So sánh cái đẹp và cái cao cả

Đề cương mỹ học đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [464.74 KB, 17 trang ]

Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

Đề cương ôn tập môn: Mỹ học đại cương
Câu 1: Đối tượng nghiên cứu của Mỹ học? Ý nghĩa thực tiễn của việc
tìm hiểu và nghiên cứu mỹ học?
Trả lời:
• Đối tượng nghiên cứu của Mỹ Học:
- Nghiên cứu những quy luật cơ bản và phổ biến nhất của đời sống thẩm
mỹ, cụ thể là những quy luật chung của các mối quan hệ thẩm mỹ của
con người với hiện thực, những quy luật chung của nghệ thuật với tư
cách hình thái biểu hiện tập trung nhất mối quan hệ thẩm mỹ ấy.
- Nghiên cứu những quy luật cơ bản của quá trình hình thành và phát
triển các năng lực cảm thụ và sáng tạo thẩm mỹ nói chung cũng như
những năng lực cảm thụ và sáng tạo nghệ thuật nói riêng.[ những quy
luật chung của công tác giáo dục thẩm mỹ].
• Ý nghĩa thực tiễn của việc tìm hiểu và nghiên cứu mỹ học:
- Đối với cá nhân: Con người luôn có nhu cầu thẩm mỹ và luôn muốn
tiến hành các hoạt động thẩm mỹ để thỏa mãn nhu cầu ấy nhưng phần lớn
các hoạt động ấy là tự phát. Muốn cho hành động là tự giác, con người
cần có hiểu biết về đời sống thẩm mỹ. Trong quá trình giao lưu văn hóa
đang diễn ra hết sức mạnh mẽ ngày nay, cá nhân cần trang bị những hiểu
biết đúng đắn, bản lĩnh và có thái độ sống đúng đắn.
- Đối với người cán bộ văn hóa, nhiệm vụ của họ là bảo tồn, lưu giữ,
truyền bá giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc và nhân loại. Để làm tốt
trọng trách của mình, con người cần có tri thức về thẩm mỹ.
Câu 2: Khái niệm quan hệ thẩm mỹ? Những điều kiện hình thành quan
hệ thẩm mỹ?
Trả lời:
• Khái niệm quan hệ thẩm mỹ:
Quan hệ thẩm mỹ là một loại quan hệ xã hội của con người, được hình thành


trong quá trình hoạt động thực tiễn “ nhân hóa tự nhiên”. Đây là loại quan hệ
đồng hóa thế giới về phương diện thẩm mỹ, tôn trọng tính hài hòa-toàn vẹnbiểu cảm của thế giới và biểu hiện sự phát triển tự do các năng lực bản chất
của con người.
Nói cách khác, nó là quan hệ giữa chủ thể thẩm mỹ và khách thể thẩm mỹ.
• Bản chất của QHTM:
-Tính toàn vẹn: biểu hiện trên nhiều lĩnh vực như lao động, học tập, vui
chơi…

1


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

-Tính hài hòa: Là hài hòa giữa con người với thời gian. Giữa mục đích xã
hội với các quy luật của tự nhiên[ Không phải là sự hài hòa theo kiểu toán
học].
-Tính biểu cảm: Là sự thể hiện của qu luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập, tạo nên ấn tượng đa chiều, phức điệu về thời gian.
- Tính tự do: Biểu hiện khi con người biết hài hòa lợi ích của mình với các
quy luật của tự nhiên. Tự do trong cảm thụ, đánh giá, sáng tạo.
• Những điều kiện hình thành QHTM:
* Điều kiện của CTTM [tất cả mọi người]:
- Con người muốn trở thành CTTM phả là con người sinh ra và trưởng thành
trong xã hội.
- Có điều kiện tâm- sinh lý ổn định, thuận lợi.
+ Tâm lý: trong trạng thái vô tư, không vụ lợi.
+Sinh lý: con người phải có các giác quan nhạy bén, đặc biệt là mắt và tai.
[tạo nên khoảng cách cần thiết để con người có cảm xúc vô tư, trong sáng].
- Có ý thức thẩm mỹ phát triển: Cần có ý thức thẩm mỹ chuyên biệt[ hiểu


biết sâu sắc ngôn ngữ đặc trưng của các loại hình giá trị nhất định].
-Con người đang tiến hành các hoạt động thẩm mỹ,
* Điều kiện của KTTM:
- Sự vật phải tồn tại cụ thể, khách quan mà con người có thể nhận thức được
bằng các giác quan.
- Phải có sức hấp dẫn thẩm mỹ: Cấu trúc hình thức và nội dung đặc biêt; mối
tương quan giữa sự vật, hiện tượng với môi trường xung quanh.
- gây được rung cảm, cảm xúc cho con người.
- sự vật, hiện tượng phải đang được con người tiến hành các HĐTM.
* Điều kiện để QHTM diễn ra:
- con người đủ điều kiện là CTTM phải tiếp xúc trực tiếp với sự vật, hiện
tượng đủ đk là KTTM.
-Đk bên trong: Sức hấp dẫn của KTTM phải không ngừng tăng lên, năng lực
tinh thần của CTTM không ngừng phát triển.
- ĐK bên ngoài: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội thuận lợi để
QHTM diễn ra.
Câu 3: những tính chất cơ bản của quan hệ thẩm mỹ?
Trả lời:
1.Tính xã hội.
- QHTM là một qh xh do con người xã hội làm ra và hưởng thụ.
- QHTM là qh xh, con người luôn đứng trên lợi ích xh để đánh giá. Vd: cái
đẹp là cái có ích, chân thiện, bền, chắc, tốt…
a. tính dân tộc:
2


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

Về mặt khách quan, đời sống mỗi dân tộc trở thành những đối tượng nghiên


cứu, chính đời sống xã hội mỗi vùng miền khác nhau đã tạo nên những vùng
thẩm mỹ khác nhau.
Về mặt chủ quan, người nghệ sỹ- người góp sức đắc lực trong sáng tạo và
đánh giá các giá trị thẩm mỹ, là con đẻ của dân tộc nhất định, bằng cách nói,
cách cảm, cách nghĩ của mình, họ sẽ biểu hiện tính dân tộc trên nhiều hình
thức khác nhau với những nội dung xoay quanh vấn đề về dân tộc họ. Qua
đó biểu hiện tinh thần và cốt cách mỗi dân tộc.
* Lưu ý: Phân biệt tính dân tộc với tính truyền thống và mqh giữa tính dân
tộc và tính nhân loại:
- Tính dân tộc chỉ bảo lưu những giá trị văn hóa tốt đẹp. Tính truyền thống
bên cạnh những yếu tố tích cực còn có cả yếu tố tiêu cực.
- MQH giữa tính d tộc và tính nhân loại: tính dân tộc là thuộc tính của bất cứ
tác phẩm nào. Tính nhân loại là phẩm chất mà 1 tác phẩm nào đó muốn
vươn tới.
Nguyên nhân: Mỗi dân tộc có 1 sự khác biệt về đk tự nhiên,đk kinh tế, trình
độ văn hóa, tín ngưỡng,… dẫn đến sự khác biệt về quan niệm thẩm mỹ.
b. tính giai cấp:
- Biểu hiện: + Trong cuộc sống: trang phục, màu sắc, vẻ đẹp của người phụ
nữ…
+ trong nghệ thuật: biểu hiện ở hình thức và nội dung tác phẩm.
* Lưu ý: giữa các giai cấp khác nhau thì quan niệm thẩm mỹ cũng có sự ảnh
hưởng lẫn nhau, giống nhau khi đứng trước những hiện tượng không liên
quan gì đến quyền lợi kinh tế, thiên nhiên, đồ vật hay những tác phẩm nghệ
thuật.
Nguyên nhân: Mỗi giai cáp khác nhau có đk kinh tế, trình độ văn hóa, địa vị
chính trị khác nhau dẫn đến sự # biệt trong quan niệm thẩm mỹ của các giai
cấp. Mặt khác, trong những người cùng 1 giai cấp có quan niệm thẩm mỹ có
nhiều điểm tương đồng do chịu nhiều ảnh hưởng chung.
c. Tính thời đại:
- Nguyên nhân: Mỗi thời đại có sự # biệt về trình độ kt, khkt, tôn giáo, tín


ngưỡng… dẫn đến sự # nhau trong quan niệm thẩm mỹ của mỗi thời đại.
- Biểu hiện:
+ sự thay đổi trong quan niệm thẩm mỹ của mỗi thời đại, thể hiện trong
nhiều lĩnh vực của cuộc sống.
+” Mốt”là sự thể hiện sinh động của tính thời đại.
Ví dụ: Quan niệm về vẻ đẹp của con người thời cổ đại là phồn thực, sự đầy
đặn. Quan niệm thời trung cổ là sự gầy gò, con người có gò má cao, con mắt
trũng sâu, u buồn. Quan niệm thời phục hưng là sự đối diện, dám nhìn thẳng,

3


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

dám đối diện với tình yêu trong sáng, khát vọng hướng tới điều tốt đẹp trong
cuộc sống.
d. tính nhân loại:
-Nguyên nhân: con người ở đâu cũng có nhu cầu về cái đẹp, luôn muốn thỏa
mãn và chiếm hữu.
-Biểu hiện: Đối với các hiện tượng là thiên nhiên, đồ vật con người thường
đánh giá giống nhau.
2. tính cụ thể,cảm tính
- chủ thể thẩm mỹ thu nhận trực tiếp những thông tin từ khách thể thẩm
mỹ.ví dụ đường nét, màu sắc…
- trong các giác quan, hai giác quan quan trọng nhất là mắt và tai.
+ giúp thu nhận thông tin nhiều nhất về thế giới.
+ tạo ra khoảng cách cần thiết giữa con người và đối tượng để con người giữ
được tâm lý vô tư, trong sáng, không vụ lợi.
- Độ tinh, độ thính về mặt tinh thần quan trọng hơn độ tinh, độ thính về mặt


sinh học.Đó là kết quả của quá trình hoạt động thẩm mỹ.
- lý tính được tích đọng trong cảm tính lý trí ,trí tuệ của con người được thể
hiện trong đánh giá, hình dung, liên tưởng của con người.
 tính chất cụ thể, cảm tính đặc trưng trong phương thức tư duy và hình
thức phản ánh của nghệ thuật. ví dụ : người nghệ sỹ tư duy hình tượng để
biểu hiện hình tượng.
3. tính chất tình cảm
[ do con người luôn bày tỏ tình cảm ].
* Chủ thể thẩm mỹ thường thể hiện tình cảm của mình trước đối tượng
+ có thể là tình yêu cái đẹp
+căm ghét cái xấu, cái hài.
- tình cảm thuộc tâm lý ổn định bền vững [trong tâm lý], thể hiện ra bên
ngoài thông qua cảm xúc.
- Vai trò quan trọng trong điều khiển, chi phối hành vi đạo đức của con
người.
- Tình cảm thẩm mỹ thể hiện thông qua trạng thái cảm xúc cụ thể,
- Tình cảm là thuộc tính thì cảm xúc là trạng thái.
* Tình cảm có sự chi phối cuả lý trí và gắn liền với lý trí.
- trình độ, kinh nghiệm, học vấn ảnh hưởng tới mức nông sâu của tình cảm.
* Tính chất cá nhân có sự gắn bó mật thiết với tính chất xã hội.
- tình cảm xã hội ảnh hưởng được tích đọng trong tình cảm cá nhân.
-Tình cảm cá nhân làm cho tình cảm xã hội thêm phong phú.
Ví dụ : tình cảm xã hội: lòng yêu nước là một truyền thống quý báu của
dân tộc. Tình cảm cá nhân: thể hiện trong trạng thái khác nhau: yêu nước,
ghét kẻ thù, dũng cảm trong đấu tranh.
4


