ nhất, hoạt động trung gian thương mại là loại hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại được thực hiện theo phương thức giao dịch qua trung gian. Bên trung gian được bên thuê dịch vụ trao quyền tham gia vào việc xác lập, thực hiện giao dịch thương mại với bên thứ ba vì lợi ích của bên thuê dịch vụ để hưởng thù lao.

Trong hoạt động trung gian thương mại, bên trung gian [bên đại diện, bên môi giới, bên nhận ủy thác, bên đại lý] có vai trò làm cầu nối giữa bên thuê dịch vụ và bên thứ ba. Bên trung gian thực hiện việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại với bên thứ ba không vì lợi ích của bản thân mình mà vì lợi ích của bên thuê dịch vụ [bên ủy quyền]. Tuy nhiên, bên trung gian [bên được ủy quyền] sẽ được hưởng thù lao khi hoàn thành nhiệm vụ bên ủy quyền giao phó.

Khác với những hoạt động thương mại thực hiện theo phương thức giao dịch trực tiếp, chỉ có sự tham gia của hai bên, hoạt động trung gian thương mại có sự tham gia của ba bên: Bên ủy quyền [bên thuê dịch vụ, gồm một hoặc một số tổ chức, cá nhân kinh doanh], bên thực hiện dịch vụ [bên được ủy quyền] và bên thứ ba [gồm một hoặc một sô tổ chức, cá nhân kinh doanh]. Trong các hoạt động trung gian thương mại này, bên được thuê làm dịch vụ là người trung gian nhận sự ủy quyền của bên thuê dịch vụ và thay mặt bên thuê dịch vụ thực hiện các hoạt động thương mại với bên [hoặc các bên] thứ ba. Bên thuê dịch vụ sẽ ủy quyền cho bên thực hiện dịch vụ thay mặt mình mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại với bên thứ ba [bên này có thể do bên ủy quyền chỉ định trước hoặc do bên được ủy quyền tìm kiếm theo yêu cầu của bên ủy quyền], theo đó bên được ủy quyền sẽ có nhiệm vụ đàm phán giao dịch với bên thứ ba để thực hiện việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho bên ủy quyền theo yêu cầu của bên ủy quyền. Khi giao dịch với bên thứ ba, thương nhân trung gian có thể sử dụng danh nghĩa của mình hoặc danh nghĩa của bên thuê dịch vụ. Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, trong trường hợp thực hiện hoạt động đại lý thương mại, ủy thác mua bán hàng hoá hoặc môi giới thương mại, thương nhân trung gian sử dụng danh nghĩa của chính mình, còn khi thực hiện hoạt động đại diện cho thương nhân thì họ lại nhân danh bên ủy quyền để giao dịch với bên thứ ba. Điều này có ý nghĩa quan ữọng đối với việc xác định các nghĩa vụ phát sinh trong giao dịch đối với bên thứ ba sẽ thuộc về ai.

Thứ hai, bên trung gian phải là thương nhân và có tư cách pháp lý độc lập với bên thuê dịch vụ và bên thứ ba.

Để thực hiện các hoạt động trung gian thương mại, bên trung gian [bên đại diện, bên môi giới, bên nhận ủy thác, bên đại lý] phải là thương nhân theo quy định tại Điều 6 Luật Thương mại năm 2005. Đối với một số hoạt động trung gian thương mại như: ủy thác mua bán hàng hoá, ngoài điều kiện là thương nhân bên trung gian còn phải có điều kiện khác như phải là thương nhân kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hoá được ủy thác [Điều 156 Luật Thương mại năm 2005].

Trong quan hệ với bên thuê dịch vụ [bên ủy quyền] và bên thứ ba, bên trung gian thực hiện các hoạt động thương mại với tư cách pháp lý hoàn toàn độc lập và tự do. Bên trung gian là bên được ủy quyền cung ứng một dịch vụ thương mại cho bên ủy quyền chứ không phải là người làm công ăn lương. Điều này thể hiện qua việc bên trung gian cô trụ sở riêng, có tư cách pháp lý độc lập, tự định đoạt thời gian làm việc, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình. Điều này giúp ta phân biệt bên trung gian trong hoạt động thương mại với các chi nhánh, vãn phòng đại diện do thương nhân lập ra để thực hiện hoạt động kinh doanh của thương nhân và những người lao động làm thuê cho thương nhân cũng như những người có chức năng đại diện như: giám đốc doanh nghiệp, thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Các chủ thể nói trên không có tư cách pháp lý độc lập và chỉ được thực hiện các hoạt động trong phạm vi, quyền hạn theo quy định trong nội bộ của thương nhân đó.

