Quy hoạch tổng the hàng không là gì

Phối cảnh dự kiến sân bay Quảng Trị - 1 trong 6 sân bay được đề xuất xây dựng trong số 29 sân bay đã quy hoạch trong 10 năm tới - Ảnh: T&T

Nội dung này thể hiện trong thông báo kết luận của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay [gọi chung là sân bay] toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được Văn phòng Chính phủ ban hành ngày 24-12.

Theo kết luận của Thủ tướng, Thường trực Chính phủ cơ bản thống nhất nội dung của quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 do Bộ Giao thông vận tải trình.

Để sớm phê duyệt quy hoạch, Thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải tiếp thu đầy đủ ý kiến tại cuộc họp, rà soát kỹ, hoàn thiện nội dung và trình Thủ tướng phê duyệt. Trong đó, quy hoạch phải bảo đảm các yêu cầu sau:

Bám sát các nghị quyết của Đảng, Chính phủ, cụ thể hóa chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm đã được Đại hội lần thứ XIII của Đảng thông qua; cập nhật các nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết về quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 để dự báo cho 5 năm, 10 năm tiếp theo giúp cho công tác dự báo tốt hơn;

Có tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, tính đến các yếu tố văn hóa, phát triển đô thị sân bay trong thời gian trước mắt và lâu dài, có kế thừa, đổi mới và định hướng phát triển;

Nâng cao tính chính xác của việc dự báo, có tính bao quát hơn, có chiều sâu hơn, phát triển nhanh hơn, phù hợp với sự phát triển của công nghệ mới, của đất nước, sự gia tăng dân số, nhu cầu của thị trường với tốc độ nhanh hơn trong thời gian tiếp theo; rà soát quy mô, số lượng các sân bay bảo đảm phát triển lâu dài;

Làm rõ tiêu chuẩn, tiêu chí, điều kiện, quy trình để xác định loại hình, quy mô sân bay quốc tế, quốc nội;

Rà soát quy mô, công suất của cụm sân bay Đà Nẵng, Chu Lai để phù hợp với không gian phát triển của từng sân bay và khu vực;

Quy hoạch sân bay phải liên hoàn, đồng bộ, kết nối và thúc đẩy các quy hoạch loại hình giao thông vận tải khác, góp phần thúc đẩy, phát triển ngành giao thông vận tải, giảm chi phí logistics, phát triển kinh tế xã hội của địa phương, nhất là kết nối vùng và liên vùng, nâng cao lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế, có tính đến cân đối vùng miền, khu vực.

Quy hoạch phải gắn kết với công tác bảo đảm an ninh quốc phòng, đối ngoại; bảo đảm tính lưỡng dụng trong khai thác. Phối hợp với Bộ Quốc phòng để thống nhất phương án sử dụng đất cho khai thác lưỡng dụng dân dụng và quân sự tại sân bay [trừ những vị trí đất mang tính chiến lược do quân đội quản lý không thể kết hợp] trong quá trình quy hoạch chi tiết mỗi sân bay.

Phải đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư, tăng cường hợp tác công tư, huy động các nguồn lực của xã hội để thực hiện quy hoạch. Các lĩnh vực quản lý không lưu, cấp phép, quản lý xuất nhập cảnh do cơ quan quản lý nhà nước thực hiện theo quy định. Xây dựng lộ trình triển khai đầu tư phù hợp theo quy hoạch cho các khoảng thời gian 5 năm, 10 năm và 25 năm.

Thủ tướng giao Phó thủ tướng Lê Văn Thành thay mặt Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo, ký quyết định phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2045.

Đầu tư xây 6 sân bay đã quy hoạch trong 10 năm tới

TUẤN PHÙNG

Máy bay đậu tại Cảng hàng không quốc tế Nội Bài. [Ảnh: TTXVN]

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành vừa có ý kiến về kiến nghị của Bộ Giao thông Vận tải phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Cụ thể, Phó Thủ tướng giao Bộ Giao thông Vận tải rà soát kỹ các nội dung của Quy hoạch tổng thể cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 bảo đảm phù hợp với chỉ tiêu sử dụng đất phát triển hạ tầng tại Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV; chuẩn bị báo cáo Thường trực Chính phủ về nội dung quy hoạch, trong đó nêu rõ việc xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí, quy trình lựa chọn quy hoạch hệ thống cảng hàng không.

Theo Tờ trình của Bộ Giao thông Vận tải trình Chính phủ, giai đoạn năm 2021-2030 sẽ ưu tiên tập trung đầu tư một số cảng hàng không lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng Thủ đô Hà Nội [Cảng hàng không quốc tế Nội Bài] và vùng Thành phố Hồ Chí Minh [Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất và Long Thành]; từng bước nâng cấp và khai thác có hiệu quả 22 cảng hàng không hiện hữu, đầu tư 6 cảng hàng không mới để nâng tổng số cảng hàng không của cả nước đưa vào khai thác lên 28 cảng, tổng công suất thiết kế hệ thống cảng hàng không đáp ứng khoảng 278 triệu hành khách, bảo đảm trên 95% dân số có thể tiếp cận tới cảng trong phạm vi 100km.

Đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng, thiết bị quản lý bay theo hướng đồng bộ, hiện đại, ngang tầm khu vực, đáp ứng nhu cầu vận tải. Từng bước đầu tư các trung tâm logistics, trung tâm đào tạo, huấn luyện bay, bảo dưỡng sửa chữa máy bay và hệ thống trang thiết bị bảo đảm hoạt động bay.

Mạng cảng hàng không được quy hoạch theo mô hình trục nan với 2 đầu mối chính tại khu vực Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, hình thành 28 cảng hàng không, bao gồm 14 cảng hàng không quốc tế [Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc], 14 cảng hàng không quốc nội [Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau và Côn Đảo].

Duy trì vị trí quy hoạch Cảng hàng không quốc tế Hải Phòng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 640/2011 để thay thế cho Cảng hàng không quốc tế Cát Bi giai đoạn sau năm 2030.

[Tập trung hoàn thành giai đoạn 1 dự án sân bay Long Thành vào năm 2025]

Tầm nhìn đến năm 2050, hình thành 29 cảng hàng không, bao gồm 14 cảng quốc tế [Vân Đồn, Hải Phòng, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc] và 15 cảng quốc nội [Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Cao Bằng, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo].

Đặc biệt, trong giai đoạn này sẽ hình thành cảng thứ 2 hỗ trợ cho Cảng hàng không quốc tế Nội Bài về phía Đông Nam Hà Nội và một số cảng hàng không, sân bay tại các đảo, quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và có điều kiện tự nhiên thuận lợi.

Bộ Giao thông Vận tải cũng đề xuất danh mục dự án quan trọng quốc gia, dự án ưu tiên đầu tư. Trong đó, ưu tiên đầu tư xây dựng mở rộng, nâng cấp các cảng hàng không quốc tế lớn đóng vai trò đầu mối, như xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1 đạt công suất 25 triệu hành khách/năm; xây dựng nhà ga T3 Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất đạt công suất 20 triệu hành khách/năm; mở rộng nhà ga T2 Cảng hàng không quốc tế Nội Bài [nâng công suất lên 15 triệu hành khách/năm], xây dựng đường cất hạ cánh số 3, nhà ga T3 Cảng hàng không quốc tế Nội Bài về phía Nam của cảng...

Đầu tư xây dựng mở rộng, xây dựng mới các cảng tại vùng sâu, vùng xa, vùng núi, hải đảo, như: Điện Biên, Côn Đảo, Sa Pa, Pleiku...; đầu tư xây dựng, mở rộng các cảng bảo đảm quốc phòng-an ninh, như xây dựng khu bay và khu hàng không dân dụng cảng hàng không Phan Thiết, Thọ Xuân...; mở rộng các cảng đáp ứng nhu cầu vận tải: Phú Bài, Đồng Hới, Cát Bi, Vinh, Đà Nẵng, Chu Lai, Phù Cát, Cam Ranh, Liên Khương.../.

[TTXVN/Vietnam+]

Quy hoạch hàng không theo mô hình trục nan

[ĐCSVN] – Mạng cảng hàng không toàn quốc giai đoạn 2021 - 2030 được quy hoạch theo mô hình trục nan với 2 đầu mối chính tại khu vực Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh [TP.HCM], hình thành 28 cảng hàng không, bao gồm 14 cảng hàng không quốc tế và 14 cảng hàng không quốc nội.

Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn là trong 14 cảng quốc tế kết nối theo dạng trục nan tới Hà Nội và TP.CM giai đoạn 2021 - 2030.

Ngày 11/11, Cục Hàng không Việt Nam cho biết: Bộ Giao thông Vận tải [GTVT] đã trình Chính phủ Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Trong đó, giai đoạn năm 2021 – 2030, sẽ ưu tiên tập trung đầu tư một số cảng hàng không lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng Thủ đô Hà Nội [Cảng hàng không Nội Bài] và vùng TP.HCM [Cảng hàng không Tân Sơn Nhất và Long Thành] nhằm từng bước nâng cấp và khai thác có hiệu quả 22 cảng hàng không hiện hữu, đầu tư 6 cảng hàng không mới để nâng tổng số cảng hàng không của cả nước đưa vào khai thác lên 28 cảng, tổng công suất thiết kế hệ thống cảng hàng không đáp ứng khoảng 278 triệu hành khách, bảo đảm trên 95% dân số có thể tiếp cận tới cảng trong phạm vi 100km. Đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng, thiết bị quản lý bay theo hướng đồng bộ, hiện đại, ngang tầm khu vực, đáp ứng nhu cầu vận tải. Từng bước đầu tư các trung tâm logistics, trung tâm đào tạo, huấn luyện bay, bảo dưỡng sửa chữa máy bay và hệ thống trang thiết bị bảo đảm hoạt động bay.