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội



* tính chất tình cảm trong nghệ thuật:
- tình cảm chi phối đến mọi khâu trong hoạt động của người nghệ sĩ.. Tình
cảm trở thành động lực, là chất men sáng tạo , thúc đẩy hành vi sáng tạo của
người nghệ sĩ.
* Tình cảm còn trở thành nội dung của tác phẩm mà nó in đậm trong tác
phẩm.
* tình cảm còn ảnh hưởng đến chất lượng tác phẩm.
- đối với người cảm thụ tác phẩm: tình cảm là động lực thúc đẩy công chúng
đến với tác phẩm và cảm xúc trong tác phẩm.
- Đối với người phê bình nghệ thuật, tình cảm giúp họ nhận ra cái hay, cái
đẹp của tác phẩm. Đó là vấn đề của trực giác.
 tính chất tình cảm là tính chất ưu thế của quan hệ thẩm mỹ nói chung và
nghệ thuật nói riêng. Nó là sức mạnh của quan hệ thẩm mỹ và nghệ thuật so
với các quan hệ xã hội khác ví nó đối với con người bằng tình cảm, do đó nó
thay đổi nhận thức của con người bằng tình cảm.
Tổng kết: Cấu trúc của quan hệ thẩm mỹ bao gồm 2 bộ phận:
+ Bản chất của QHTM được tìm hiểu trên 3 phương diện: QHXH, QH giá trị
[đẹp- xấu] và tôn trọng tính hài hòa biểu cảm của thế giới.
+ Những tính chất của QHTM và vị trí của từng tính chất xh ảnh hưởng tới
bản chất cốt lõi của QHTM.
Câu 4: Bản chất cái Đẹp? Phân biệt khái niệm cái đẹp với các khái niệm
cái Đẹp với các khái niệm “ cái có ích”, “cái chân”, “cái thiện”, “cái gây
khoái cảm”, “vẻ đẹp”?
Trả lời:
a. Bản chất cái đẹp:
- Cái đẹp giữ vị trí trung tâm. Do cái đẹp có vai trò quan trọng trong
cuộc sống của con người, cái đẹp gắn liền với bản chất của con người.
- Quan niệm về cái đẹp thể hiện bước phát triển cao trong tư duy nhân
loại.


- Định nghĩa về cái đẹp rất khó, “cái đẹp là thể dục của tâm hồn”, “cái
đẹp là sự mời gọi của hạnh phúc”.Bởi lẽ:
+cái đẹp phụ thuộc yếu tố chủ quan. Nó đến trong cảm giác nên khó đưa
ra định nghĩa thẩm mỹ của nó.
+ Cái đẹp tồn tại trong mọi lĩnh vực của cuộc sống: thiên nhiên, con
người, lao động, chiến đấu do đó không có được 1 căn cứ chung về đánh
giá cho mọi cái đẹp.
b. Phân biệt cái đẹp với các khái niệm khác:
• Phân biệt cái đẹp với cái có ích:

5


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

Cái đẹp nào cũng mang tính có ích nhưng mọi cái có ích chưa chắc đã là
cái đẹp. Muốn trở thành cái đẹp thì cái có ích phải có sức hấp dẫn về mặt
thẩm mỹ.
• Phân biệt cái đẹp với cái chân, cái thiện:
Cái đẹp nào cũng mang bản chất của cái tốt và cái thật. Nhưng mọi cái
thật và cái tốt chưa chắc đã là cái đẹp. Cũng như cái có ích, muốn trở
thành cái đẹp thì cá thật và cái tốt cần phải có sức hấp dẫn thẩm mỹ.
• Phân biệt cái đẹp với vẻ đẹp:
Khi nói tới cái đẹp là chúng ta tiến hành đánh giá thẩm mỹ về đối tượng 1
cách toàn diện cả về nội dung lẫn hình thức. Còn khi nói tới vẻ đẹp thì
chúng ta mới chỉ dừng lại đánh giá về mặt hình thức bên ngoài của đối
tượng. Trong tiếng Việt, khái niệm vẻ đẹp đồng nghĩa với khái niệm cái
xinh.
• Phân biệt cái đẹp với cái có khả năng gây khoái cảm:


Cái đẹp nào cũng có khả năng gây khoái cảm, nhưng mọi cái có khả năng
gây khoái cảm chưa chắc đã là cái đẹp. Khoái cảm mà cái đẹp mang lại
cho con người là khoái cảm tinh thần, thẩm mỹ trong sáng, lành mạnh
chứ không phải là khoái cảm sinh lý hay vật chất thô thiển.
Câu 5: Trình bày các lĩnh vực biểu hiện của cái Đẹp?
Trả lời:
• trong lao động- sáng tạo:
Mỹ học Mác xít quan niệm rằng lao động sáng tạo là nguồn gốc nảy sinh, là
cơ sở tồn tại, là động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi cái đẹp trong cuộc
sống. Chính lao động, sáng tạo đã sản sinh ra con người và hoàn thiện con
người với tư cách là chủ thể thẩm mỹ, Chủ thể của nhận thức và sự đánh giá
cái đẹp.Cũng nhờ có lao động mà con người đã sáng tạo ra mọi giá trị vật
chất, tinh thần đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội mà trong đó
có rất nhiều sự vật, hiện tượng được đánh giá là đẹp.Chấm dứt lao động thì
cả con người và xã hội loài người sẽ bị triệt tiêu. Mọi cái đẹp trong cuộc
sống không có cơ sở để tồn tại.
- Trong thế giới tự nhiên, những hình tượng tự nhiên thuần túy tuy không
phải là sản phẩm của lao động sáng tạo nhưng từ hàng ngàn đời nay chúng
vẫn trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sáng tạo của con người và
đc coi như bộ phận hợp thành của các tiến trình lao động xã hội nên vẫn
được con người nhận thức và đánh giá vào hoạt động thẩm mỹ.Song chỉ
thực sự là đẹp đối với hiện tượng tự nhiên nào vừa gắn với lợi ích vừa mang
lại khoái cảm thẩm mỹ cho người lao động.
- Cái đẹp của con người: Con người đẹp là con người được đánh giá thẩm
mỹ cả về nội dung lẫn hình thức.

6


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương


Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

+ Xét về nội dung: con người đẹp là con người có sự phát triển toàn diện và
hài hòa về nhân cách [ trí, đức, thể, mỹ].
+Xét về hình thức: vẻ đẹp của con người được toát lên từ vẻ đẹp hình thể
cùng với vẻ đẹp là kết quả của nghệ thuật sử dụng trang phục và đồ trang
sức.
- Cái đẹp trong nghệ thuật: Các đẹp trong nghệ thuật được tạo nên bởi cái
hay, cái đẹp của các tác phẩm nghệ thuật cụ thể.1 tp nghệ thuật cụ thể hay và
đẹp cần được đánh giá thẩm mỹ toàn diện cà nội dung lẫn hình thức.
+ Về nội dung: tp phản ánh hiện thực đời sống chân thực, sâu sắc, mang tư
tưởng tiến bộ.
+ Về hình thức, tp có 1 kết cấu hợp lý, chặt chẽ, giúp tác giả thể hiện đầy đủ
và sâu sắc nội dung tp, đồng thời mang lại khoái cảm TM cho ng thưởng
thức.
Câu 6: Vì sao nói cái đẹp là phạm trù cơ bản giữ vị trí trung tâm trong
hệ thống các phạm trù mỹ học?
Trả lời:
Cái đẹp là phạm trù mỹ học cơ bản giữ vị trí trung tâm trong hệ thống các
phạm trù mỹ học bởi vì:
• Phạm vi biểu hiện rộng nhất, tồn tại trong thiên nhiên con người và
trong nghệ thuật.
• Cái đẹp mang đến cảm xúc là nền tảng cho các loại cảm xúc khác của
con người [ khi biết yêu quý cái đẹp thì con người biết căm ghét cái
xấu, lên án cái hài, ngưỡng mộ trước cái cao cả và thương xót, nuối
tiếc cái bi].
• Cái đẹp là căn cứ, chuẩn mực để đánh giá các phạm trù mỹ học khác.
Nếu cái đẹp là A, cái xấu là cái đối lập A. Cao cả là A vượt độ, cái thấp
hèn là cái đối lập A vượt độ. Cái bi là A thất bại tạm thời. Cái hài là cái
đối lập với A, đội lốt A và bị vạch trần.


Câu 7: Bản chất của cái Bi? Các lĩnh vực biểu hiện của cái bi?
Trả lời:
• Bản chất của cái Bi:
- Cái bi gắn với sự tổn thất và mất mát của con người [không có
trong tự nhiên].
- Sự tổn thất, mất mát của cái đẹp.
- Cái đẹp đấu tranh kiên cường để bảo vệ lí tưởng nhưng cuối
cùng vẫn thất bại.
- Hành động thất bại, lý tưởng không bao giờ thất bại. Những cái
chết “gieo mầm chiến thắng”.
- Tính cách nhân vật mạnh mẽ.

