Mua vỏ cây núc nác ở đâu

Cây núc nác được sử dụng trong những bài thuốc nam là chính đây là cây mọc hoang số lượng lớn nhưng chưa được khai thác sử dụng nhiều, người ta thường sử dụng vỏ cây làm thuốc chữa bệnh

Núc nác còn có rất nhiều tên gọi khác như mộc hồ điệp, ngọc hồ điệp, vân cố chỉ, bạch ngọc chỉ..., vỏ cây gọi là hoàng bá nam

Tên khoa học là Oroxylum indicum [L.] Kurz, thuộc họ Núc nác [họ Chùm ớt] - Bignoniaceae. Núc Nác  là cây mọc hoang và được trồng khắp nơi ở cả hai miền Nam, Bắc nước ta. Ngoài ra còn thấy mọc ở các nước như Trung Quốc, Malaysia, Ấn Ðộ, Lào, Campuchia…

Cây to cao 7 – 12m, có thể cao tới 20 – 25m, thân nhẵn, ít phân nhánh, vỏ cây màu xám tro, nhưng khi bẻ có màu vàng nhạt. Lá to 2 – 3 lần kép lông chim, dài tới 2m. Quả nang to, dài tới 50 – 80cm, rộng 5 – 7cm, trong chứa hạt, bao quanh có một màng mỏng, bóng và trong, hình chữ nhật.

Cây núc nác

Dược liệu là vỏ cây còn gọi là nam hoàng bá [Cortex Oroxyli]. Bộ phận dùng làm thuốc là vỏ cây phơi khô hay hạt núc nác [Semen Oroxyli] làm thuốc có tên là mộc hồ điệp [mộc là gỗ, cây; hồ điệp là con bướm] vì hình dạng giống như con bướm. Quả ăn có vị đắng, tính mát; hạt có vị đắng, tính mát, đi vào hai tạng can và phế.

Đông y cho rằng, nam hoàng bá tính mát, có tác dụng chống viêm ngứa, chữa kiết lỵ, tiêu chảy, chữa ho, chữa đau vú, áp-xe vú, mụn nhọt. Chữa bệnh sởi đậu, sốt phát ban đau mắt đỏ, một số bệnh ngoài da như eczema, chàm hóa các nốt sần, viêm da cơ địa, tổ đỉa, á sừng…

Do vậy nam hoàng bá và mộc hồ điệp được dùng làm thuốc trị liệu trong những trường hợp sau đây.

Trị viêm da ngứa lở, các tổn thương bị tiết dịch có biểu hiện bội nhiễm.

- Thuốc uống: Nam hoàng bá [sao qua] 16g, kim ngân 16g, cây kinh giới 16g, phòng phong 10g, chi tử 10g, đinh lăng 16g, sài hồ 16g, xuyên khung 10g, bạch chỉ 10g, sài đất 20g, lá bưởi bung 16g, uất kim 10g, cam thảo 10g. Cho các vị vào ấm, đổ 1 lít nước sắc còn 400ml, chia 2 – 3 lần uống trong ngày.

Thuốc rửa tại chỗ: Nam hoàng bá 50g, lá kinh giới 30g, lá đinh lăng 30g. Các thứ trên cho vào ấm, đổ nước nấu sôi, nhấc khỏi bếp cho nguội. Dùng nước này rửa các chỗ bị tổn thương, ngày 2 lần.

Đau tức hạ sườn phải, da vàng, nước tiểu đỏ [do can khí uất kết]: Chọn một phương.

- Nam hoàng bá 16g, bạch thược 12g, đan bì 12g, chi tử 12g, sài hồ 16g, xa tiền 12g, nhân trần 12g, cỏ mực 16g, rau má 20g, cam thảo đất 16g. Cho các vị vào ấm, đổ nước 1 lít, sắc còn 400ml, chia 2 – 3 lần uống trong ngày.

- Nam hoàng bá 16g, diệp hạ châu 16g, cây cối xay 16g, đương quy 12g, sài hồ 12g, tam thất 10g, thanh bì 12g, bưởi bung 16g, xa tiền 12g, bạch mao căn 16g, cam thảo 12g. Cho các vị vào ấm, đổ 1 lít nước sắc còn 400ml, chia 2 – 3 lần uống trong ngày.

Trị bệnh sởi [bài thuốc dùng cho trẻ em]: Nam hoàng bá 6g, kinh giới 6g, ngân hoa 4g, lá diếp cá 5g, mã đề thảo 4g, sài đất 5g, liên kiều 4g, hoa hồng bạch 4g, sài hồ 4g, đương quy 4g, cam thảo 4g, huyền sâm 4g. Cho các vị vào ấm, đổ 2 bát nước sắc còn 1 bát, chia 3 – 4 lần uống trong ngày. Nên kiêng gió, kiêng nước lạnh cho trẻ.