Mạng cảng hàng không được quy hoạch theo mô hình trục nan với 2 đầu mối chính tại khu vực Hà Nội và TP.HCM, hình thành 28 cảng hàng không, bao gồm 14 cảng hàng không quốc tế: Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc; và 14 cảng hàng không quốc nội: Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau và Côn Đảo.

Duy trì vị trí quy hoạch cảng hàng không quốc tế Hải Phòng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 640/2011 để thay thế cho cảng hàng không quốc tế Cát Bi giai đoạn sau năm 2030.

Đến giai đoạn năm 2050, hình thành 29 cảng hàng không, bao gồm 14 cảng quốc tế: Vân Đồn, Hải Phòng, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc; và 15 cảng quốc nội: Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Cao Bằng, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo.

Đáng chú ý, trong giai đoạn này sẽ hình thành cảng thứ 2 hỗ trợ cho cảng hàng không quốc tế Nội Bài về phía Đông Nam Thủ đô Hà Nội và một số cảng hàng không, sân bay tại các đảo, quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Ngoài ra, Bộ GTVT còn đề xuất danh mục dự án quan trọng quốc gia, dự án ưu tiên đầu tư. Cụ thể, ưu tiên đầu tư xây dựng mở rộng, nâng cấp các cảng hàng không

Bộ GTVT cũng đề xuất danh mục dự án quan trọng quốc gia, dự án ưu tiên đầu tư. Trong đó, ưu tiên đầu tư xây dựng mở rộng, nâng cấp các cảng hàng không quốc tế lớn đóng vai trò đầu mối như: xây dựng cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1 đạt công suất 25 triệu hành khách/năm; xây dựng nhà ga T3 - CHK quốc tế Tân Sơn Nhất đạt công suất 20 triệu hành khách/năm; mở rộng nhà ga T2 - CHK quốc tế Nội Bài [nâng công suất lên 15 triệu hành khách/năm], xây dựng đường cất hạ cánh số 3, nhà ga T3 – cảng hàng không quốc tế Nội Bài về phía nam của Cảng...

Đầu tư xây dựng mở rộng, xây dựng mới các cảng tại vùng sâu, vùng xa, vùng núi, hải đảo như: Điện Biên, Côn Đảo, Sa Pa, Pleiku...; đầu tư xây dựng, mở rộng các cảng bảo đảm quốc phòng - an ninh như: xây dựng khu bay và khu hàng không dân dụng cảng hàng không Phan Thiết, Thọ Xuân,...; mở rộng các cảng đáp ứng nhu cầu vận tải: Phú Bài, Đồng Hới, Cát Bi, Vinh, Đà Nẵng, Chu Lai, Phù Cát, Cam Ranh, Liên Khương...

Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 khoảng 400.000 tỷ đồng [chiếm khoảng 22% nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành], được huy động nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn ngoài ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác.

Để thực hiện quy hoạch, Bộ GTVT đề xuất nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật [luật và các nghị định liên quan] để có thể huy động nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tư theo phương thức nhượng quyền đầu tư, khai thác cảng hàng không. Xây dựng và ban hành quy định về lựa chọn nhà đầu tư đối với công trình dịch vụ chuyên ngành hàng không tại cảng.

Nghiên cứu xây dựng cơ chế đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng cảng, công trình bảo đảm hoạt động bay, phục vụ dùng chung hàng không dân dụng và quân sự trên đất do quốc phòng quản lý; xây dựng cơ chế chuyển sân bay chuyên dùng thành cảng quốc nội khi sân bay chuyên dùng có nhu cầu khai thác các chuyến bay thường lệ và có cơ sở hạ tầng bảo đảm phục vụ hành khách công cộng.

Bên cạnh đó, trong tờ trình của Bộ GTVT cũng nêu rõ về giải pháp huy động vốn đầu tư đối với cảng mới, sẽ huy động tối đa nguồn vốn của xã hội đầu tư theo phương thức đối tác công tư. Giao UBND các tỉnh, thành phố có quy hoạch cảng hàng không mới là cơ quan có thẩm quyền để huy động, cân đối nguồn lực và tổ chức thực hiện đầu tư.

Đối với cảng hiện đang khai thác, Bộ GTVT đề xuất nghiên cứu xây dựng cơ chế phân cấp quản lý các cảng để địa phương có thể huy động nguồn lực đầu tư nâng cấp, mở rộng các cảng phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Nghiên cứu xây dựng cơ chế tài chính để doanh nghiệp cảng và doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bảo đảm hoạt động bay đủ năng lực tự đầu tư, quản lý và khai thác các công trình kết cấu hạ tầng sân bay và công trình kỹ thuật bảo đảm hoạt động bay.

Riêng các cảng quan trọng quốc gia, các cảng có hoạt động quân sự chiến lược về quốc phòng, an ninh và các cảng khu vực biên giới, hải đảo sẽ ưu tiên sử dụng nguồn lực của Nhà nước [doanh nghiệp Nhà nước và ngân sách Nhà nước] để đầu tư./.

Tin, ảnh: KC

Video liên quan

Chủ Đề