7


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

- Cảm xúc mà cái bi mang lại có khả năng thang lọc tâm hồn của
bi kịch.
Định nghĩa: Cái bi là một phạm trù mỹ học cơ bản dùng đẻ khái quát những
hiện tượng thẩm mỹ tích cực của con người bị tạm thời thất bại trong cuộc
đấu tranh kiên cường đẻ khẳng định lý tưởng tốt đẹp. Hiện tượng thẩm mỹ
“bi” gợi nên ở chủ thể sự đồng cảm, thương xót, nuối tiếc.
• Các lĩnh vực biểu hiện của cái Bi:
- Trong cuộc sống: Cái bi là hiện tượng thẩm mỹ thường gặp vì
nguyên nhân của hiện tượng này thường phổ biến. Cái bi càng
đậm đặc hơn trong xã hội có áp bức, bóc lột. Xã hội con người
không bao giờ vắng bóng cái bi.
- Trong nghệ thuật: Có khả năng tác động mạnh mẽ tới tâm hồn


người nghệ sĩ nên cái bi là đối tượng đặc biệt quan tâm , phản
ánh các loại hình nghệ thuật, văn chương, hội họa, âm nhạc,
kiến trúc,… đặc biệt là sân khấu.
Thể hiện tập trung trong nghệ thuật bi kịch. Tùy theo những
điều kiện lịch sử nhất định mà nội dung và hình tượng thẩm mỹ
về bi kịch khác. Ví dụ :Thời cổ đại, con người đối lập với định
mệnh. Thời cổ điển, bổn phận và nghĩa vụ đối lập với dục vọng,
thời hiện đại lý trí đối lập với tình cảm.
Những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng trên thế giới đều lấy đề tài
cái bi.
Mục đích của nghệ sĩ khi phản ánh cái bi là nhằm đồng cảm
chia sẻ với khổ đau, bất hạnh của con người.
Sự khác biệt khi lý giải về cái bi thái độ bi quan hay lạc quan.
Lạc quan:
Ảo tưởng : mong ước sự tốt lành trong cổ tích.
Khoa học: cơ sở niềm tin khoa học và sự chiến
thắng tất yếu của cái đẹp trong tương lai.
Bi quan:
Mỹ hóa cái chết, coi cái chết là biểu tượng của cái
đẹp.
Đề cập nỗi cô đơn của con người trong sự phát
triển của con người.
Sự phi lý trong cuộc sống của con người.
Xây dựng chân dung những con người nhỏ
bé, vỡ mộng.
Câu 8: Bản chất của cái hài ? Trình bày các lĩnh vực biểu hiện của cái
Hài?
• Bản chất của cái hài:
* phân biệt cái hài với cái gây cười:
- Giống nhau: đều là hiện tượng khách quan của cuộc sống, mang lại


tiếng cười nơi con người.
8


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội
- Khác nhau:

Cái hài
Cái gây cười
Phần lớn mang nội dung là tiêu
- Những hiện tượng trái với quy
cực.
luật tự nhiên.
- Ý nghĩa của tiếng cười : tiếng
- Tiếng cười tâm sinh lý đơn giản.
cười trí tuệ, bộc lộ năng lực nhận
thức của mình khi phát hiện ra mâu
thuẫn ; thể hiện thái độ của con
người trước cái hài. Qua đó thể
hiện nhân cách của con người.
• Đặc điểm của cái hài :
- Cái hài thuộc về cái xấu nhưng không phải cái xấu nào cũng là
cái hài. Ví dụ : quá xấu về hình thức và nội dung không phải là
hài.
- Không thuộc về cái xấu của tự nhiên.
- Không cam phận xấu.
- Là cái xấu mạo danh cái đẹp, khoác trên mình vỏ bọc của cái
đẹp.
- Bị vạch trần, nếu không bị vạch trần thì người ta sẽ nhầm tưởng


nó là cái đẹp.
- Nảy sinh ở chủ thể thẩm mỹ tiếng cười. Tiếng cười khẳng định
sự thắng thế của cái đẹp đối với cái xấu.
• So sánh cái bi với cái hài :
- Đều hàm chứa mâu thuẫn. Trong cái bi, mâu thuẫn giữa lý
tưởng và hiện thực, lý tưởng thì đẹp đẽ nhưng thực tế thì thất
bại. Trong cái hài, mâu thuẫn giữa lý tưởng tích cực với bản
chất xấu xa, mâu thuẫn nội tại trong chính nó.
- Kết quả : Trong bi. Cái đẹp bị thất bại tạm thời, cái xấu chiến
thắng. Trong cái hài, khi con người nhận diện được cái hài thì
đó là sự thất bại vĩnh viễn của cái xấu.
Cụ thể : Cái bi là cái gắn với nước mắt, thể hiện sự chiến đấu
không khoan nhượng giữa cái đẹp và cái bi. Cái hài gắn với tiếng
cười, thể hiện sự mâu thuẫn giữa cái đẹp với 1 bộ phận xấu.
Định nghĩa : Cái hài là một phạm trù mỹ học cơ bản dùng để khái quát
những hiện tượng thẩm mỹ là các hành vi của con người mang bản chất tiêu
cực nhưng được ngụy trang bằng vỏ của cái đẹp. Khi mâu thuẫn bị phát hiện
đột ngột, hiện tượng này sẽ tạo ra ở chủ thể tiếng cười có tính phê phán.
Tiếng cười của chủ thể là sự khẳng định sự thẳng thế của cái đẹp đối với cái
xấu.
• Các lĩnh vực biểu hiện của cái hài :
9


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

* trong cuộc sống :
- cái hài rất phổ biến.
- Tiếng cười có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống tinh thần của


con người.
- Những làng nói khoác, nói trạng nổi tiếng ở Việt Nam như Văn
lang [ Tam Nông, Phú Thọ], Vĩnh Hoàng [ Vĩnh Linh- Quảng
Trị].
* Trong nghệ thuật :
- Mục đích của nt là phản ánh cái hài nhằm « đào huyệt » chôn
vùi cái xấu và làm « bà đỡ » dọn đường cho sự ra đời của cái mới. Mác
khẳng định : « Lịch sử hoạt động rất triệt để khi nó muốn đưa 1 hình
thái già cỗi của lịch sử đến huyệt thì giai đoạn cuối cùng là tấn hài kịch
của nó.
- Những loại hình nt phản ánh cái hài [ trừ kiến trúc và âm
nhạc], đặc biệt đậm nét trong hài kịch.
- Yếu tố bất ngờ trong phản ánh cái hài.
- Những thủ pháp đặc biệt trong p/á cái hài : thậm xưng [ nói quá],
chơi chữ, cường điệu, nói lái... trong văn học.
- Những sắc thái khác của tiếng cười trước cái hài : hài hước, trào
lộng, châm biếm...
Câu 9 : Bản chất của cái cáo cả ? Trình bày lĩnh vực biểu hiện cái
cao cả ?
Trả lời :
• Bản chất của cái cao cả :
* so sánh cái đẹp và cái cao cả :
- Giống nhau : đều là những hiện tượng thẩm mỹ khách quan. Mang ý nghĩa
tích cực, phù hợp lý tưởng và chuẩn mực xã hội.
- Khác nhau : Cái đẹp ở trong độ, cái cao cả vượt độ.
+ Về cấu trúc hình thức :
Cái cao cả mang ý nghĩa xã hội to lớn, kỳ vĩ,
khiến người ta liên tưởng đến cái to lớn.
Cái đẹp nhỏ nhắn, vừa phải.
+ Về ý nghĩa xã hội :


Cái đẹp dễ nhận biết hết 1 lúc.
Cái cao cả khó nhận biết hơn, khó nhận biết hết
1 lúc. Thậm chí, con người phải có trình độ nhận thức nhất định mới nhận
biết được.
+ Về mặt cảm xúc :
Đứng trước cái cao cả, con người có cảm xúc
ngưỡng mộ, khâm phục, tự hào sau khi vượt qua giai đoạn choáng ngợp, bối
rối lúc ban đầu.
Trước cái đẹp, con người có cảm giác yêu quý,
thỏa mãn, dễ chịu.
10


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

Định nghĩa : Cái cao cả là một phạm trù mỹ học cơ bản dùng để khái quát
những hiện tượng thẩm mỹ khách quan mang giá trị thẩm mỹ tích cực rộng
lớn. Đó là những hiện tượng có qui mô vật thể lớn [ hoặc liên tưởng tới cái
to lớn] biểu hiện sức manh phi thường, tạo nên ở chủ thể cảm xúc ngưỡng
mộ, tự hào, phán chấn , sau khi đã vượt qua những trngj thái bối rối ban đầu
do chưa làm chủ được đói tượng. Từ đó các hiện tượng này có khả năng
khơi dậy những năng lực bản chất của con người, khích lệ họ vượt qua
những khó khăn thử thách để thực hiện lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp.
- Mối quan hệ giữa cái cao cả với các phạm trù mỹ học khác :
+ Cái cao cả và cái đẹp : Cái đẹp gần với ước mơ, lý tưởng mà con người dễ
đạt tới, cái cao cả khích lệ con người vươn tới cái đích khó vươn tới hơn.
+ Cái cao cả với cái bi : Con người hiện thân cho cái đẹp, cái cao cả bị thất
bại trong cuộc đấu tranh cho lý tưởng cao đẹp của mình sẽ thuộc về phạm
trù cái bi. Người ta muốn nhân rộng cái đẹp, cái cao cả nhưng luôn muốn


hạn chế cái bi, cái hài trong cuộc sống.
+ cái cao cả và cái hài : Con người hiện thân cho cái cao cả vì hành động,lý
tưởng tốt đẹp cho xã hội còn có khiếm khuyết chưa hoàn thiện thì nảy sinh
ra những tiếng cười hài hước, vui vẻ.
 Mối liên hệ không bản chất,không phổ biến.
- Một số khái niệm quanh phạm trù cái cao cả :
+ Cái cao cả với cái hùng : Cái hùng chỉ hành vi của con người, là hành vi
huy động toàn bộ sức mạnh về thể chất và tinh thần để thực hiện những ý
tưởng cao đẹp.
+ Chủ nghĩa anh hùng là 1 phạm trù đạo đức học, dùng để khái quát những
chuẩn mực cơ bản về người anh hùng theo quan niệm của 1 dân tộc, giai
cấp, thời đại.
+ Người anh hùng : là con người bình thường, có hành vi hùng. [ đi từ cái
bình thường đến cái phi thường, càng giản dị, khiêm nhường thì càng vĩ đại].
• Một số lĩnh vực biểu hiện của cái cao cả :
- trong cuộc sống :
+Thiên nhiên kì vĩ, dữ dội.
+ Những công trình kiến trúc vĩ đại.
+ Những cuộc cách mạng
+Những vĩ nhân, nhà khoa học, người anh hùng.
+ Cao cả trong tâm hồn, trong hành động.
- Trong nghệ thuật:
+ Mục đích của nt p/á cái cao cả là ngợi ca, khích lệ con người,
khơi dậy khát vọng vươn tới cái cao cả nơi con người.
+ Những thể loại tập trung p/á cái cao cả như thần thoại, truyền
thuyết, sử thi…
11