Hội chứng lỵ [đau bụng đi ngoài nhiều lần, phân có lẫn máu mũi, mùi tanh]: Nam hoàng bá 20g, hoàng liên 12g, khổ sâm 16g, cỏ sữa 20g, lá nhót 20g, hoài sơn 16g, liên nhục 16g, bạch truật 12g, chích thảo 12g, cỏ mực [sao đen] 20g. Sắc uống ngày 1 thang.

Hoặc nam hoàng bá 16g, búp ổi 12g, khổ sâm 16g, củ đinh lăng 20g, rau sam 20g, cỏ sữa 20, hoa hòe [sao đen] 16g, bạch truật [sao hoàng thổ] 12g, cây cứt lợn 16g, ngũ gia bì 16g, hoàng đằng 12g, chích thảo 12g. Sắc uống ngày 1 thang. Kiêng chất tanh, dầu mỡ.

Chữa viêm họng mạn tính: Dùng mộc hồ điệp 6g, hạt bí đao 10g, thêm chút đường trắng cùng sắc uống trong ngày [Gia đình thực liệu hiệu phương].

Trị vú có hòn cục, sờ vào thấy rắn và đau, có thể sốt nhẹ, cần điều trị sớm bằng các phương thuốc sau:

- Thuốc uống: Nam hoàng bá 16g, hương nhu trắng 16g, cát căn 16g, hoàng cung trinh nữ 6g, uất kim 10g, đinh lăng 16g, táo nhân [sao đen] 16g, hoa hòe [sao vàng] 20g, hoàng kỳ 12g, đương quy 12g, xuyên khung 12g, tam thất 12g, xương bồ 16g, huyền sâm 12g, chích thảo 12g. Cho các vị trên vào ấm, đổ 1 lít nước, sắc còn 350ml, chia 2 – 3 lần uống trong ngày. 15 – 20 ngày là một liệu trình.

Dùng kết hợp thuốc chườm: Lá nam hoàng bá, lá đinh lăng mỗi thứ 50g, sao rượu. Dùng miếng vải mềm gói lại, chườm tại chỗ. Khi thuốc nguội, cần sao lại để chườm tiếp. Công dụng: Tiêu viêm, giải uất, phá kết.

Vỏ cây núc nác

Địa chỉ bán núc nác, nơi bán cây núc nác

Núc nác được thu hái sau đó tách lấy vỏ phơi khô để sử dụng, cây núc nác được ứng dụng khá nhiều trong những bài thuốc nam chữa bệnh.

Núc nác được đóng gói 1kg để bảo quản sử dụng, quý khách cần sử dụng hãy liên hệ với búpxanh quý khách tại thành phố hồ chí minh giao hàng miễn phí.

Tên Tiếng Việt: Núc nác [Vỏ thân]

Tên khác: Nam hoàng bá; Hoàng bá nam; Thiều tầng chỉ; Thiên trương chi; Bạch ngọc nhi; Triển giản; So đo thuyền; Lim may; Mộc hồ điệp; Ung ca

Tên khoa học: Oroxylum indicum [L.] Kurz

Họ: Bignoniaceae [Chùm ớt]

Đặc điểm tự nhiên

Cây núc nác khá to với chiều cao thông thường là 7 – 12m, thậm chí cây có thể cao đến 20 – 25m. Thân cây nhẵn, ít phân nhánh. Vỏ cây có màu xám tro, khi bẻ ra bên trong có màu vàng nhạt, không mùi, đắng và hơi hắc. Phía trên vỏ mang rất nhiều sẹo do cuống lá cũ để lại và nhiều đám nhỏ nổi lên. Lá cây là lá kép lông chim 2 – 3 lần, dài tới 2m. Các lá chét có hình bầu dục, bìa nguyên, đầu nhọn, chiều dài mỗi lá chét từ 7,5 – 15cm và chiều rộng là 5 – 6,5cm.

Cây núc nác trong tự nhiên khá to

Hoa núc nác khá to, có màu đỏ tím và mọc thành chùm ở đầu cành. Hoa gồm 5 nhị, trong đó có 1 nhị nhỏ hơn 4 nhị còn lại. Quả dạng quả nang, khá to với chiều dài tới 50 – 80cm, rộng 5 – 7cm. Bên trong quả chứa hạt mỏng, dẹt, hơi giống hình bầu dục. Bao quanh hạt là một màng mỏng màu trắng nâu nhạt, bóng và trong, có các gân tỏa ra. Cả hạt và lớp màng dài 1,5 – 2,5cm và rộng 1 – 2cm. Khi bóc lớp màng ngoài ra có thể thấy được rễ phôi và lá mầm mỏng giòn, không mùi, hơi đắng.

Hoa cây núc nác

Quả cây núc nác

Cây núc nác mọc hoang và được trồng khắp Việt Nam. Ngoài ra, còn có thể tìm thấy cây núc nác ở các nước lân cận như Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ, Lào, Campuchia.

Vỏ núc nác có thể thu hoạch bất cứ lúc nào, gần như quanh năm, nhưng tốt nhất nên thu vào mùa xuân hạ. Người ta thường gọt vỏ trên thân cây còn sống. Vỏ núc nác sau khi thu hái có thể dùng tươi hoặc cắt nhỏ rồi đem phơi khô.

Hạt núc nác được thu hoạch vào khoảng cuối mùa thu sang đến mùa đông.

Bộ phận sử dụng

Vỏ thân.

Vỏ thân núc nác có vị đắng, tính hàn, quy vào kinh bàng quang và tỳ. Do đó, dược liệu này có công dụng thanh nhiệt, sát trùng, tiêu độc, chỉ khái, chỉ thống.

Vỏ núc nác được dùng để chữa tiêu chảy, kiết lỵ, đau dạ dày, viêm nhiễm đường tiết niệu, tiểu buốt, tiểu ra máu, ho, viêm họng. Ngoài ra, vỏ núc nác còn có thể chữa dị ứng và các bệnh ngoài da [mẩn ngứa, ban, sởi…] và dùng làm thuốc bổ.

Trong dân gian, người ta dùng vỏ núc nác [còn gọi là hoàng bá nam] thay cho vị thuốc hoàng bá thực [vỏ thân phơi khô của cây hoàng bá Phellodendron amurense Rupr, thuộc họ Cam Rutaceae].

Theo y học hiện đại

Năm 1965, tại Viện nghiên cứu hoạt chất sinh vật của chi nhánh Siberia Viện hàn lâm khoa học Liên Xô cũ, dựa trên kết quả lâm sàng dùng vỏ núc nác chữa dị ứng của bệnh viện Việt – Tiệp Hải Phòng, các nhà khoa học I. I Brekhman và P.P. Gôlicôv đã tiến hành các thí nghiệm trên vỏ cây núc nác Việt Nam và đưa đến các kết luận:

  • Vỏ núc nác cho thấy rõ tác dụng chống dị ứng.

  • Núc nác tăng sức đề kháng của cơ thể đối với một số tác nhân bất lợi bên ngoài.

  • Vỏ núc nác có độc tính rất thấp, LD50 ở chuột nhắt trắng là 23ml dịch chiết vỏ núc nác 100% trên 1kg thể trọng.

  • Núc nác làm giảm tính thấm của mạch máu ở chuột đã được gây mẫn cảm bằng lòng trắng và không thấy tác dụng này ở chuột được gây mẫn cảm bằng huyết thanh ngựa trộn với dầu parafin.

  • Tại vị trí tiêm trong da formaldehyde và histamin, tính thấm của mạch máu giảm do ảnh hưởng của vỏ thân núc nác. Tính thấm mạch máu không giảm khi gây viêm bằng xylen.

  • Núc nác không ảnh hưởng đáng kể tới sự phát triển của hiện tượng Actuýt Sakharôv, nhưng thỏ đã được gây mẫn cảm hồi phục nhanh hơn thỏ đối chứng.

  • Núc nác làm giảm vết sưng phồng do lòng trắng trứng gây ra. Sau khi cắt bỏ tuyến thượng thận, tác dụng ức chế giai đoạn cấp của phản ứng viêm của núc nác vẫn còn tồn tại. Tác dụng kháng viêm ở động vật đã được gây mẫn cảm mạnh hơn ở động vật không gây mẫn cảm.

Chữa táo bón

Sắc uống mỗi ngày một lượng bằng nhau vỏ núc nác và lá cối xay.

Chữa ngộ độc thịt thú vật

Sắc uống vỏ núc nác hoặc nghiền thành bột rồi uống.

Chữa lở loét do cây sơn

Giã nát vỏ núc nác tươi, ngâm trong khoảng 2 – 3 giờ theo tỷ lệ 1 phần vỏ núc nác và 3 phần rượu 30 – 40%. Dùng rượu đã ngâm bôi vào vết lở loét 3 – 4 lần/ngày trong 2 – 3 ngày là khỏi.

Nghiền thành bột mịn các dược liệu sau: 20g vỏ núc nác, 15g hoạt thạch, 25g thanh đại, 20g thạch cao sống. Trộn đều hỗn hợp bột trên với dầu vừng và bôi vào vết loét. Nếu vết loét chảy nước nhiều thì cho thêm ít bột mai mực vào.

Chữa bong gân, trật khớp

Giã nát các vị thuốc sau rồi sao lên và chườm: Vỏ núc nác, vỏ sồi, lá canh châu, lá đau xương, lá tầm gửi cây khế, lá bưởi bung, lá thầu dầu tía, lá náng, lá kim cang, lá mua, quế, hồi hương, đinh hương, nghệ, gừng sống, hạt chấp, hạt máu chó, mủ xương rồng bà, huyết giác. Thay lá đau xương bằng giấm nếu sưng cơ.

Chữa thấp khớp, sưng đau khớp [chống chỉ định ở phụ nữ có thai]

Nguyên liệu: Vỏ núc nác, dây đau xương, cây vòi voi, phòng kỷ, rễ bưởi bung, ngũ gia bì chân chim, độc lực, rễ cỏ xước, kê huyết đằng, rễ trinh nữ, thiên niên kiện, quế chi, độc hoạt.

Phơi khô và sao vàng các dược liệu trên [trừ quế chi, thiên niên kiện, độc hoạt không sao]. Cho nước ngập dược liệu 20cm rồi sắc 2 lần [lần đầu sắc 6 giờ, lần sau 3 giờ]. Hòa 2 nước lại, lọc rồi tiếp tục sắc, đến trước khi sắc xong 40 phút thì cho quế, thiên niên kiện và độc hoạt vào. Cô đến tỷ lệ 1:1 rồi tiến hành pha cao với siro đơn với tỉ lệ 10%. Uống 200 – 250ml/ngày, chia làm 2 lần.

Chữa mẩn ngứa

Sắc lấy nước uống 20g mỗi vị sau: Vỏ núc nác, lá chàm, dây vàng giang, thạch cao.

Chữa lở loét, tổ đỉa, giang mai

Sắc uống hàng ngày 30g mỗi vị: Vỏ núc nác và khúc khắc.

Tán các dược liệu theo liều lượng sau thành bột rồi vo viên: 30g vỏ núc nác, 30g khổ sâm, 50g quả ké, 50g thổ phục linh, 50g hạ khô thảo, 15g hạt dành dành, 20g sinh địa. Uống 20 – 25g/ngày.

Chữa lở loét gây ngứa, chảy nước vàng

Nấu 100g vỏ núc nác và 50g hạt xà sàng với nước rồi xông rửa 1 lần/ngày, dùng trong 3 – 4 ngày.

Chữa mụn nhọt, ghẻ lở, mẩn ngứa, mày đay, viêm nhiễm

Sắc 2 lần các dược liệu sau, chia thành nhiều lần uống mỗi ngày, trong vòng 5 – 7 ngày: 13g vỏ núc nác [có thể thay bằng 15g thổ phục linh hoặc 13g vỏ gạo], 20g sinh địa, 20g kim ngân, 15g ké đầu ngựa, 15g cam thảo dây, 50g sài đất.

Chữa eczema bội nhiễm gây chảy nước vàng

Nấu các dược liệu sau thành cao đặc rồi bôi lên vùng tổn thương: Vỏ núc nác, sài đất, sâm đại hành.

Chữa sốt xuất huyết kèm mẩn ngứa

Giã nát các dược liệu tươi theo liều lượng sau: 20g vỏ núc nác, 20g hoa mã đề, 30g rau má, 30g cỏ nhọ nồi. Sau đó thêm nước dùng lọc uống hoặc sắc uống.

Chữa viêm nhiễm đường tiết niệu, tiểu buốt, tiểu khó, tiểu ra máu

Sắc mỗi loại 1 nắm, dùng uống: Vỏ núc nác, rễ cỏ tranh, mã đề.

Sắc uống 1 thang mỗi ngày: 12g vỏ núc nác, 12g thạch hộc, 12g quả dành dành, 20g rau má, 4g nhục quế. Nếu nặng có thể tăng lên 2 thang/ngày.

Chữa liệt dương do sỏi lâu ngày ở đường tiết niệu

Sắc uống 1 thang mỗi ngày: Vỏ núc nác, hà thủ ô, ý dĩ, mạch môn, kỷ tử, thục địa, huyết đằng 12g mỗi vị; trâu cổ, phá cố chỉ, 8g mỗi vị.

Chữa bệnh trĩ

Sắc các dược liệu sau, lấy 300 – 400ml rồi dùng ngâm hậu môn mỗi ngày: 12g vỏ núc nác, 12g hoa kinh giới, 12g ngũ bội tử, 4g phèn phi.

Phối hợp cấp cứu ngoại khoa để chữa bỏng

Sắc uống 1 thang mỗi ngày: 12g vỏ núc nác, 20g bồ công anh, 8g chi tử; kim ngân hoa, hoàng liên, sinh địa, thạch hộc, mạch môn, 16g mỗi vị.

Video liên quan

Chủ Đề