Người ký hiến pháp là ai

Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, tại Nhà hát Lớn Hà Nội. [Ảnh tư liệu]

[Stxdd.thanhuytphcm.vn] - 75 năm trước, ngày 9/11/1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Dù đã 3/4 thế kỷ trôi qua, nhưng tư tưởng vượt thời đại của bản Hiến pháp này vẫn vẹn nguyên những giá trị sâu sắc, đặc biệt là tư tưởng về quyền con người, quyền công dân...

Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của chính quyền nhân dân là tổng tuyển cử tự do và soạn thảo hiến pháp. Ngày 20/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 34-SL thành lập Ủy ban Dự thảo Hiến pháp, gồm 7 thành viên: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy [cựu hoàng Bảo Đại], Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu [Trường Chinh].

Ngày 2/3/1946, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa I đã bầu Ban Dự thảo Hiến pháp [Tiểu ban Hiến pháp] chịu trách nghiên cứu dự thảo hiến pháp, gồm 11 thành viên. Ngày 29/10/1946, Tiểu ban được mở rộng thêm 10 đại biểu đại diện cho các nhóm, các vùng và đồng bào thiểu số để tu chỉnh dự thảo và trình ra Quốc hội ngày 2/11/1946 để Quốc hội thảo luận, sửa chữa và thông qua.

Bản Hiến pháp được Quốc hội thông qua vào ngày 9/11/1946, tại kỳ họp thứ 2, với 240 phiếu tán thành trên tổng số 242 phiếu, gồm 7 chương, 70 điều.

Lời nói đầu khẳng định 3 nguyên tắc cơ bản: “Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo”; “Đảm bảo các quyền tự do dân chủ”; “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”.

Chương I quy định chính thể của Việt Nam là dân chủ cộng hòa.

Chương II quy định nghĩa vụ và quyền lợi công dân, xác nhận sự bình đẳng về mọi phương diện của tất cả công dân Việt Nam trước pháp luật.

Chương III quy định về nghị viện nhân dân.

Chương IV quy định về chính phủ - cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc.

Chương V quy định phương diện hành chính, bộ, tỉnh, huyện, xã; quy định về cơ quan hành chính [ủy ban hành chính và hội đồng nhân dân] các cấp.

Chương VI quy định về cơ quan tư pháp bao gồm tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp.

Chương VII quy định về việc sửa đổi Hiến pháp, trong đó có quyền phúc quyết hiến pháp của dân.

Sau khi Hiến pháp được thông qua, Quốc hội ra nghị quyết giao nhiệm vụ cho Ban Thường trực Quốc hội “cùng với chính phủ ban bố và thi hành Hiến pháp khi có điều kiện”, “trong thời kỳ chưa thi hành được Hiến pháp thì chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã định trong Hiến pháp để ban hành các sắc luật”. Tuy nhiên, ngày 19/12/1946, toàn quốc kháng chiến, vì vậy, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân không có điều kiện để thực hiện, do đó Hiến pháp 1946 chưa chính thức được thi hành trong thực tiễn.

Với Hiến pháp năm 1946, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, hai tiếng thiêng liêng “công dân” đã được ghi nhận trong văn bản pháp lý cao nhất của quốc gia. Hiến pháp quy định tất cả công dân Việt Nam ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa và đều bình đẳng trước pháp luật, đồng thời hiến định về nghĩa vụ gắn liền với quyền của công dân, đó là người dân được hưởng các quyền do Hiến pháp quy định nhưng phải có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng Hiến pháp và tuân theo pháp luật. Sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến, lần đầu tiên những đối tượng chịu thiệt thòi trong xã hội như đồng bào dân tộc thiểu số đã được Hiến pháp 1946 quan tâm. Quyền bình đẳng phụ nữ, việc chăm sóc người già, người tàn tật, trẻ em đã được ghi trang trọng trong Hiến pháp…

Nghị quyết của Quốc hội ủy nhiệm cho Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội thi hành Hiến pháp 1946. [Ảnh tư liệu]

Giáo sư luật học Phạm Duy Nghĩa đã khẳng định Hiến pháp 1946 là “bản hiến văn dân chủ vào loại bậc nhất Đông Nam châu Á lúc bấy giờ” và “đã có thể là một bản khế ước tốt để ràng buộc và khống chế công bộc với lợi ích của ông chủ nhân dân”. Theo ông, Hiến pháp 1946 vẫn phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam và “vẫn còn nguyên giá trị cho một xã hội dân chủ pháp quyền ở Việt Nam”. Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn, Đại học Saarland, Cộng hòa liên bang Đức, cho rằng, điểm khác biệt và là nét độc đáo của Hiến pháp 1946 so với các bản Hiến pháp sau này là không theo bất kỳ một nguyên mẫu hiến pháp nào có sẵn trong lịch sử. Sau khi Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công, có một bản hiến pháp rất nổi tiếng và có hiệu lực ở Liên Xô thời điểm đó là Hiến pháp năm 1936, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa Mác – Lênin, cũng không xem đây là khuôn mẫu khi xây dựng Hiến pháp 1946.