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương


Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

+ Một số thủ pháp đặc biệt khi p/á cái cao cả: ẩn dụ, tượng trưng,
lý tưởng hóa, bất tử hóa cái chết của người anh hùng.
Câu 10: Khái niệm nhu cầu thẩm mỹ? Đặc trưng cơ bản của nhu cầu
thẩm mỹ?
Trả lời:
• Khái niệm nhu cầu thẩm mỹ:
- Nhu cầu xuất hiện trong tình trạng không tương hợp giữa con
người và thế giới,là động lực, động cơ để thúc đẩy hành động
nhằm thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu là mục tiêu để hành động
hướng tới.
- Nhu cầu TM là nhu cầu về cái đẹp[Nhu cầu cảm thụ, nhu cầu
đánh giá và sáng tạo cái đẹp].
• Đặc trưng cơ bản của nhu cầu thẩm mỹ:
- Là 1 loại nhu cầu tinh thần đặc biệt của con người.
- Là 1 loại nhu cầu mang tính vô tư, thỏa mãn thông qua các giác
quan [ mắt và tai],con người được thỏa mãn nhưng không thủ
tiêu đối tượng.
- Là nhu cầu mang tính tích hợp,bắt nguồn từ cái đẹp, gắn liền
với cái có ích, cái chân, cái thiện.
Câu 11: Cảm xúc thẩm mỹ và vai trò của cảm xúc thẩm mỹ trong cuộc
sống và trong sáng tạo nghệ thuật?
Trả lời:
Cảm xúc thẩm mỹ là:
+ trạng thái biểu hiện ra bên ngoài của tình cảm thẩm mỹ[ loại tình cảm đặc
thù của con người xã hội, xuất hiện khi cảm thụ và sáng tạo các h.tượng TM
nói chung và t/p nghệ thuật nói riêng].
+ Bằng chứng xác nhận sự xuất hiện của QHTM.
+ Mỹ cảm, là cảm xúc tinh thần cấp cao vửa chủ động vừa bị động, vừa bị


lôi cuốn lại vừa tự do.
+ Chịu sự chi phối của cả 2 yếu tố khách quan và chủ quan.
+ Để nảy sinh cảm xúc rất cần tạo ra điều kiện tâm lý giữa chủ thể và đối
tượng.
Vai trò của cảm xúc thẩm mỹ:
- Trong cuộc sống: Cảm xúc Tm đóng vai trò điều chỉnh, chi
phối hành vi của con người.
- Trong nghệ thuật: Vì cảm xúc chi phối đến mọi khâu của hoạt
động nghệ thuật, nên cảm xúc in đậm dấu ấn trong kết quả của
quá trình đó.
Câu 12: Khái niệm thị hiếu thẩm mỹ? Những đặc trưng cơ bản của thị
hiếu thẩm mỹ?
12


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

Trả lời:
* Khái niệm thị hiếu TM [ thị hiếu nghệ thuật] là khả năng lựa chọn đánh giá
cảm xúc, trực tiếp tức thì các hiện tượng thẩm mỹ bao gồm cả tác phẩm
nghệ thuật. Trong sự lựa chọn đánh giá này, các yếu tố lý tính được tích
đọng trong tình cảm- cảm xúc, các yếu tố xã hội được thẩm thấu trong sự
hứng thú thẩm mỹ cá nhân.
* Những đặc trưng cơ bản của thị hiếu thẩm mỹ:
- THTM là sự đánh giá trực tiếp, tức thời hoặc là sự phản ánh mau lẹ.
- THTM có tính cá biệt và xã hội
+ Những phán đoán và dánh giá thị hiếu TM bao giờ cũng mang tính cá
nhân- tình cảm không lặp lại.
+ Những ohans đoán, đánh giá thị hiễu TM lại bị chi phối bởi những quan


điểm TM, quan điểm chính trị, đạo đức, triết học và THTM có ý nghĩa định
hướng những giá trị của mỗi cá nhân thành giá trị chung của toàn xh.
Tính xh của THTM là tính giai cấp,dân tộc.
Câu 13: Khái niệm lý tưởng TM? Nhữngđặc trưng cơ bản của lý tưởng
TM? Vai trò của lý tưởng tm trong hoạt động thẩm mỹ nói chung và
sáng tạo nghệ thuật?
Trả lời:
• Khái niệm: Lý tưởng thẩm mỹ là một hệ thống các hình dung cụ thể
cảm tính của con người về một mẫu người, mẫu vật, mẫu việc, mẫu
đời hoàn thiện, hoàn mỹ.
• Những đặc trưng cơ bản của lý tưởng thẩm mỹ:
- Là loại ý tưởng mang tính toàn vẹn nhất.[ Lý tưởng TM mặc dù
chỉ là 1 loại lý tưởng xã hội nhưng có khả năng phản ánh nhiều
loại lý tưởng xã hội khác nhau].
- Tồn tại dưới dạng những hình mẫu cụ thể, cảm tính.
- Luôn in đậm dấu ấn của cảm xúc và trí tuệ.
- Là phạm trù mang tính lịch sử, có biến đổi.
• Vai trò của lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động thẩm mỹ nói chung và
sáng tạo nghệ thuật:
- Trong cuộc sống: Là căn cứ chuẩn mực chủ quan riêng biệt để con
người bình giá các hình thức thẩm mỹ. Đồng thời là mô hình chỉ đạo
các hoạt động sáng tạo thẩm mỹ. Mọi sáng tạo và đánh giá khác nhau
trong hoạt động thẩm mỹ suy cho cùng đều bắt nguồn từ sự khác biệt
về lý tưởng thẩm mỹ.
- Trong nghệ thuật: Lý tưởng thẩm mỹ đóng vai trò là mô hình, là bản
thiết kế của người nghệ sỹ khi sáng tạo tác phẩm. sau khi tác phẩm
hoàn thành, tp là sự vật chất hóa hình mẫu lý tưởng của tác giả trong
tác phẩm.
13



Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

Câu 14: Trình bày nguồn gốc của nghệ thuật?
Trả lời:
• Theo thuyết du hí:
-Nghệ thuật là một trò chơi nhằm giải phongs phần sinh lực thừa của con
người.
- Nt là những khía cạnh liên quan tới “chơi” trong nt.
- Ngt có chức năng giải trí.
- Tính chất vô tư trong sáng tạo ngt của người nghệ sĩ.
 Không nên tuyệt đối hoá chức năng giải trí của nt. Ngoài chức năng
giải trí, nt còn có nhiều chức năng khác như chức năng giáo dục…
Không chỉ là trò chơi của con người, nt là loại lđ đặc biệt, “ làm mà như
chơi, chơi mà như làm”.
• Thuyết “ bắt chước”
- Các nhà triết học thời cổ đại như đemocrit, arixtot cho rằng con
người đã bắt chước tự nhiên mà làm ra nt.
- Các nhà mỹ học duy vật như điđro, secnusepki cho rằng nt là
hình thức biểu hiện và tái tạo cs, đồng nhất ngt với cs.
 thuyết mang tính duy vật, khẳng định tự nhiên là cái có trước.
Tuy nhiên, thuyết đã hạ thấp vai trò sáng tạo của nghệ sĩ.
• Thuyết “ ma thuật” hay thuyết “ tôn giáo”:
- nt có nguồn gốc từ tôn giáo.
 tôn giáo chỉ cần đến nt như là 1 công cụ để truyền bá các tín điều.
Ngt là sản phẩm của qt lđ sáng tạo do con người [ ng nghệ sĩ ] làm ra.
• Thuyết “ bản năng tình dục”:
- ngt là sự thăng hoa tính dục, là sự giải thoát những ẩn ức của
con người [ theo simond Freud]


 1 số t/p và trường phái nt [ trường phái siêu thực] chịu ảnh hưởng của
quan điểm này. Tuy nhiên, đây ko phải là lý do chính để ng sĩ tìm đến việc
sáng tạo nghệ thuật.
• Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin:
- Nt ra đời từ thực tiễn đời sống, cụ thể là từ lđ- sáng tạo, từ sự
đòi hỏi đc thoả mãn nhu cầu TM của con người xã hội.
+ Lđ đã sản sinh ra con người xh, xh loài người.
+Lđ đã tạo ra phương tiện vật chất, kỹ thuật cần thiết để ng nghệ sĩ
sử dụng, tạo ra sản phẩm
+ Qt sáng tác nghệ thuật của nghệ sĩ cũng chính là qt lđ nghệ thuật,
tạo ra sản phẩm: tác phẩm.
Câu 15: Mối quan hệ giữa nghệ thuật với khoa học, đạo đức và chính
trị?

14


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

TRả lời:
• Khoa học với nghệ thuật:
- Nghệ thuật đối với khoa học:
+ Nt cung cấp tài liệu khái quát cho KH.
+ Nhà khoa học cần có tư duy hình tượng phát huy trí tưởng tượng
cho ra đời những phát minh mới.
+ Nt góp phần thoả mãn nhu cầu TM của nhà KH.
- KH tác động nghệ thuật:
+ KH phát triển tạo đk cung cấp, mở rộng phương thức, chất liệu
mới cho việc biểu đạt NT.


+ Nghệ sĩ cũng cần tư duy trìu tượng như nhà KH để tìm hiểu và
đánh giá đúng.
+ Vốn sống, vốn hiểu biết về KHTN và KHXH rất cần thiết cho
nghệ sĩ.
• NT và đạo đức:
- Thống nhất trong 1 mục tiêu
- Hướng đến sự hoàn thiện, hoàn mĩ nơi con người.
- NT hướng tới cái đẹp, đạo đức học hướng đến cái thiện.
- Nt giáo dục thông qua các hình mẫu, lý tưởng cụ thể.
- NT t/đ vào tình cảm của con người thay đổi lỹ trí nhận thức
của con người.
- Đạo đức học giáo dục con người thông qua triết lý khô khan,
cứng nhắc.
• Nt với chính trị:
- Q Đ 1: Chính trị giữ vai trò thống soái cho NT, Nt là cái loa
phát ngôn cho chính trị.
- Q Đ 2: NT độc lập chính trị, không liên quan đến chính trị.
• qđ đúng: NT phản áh chính trị.
+ CHính trị có vai trò quyết định đv xh, nó là hình thái gần kinh tế nhất.
A/hưởng đến sự tiền vong đất nước.
Khách quan: hiện thực đs chính trị
CHủ quan: người nghệ sĩ và 1 giai cấp nhát định.
Lưu ý: CHính trị và nt được hiểu như 1 hình thái YTXH thì chúng có
qh ngang hàng bình đẳng với nhau. Nếu hiểu c/trị là 1 thể chế, 1 đảng
phái thì 1 nền nt không thể không phục vụ đảng phái cưu mang nó.
• NT p/á chịnh trị như thế nào?
- Nghĩa rộng: mọi tác phẩm đều p/á vđề chính trị vì nó p/á gián
tiếp thái độ của ng n/sĩ trước cuộc sống
- Nghĩa hẹp: P/á trực tiếp 1 vđ nào đó của đs chính trị.