Thứ ba, hoạt động trung gian thương mại song song tồn tại hai nhóm quan hệ: [i] quan hệ giữa bên thuê dịch vụ và bên trung gian thực hiện dịch vụ; [ii] quan hệ giữa bên thuê dịch vụ, bên trung gian thực hiện dịch vụ với bên thứ ba. Các quan hệ này đều phát sinh trên cơ sở hợp đồng.

Xuất phát từ đặc trưng quan trọng nhất của hoạt động trung gian thương mại là loại hoạt động trong đó bên thuê dịch vụ sẽ trao cho bên trung gian quyền tham gia thiết lập, thực hiện các giao dịch thương mại. Do đó, để thực hiện hoạt động trung gian thương mại, trước tiên bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ của người trung gian và bên cung ứng dịch vụ trung gian phải thiết lập được quan hệ với nhau. Quan hệ giữa bên thuê dịch vụ và bên trung gian thực hiện dịch vụ đuợc thiết lập trên cơ sở tự do, thống nhất ý chí của các bên và hình thức của nó là hợp đồng.

Tuy nhiên, hoạt động trung gian thương mại sẽ không thể thực hiện được nếu chỉ tồn tại quan hệ giữa bên thuê dịch vụ và bên trung gian. Đe thực hiện hoạt động này, bên trung gian phải tham gia giao dịch với bên thứ ba để hoàn thành yêu cầu mà bên thuê dịch vụ giao cho. Khi tham gia giao dịch với bên thứ ba, bên trung gian có thể làm việc với nhiều tư cách. Họ có thể tạo ra một giao dịch thương mại nhân danh chính mình hoặc nhân danh bên thuê dịch vụ nhưng cũng có thể họ chỉ thực hiện nhiệm vụ giới thiệu bên thứ ba với bên thuê dịch vụ mà không có quan hệ gì với bên thứ ba.

Trong trường hợp bên trung gian thực hiện các hoạt động thương mại với bên thứ ba nhân danh bên thuê dịch vụ [trong phạm vi được ủy quyền] sẽ làm phát sinh quan hệ hợp đồng giữa bên thuê dịch vụ và bên thứ ba. Trong trường hợp bên trung gian nhân danh chính mình thực hiện các hoạt động thương mại với bên thứ ba thì quan hệ hợp đồng sẽ phát sinh giữa bên trung gian với bên thứ ba. Tùy thuộc vào đối tượng của hợp đồng giao kết với bên thứ ba mà các hợp đồng đó có thể là hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc hợp đồng dịch vụ.

Các hoạt động dịch vụ trung gian thương mại đều phát sinh trên cơ sở hợp đồng như: hợp đồng đại diện cho thương nhân; hợp đồng môi giới thương mại; hợp đồng ủy thác mua bán hàng hoá; hợp đồng đại lý thương mại. Các hợp đồng này đều cố tính chất là hợp đồng song vụ, ưng thuận và có tính đền bù. Hình thức của các hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hoá, hợp đồng đại lý thương mại phải được thể hiện bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương với văn bản bao gồm: điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu [là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử] và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

3. Vai trò của hoạt động trung gian thương mại trong xu thế toàn cầu hoá thương mại

Việc sử dụng các dịch vụ trung gian thương mại có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh doanh của thương nhân cũng như nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá, bởi những tác dụng sau:

Thứ nhất, hoạt động trung gian thương mại mang lại hiệu quả lớn cho các thương nhân trong quá trình tổ chức mạng lưới phân phối, tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ ở trong nước cũng như ở ngoài nước.