Những quy định của Hiến pháp 1946, nhất là về quyền con người, quyền công dân, đã được các bản hiến pháp sau này kế thừa, phát triển, đặc biệt là trong Hiến pháp 2013. Hiến pháp 1946 quy định rất cụ thể rằng khi tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm công dân Việt Nam. Hiến pháp quy định không ai được xâm phạm nhà ở và thư tín một cách trái pháp luật. Quyền tư hữu tài sản của công dân được Hiến pháp bảo đảm. Điều 10 Hiến pháp 1946 quy định rõ ràng các quyền tự do cá nhân: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.

Điều thứ 30 Hiến pháp 1946 quy định Nghị viện họp công khai thì người dân được vào nghe.

Hiến pháp 1946 cũng quy định quyền sửa đổi Hiến pháp là quyền của toàn dân, tức người dân phúc quyết Hiến pháp. Điều 70 quy định: “Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức:

a] Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu.

b] Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi.

c] Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”.

Có thể thấy, Hiến pháp năm 1946 đã hiến định những quy định tiến bộ so với thực tiễn lịch sử thế giới khi ấy. Nhiều các giá trị, các quy định của bản Hiến pháp này vẫn còn giá trị lớn đối với hôm nay. Các quy định về bảo đảm quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp 1946 khẳng định tính ưu việt của chính quyền nhân dân khi ấy.

Ngọc Anh

Tin liên quan

Hiến pháp: của ai, do ai, vì ai?

Chụp lại hình ảnh,

Đa số đại biểu Quốc hội Việt Nam là đảng viên đảng cộng sản

Năm 2009, Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu Khoa học, Văn phòng Quốc hội Việt nam đã biên soạn cuốn sách: ‘Tuyển tập Hiến pháp của một số nước trên thế giới’.

Năm bản hiến pháp được chọn biên dịch và giới thiệu là của Mỹ, Nga, Nhật, Pháp và Trung Quốc.

Và ba năm sau đó, Trung tâm này lại giới thiệu Tập 2 của Tuyển tập Hiến pháp. Bốn Hiến pháp được chọn lần này là của Ba Lan, Hàn Quốc, Ý và Tây Ban Nha.

Thử so sánh Bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 [hay Hiến pháp sửa đổi] vừa được trình Quốc hội xem xét và sẽ thông qua với Hiến pháp của Mỹ, Pháp, Nhật và Hàn Quốc – bốn nước dân chủ và phát triển – để xem có gì khác biệt.

Theo Chỉ số Dân chủ của The Economist Intelligence Unit [Anh], năm 2012 Hàn Quốc, Mỹ và Nhật là những nước ‘dân chủ toàn diện’, trong khi đó Pháp thuộc vào nhóm các nước ‘dân chủ khiếm khuyết’. Còn Chỉ số Tự do của Freedom House năm 2013 đều xếp bốn nước này vào những nước tự do. Do do, có thể nói bốn nước này là những quốc gia dân chủ và tự do.

Về kinh tế, Mỹ, Pháp, Nhật và Hàn quốc đều là những nước giàu, phát triển. Ba nước đầu thuộc nhóm G8 và Hàn Quốc là thành viên của nhóm G20. Cũng nên nhắc lại rằng, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật là một nước bại trận với một nền kinh tế kiệt quệ. Nam Hàn lúc ấy cũng không phát triển gì, thậm chí được cho rằng còn thua kém miền Nam Việt Nam trong những năm 1950.

Về Hiến pháp, ngoại trừ Mỹ có Hiến pháp lâu đời – được soạn thảo vào năm 1787 và có hiệu lực từ năm 1789 – Hiến pháp hiện hành của Nhật, Hàn Quốc và Pháp tương đối mới.

Hiến pháp Nhật được ban hành năm 1946 và Hiến pháp Hàn Quốc được thông qua năm 1948.