15


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

- Thông qua tư tưởng, tình huống của t/p. Mác :” tư tưởng chính
trị phải được toát ra từ khuynh hướng hay từ tình thế của t/p
chứ không được như anh nhâc võ đứng ra giữa sân khấu”.
- Khuynh hướng: thái độ yêu ghét của tác giả.
- Đường lối chính trị t/đ đến NT : đúng đắn hoặc ngược lại.
- Không có nền nt trung gian nên ko có ng n/sĩ trung thực, siêu
giai cấp. Sứ mệnh của ngt :” sứ mệnh nt của thơ ca đó chính là
thơ ca”. Khi nt thật sự là nt tức là nó đã làm mục tiêu nhiệm vụ
chính trị của mình đv xh”.
Cau 16: Trình bày bản cht của hình tượng nghệ thuật?
TRả lời:
- Thuật ngữ “ hình tượng nt”, theo nghĩa rộng nói lên phương
thức phán ánh mang dấu hiệu đặc trưng của nt, theo nghĩa hẹp,
hình tượng dùng để chỉ nhân vật.
- Có 2 loại: hình tượng tạo hình và hình tượng biểu hiện.
- Các đặc trưng:
+ Tính chất cụ thể, cảm tính
+ Thống nhất giữa khách quan và chủ quan, cái riêng và cái chung,
giữa lý trí và tình cảm.
+Mang tính ước lệ, mang tính đa nghĩa.
Câu 17: Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức trong tác
phẩm nghệ thuật:
Trả lời:
- Nội dung đóng vai trò chủ đạo, nghệ thuật tác động ngược lại


nội dung.
Câu 18: Bản chất của nghệ thuật theo quan điểm của triết học Mác- Lê
Nin?
Trả lời:
• Nghệ thuật là 1 hình thái ý thức xã hội
- YTXH p/á xh và chịu sự quy định bởi tồn tại xh, nt p/á đs thông
qua tác phẩm nt vì thế Công chúng có thể biết đc hiện thực cs
mỗi thời đại.HCM: “xh nào thì vn ấy”.
- Nếu YTXH có sự tác động tích cực ngược trở lại đv tồn tại xh
thì nt cũng tác động tích cực đv đs xh thông qua các chức năng
xh của nó. [ chức năng nhận thức, giao tiếp, giáo dục, giải trí,
thẩm mỹ]. Những tác phẩm nt thực sự có giá trị sẽ góp phần
thúc đẩy xh phát triển, nếu nền nt đó suy đồi, phản động thì kìm
hãm sự phát triển xh.
16


Đề cương ôn tập mỹ học đại cương
Trịnh Mai – VB2 – ĐHVH Hà Nội

- YTXH mang tính độc lập tương đối so với tồn tại xh.
+ NT có thể song hành cùng với sự phát triển của đs. CŨng có thể
vượt trước hoặc thụt lùi so với sự phát triển của đs
+NT còn p/á những hiện thực chưa bao giờ diễn ra trong cs, Vì thế
nó có tính độc lập so với đs. nT là sản phẩm của sự hư cấu, tưởng
tượng.
+NT không chỉ chịu sự quy định của đs xh, nt còn có mqh với các
hình thái khác trong xh như nt với chính trị, đạo đức và với khoa
học.
• Nt là 1 hình thái YTXH đặc biệt:


- Đối tượng p/á là mặt TM của cs [ Nhưng đối tượng p/á của
khoa học là 1 mặt biết lập].
- Nội dung: P/á cái khách quan và cái chủ quan trong đó cái
khách quan là hiện thực csm cái chủ quan là t/c của tgia trước
cs.[ KH chỉ phản ánh cái khách quan].
- Phương thức tư duy: Tư duy trong NT là hinh tượng, trong KH
là tư duy logic, trừu tượng.
- Hình thức phản ánh của NT là hình tượng còn của KH đó là các
khái niệm.
• Nt là sự thể hiện tập trung, đẩy đủ và sâu sắc nhất của QHTM:
- Con người tiến hành các hđ tm để tạo ra giá trị thẩm mỹ nhằm
đáp ứng nhu cầu TM.
- Bên cạnh các gtri TM khác, nt được coi là giá trị thẩm mỹ đặc
thù.GT TM đặc thù này chính là kết tinh của giá trị TM.
 Ntmang đầy đủ những t/c của QHTM:
- QHTM mang tính xh thì nt cũng mang tính xh [ bản chất của
nt].
- NT là do con người xh sáng tạo ra, p/á đs xh và mang những
thuộc tính của xh [ tính xh, giai cấp, thời đại, nhân loại].
- Nếu QHTM mang t/c cảm tính thì NT cũng mang t/c cảm tính.
NT p.á đs qua các hình tượng sinh động, cụ thể. Đây là đặc
truwngcuar nt.
- Nếu qhtm mang tính chất tình cảm thì nt cũng mang t/c tình
cảm. NT luôn biểu hiện đậm nét tư tưởng, tình cảm của nghệ sĩ
và lôi cuốn công chúng đến với việc thưởng thức nghệ thuật.
*** Quá trình hđ nt là quá trình các hđ thẩm mỹ kế tiếp nhau.
Chúc các bạn ôn tập tốt và thi tốt!

17




Tham khảoSửa đổi

Chú giải dẫn nhập Phân tích pháp về cái cao cả [§23-29]

Chủ Nhật, ngày 1 Tháng Ba năm 2020

CHÚ GIẢI DẪN NHẬP

PHÂN TÍCH PHÁP VỀ CÁI CAO CẢ

1234567891011

BÙI VĂN NAM SƠN

Immanuel Kant.Phê phán năng lực phán đoán [Mỹ học và Mục đích luận]. Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Hà Nội: Nxb. Tri Thức, 2006, tr. 198-210. | Phiên bản đăng trên triethoc.edu.vn đã được sự đồng ý của dịch giả Bùi Văn Nam Sơn.

1.2 Phân tích pháp về cái cao cả [§§23-29]

1.2.1 Chỗ giống nhau và khác nhau giữa cái đẹp và cái cao cả

Theo Kant, khái niệm về cái cao cả không phải là khái niệm bộ phận của cái đẹp mà là một phạm trù thẩm mỹ độc lập. Vì thế, ông dành cho cái cao cả một phần nghiên cứu riêng trong Phân tích pháp.

  • Ngay trong phần dẫn nhập vào Phân tích pháp này, Kant vạch rõ: có hai hình thức phán đoán thẩm mỹ khác nhau về cơ bản: phán đoán sở thích thuần túy [“X là đẹp”] và phán đoán về cái cao cả [“X là cao cả”]. Điểm chung của cả hai là “đều làm hài lòng trên cơ sở của chính mình” [B74]. Câu này có nghĩa: cả hai loại phán đoán đều không phải là phán đoán của giác quan lẫn của sự nhận thức mà là các phán đoán phản tư. Gọi là “phán đoán phản tư” vì cả hai đều không nói gì về thuộc tính khách quan của những đối tượng ở trong thế giới mà – thông qua mối quan hệ với đối tượng – nói lên mối quan hệ giữa các năng lực hay quan năng tâm thức của chủ thể. Trước cái đẹp và cái cao cả, chủ thể phán đoán phản tư [reflektiert] về cảm trạng của chính mình. Chính vì thế, giống như trong trường hợp cái đẹp, trạng thái của chủ thể ở đây cũng có thể phổ quát hóa và thông báo được đến những người khác.
  • Tuy nhiên, dù có nhiều chỗ giống nhau, cả hai [cái đẹp và cái cao cả] không phải là một. Chúng khác nhau ở chỗ nào? Qua cách trình bày khá phức tạp của Kant, ít ra ta có thể thấy được ba điểm chính yếu:

1. Cái đẹp [như là cái đẹp của Tự nhiên] quan hệ với hình thức của đối tượng. Kant lưu ý: hình thức của những đối tượng đẹp trong Tự nhiên là bị giới hạn. Ngược lại, đối tượng cao cả thì tỏ ra “vô hình thức” [formlos] và không bị giới hạn. Hình thức và hình thể [giới hạn] là các đặc điểm về chất; còn vô-hình thức và không bị giới hạn là quy định về lượng. Do đó, Kant bảo rằng: sự hài lòng với cái đẹp gắn liền với các biểu tượng về chất, còn sự vui sướng trước cái cao cả gắn liền với các biểu tượng về lượng. Kant sẽ bàn kỹ hơn ở §25 và ta cũng sẽ quay trở lại vấn đề này ở phần sau.

2. Cũng có sự khác nhau đáng kể giữa sự hài lòng với cái đẹp và sự vui sướng với cái cao cả. Theo Kant, cái đẹp làm hài lòng ta một cách trực tiếp. Ta cảm nhận tính hợp mục đích hình thức của biểu tượng về đối tượng đối với các quan năng nhận thức của ta một cách vui sướng và sống động.

Ngược lại, sự vui sướng đối với cái cao cả là sự vui sướng gián tiếpđược trung giới. Ông viết: “Xúc cảm về cái cao cả là một sự vui sướng chỉ nảy sinh gián tiếp, nghĩa là, sự vui sướng được tạo ra bởi một xúc cảm kìm hãm sức sống trong phút giây rồi mới lập tức để cho sức sống tuôn trào càng mạnh mẽ hơn nữa…” [B75].

Ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn, nhưng ít ra cũng thấy rõ: khác với chữ “đẹp”, chữ “cao cả” được dùng để biểu thị một hiệu quả hỗn hợp. Tình cảm vui sướng trước cái cao cả gắn liền một cách độc đáo với tình cảm không-vui sướng; Kant còn gọi nó là “sự vui sướng bị động, tiêu cực” [negative Lust] [B76].

3. Theo Kant, khác biệt quan trọng nhất là ở chỗ: với những đối tượng đẹp, ta quan hệ với tính hợp mục đích của hình thức của chúng. Với cái cao cả thì khác; ở đây: “… điều tạo ra trong ta xúc cảm về cái cao cả… lại tỏ ra trái ngược với tính hợp mục đích xét về mặt hình thức đối với quan năng phán đoán của ta, vừa không thích hợp đối với quan năng diễn tả và hầu như càng bạo hành đối với trí tưởng tượng, lại càng được đánh giá là cao cả hơn…” [B76].