Việc liên kết với các trung gian thương mại thông qua các hợp đồng đem lại cho nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ một số lợi ích quan trọng sau:

+ Giúp cho nhà sản xuất chuyên tâm vào việc sản xuất. Bởi, để đảm bảo hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, các khâu trong quá trình sản xuất - phân phối cần phải được chuyên môn hoá lao động. Công việc của các nhà sản xuất là tạo ra sản phẩm và nếu họ càng dành nhiều thời gian và tâm huyết cho quá trình sản xuất thì họ càng giỏi và chuyên nghiệp. Nêu nhà sản xuất phải dành thời gian và các nguồn lực cho cả việc sản xuất và phân phối, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá thì hai việc này đều sẽ bị ảnh hưởng và không đạt hiệu quả cao. Do đó, nếu nhà sản xuất dành nhiều thời gian và năng lực vào sản xuất, các trung gian thương mại tập trung vào công việc phân phối, lưu thông sản phẩm, hàng hoá, thì hoạt động kinh doanh của cả hai bên đều đạt được hiệu quả.

+ Các trung gian thương mại là chuyên gia trong lĩnh vực phân phối, tiêu thụ nên hơn ai hết họ biết tất cả những gì cần thiết cho công việc của mình. Họ có thể tư vấn cho nhà sản xuất, nhà đầu tư những điều tốt nhất trong lĩnh vực phân phối hàng hoá.

Ví dụ, người môi giới cổ phiếu có thể khuyên nhà đầu tư nên mua hoặc không nên mua loại cổ phiếu nào đồng thời họ biết rõ địa điểm, cách thức và thời gian mua hoặc bán cổ phiếu có lợi nhất cho nhà đầu tư. Mặt khác, người môi giới có thể tư vấn cho nhà đầu tư những tài liệu cần được sử dụng, cách thức chuyển giao cổ phiếu từ người này sang người khác. Người môi giới cổ phiếu có thể làm những công việc đó giúp nhà đầu tư một cách nhanh chóng và không có sai sót. Ngoài ra, các thương nhân trung gian này sẽ cung cấp cho các nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ các thông tin liên quan đến điều kiện thị trường, sở thích, thị hiếu của người tiêu dùng, xu hướng của thị trường, các yêu cầu lã thuật của sản phẩm, dịch vụ đưa ra thị trường, đặc biệt là các thông tin liên quan đến sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.

+ Các trung gian thương mại là những chủ thể thực hiện dịch vụ trung gian một cách chuyên nghiệp nên họ thường hiểu biết nắm vững tình hình thị trường, pháp luật, tập quán địa phương và các đối tác. Do đó, họ có khả năng đẩy mạnh việc giao lưu buôn bán, hạn chế được rủi ro và nhiều khi mua, bán được hàng hoá, cung ứng dịch vụ với giá cả có lợi hơn cho bên thuê dịch vụ của họ.

+ Thương nhân trung gian thường thực hiện dịch vụ trung gian cho nhiều thương nhân nên có kiến thức về các mối quan hệ khách hàng tiềm năng. Vì thế, thông qua các thương nhân trung gian, hàng hoá, dịch vụ của bên thuê dịch vụ trung gian thường được phân phối nhanh chóng và hiệu quả hơn.

+ Người trung gian là những chuyên gia thường xuyên thực hiện công việc liên quan đến phân phối nên họ biết cách tốt nhất và rẻ nhất để làm điều này. Ngoài ra, do họ thực hiện phân phối hàng hoá, dịch vụ cho nhiều nhà sản xuất nên chi phí sẽ không tốn kém bằng từng nhà sản xuất thực hiện.

+ Việc phân phối sản phẩm qua các trung gian thương mại được thực hiện trên cơ sở các hợp đồng [thường là có xác định thời hạn]. Do đó, nếu tại địa bàn nào đó kinh doanh không thuận lợi, thương nhân có thể rút nhanh khỏi thị trường mà không phải lo giải quyết các tồn tại như thanh lý cơ sở và phương tiện không cần dùng, giải quyết số lao động dư thừa do ngừng hoạt động tại thị trường đó. Vì vậy, phương thức kinh doanh qua trung gian thương mại giúp thương nhân mở rộng hoặc thu hẹp hoạt động kinh doanh tại một địa bàn nào đó một cách linh hoạt, nhanh chóng.

Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hoá, hoạt động thương mại vượt ra ngoài lãnh thổ của một nước, vai trò của các trung gian thương mại không chỉ được quan tâm trong hoạt động thương mại nội địa mà được chú trọng trong thương mại quốc tế. Thương nhân không thể mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao uy tín của mình nếu không vươn tới thị trường nước ngoài. Khi xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ ra nước ngoài, các nhà xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn và luôn phải đối mặt với những rủi ro về việc lựa chọn đối tác, về thị trường, về tín dụng, về sự am hiểu pháp luật của nước nhập khẩu. Các rủi ro này có thể hạn chế được nếu nhà xuất khẩu hợp tác với các trung gian thương mại của nước nhập khẩu.

Thứ hai, các hoạt động trung gian thương mại góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá và từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển.

Hoạt động trung gian thương mại phát triển làm cho khối lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường tăng lên, giao lưu kinh tế giữa các vùng trong một nước cũng như giữa các nước với nhau được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế của đất nước. Hơn nữa thông qua các trung gian thương mại mà người sản xuất có thể thiết lập một hệ thống phân phối hàng hoá đa dạng. Mặt khác, các trung gian thương mại giúp thương nhân nắm bắt những thông tin cần thiết về nhu cầu thị trường trong nước, thị trường ngoài nước một cách kịp thời. Từ đó, đánh giá chính xác nhu cầu thị trường và tiến hành các hoạt động kinh doanh theo nhu cầu của thị trường. Trên cơ sở đó mà mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Trên thực tế, hoạt động thương mại qua trung gian đặc biệt là hoạt động đại lý được đánh giá là một phương thức kinh doanh có lợi cho người tiêu dùng. Khách hàng có thể tiếp cận dễ dàng, thuận tiện và nhanh chóng với các sản phẩm chính hãng qua mạng lưới đại lý có mặt tại nhiều nơi. Người tiêu dùng có thể yên tâm với chất lượng sản phẩm, hàng hoá và giá cả khi mua hàng tại các đại lý.

Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, phương thức kinh doanh qua các trung gian thương mại cũng có những mặt trái của nó. Nhược điểm lớn nhất của phương thức kinh doanh này là bên thuê dịch vụ sẽ không liên hệ trực tiếp với thị trường mà hoạt động thông qua người trung gian. Do đó, việc kinh doanh của bên thuê dịch vụ sẽ bị phụ thuộc vào năng lực và phẩm chất của người trung gian và lợi nhuận cùa họ bị chia sẻ cho bên trung gian. Thực tế đã cho thấy, có nhiều tranh chấp phát sinh trong hoạt động trung gian thương mại. Các tranh chấp này khá phong phú, đa dạng về chủ thể cũng như nội dung. Chúng có thể là tranh chấp giữa bên thuê dịch vụ và bên trung gian phát sinh từ việc bên trung gian không trung thực làm ảnh hưởng tới lợi ích của bên thuê dịch vụ hoặc khi bên thuê dịch vụ không thực hiện nghĩa vụ trả thù lao hay đã đơn phương chấm dứt hợp đồng hoặc là tranh chấp giữa bên thứ ba với bên thuê dịch vụ, bên trung gian do các bên không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình ...

4. Sự hình thành pháp luật về hoạt động trung gian thương mại

Trên thế giới, hoạt động thương mại qua trung gian đã xuất hiện từ lâu, do nhu cầu của việc mở rộng quy mô và cường độ buôn bán hàng hoá của thương nhân. Người ta cho rằng vào khoảng thế kỉ XIII, khi vận chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác bắt đầu được thực hiện bằng đường biển, các thương gia, những nhà đầu tư vốn khi cần phải vận chuyển hàng hoá của mình sang nước khác bằng tàu thủy thì họ đã ở lại đất nước của mình và giao hàng hoá, tiền bạc cho một người để người này theo tàu đi đến nước khác thực hiện việc giao hàng tại cảng đến và mua hàng đem về để kiếm lời. Người này được gọi là người nhận ủy thác, họ sẽ được nhận một khoản tiền là một phần lợi nhuận của bên ủy thác do việc thực hiện công việc của mình. Đó là khởi nguồn của việc sử dụng các dịch vụ trung gian thương mại.