Riêng Hiến pháp Hàn quốc, từ năm 1948 đến giờ đã được sửa đổi đến tám lần, với lần sửa cuối cùng vào năm 1987. Còn Hiến pháp hiện tại của Pháp, thuộc nền Cộng hòa thứ năm, được thông qua vào năm 1958.

'Thuộc về nhân dân'

Dù ra đời vào những thời điểm khác nhau, trong những bối cảnh khác nhau và nội dung cũng có nhiều điểm khác nhau, Hiến pháp của bốn quốc gia này đều là những Hiến pháp tiến bộ, dân chủ, được soạn thảo [và sửa đổi] nhằm bảo đảm quyền lợi của người dân và giúp đất nước phát triển, phồn thịnh.

Lướt qua ngôn từ, nội dung hay mục đích của bốn bản Hiến pháp này có thể thấy rõ điều đó.

Lời nói đầu của Hiến pháp Mỹ – một Hiến pháp nổi tiếng, được nhiều quốc gia tham khảo, tiếp thu vì rất khoa học, tiến bộ và nhân bản – thật ngắn gọn nhưng nêu rõ năm mục đích của Hiến pháp, trong đó có việc xây dựng một Liên bang hoàn hảo hơn, thiết lập công lý, thúc đẩy sự thịnh vượng và giữ vững nền tự do.

Còn Lời nói đầu của Hiến pháp Pháp nêu rõ rằng nhân dân Pháp ‘thiết tha gắn bó với các quyền con người và các nguyên tắc chủ quyền thuộc về nhân dân như đã được quy định trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1789, được khẳng định và bổ sung trong Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946’.

Tương tự, trong Lời nói đầu của mình, Hiến pháp Nhật cũng ‘khẳng định chủ quyền thuộc về nhân dân ... Chính phủ là nơi nhân dân trao quyền lực của mình, thay mặt cho nhân dân và hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Đó là nguyên tắc cơ bản, là nền tảng của bản Hiến pháp này’.

Điều 1 của Hiến pháp Hàn quốc cũng ghi rõ ‘chủ quyền Cộng hòa Hàn Quốc thuộc về nhân dân, và tất cả các quyền lực nhà nước phải được bắt nguồn từ nhân dân’.

Nguyên tắc ‘chủ quyền thuộc về nhân dân’ – một nguyên tắc nền tảng của bốn Hiến pháp trên – còn được thể hiện qua việc Lời mở đầu của bốn Hiến pháp ấy đều được bắt đầu bằng: ‘Chúng ta, nhân dân ...’, hoặc ‘Chúng ta, những người dân ...’, hoặc ‘Chúng tôi, nhân dân ...’ hay ‘Nhân dân ...’.

Điều này cũng chứng tỏ rằng quyền hiến định ở bốn quốc gia đó hoàn toàn thuộc về nhân dân.

Hơn nữa, không một Hiến pháp nào trong bốn Hiến pháp ấy lấy một hệ tư tưởng, chủ nghĩa nào đó làm ‘ánh sáng’ chỉ đường hay làm tư tưởng nền tảng cho mình. Cả bốn Hiến pháp cũng không nêu cụ thể tên một đảng phái chính trị hay một nhân vật lịch sử nào, hoặc quy định một đảng phái, giai cấp nào đó là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Trong bốn nước này, chỉ có Nhật là một nước có chế độ quân chủ lập hiến. Tuy vậy, Hiến pháp Nhật hiến định rõ Nhật Hoàng chỉ ‘là biểu tượng của quốc gia và cộng đồng dân tộc’ và ‘vị trí của Hoàng đế xuất phát từ ý chí nguyện vọng của người dân’. Hơn nữa, ‘mọi hoạt động của Hoàng đế liên quan đến quốc gia phải tham khảo ý kiến và được Nội các thông qua’.

Một điểm khác đáng lưu ý của bốn Hiến pháp này là chúng được xây dựng trên nguyên tắc – hay theo mô hình – tam quyền phân lập. Nguyên tắc phân quyền này nhằm giúp ba nhánh có thể kiểm, giám sát lẫn nhau, tránh tình trạng một cơ quan hay cá nhân nào nắm quyền lực tuyệt đối trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Việc bộ máy Nhà nước được tổ chức theo mô hình này cũng là một cách để giúp các cơ quan Nhà nước thực sự hoạt động vì lợi ích của nhân dân.

'Hiến pháp của Đảng?'

Chụp lại hình ảnh,

Hiến pháp sửa đổi vẫn khẳng định Đảng Cộng sản VN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội

Nếu bốn Hiến pháp trên không nêu tên một đảng phái hay một cá nhân nào, Hiến pháp sửa đổi của Việt Nam nhắc đến Đảng Cộng sản Việt Nam [ĐCS], Chủ tịch Hồ Chí Minh và những ‘gian khổ’, ‘hy sinh’, ‘thắng lợi’, ‘thành tựu’ của ĐCS và của Hồ Chí Minh ngay trong Lời nói đầu.

Một điểm khác biệt khác nữa là Lời nói đầu của Hiến pháp sửa đổi này lại trịnh trọng nhắc đến chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh – được coi là ‘ánh sáng’ chỉ đường hay ‘tư tưởng nền tảng’ cho Việt Nam.

Lời nói đầu của một Hiến pháp thường được coi là điểm cốt lõi của Hiến pháp ấy vì nó diễn tả những nguyên tắc, bản chất, mục đích chính yếu của Hiến pháp đó. Nhận định này rất đúng với bốn bản Hiến pháp trên và cũng đúng với Hiến pháp sửa đổi của Việt Nam.

Dù Điều 2 của Hiến pháp sửa đổi quy định ‘Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân’, Điều 4 lại nêu rõ ‘Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội’.

Điều 4 này còn khẳng định ĐCS là ‘đội tiên phong ... của dân tộc Việt Nam’ và ‘đại biểu trung thành lợi ích của ... cả dân tộc’. Đây là một điều gây nhiều tranh cãi và phản đối trong quá trình góp ý sửa đổi Hiến pháp. Chẳng hạn, kiến nghị của Nhóm 72 nhân sỹ, trí thức hay góp ý của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã nêu lên những phi lý, bất cập của quy định này.

Quy định đó được coi là nghịch lý vì chỉ với khoảng hơn ba triệu đảng viên – lại lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và không được bầu lên qua một cuộc bầu cử nào – ĐCS khó có thể – nếu không muốn nói là không thể – được xem là ‘đại biểu trung thành lợi ích ... của cả dân tộc’ và ‘là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội’ trong một đất nước có đến 90 triệu dân, thuộc nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau.

Những quy định tương tự như thế đã không được ghi trong bốn Hiến pháp trên và chắc cũng không thể được đưa vào trong bất cứ Hiến pháp của một nước dân chủ nào.

Lời nói đầu của Hiến pháp Ba Lan có đề cập đến di sản Kitô giáo. Nhưng di sản ấy được nhắc đến vì từ bao đời này đa số người dân Ba Lan là Công giáo. Hơn nữa, Lời nói đầu ấy cũng đề cập đến những giá trị phổ quát phát sinh từ những nguồn gốc khác.

'Sao chép Trung Quốc'

Vì hiến định Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, toàn bộ bộ máy Nhà nước – từ Quốc hội, Chính phủ đến Tòa án – hiển nhiên đều phải chịu sự điều khiển, lãnh đạo gián tiếp hay trực tiếp của ĐCS. Đây cũng là một điểm khác biệt lớn nữa giữa Hiến pháp sửa đổi của Việt Nam và Hiến pháp của các nước dân chủ.

Và cũng vì trao cho Đảng Cộng sản quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lại chọn chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, phải chăng bản Hiến pháp sửa đổi này vẫn là một văn bản hiến pháp ‘của’, ‘do’ và ‘vì’ Đảng Cộng sản Việt nam hơn là ‘của’, ‘do’ và ‘vì’ Nhân dân Việt Nam?

Còn có nhiều điểm khác biệt lớn nữa giữa Hiến pháp Mỹ, Pháp, Nhật và Hàn Quốc và Hiến pháp sửa đổi của Việt Nam.

Hiến pháp Việt Nam hiện hành có rất nhiều điểm tương đồng với Bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp của Việt Nam và Hiến pháp hiện hành của Trung Quốc, có hiệu lực từ năm 1982.

Chẳng hạn, Lời nói đầu dài đến bốn trang của Hiến pháp Trung Quốc cũng liệt kê vô số những hy sinh, công lao, thắng lợi của Đảng Cộng sản Trung quốc, của Mao Trạch Đông và khẳng định Trung Quốc ‘sẽ tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, với sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông’.

Và vì vậy, dù đã trở thành cường quốc kinh tế thứ hai của thế giới [tính theo sản lượng quốc gia], giống như Việt Nam, Trung Quốc vẫn bị The Economist Intelligence Unit liệt vào các nước có chế độ độc đoán khi xếp nước này thứ 142 và Việt Nam thứ 144 trong số 167 nước vào năm 2012.

Còn theo Freedom House năm 2013, cả Việt Nam và Trung Quốc đều không có tự do.

Daniel Webster [1782-1852], một Thượng Nghị sỹ và từng là Bộ trưởng Ngoại giao của Mỹ, đã có câu nói nổi tiếng vào năm 1837: ‘One country, one constitution, one destiny’ [tạm dịch là ‘một đất nước, một hiến pháp, một định mệnh’].

Câu nói ấy có thể đúng vì, như thực tế cho thấy, phần lớn bản chất của Hiến pháp của một quốc gia sẽ quyết định số phận của quốc gia ấy.

Nhờ có một bản Hiến pháp tiến bộ, văn minh và khoa học nước Mỹ thành đã trở thành một quốc gia giàu mạnh, dân chủ, tự do. Từ một quốc gia bại trận, Nhật đã trở thành một cường quốc kinh tế. So với Bắc Hàn, Nam Hàn vượt trội trên tất cả mọi mặt. Có được những thành công như vậy một phần – nếu không muốn nói là phần lớn – cũng vì hai nước này biết xây dựng Hiến pháp của mình trên nền tảng dân chủ, tự do.

Đúng vậy, nếu có một Hiến pháp thực sự khoa học, tiến bộ và nhân bản, chắc chắn quốc gia ấy sớm hay muộn sẽ tiến tới giàu mạnh, tự do, dân chủ.

'Có thực tham khảo?'

Chụp lại hình ảnh,

Quốc hội Việt Nam dự kiến thông qua hiến pháp sửa đổi trong vòng 3 tuần tới

Khi soạn thảo Tuyển tập Hiến pháp, Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu Khoa học muốn cung cấp ‘một tài liệu tham khảo bổ ích cho các độc giả, nhất là các đại biểu Quốc hội phục vụ cho quá trình thực hiện các nhiệm vụ của mình’.

Đặc biệt, Tập 2 được biên soạn chủ yếu nhằm giúp các các đại biểu Quốc hội, các nhà nghiên cứu và độc giả có một tài liệu để tham khảo trong quá trình nghiên cứu và sửa đổi Hiến pháp 1992.

Câu hỏi đặt ra là có bao nhiêu đại biểu Quốc hội và bao nhiều người trong Ban soạn thảo Bản sửa đổi Hiến pháp hay trong giới lãnh đạo Việt Nam nói chung thực sự tham khảo các Hiến pháp ấy và đặc biệt dám mạnh dạn tiếp nhận những điểm tiến bộ của chúng?

Xem ra con số đó không nhiều vì hầu như những điểm quan trọng – chẳng hạn Điều 4 hay quy định về sở hữu đất đai – được giới nhân sỹ, trí thức và người dân góp ý, không được đưa ra thảo luận một cách nghiêm túc hay hoàn toàn bị bác bỏ.

Đó cũng là điều làm nhiều người thất vọng và – khác với thời gian đầu – không còn mặn mà với việc Hiến pháp sửa đổi được trình Quốc hội xem xét và thông qua.

Và đâu đó cũng có người cho rằng với tình hình chính trị hiện nay không thể trông chờ vào những người cộng sản tự nguyện xây dựng một Hiến pháp phục vụ lợi ích của toàn dân tộc, mà phải hoàn toàn trông chờ vào người dân Việt Nam. Cũng theo ý kiến này để có một Hiến pháp như vậy phải chờ đến lúc người dân hiểu biết quyền lợi của mình và dám đứng lên đòi hỏi quyền lợi ấy và đó là một tiến trình rất xa.

Nếu vậy, Việt Nam vẫn còn phải chờ. Có điều thế giới luôn thay đổi, thay đổi rất nhanh và không ai chờ mình. Nếu giới lãnh đạo và người dân Việt Nam không nắm bắt cơ hội và xây dựng một Hiến pháp như thế lúc này thì Việt Nam vẫn phải chờ và tiếp tục tụt hậu.

Bài viết phản ánh quan điểm riêng và và văn phong của tác giả, hiện là nghiên cứu viên tại Viện Chính sách Toàn cầu ở Anh.

Video liên quan

Chủ Đề