Từ nhận xét đó, ông bảo rằng gọi những đối tượng nhất định nào đó ở trong Tự nhiên là “cao cả” là sai: “Từ đó thấy ngay rằng ta diễn đạt không đúng khi gọi một đối tượng nào đó của giới Tự nhiên là “cao cả”, mặc dù ta có thể hoàn toàn đúng khi gọi nhiều đối tượng như thế là “đẹp” [B76].

Tại sao Kant lại quá nhấn mạnh đến việc tính “cao cả” không biểu thị trực tiếp thuộc tính của đối tượng? Trong phần Phân tích pháp trước đây, chẳng phải cái đẹp cũng không quan hệ trực tiếp với đối tượng mà chỉ với trạng thái của chủ thể đó sao? Phải chăng không có sự nhất quán trong quan niệm của Kant hay ông muốn làm rõ hơn sự khác biệt trong hình thức của việc quan hệ với đối tượng nơi cái đẹp và cái cao cả?

Nếu “cao cả” không biểu thị thuộc tính của đối tượng, vậy nó là gì? Ông khẳng định: không phải bản thân đối tượng là cao cả mà là bản thân các Ý niệm nhất định của lý tính [ta nhớ rằng các Ý niệm của lý tính là các biểu tượng về cái Thiện luân lý, về Tự do, sự bất tử và Thượng đế]. Đứng trước tính “phản mục đích” và tính “không tương ứng” của một số đối tượng nhất định, chính chủ thể khởi hoạt các Ý niệm ấy của lý tính và qua đó, nâng mình lên trên sự đe dọa của thế giới bên ngoài: “Bởi lẽ cái cao cả theo đúng nghĩa đích thực không thể được bao hàm trong một hình thức cảm tính mà chỉ liên quan đến các Ý niệm của lý tính thôi; các Ý niệm này – mà không sự diễn tả nào tương ứng với chúng nỗi – được kích động và gợi lại trong tâm thức [của chủ thể]…” [B77].

Đoạn sau đây cho ta hình dung rõ hơn về khái niệm cái cao cả: “… đại dương bao la đang nổi cơn thịnh nộ trong bão tố không thể được gọi là cao cả. Hình ảnh của nó là khủng khiếp, và ta đã phải lấp đầy tâm thức mình [chúng tôi nhấn mạnh] trước đó bằng nhiều Ý niệm để đến khi một trực quan như thế có nhiệm vụ đẩy tâm thức đến một xúc cảm mà bản thân là có tính cao cả; – là cao cả, bởi vì tâm thức đã được kích động để rời bỏ cảm năng và tập trung làm việc với các Ý niệm [của lý tính] chứa đựng tính hợp mục đích cao hơn” [B77].

Phân tích trên đây của Kant ít ra cũng làm nảy sinh một vấn đề và một thế lưỡng nan khá khó hiểu:

Vấn đề là: nếu phán đoán thẩm mỹ phải được phân biệt dứt khoát với phán đoán của giác quan và phán đoán nhận thức như phần trước đã khẳng định, thì khi cái cao cả bị quy định chủ yếu bởi các Ý niệm của lý tính, còn tri giác cảm tính [“nhìn Tự nhiên trong sự hỗn độn của nó hay trong sự vô trật tự man dại nhất, vô quy tắc nhất và cả sự tàn phá của nó”, B78] là “động lực” để “khởi phát” các Ý niệm ấy, thì khó bảo rằng phán đoán về cái cao cả là một phán đoán thẩm mỹ thuần túy!

Thế lưỡng nan là: nếu phán đoán về tính cao cả là một phán đoán thẩm mỹ [“không có sự quan tâm” và “không gắn liền với mục đích”] thì khó biện minh được vai trò quá lớn của các Ý niệm của lý tính đối với cái cao cả. Còn nếu nó không phải là phán đoán thẩm mỹ đúng nghĩa, thì tại sao Kant lại bàn về nó trong khuôn khổ một phân tích pháp về năng lực phán đoán thẩm mỹ cùng với cái đẹp?

Có lẽ Kant cũng thấy vấn đề này khi ở cuối trang B78, ông kết luận bằng một câu khá bí hiểm là muốn “biến lý luận về cái cao cả thành một phần phụ lục đơn thuần của việc phán đoán thẩm mỹ về tính hợp mục đích của Tự nhiên, bởi nó không mang lại một hình dung về bất kỳ hình thức đặc thù nào cả ở trong Tự nhiên mà chỉ nhằm phát triển việc sử dụng một cách có mục đích của trí tưởng tượng về sự hình dung của chính mình”.

Như ta sẽ thấy, Phân tích pháp về cái đẹp cố khảo sát một cách cô lập các phán đoán thẩm mỹ thuần túy, nhưng điều này không thể thực hiện được nữa nơi Phân tích pháp về cái cao cả, vì ở đây, các Ý niệm của lý tính và thái độ luân lý giữ vai trò chi phối. Nói khác đi, cái cao cả dường như mở rộng khuôn khổ của kinh nghiệm thẩm mỹ trong mối quan hệ với các quan năng khác của tâm thức.

1.2.2 Các phương diện nghiên cứu về cái cao cả

Một mặt, Kant cho rằng việc nghiên cứu về cái cao cả cũng có thể dựa theo các quy định giống như việc phân tích về cái đẹp, đó là quy định về lượng [có giá trị phổ biến], về chất [không có sự quan tâm], về tương quan [tính hợp mục đích chủ quan] và về hình thái [tất yếu]. Có một biến thái nhỏ so với nghiên cứu về cái đẹp: phương diện “lượng” được khảo sát trước phương diện chất vì cái cao cả liên quan chủ yếu đến cái “vô-hình thức”. Mặt khác, ông chia cái cao cả thành hai loại: cái cao cả toán học [§§25-27] và cái cao cả năng động [§§28-29]. Lý do của sự phân chia này là ở mối quan hệ đặc thù của trí tưởng tượng: với cái cao cả toán học, trí tưởng tượng quan hệ với quan năng nhận thức; với cái cao cả năng động, trí tưởng tượng quan hệ với quan năng ham muốn [tức quan năng ý chí của đời sống thực hành luân lý] của chủ thể.

1.2.2.1 Cái cao cả-toán học [§§25-27]

Ông bắt đầu bằng nhận định chung về khái niệm “độ lớn”:

- Mọi quy định về độ lớn được diễn tả bằng tiến trình đo đạc như là sự so sánh giữa đối tượng được đo và thước đo. Vì đo là so sánh hai đại lượng, nên quá trình đo bao giờ cũng chỉ mang lại một độ lớn tương đối chứ không tuyệt đối. Những đối tượng của Tự nhiên luôn là những đại lượng tương đối. Ta lúc nào cũng có thể nghĩ tới những đối tượng lớn hơn đối tượng được cho. Tất nhiên, có lúc ta không thể đo được nữa, nhưng đó là vấn đề của kỹ thuật đo chứ không phải sự bất khả về nguyên tắc hay có một ranh giới của cái đo được.

Dù việc đo là không bị giới hạn nhưng ta lại vẫn có một hình dung về cái lớn tuyệt đối. Thoạt nhìn, hình dung này là một sự mâu thuẫn: đã không có ranh giới cho việc đo, làm sao có được cái tuyệt đối? Nhưng, Kant cho rằng việc nói về cái lớn tuyệt đối là chính đáng, vì nó không liên quan đến những sự vật của trực quan trong không gian-thời gian mà đến mối quan hệ giữa trí tưởng tượng của ta và lý tính.

Ta không thấy được, không đo được nhưng lại có thể suy tưởng được về cái lớn tuyệt đối, chẳng hạn trong trường hợp cái cao cả:

“Cao cả là cái gì mà khi so sánh với nó, mọi cái khác đều là nhỏ” [B84].

“Cao cả là cái gì mà năng lực đơn thuần của sự suy tưởng minh chứng [sự có mặt của] một quan năng của tâm thức vượt hẳn lên mọi tiêu chuẩn hay thước đo của giác quan”. [B85].

- Sự quy định toán học về độ lớn không biết đến cái tối đa. Ta có thể thêm vào cho con số được cho mà không bao giờ gặp phải ranh giới nào cả. Thế nhưng, kinh nghiệm thẩm mỹ về độ lớn lại vấp phải những ranh giới. Kant nói đến hai hình thức của kinh nghiệm thẩm mỹ về độ lớn: “sự lĩnh hội” [apprehensio] và sự “thống hội” [comprehensio aesthetica] [B87].

Sự giới hạn của kinh nghiệm thẩm mỹ về độ lớn là do trí tưởng tượng chỉ có thể thống hội trực quan cảm tính một cách tiếp diễn [sukzessiv] thành một hình ảnh tổng thể. Khi số lượng của những biểu tượng bộ phận vượt khỏi một mức giới hạn nào đó, thì không còn có thể thống hội một cách đầy đủ được nữa. Trong trường hợp đó, chủ thể phán đoán có thể cảm nhận tính không tương hợp của sự hình dung về đối tượng đối với quan năng nhận thức của mình. Ông nên ví dụ về trạng thái choáng ngợp của mắt du khách trước kích thước khổng lồ của nhà thờ thánh Phêrô ở Roma. Tầm mắt không còn bao quát ngay một lúc toàn bộ không gian và người xem cảm nhận một tình cảm về tính không tương hợp của trí tưởng tượng đối với Ý niệm về một cái Toàn bộ. Hay như khi ta đột ngột đứng bên bờ vực thẳm: tầm mắt mất điểm định hướng và hầu như bị rơi vào một không gian vô tận. Kant bảo tính không tương thích ấy là “tính phản mục đích-chủ quan của biểu tượng đối với năng lực phán đoán trong việc lượng định về độ lớn” [B88].

Trong phương diện thứ ba [tương quan] của Phân tích pháp về cái đẹp, chính tính hợp-mục đích chủ quan trong sự hình dung về đối tượng cùng quy định việc ta thấy đối tượng là đẹp.

Còn ở đây thì ngược lại. Cái cao cả gắn liền với một tính “phản-mục đích” hay “trái-mục đích” chủ quan của những biểu tượng.

- Khi nói về Ý niệm về cái Toàn bộ nơi Kant, ta biết ngay rằng đó không phải là một khái niệm của giác tính tương ứng với một trực quan. Trái lại, Ý niệm về cái Toàn bộ [Idee des Ganzen] hay về tính Toàn thể [Idee der Totalität] là một tư tưởng của lý tính mà không một trực quan nào có thể tương ứng nổi. Chẳng hạn đối với không gian vô tận, ta không thể nào hình dung cái Toàn bộ bằng trực quan được. Ta chỉ có thể hình dung những không gian bị giới hạn.

Vậy, điều có ý nghĩa quyết định để hiểu được khái niệm về cái cao cả là sự phân liệt giữa một bên là trực quan và khái niệm tương ứng với nó với bên kia là Ý niệm của lý tính. Vì trước hết, cái cao cả không gì khác hơn là việc biết rằng, trước một số đối tượng nhất định, có cái gì đó trượt ra khỏi thước đo hay tiêu chuẩn của giác quan.

- Kant tiếp tục luận giải từ điểm xuất phát sau: nhu cầu cơ bản của lý tính là phải thống hội mọi hiện tượng một cách hoàn chỉnh. Nhưng, trước cái cao cả, ta đã thất bại khi tìm cách thỏa ứng nhu cầu này. Một mặt, sự thất bại ấy mang lại cảm giác khó chịu [khi cảm nhận tính không tương ứng], đồng thời cái cao cả lại gắn liền với một tình cảm vui sướng. Kant nhấn mạnh đến tính đồng thời ấy của tình cảm vui sướng lẫn không vui sướng:

“… xúc cảm về cái cao cả vừa là một xúc cảm của sự không vui sướng, nảy sinh từ tính không tương ứng [hay bất lực] của trí tưởng tượng trong việc lượng định thẩm mỹ về độ lớn hầu đạt đến được sự lượng định bởi lý tính, nhưng đồng thời vừa là một sự vui sướng được khơi dậy cũng chính từ chỗ phán đoán về tính không tương ứng của quan năng cảm tính lớn nhất so với các Ý niệm của lý tính, trong chừng mực nỗ lực vươn đến các Ý niệm này là một quy luật đối với ta…” [B97].

Ta biết rằng các Ý niệm của lý tính [cái Thiện, Tự do, sự bất tử và Thượng đế] là siêu việt [transzendent] khỏi lĩnh vực của kinh nghiệm, nên việc ta bất lực khi hình dung tính toàn thể ấy bằng trực quan không phải là một thất bại bi đát mà là chuyện thường tình. Nhưng, sở dĩ kinh nghiệm ấy lại làm ta vui sướng là vì nó lập tức chỉ ra cho ta các Ý niệm của lý tính; chúng giúp ta định hướng được mỗi khi trực quan và giác tính đã bất lực và bỏ ta bơ vơ.

Từ đó, Kant đã có thể đi đến được định nghĩa về chất của xúc cảm về cái cao cả: “Chất [Qualität] của xúc cảm về cái cao cả nằm ở xúc cảm về sự không vui sướng đối với một đối tượng xét về phương diện quan năng phán đoán thẩm mỹ. Nhưng xúc cảm không vui sướng này đồng thời được hình dung như là hợp-mục đích; một sự hình dung sở dĩ có được là từ sự kiện: chính sự bất lực của chủ thể làm phát hiện ra ý thức về một quan năng không bị giới hạn của bản thân chủ thể ấy, và, tâm thức chỉ có thể đưa ra phán đoán thẩm mỹ về quan năng này là nhờ vào sự bất lực nói trên” [B100].

“Quan năng không bị giới hạn” được Kant nói ở đây chính là năng lực của lý tính cho phép ta hình thành Ý niệm về một cái Toàn bộ tuyệt đối. Ta biết rằng cái Toàn bộ tuyệt đối không phải là khái niệm của giác tính và cũng không thể là đối tượng của giác quan. Vậy, những hình tượng nào mà độ lớn của chúng làm cho ta ý thức được sự giới hạn và bất lực của giác tính và trí tưởng tượng sẽ đưa ta về lại với các Ý niệm của lý tính. Chính trong chừng mực đó, những hình tượng này được Kant gọi là “hợp-mục đích chủ quan”. Chúng là “phản-mục đích” hay “trái mục đích” một cách chủ quan với giác tính và trí tưởng tượng, nhưng lại là “hợp-mục đích – cũng một cách chủ quan – đối với lý tính.

1.2.2 Cái cao cả-năng động [§§28-29]

Kant bắt đầu tìm hiểu hình thức thứ hai của cái cao cả bằng cách giải thích hai khái niệm: mãnh lực [Macht]quyền lực [Gewalt]. Mãnh lực là khả năng vượt qua những trở lực lớn. Còn quyền lực là khả năng vượt qua những trở lực vốn bản thân có mãnh lực. Vậy, quyền lực là hình thức cao độ của mãnh lực. Ông kết hợp hai khái niệm này với phán đoán thẩm mỹ và nói: “Giới Tự nhiên, được xem như là mãnh lực ở trong phán đoán thẩm mỹ, nhưng không có quyền lực thống trị trên ta, chính là cao cả một cách năng động” [B102].

- Trước hết, khác với cái cao cả-toán học, ở đây chủ yếu bàn về phản ứng tình cảm của chủ thể quan sát. Tác động ở đây là sự khiếp sợ và một hình thức nào đó của cái gì đáng sợ. Ta cảm thấy khiếp sợ khi bất lực trước những đối tượng quá mãnh liệt. Hình thức khiếp sợ này giữ vai trò trọng yếu khi bàn về cái cao cả.

Sự khiếp sợ trước một cơn thiên tai hay trước một con mãnh thú chắc chắn không thể tạo nên “tình cảm vui sướng” hay “sự hài lòng” nào cả! Thế nhưng, tại sao cả hai hiệu ứng – khiếp sợ và hài lòng – lại đi chung với nhau được nơi cái cao cả? Kant viết: “Nhưng ta có thể xem một đối tượng là đáng sợ mà lại không khiếp sợ trước nó, nếu ta phán đoán về nó theo kiểu: chỉ cần tưởng tượng đến trường hợp muốn đề kháng lại nó, sẽ nhận ra ngay rằng mọi sự đề kháng như thế ắt là vô vọng” [B103].

Như vậy, cần phân biệt giữa tình huống hiện thực và trạng thái khả hữu. Chỉ có sự hình dung hay tưởng tượng về những mối đe đọa khả hữu của các mãnh lực của Tự nhiên mới gắn liền với sự vui sướng. Nhưng, tưởng tượng bị lũ cuốn hay bị hổ vồ mà thấy vui sướng là điều khó hiểu, nên cần lý giải rõ hơn: “Tảng đá lơ lửng, lạnh lùng nhô ra đầy hăm dọa, những đám mây giông kéo đen mịt trời kèm sấm chớp dữ dội, những ngọn núi lửa hung hãn với toàn bộ sức mạnh hủy diệt, những cơn bão tố để lại cảnh hoang tàn sau lưng chúng, đại dương mênh mông đang phẫn nộ, thác nước cao ngất của con sông dũng mãnh v.v... đúng là đã làm cho sức đề kháng của ta trở nên nhỏ nhoi, bé mọn so với sức mạnh khổng lồ của chúng. Tuy nhiên, hình ảnh của chúng càng đáng sợ thì lại càng hấp dẫn lôi cuốn ta hơn, miễn là ta đang ở trong tình trạng an toàn…” [B104].

Tại sao cái đáng sợ lại “hấp dẫn lôi cuốn” ta? Chính yếu là vì nó chỉ được hình dung chứ không có thực. Ta vui mừng là vui mừng được an toàn. Đó là một trong các lý do khiến Holywood không ngừng cho ra đời những bộ phim kinh dị về khủng long và núi lửa! Tất nhiên, tình cảm này không khỏi có mặt trái là “niềm vui” ích kỷ của cảnh “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại!”. Nhưng, thực ra Kant nghĩ tới một điều hoàn toàn khác chứ không phải chỉ là về sự vui sướng vì được an toàn.

- Sự hài lòng không chỉ hướng đến sự an toàn nhất thời. Ý nghĩa cốt yếu của cái cao cả-năng động là ta ý thức rằng mình không chỉ là một thân xác yếu đuối! Chìa khóa ở đây là sự phân biệt giữa con người như một hữu thể tự nhiên với con người như là một hữu thể có lý tính. Chính hình dung về khả năng bị tiêu diệt dễ dàng của sự tồn tại vật chất khiến ta nghĩ đến một “năng lực đề kháng thuộc loại hoàn toàn khác: “… Nhưng dầu vậy [thấy rõ sự hạn chế của chính mình], ta cũng đồng thời tìm thấy trong quan năng lý tính của ta một thước đo phi-cảm tính khác; thước đo này đặt bản thân tính vô tận của Tự nhiên vào bên dưới nó như là một đơn vị thống nhất và khi so sánh với thước đo ấy, vạn sự vạn vật ở trong Tự nhiên đều là bé nhỏ cả, và như thế là ta đã tìm thấy trong tâm thức ta một sự ưu việt hơn hẳn giới Tự nhiên, bất chấp tính bao la vô lượng của nó” [B104].

Tất nhiên, “sự ưu việt hơn hẳn giới Tự nhiên” này không phải là sức mạnh hiện thực giúp ta có được sức mạnh siêu nhiên hay siêu phàm để “chống” lại Tự nhiên mà là sức mạnh tinh thần của con người sẵn sàng chấp nhận, đương đầu và tương đối hóa mãnh lực của những gì bên ngoài ta: “Nhờ đó, tính Người ở trong nhân cách của ta vẫn đứng vững, không bị hạ nhục, mặc dù, với thân phận con người, ta phải phục tùng quyền lực thống trị của Tự nhiên […]. Ở đây, sở dĩ Tự nhiên được gọi là cao cả chỉ đơn thuần bởi vì nó nâng trí tưởng tượng lên […] trong đó tâm thức có thể làm cho bản thân mình cảm nhận được chính tính cao cả của sứ mệnh của mình; một tính cao cả đứng lên trên cả Tự nhiên” [B105].

Tóm lại, “tính cao cả đích thực phải được đi tìm ở trong tâm thức của chủ thể phán đoán, chứ không phải ở nơi đối tượng tự nhiên…” [B95].

1.2.3 Tính tất yếu của phán đoán thẩm mỹ về cái cao cả

Cuối phần Phân tích pháp về cái cao cả, Kant trở lại với câu hỏi về phương diện hình thái: phải chăng sự vui sướng đối với cái cao cả là một sự hài lòng tất yếu mà ta có thể giả định nơi bất cứ ai?