Sau đó, cùng với sự phát triển của các hoạt động thương mại trên thế giới, các loại hình dịch vụ trung gian thương mại cũng lần lượt xuất hiện. Đặc biệt, từ nửa sau của thế kỉ XIX khi các quan hệ quốc tế gia tăng đáng kể thì việc sử dụng dịch vụ trung gian thương mại trong hoạt động kinh doanh của thương nhân càng trở nên có ý nghĩa. Đến nay, ở hầu hết các nước đều tồn tại các hoạt động thương mại qua trung gian là: Đại diện thương mại, đại lý thương mại, ủy thác mua bán hàng hoá, môi giới thương mại.

Pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại qua trung gian ở các nước không giống nhau. Các nước theo truyền thống pháp luật Anh - Mĩ không có quy định riêng điều chỉnh các dịch vụ trung gian trong hoạt động thương mại. Tất cả các giao dịch qua trung gian bất kể nhằm mục đích gì cũng được quy định chung trong “Law of agency” [luật đại diện]. Luật đại diện của Anh - Mĩ dùng thuật ngữ bên đại diện [agent] để chỉ những người thực hiện một hoặc một số hành vi theo sự ủy quyền của bên ủy quyền [Principal] với danh nghĩa của bên ủy quyền hay với danh nghĩa của chính mình vì lợi ích của bên ủy quyền.

Các nước theo truyền thống luật châu Âu lục địa như: Pháp, Đức, Bỉ, Nhật Bản bên cạnh Bộ luật dân sự có ban hành bộ luật thương mại, trong đó quy định rất cụ thể về từng loại hoạt động thương mại qua trung gian. Đó là các hoạt động: đại diện thương mại; môi giới thương mại và ủy thác thương mại.

Ở châu Âu, trong số các dịch vụ trung gian thương mại, dịch vụ được sử dụng phổ biến và được coi là điển hình nhất là dịch vụ đại diện thương mại. Do đó, Hội đồng của cộng đồng châu Âu đã ban hành Chỉ thị 86/653/EEC ngày 18/12/1986 về sự kết hợp của luật các nước thành viên liên quan đến những người đại diện thương mại để áp dụng chung cho toàn khối EEC.

Hệ thống pháp luật Anh - Mĩ và hệ thống pháp luật châu Âu lục địa có cách quy định khác nhau để điều chỉnh các dịch vụ trung gian thương mại. Tuy nhiên, pháp luật về hoạt động dịch vụ trung gian thương mại ở các nước đều tập trung quy định về một số vấn đề như: Quyền và nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ và bên làm dịch vụ đối với nhau và đối với bên thứ ba; hình thức của loại hợp đồng dịch vụ này; trả tiền thù lao cho bên thuê dịch vụ; chấm dứt việc thực hiện dịch vụ; bồi thường thiệt hại trong trường hợp một bên vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm nghĩa vụ luật định.

Ở Việt Nam, trong thời kì kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các hoạt động trung gian thương mại chủ yếu tồn tại trong lĩnh vực kinh tế quốc tế do nhu cầu giao lưu kinh tế giữa các nước, còn ở trong nước thì các hoạt động trung gian thương mại chưa có điều kiện để hình thành. Trong thời kì này, một số văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Ngoại thương dưới hình thức thông tư được ban hành để điều chỉnh các hoạt động ủy thác xuất nhập khẩu và việc đặt đại lý mua bán hàng hoá ở nước ngoài [Thông tư số 03-BNg/XNK ngày 11/4/1984 về ủy thác xuất nhập khẩu; Thông tư số 04-BNg/XNK về việc đặt đại lý mua bán hàng hoá ở nước ngoài].

Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, do nhu cầu của việc trao đổi hàng hoá dịch vụ, các hoạt động trung gian thương mại đã xuất hiện và cần phải có pháp luật điều chỉnh các hoạt động này. Ngày 10/5/1997 Quốc hội nước ta thông qua Luật Thương mại, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1998. Luật Thương mại năm 1997 chỉ điều chỉnh các hành vi thương mại của thương nhân, đó là những hành vi mua bán hàng hoá, cung ứng các dịch vụ thương mại gắn với việc mua bán hàng hoá [trong đó có các dịch vụ đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hoá, đại lý mua bán hàng hoá]. Luật Thương mại năm 1997 chưa đưa ra khái niệm hoạt động trung gian thương mại, tuy nhiên, các dịch vụ đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hoá, đại lý mua bán hàng hoá được quy định từ Điều 83 đến Điều 127 của Luật này chính là các dịch vụ trung gian thương mại. Các dịch vụ trung gian thương mại theo Luật Thương mại năm 1997 chỉ bó hẹp trong các hoạt động dịch vụ làm trung gian để mua bán hàng hoá [ủy thác mua bán hàng hoá, đại lý mua bán hàng hoá], cung ứng dịch vụ liên quan đến mua bán hàng hoá mà thôi. Mặt khác, phạm vi hoạt động của các dịch vụ trung gian thương mại theo Luật Thương mại năm 1997 còn bị giới hạn ở khái niệm hàng hoá [Khoản 3 Điều 5 Luật Thương mại năm 1997]. Do đó, nhiều dịch vụ trung gian nhằm mục đích kiếm lời như môi giới bảo hiểm, môi giới chứng khoán, môi giới hàng hải... không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này.

Sau khi Luật Thương mại năm 1997 được thông qua, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật này, trong đó có một số văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể về các dịch vụ trung gian thương mại như: Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài; Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 02/8/2001 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/1998/NĐ-CP; Thông tư số 18/1998/TT-BTM ngày 28/8/1998 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 57/1998/NĐ-CP.

Sau gần 7 năm thi hành, Luật Thương mại năm 1997 đã bộc lộ nhiều bất cập cần phải được sửa đổi, bổ sung để tạo điều kiện phát triển hoạt động thương mại trong nước cũng như quốc tế. Do đó, ngày 14/6/2005 Quốc hội khoá XI kì họp thứ 7 đã thông qua Luật Thương mại mới, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006 và thay thế cho Luật Thương mại năm 1997. Luật Thương mại năm 2005 đã đưa ra định nghĩa hoạt động trung gian thương mại và có nhiều điểm sửa đổi, bổ sung, quy định mới về các hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hoá, đại lý thương mại so với Luật Thương mại năm 1997.

Trong ngày 14/6/2005, cùng với việc thông qua Luật Thương mại, Quốc hội đã thông qua Bộ luật dân sự năm 2005 [Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 và thay thế Bộ luật dân sự năm 1995].

Ngày 24/11/2015 Quốc hội nước ta đã thông qua Bộ luật dân sự mới thay cho Bộ luật dân sự năm 2005. Bộ luật này quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm. Có thể khẳng định: Bộ luật dân sự là luật “gốc” điều chỉnh các quan hệ dân sự, trong đó có quan hệ thương mại nói chung và các quan hệ phát sinh ưong hoạt động trung gian thương mại nói riêng.

5. Nguồn luật chủ yếu điều chỉnh các quan hệ trung gian thương mại

Hiện nay, ở Việt Nam pháp luật điều chỉnh hoạt động trung gian thương mại bao gồm các văn bản pháp luật chủ yếu sau:

- Bộ luật dân sự năm 2015;

- Luật Thương mại năm 2005;

- Các luật khác có quy định về các hoạt động thương mại đặc thù như: Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 [sửa đổi, bổ sung năm 2010], Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 [sửa đổi, bổ sung năm 2009], Luật Du lịch năm 2017, Luật Quản lý thuế năm 2006 [sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014 và 2016], Luật Chứng khoán năm 2006 [sửa đổi, bổ sung năm 2010], Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 ...

- Các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật Thương mại và các luật khác có liên quan đến hoạt động trung gian thương mại.

Nguyên tắc xác định thứ bậc văn bản pháp luật áp dụng điều chỉnh các hoạt động thương mại nói chung và hoạt động trung gian thương mại nói riêng, nhằm hạn chế xung đột luật đã được xác định rõ tại Điều 4 Luật Thương mại năm 2005 và Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2015 là: mọi hoạt động thương mại phải tuân theo Luật Thương mại và pháp luật có liên quan; hoạt động thương mại đặc thù được quy định ưong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó. Trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự thì quy định của Bộ luật dân sự được áp dụng.

Luật Minh Khuê [sưu tầm & biên tập từ các nguồn trên internet]

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề