Võ Nguyên Giáp được mệnh danh là gì

Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm lại chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa [tháng 4/2004]. Ảnh: TRẦN HỒNG

Người trực tiếp tổ chức, giáo dục, rèn luyện, xây dựng Quân đội Thực hiện Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thành lập, gồm 34 cán bộ, chiến sĩ, do đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Ngay sau đó, đồng chí chỉ đạo Đội đánh thắng hai trận đầu ở Phai Khắt, Nà Ngần, tạo khí thế, tinh thần đấu tranh cách mạng cho lực lượng vũ trang [LLVT] và toàn dân. Trên cương vị là Tư lệnh LLVT cách mạng, đồng chí lãnh đạo, chỉ đạo các LLVT phát huy vai trò nòng cốt cùng toàn Đảng, toàn dân tiến hành thắng lợi cuộc Tổng Khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.

Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ đạo xây dựng LLVT ba thứ quân. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đại tướng, bộ đội chủ lực không ngừng lớn mạnh, phối hợp bộ đội địa phương, dân quân du kích, tạo sức mạnh tổng hợp tiêu hao, tiêu diệt số lượng lớn quân địch.

Đại tướng trực tiếp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy nhiều chiến dịch có ý nghĩa chiến lược giành thắng lợi, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ [1954], buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp tổ chức Bộ Tư lệnh Miền, kết hợp thành lập Quân Giải phóng miền nam Việt Nam, bộ đội địa phương với việc đưa các sư đoàn chủ lực từ miền Bắc vào miền Nam.

Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập tại khu rừng Trần Hưng Đạo ở châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Ảnh tư liệu TTXVN

Đồng thời, Đại tướng kiến nghị với Trung ương và chỉ đạo xây dựng QĐND Việt Nam tiến lên chính quy, hiện đại, nâng cao trình độ chỉ huy tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng. Cuối cuộc kháng chiến, Đại tướng đề xuất thành lập các quân đoàn chủ lực, nhằm đáp ứng yêu cầu tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn. Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là minh chứng khẳng định đề xuất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là sáng tạo, chính xác, phù hợp. Dưới sự chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Quân đội ta ngày càng trưởng thành, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Việc chọn Đại tướng là người trực tiếp tổ chức, giáo dục, rèn luyện và xây dựng Quân đội thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối, tầm nhìn chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đánh giá tài thao lược của Đại tướng, Georges Boudarel - Giáo sư sử học người Pháp viết: Võ Nguyên Giáp là nhà quân sự lỗi lạc, vị tướng lĩnh tài ba, nhân vật nổi bật của lịch sử hiện đại Việt Nam và thế giới trong thế kỷ XX..., một thiên tài quân sự lớn nhất của thế kỷ XX và là một trong những thiên tài quân sự lớn nhất của các thời đại.

Ở những thời điểm bước ngoặt, Đại tướng luôn đưa ra quyết định đúng: Đề xuất, chỉ đạo thực hiện “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” đập tan cuộc tiến công của thực dân Pháp lên Việt Bắc [1947]; đổi mục tiêu đánh Cao Bằng sang Đông Khê trong Chiến dịch Biên giới [1950]; phân tán chủ lực cơ động Pháp để tập trung tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ [Đông Xuân 1953 - 1954]. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ [1954], Đại tướng quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, đưa Chiến dịch đến thắng lợi hoàn toàn.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những lãnh đạo đầu tiên của Đảng khẳng định: Phải tiếp tục kháng chiến chống Mỹ để giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Đại tướng là người trực tiếp chỉ đạo xây dựng, bảo vệ tuyến vận tải chiến lược trên bộ, trên biển để chi viện cho chiến trường miền nam; tham mưu mở Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh ghìm lực lượng cơ động chiến lược của địch ở Trị - Thiên, tạo điều kiện cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân [1968] giành thắng lợi lớn; chỉ đạo Quân chủng Phòng không - Không quân đánh bại cuộc tiến công đường không chiến lược của đế quốc Mỹ [1972].

Năm 1975, Đại tướng chỉ đạo tạo lập thế trận hiểm hóc, bất ngờ “điểm huyệt” Buôn Ma Thuột, buộc địch phải rút khỏi Tây Nguyên. Nắm chắc thời cơ chiến lược, Đại tướng đề nghị giải phóng sớm miền nam; chỉ đạo mở chiến dịch giải phóng Huế, Đà Nẵng, quần đảo Trường Sa; thành lập cánh quân phía đông Sài Gòn phối hợp với bốn cánh quân khác và ra mệnh lệnh: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa…”, tiến công tiêu diệt sào huyệt cuối cùng của địch, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng.

Người góp phần quan trọng phát triển lý luận quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam

Quá trình chỉ đạo tác chiến, Đại tướng luôn đưa ra những quyết định táo bạo, quyết đoán, sắc sảo, đúng đắn; “khiển địch, điều địch” buộc chúng phải đánh theo cách đánh của ta. Điều đặc biệt là, kiến thức và tài năng quân sự đều do Đại tướng tự học, tự nghiên cứu. Điều này khiến thế giới khâm phục. Đại tướng Mỹ Westmoreland đánh giá: Võ Nguyên Giáp là “một thống soái quân sự cỡ lớn”; còn Bernard Fall - Sử gia phương Tây khẳng định: Trong một tương lai có thể thấy trước, phương Tây chưa thể đào tạo được một vị tướng nào có thể so sánh kịp với tướng Giáp. Lý luận quân sự Võ Nguyên Giáp là sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, tinh hoa quân sự thế giới, học thuyết quân sự Mác - Lênin, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và đúc rút kinh nghiệm qua thực tiễn chỉ đạo chiến đấu. Đại tướng đề cao công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận khoa học quân sự Việt Nam nhằm tìm ra thêm những quy luật chiến tranh để tiến tới những thắng lợi to lớn hơn. Đại tướng viết nhiều công trình lý luận quân sự, đóng góp to lớn trong hình thành, phát triển lý luận quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Tư tưởng, lý luận quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp biểu hiện rõ trong một loạt vấn đề về đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ; nghệ thuật “lấy yếu địch mạnh”, “lấy nhỏ đánh lớn”, quan hệ giữa tập trung và phân tán; tư tưởng chiến lược tiến công; lý luận chiến tranh du kích; phối hợp tác chiến giữa ba thứ quân; nghệ thuật giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn... Những quan điểm quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp góp phần quan trọng trong phát triển lý luận quân sự Việt Nam giai đoạn cách mạng mới. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn bám sát chủ trương, đường lối của Đảng; giữ vững nguyên tắc lãnh đạo, chỉ huy, đề xuất nhiều chủ trương, biện pháp xác đáng, khoa học, phù hợp. Chưa bao giờ Bộ Chính trị bác bỏ một đề xuất chiến lược nào của Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Đại tướng luôn coi trọng xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, chăm lo giáo dục đạo đức, phẩm chất cách mạng, khả năng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ. Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, ngoại giao, tư tưởng, binh, địch vận; giữa quốc phòng với kinh tế, an ninh… để hoàn thành hai nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc.

Trong Bộ Bách khoa toàn thư Pháp, mục nói về Võ Nguyên Giáp đã viết: Trong Võ Nguyên Giáp, nhà chính trị đi trước nhà quân sự. Đại tướng hết sức coi trọng yếu tố chính trị, tinh thần, xây dựng quyết tâm chiến đấu; quan hệ giữa người chỉ huy với người chiến sĩ; tôn trọng nguyên tắc “Dĩ công vi thượng”.

Đại tướng là vị Tổng Tư lệnh luôn đề cao tính nhân văn, đau với từng vết thương của người lính, tiếc từng giọt máu của chiến binh; là tấm gương tỏa sáng sáu đức tính: “Trí, Dũng, Nhân, Tín, Liêm, Trung”. Tình yêu thương con người của Đại tướng để lại trong cán bộ, chiến sĩ Quân đội, nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế hình ảnh nhà lãnh đạo, nhà chính trị đức độ, tài năng, nhà hoạt động thực tiễn xuất sắc, chiến sĩ cách mạng kiên trung, suốt đời hy sinh vì đất nước, vì nhân dân, vì Quân đội. Hội tụ đủ các phẩm chất cao quý và có những cống hiến đặc biệt xuất sắc đối với cách mạng, Quân đội và nhân dân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cán bộ, chiến sĩ toàn quân mến phục, suy tôn là người “Anh Cả”, xứng đáng là “Tư lệnh của các tư lệnh, Chính ủy của các chính ủy, Tướng của các tướng và Thầy của các bậc thầy quân sự”; nhân dân kính trọng, suy tôn là “Đại tướng của Nhân dân”.

Học tập, noi gương Đại tướng, cán bộ, chiến sĩ toàn quân và lực lượng dân quân tự vệ cả nước tiếp tục phát huy truyền thống Quân đội anh hùng, ra sức thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Trước mắt, tiếp tục phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, xung kích thực hiện các biện pháp ngăn chặn đại dịch Covid-19, góp phần đem lại cuộc sống bình an cho Nhân dân.

Đại tướng, TS PHAN VĂN GIANG, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy T.Ư, Bộ trưởng Quốc phòng
nhandan.vn

ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP – ĐẠI TƯỚNG CỦA NHÂN DÂN

“Có nơi đâu đẹp tuyệt vời/ Như sông, như núi, như người Việt Nam” [Lê Anh Xuân]. Từ dải đất hình chữ S này đã sản sinh ra những con người khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ, tụng ca; trong đó không thể không nhắc đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Người chiến sĩ cách mạng kiên trung, người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thiên tài quân sự, Tổng Tư lệnh - Người “Anh Cả” của Quân đội Nhân dân Việt Nam, một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam.

Ngày đăng : 23/08/2021 Xem với cỡ chữ

Bản in

Chân dung Đại tướng do phóng viên Marc Riboud của hãng thông tấn Magnum thực hiện năm 1969

Sinh ra ở một vùng quê giàu truyền thống tại làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho nghèo, yêu nước; ngay từ nhỏ, Võ Nguyên Giáp luôn toát lên là người thông minh đặc biệt, dù học ở đâu cũng luôn là người đứng đầu, được thầy yêu, bạn mến. Ngay cả những thầy giáo người Pháp cũng rất quý và nể phục. “Anh Giáp hơn tôi một tuổi, nhưng đã có những suy nghĩ của người lớn, còn tôi lúc ấy chỉ là một cậu bé chăm học và ngoan, dễ bảo thế thôi. Các giáo sư Việt cũng như Pháp đều tỏ vẻ bằng lòng đối với hai chúng tôi, nhất là đối với anh Giáp, học giỏi” - NGND Nguyễn Thúc Hào bạn học của Đại tướng kể lại.

Tham gia phong trào cách mạng từ khá sớm, năm 14 tuổi, khi học ở trường Quốc học Huế, cậu học tròVõ Nguyên Giáp bị lôi cuốn mạnh mẽ bởi phong trào đấu tranh của nông dân, trí thức, học sinh Trung Kỳ chống sưu cao thuế nặng, đòi trả tự do cho cụ Phan Bội Châu. Trong bộ phim tài liệu: “Giọt nước giữa đại dương”, Đại tướng kể lại rằng: “Cứ thứ 5 hằng tuần, chúng tôi đến thăm “Ông già Bến Ngự”, nghe cụ Phan hô hào thanh niên phải yêu nước, phải đứng lên. Những câu thơ “Dậy! Dậy! Dậy! Bên án một tiếng gà vừa gáy”, “Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”… khiến thanh niên chúng tôi bừng bừng lên như lửa”. Từ đó,Võ Nguyên Giáp đã tích cực tham gia phong trào đấu tranh, bãi khóa ở trường Quốc học Huế; tham gia Đảng Tân Việt cách mạng [năm 1927]; tham gia phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, bị thực dân Pháp bắt giữ và bị giam ở nhà lao Thừa Phủ, Huế [năm 1930]. Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế đỏ của Pháp, đồng chí được trả tự do. Khi ra tù, mất liên lạc với tổ chức, đồng chí ra Hà Nội dạy học ở Trường tư thục Thăng Long, viết báo tuyên truyền xây dựng cơ sở cách mạng trong thanh niên, học sinh, đồng thời tiếp tục học Đại học Luật và Kinh tế. Trong thời gian này, đồng chí từng được đề xuất nhận học bổng du học Pháp nhờ thành tích học tập xuất sắc, nhưng do đã chọn con đường cách mạng, đồng chí đã nhất quyết từ chối.

Năm 1940, đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng với đồng chí Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc gặp Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Từ đây, Võ Nguyên Giáp được Bác giáo dục, rèn luyện, giao đảm trách nhiều công việc và ngay từ rất sớm đã được Người định hướng phải học thêm về quân sự. Giữa năm 1944, Bác Hồ nhận định, thời kỳ cách mạng phát triển hòa bình đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa đến, Người quyết định thành lập một đội tuyên truyền vũ trang đầu tiên. Võ Nguyên Giáp kể lại rằng, trong một cuộc họp, sau khi phân tích tình hình mọi mặt, Người quay sang hỏi: “Việc này giao cho chú Văn phụ trách, chú có làm được không?”. Anh Văn khi đó có chút bất ngờ, nhưng vẫn quả quyết: “Dạ, có thể được”. Bằng câu trả lời ngắn gọn đó, Võ Nguyên Giáp chính thức lãnh sứ mệnh cầm quân đánh giặc. Tháng 12/1944, đồng chí được Lãnh tụ Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Trở thành vị Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đảm nhiệm trọng trách lớn lao khi tuổi đời còn khá trẻ [37 tuổi]; song với sự học tập, rèn luyện, phấn đấu không ngừng nghỉ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân Việt Nam. Tại buổi lễ thụ phong quân hàm đại tướng ngày 25/8/1948, Bác Hồ tay cầm Sắc lệnh, bằng giọng trang nghiêm và xúc động, Người nói: “Hôm nay thay mặt Chính phủ và nhân dân…” Bác bỗng ngừng lời, rút khăn tay lau nước mắt. Rồi Bác nói tiếp: “…Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trao cho chú chức vụ Đại tướng để chú điều khiển binh sĩ làm tròn sứ mạng mà quốc dân phó thác cho…”.

Trong 30 năm liền giữ cương vị là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh thắng các đội quân quân xâm lược của chủ nghĩa phát xít, thực dân, đế quốc giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Dưới quyền chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, quân đội ta từ Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân chỉ với 34 chiến sĩ và vài chục khẩu súng trường, súng kíp thô sơ, đã từng bước lớn mạnh, thiện chiến, kiên cường chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược.Chúng ta đã đánh bại quân xâm lược phát xít Nhật, để cướp chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Sau đó, đánh thắng thực dân Pháp, kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ - được mệnh danh là tập đoàn cứ điểm “bất khả xâm phạm”. Trong chiến dịch này, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ: “Tướng quân tại ngoại, trao cho chú toàn quyền quyết định. Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”, Đại tướng đã ra nhiều quyết định quan trọng, mà quyết định khó khăn nhất chính là chuyển phương châm chiến dịch từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, với quyết tâm “ta vẫn giữ vững quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, nhưng phải thay đổi cách đánh”. Chính quyết định ấy đã góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, lập lại hòa bình ở miền Bắc nước ta. Hiệp định Giơnevơ ký kết chưa được bao lâu thì đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp xâm lược nước ta, đặt ách thống trị kiểu thực dân mới, buộc Nhân dân ta phải tiếp tục cuộc kháng chiến mới, gay go, ác liệt hơn. Với ý chí quyết tâm “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, được Đảng, Nhà nước, Bác Hồ tiếp tục giao nhiệm vụ chỉ huy Quân đội ta, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cùng Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo toàn dân, toàn quân ta lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai, làm nên chiến thắng vĩ đại mùa Xuân năm 1975 trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Có thể nói, trong các chiến dịch lớn có tính chất quyết định, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn thể hiện sự quyết đoán, sắc bén, tư duy quân sự, chiến thuật và tài chỉ huy đặc biệt.

Những kiến thức và tài năng quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đều nhờ quá trình tự học từ lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Namvà lịch sử quân sự thế giới; tự rèn luyện, tự đúc rút kinh nghiệm qua thực tế chiến đấu của Quân đội ta mà nên.Chính điều ấy đã làm nên sự khác biệt củaĐại tướng, khiến thế giới khâm phục, suy tôn Võ Nguyên Giáp là danh tướng, một trong 10 vị tướng vĩ đại nhất lịch sử thế giới qua mọi thời đại... Bách khoa toàn thư quân sự Bộ Quốc phòng Mỹ, xuất bản năm 1993 viết: “Tài thao lược của Tướng Giáp về chiến lược, chiến thuật và hậu cần được kết hợp nhuần nhuyễn với chính trị và ngoại giao... Sức mạnh hơn hẳn về kinh tế, tính ưu việt về công nghệ cùng với sức mạnh áp đảo về quân sự và hỏa lực khổng lồ của các quốc gia phương Tây đã phải khuất phục trước tài thao lược của một vị tướng từng một thời là thầy giáo dạy sử”.

Không chỉ tỏa sáng rực rỡ trong lĩnh vực quân sự, Đại tướng còn là một trong những nhà văn hóa lớn của Việt Nam. Những tác phẩm của Đại tướng, như: "Từ nhân dân mà ra", "Những năm tháng không thể nào quên", "Chiến đấu trong vòng vây", "Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử", "Tổng Hành dinh trong mùa xuân toàn thắng", "Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam"... đã giúp người đọc cả trong và ngoài nước càng hiểu sâu hơn về bản sắc, truyền thống văn hóa, nguồn gốc sức mạnh của dân tộc Việt Nam, càng thêm yêu mến, khâm phục đất nước và con người Việt Nam.Ở các lĩnh vực như giáo dục - đào tạo, khoa học - kỹ thuật, báo chí, ngoại giao, văn hóa, lịch sử…, Đại tướng đều có nhiều đóng góp quan trọng, thực sự là con người tài - đức vẹn tròn, văn - võ song toàn đúng như Giáo sư Vũ Khiêu đã viết:“Võ công truyền Quốc sử/Văn đức quán nhân tâm”.Trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và đổi mới đất nước, dù trên cương vị nào được Đảng, Nhà nước đặt niềm tin giao cho, Đại tướng đều dồn hết tâm sức, trí tuệ và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được nhân dân tôn xưng là Đại tướng của Nhân dân; được cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân gọi với cái tên trìu mến “Anh Cả” của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Hơn 80 mươi năm hoạt động cách mạng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, trở thành “Vị tướng huyền thoại” của dân tộc Việt Nam. Ở Đại tướng luôn sáng ngời những phẩm chất nhân cách của nhà văn hóa lớn, một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng:cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; đặc biệt là 6 đức tính cần phải có của các vị tướng do Bác Hồ chỉ ra “Trí, Dũng, Nhân, Tín, Liêm, Trung” luôn được Đại tướngVõ Nguyên Giáp thực hiện đầy đủ, trọn vẹn. Tình thương yêu con người của Đại tướng được hòa quyện với tình yêu quê hương, đất nước và đã để lại trong Nhân dân Việt Nam cùng bạn bè quốc tế hình ảnh về một nhà lãnh đạo đức độ, tài năng, một nhà hoạt động thực tiễn xuất sắc, một chiến sĩ cách mạng kiên trung, suốt đời tận tụy hy sinh phấn đấu phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước, không màng chút danh, lợi riêng tư.

Nhà văn Xukhômlinski từng nói: “Con người sinh ra không phải để tan biến như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để in dấu lại trên mặt đất và in dấu lại trong trái tim người khác”. Câu nói này thật đúng với Đại Tướng Võ Nguyên Giáp. Ngày 4/10/2013, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vĩnh biệt thế giới để đi về cõi vĩnh hằng, để lại nỗi tiếc thương vô hạn với đồng bào chiến sĩ cả nước và bạn bè quốc tế. Sự ra đi của Đại tướng là sự mất mát to lớn đối với Đảng, Nhà nước, Nhân dân và cán bộ chiến sĩ cả nước. Hiếm có vị tướng nào được người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế dành tình yêu thương vô bờ bến đến như vậy. Minh Huyền

Lê Thùy Trang

Lần xem: 2325

Go top

Bài viết khác

Video liên quan

Chủ Đề