Ở đây ta thấy có chỗ khác biệt cơ bản với phương diện hình thái của cái đẹp. Sự hài lòng với cái đẹp là sự hài lòng trực tiếp trước hình dung về đối tượng [khi tôi nhìn hay hình dung một cảnh sơn thủy hữu tình chẳng hạn]. Và vì lẽ sự vui sướng này chủ yếu dựa trên hình thức của đối tượng và trên tính hợp mục đích của nó đối với tâm thức ta, nên cảm giác ấy có thể được xem là phổ quát và tất yếu.

Trái lại, sự vui sướng với cái cao cả không dựa trực tiếp vào sự hình dung về đối tượng; sự hình dung trực tiếp chỉ mang lại tác dụng trái ngược: sự không vui sướng hay khiếp sợ. Sự vui sướng ở đây chỉ dựa trên sự kích hoạt các Ý niệm nhất định của lý tính. Ở đây, chỉ duy có lý tính mới mang lại cho ta viễn tượng, trong đó ta không còn thấy mình chỉ là một hữu thể tự nhiên mà còn có một sự hình dung về sự tự trị và tự do, cho phép ta giữ khoảng cách với toàn bộ giới Tự nhiên.

Như thế, rõ ràng tình cảm về cái cao cả đòi hỏi nhiều hơn nơi ta, thậm chí đòi hỏi một sự đào luyện hay mức độ văn hóa khá cao nào đó, tức một sự phát triển và vun bồi các Ý niệm của lý tính, sau khi thoát khỏi sự ràng buộc ngặt nghèo của cuộc sống vật chất tối thiểu. Kant nêu ví dụ về người nông dân chất phác ở vùng núi Alpe xem những khách du lịch say sưa leo núi để thưởng ngoạn hết “tính cao cả” của phong cảnh là một “lũ khùng” [B111].

Tuy nhìn nhận vai trò quan trọng của “văn hóa” trong việc cảm nhận tình cảm cao cả, nhưng Kant không xem nó là điều kiện giới hạn nơi một số ít người. Ông không xem phán đoán thuần túy về cái đẹp và phán đoán về cái cao cả là khác nhau một cách triệt để. Trái lại, về nguyên tắc, Kant vẫn chủ trương rằng mọi con người đều có lý tính và đều có tiềm năng để lấy thái độ đúng đắn về cái cao cả: “Tuy nhiên, bảo rằng sự đào luyện văn hóa là điều cần có để phán đoán về cái cao cả của Tự nhiên [nhiều hơn so với việc phán đoán về cái đẹp] không có nghĩa rằng cái cao cả là sản phẩm do văn hóa tạo ra và được đưa vào trong xã hội theo kiểu đơn thuần quy ước, trái lại, cái cao cả có cơ sở của nó ở trong bản tính tự nhiên của con người và là cái mà, cùng với tâm trí lành mạnh của con người, ta có thể hy vọng và đòi hỏi rằng ai ai cũng có ở trong tố chất bẩm sinh của mình đối với xúc cảm về những Ý niệm [thực hành], tức là, về những Ý niệm luân lý. [B111-112]

Cần chú ý ở đây sự nhấn mạnh của Kant đến các “Ý niệm luân lý thực hành”. Như đã nói trước đây, trong Phân tích pháp về cái đẹp, ông cố xem xét “phán đoán thẩm mỹ thuần túy” một cách cô lập. Từ nay, ông bắt đầu quan tâm đến mối quan hệ giữa kinh nghiệm thẩm mỹ với thái độ luân lý, và, rộng hơn, với các quan năng nhận thức khác, như ta sẽ dần dần theo dõi sau đây.

1.3 Nhận xét chung về sự trình bày những phán đoán thẩm mỹ phản tư [B114-131]

Phần “Nhận xét chung” này thực ra không phải là một phụ lục thứ yếu, vì mục đích của Kant ở đây là muốn làm rõ hơn lập trường “phê phán siêu nghiệm” của mình so với các chủ trương nghiên cứu “thường nghiệm” về vấn đề mỹ học đương thời.

- Điểm đầu tiên được bàn là mối quan hệ giữa lĩnh vực thẩm mỹ với các Ý niệm của lý tính về cái Thiện. Sở dĩ có mối quan hệ này là vì các Ý niệm của lý tính [cái Thiện, Tự do, Bất tử, Thượng đế] tuyệt nhiên không phải là các đối tượng của trực quan. Và cũng chính cái cao cả là cái làm cho ta có ý thức về sự dị biệt cơ bản giữa các Ý niệm của lý tính với trực quan. Trong chừng mực đó, kinh nghiệm thẩm mỹ về cái cao cả có vai trò hệ trọng đối với lý tính.

- Điểm thứ hai là nhấn mạnh về tính chất “siêu nghiệm” của lý luận mỹ học của ông so với các lập trường của các tác giả khác. Cái cao cả là một phạm trù mỹ học đã được nhiều nhà lý luận đương thời phân tích và có tác động lớn đến nhiều tác phẩm nghệ thuật thế kỷ XVIII và XIX.

Ta đã biết thế nào là “nghiên cứu siêu nghiệm” trong triết học Kant nói chung và trong phần Phân tích pháp về cái đẹp mới đây: sự phân tích siêu nghiệm không vừa lòng với việc nghiên cứu về những đối tượng riêng lẻ được mang lại một cách thường nghiệm, trái lại, đặt câu hỏi căn để hơn về những điều kiện cho khả thể của kinh nghiệm của chúng ta. Để không phải “quy thoái đến vô tận” [regressus ad infinitum], các điều kiện siêu nghiệm phải thực sự căn để và không thể lại trở thành những đối tượng của kinh nghiệm.

Trong tinh thần ấy, một công cuộc nghiên cứu siêu nghiệm về cái cao cả không đơn giản mô tả những trường hợp nhất định, trong đó những đối tượng được trải nghiệm như là cao cả hay những cá nhân riêng lẻ thông báo về xúc cảm về cái cao cả của họ. Những phân tích như thế đi không đủ sâu để nhận diện cái Lôgíc riêng biệt làm nền tảng chung cho tất cả những trường hợp khác nhau ấy.

Kant gọi những công trình của các bậc tiền bối là “sự trình bày đơn thuần thường nghiệm” [B128], trong đó tiêu biểu là quan niệm của triết gia Anh E. Burke[1]. Burke tìm cách xác định những phản ứng khi ta nhìn những đối tượng “cao cả”. Ông dùng ngôn ngữ của môn sinh lý học để xác định các phản ứng thể xác về hiện tượng này [xem Kant trích dẫn Burke ở tr. B28]. Kant không phủ nhận rằng các quan sát thường nghiệm ấy là lý thú, bổ ích. Nhưng, ông kiên quyết cho rằng cách làm ấy không bao giờ cho thấy được tại sao mọi con người, với những điều kiện nhất định, đều có thể cùng cảm nhận tình cảm như nhau về tính cao cả. Ông đi tìm một nguyên tắc tiên nghiệm cho cái cao cả và cho rằng mình đã tìm ra khi phát hiện sự nối kết giữa những hình dung về đối tượng với các Ý niệm của lý tính, trong khi Burke chỉ dừng lại ở những quá trình thường nghiệm.

Kant kết thúc phần Phân tích pháp về cái cao cả bằng một sự đúc kết:

1. Cái cao cả-toán học quan hệ với những đối tượng của trực quan vốn quá lớn khiến chúng không thể được đo lường hay tổng hợp bởi trí tưởng tượng. Đứng trước sự bất lực ấy của trí tưởng tượng và giác tính trong việc tổng hợp tính đa tạp của những biểu tượng, lý tính được khởi động. Nhờ có lý tính, những biểu tượng ấy được đưa vào mối quan hệ với Ý niệm về tính Toàn thể.

2. Cái cao cả-năng động là quá mãnh liệt, đe dọa tiêu diệt chúng ta. Ở đây vấn đề không phải là trí tưởng tượng mang lại những biểu tượng không thể thống hội được thành một nhất thể nữa. Trái lại, đây là một phức hợp của những biểu tượng hăm dọa sự tồn tại của chính ta. Trong trường hợp đó, chủ thể phải tìm sự trú ẩn nơi các Ý niệm của lý tính thực hành để “cân đối” lại với hiểm nguy ấy.

Trong khi cái cao cả-toán học – giống với cái đẹp – không gắn liền với sự quan tâm nào, thì cái cao cả-năng động tỏ ra có sự nối kết nội tại với sự quan tâm đến các Ý niệm của lý tính thực hành.

Dù các ví dụ của Kant về cái cao cả chủ yếu là những đối tượng của giới Tự nhiên, nhưng ông không loại trừ rằng những tác phẩm nghệ thuật cũng có tính cao cả [tất nhiên cũng theo nghĩa chủ quan] [B122 và tiếp]. Theo Kant, cái cao cả của nghệ thuật phải gắn liền với cái đẹp, nhưng tiếc rằng ông không đi sâu nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai phạm trù mỹ học cơ bản này.

3. Một khía cạnh khác cũng đáng chú ý, liên quan đến mối quan hệ giữa cái cười hay tính buồn cười với cái cao cả. Kant cũng bàn khá nhiều về tiếng cười và tính hài hước [B225 và tiếp] như một “phản ứng giải thoát”, nhưng không thấy ông gắn nó với cái cao cả. Burke đã nhận xét rằng cái cao cả không phải là sự “đe dọa” thực sự, vì thế, là “vô hại”. Thomas Paine, ngay từ 1794, trong The Age of Reason, cũng đã viết: “Khi những nhà văn và những nhà phê bình nói về cái cao cả, họ không thấy nó gần gũi với cái buồn cười đến mức nào”. Muộn hơn, mấy ai không biết đến câu nói nổi tiếng của Napoléon khi tháo chạy khỏi nước Nga: “Từ cái cao cả đến cái kỳ cục chỉ là một bước nhỏ” [“Du sublime au ridicule il n’ya qu’un pas”]. J. F. Lyotard lấy cái cao cả làm khái niệm trung tâm cho mỹ học của mình[1] chắc hẳn đã biết đến điều này, nhưng Lyotard cũng không đề cập đến mối quan hệ ấy. Lý do phải chăng là vì Kant đã quá nhấn mạnh đến “sự thăng hoa” của các Ý niệm của lý tính và Lyotard quá nhấn mạnh đến phương diện “hùng tráng” và “nghiêm chỉnh” của trào lưu “văn nghệ tiền phong”?


[1] Xem E. Burke, A Philosophical Enquiry into the Origin of Our Ideas of the Sublime and Beautiful, [1757], London. Bản tiếng Đức: Vom Erhabenen und Schönen/Về cái cao cả và cái đẹp, Hamburg 1980.

Video liên quan

Chủ Đề