Có nên uống thuốc chống trầm cảm không

Các thuốc này ức chế sự phân huỷ amin oxy hóa của 3 loại amin sinh học (norepinephrin, dopamin, 5-HT) và các phenylethylamin khác.

MAOI được quảng cáo là thuốc chống trầm cảm ở Mỹ (ví dụ phenelzin, tranylcypromin, isocarboxazid) là không hồi phục và không chọn lọc (ức chế MAO-A và MAO-B). Một loại MAOI khác (selegilin), ức chế chỉ MAO-B ở liều thấp, có sẵn ở dạng miếng dán.

Cơn tăng huyết áp cấp có thể xảy ra nếu thuốc MAOI mà ức chế MAO-A và MAO-B được đưa vào cùng với một loại thuốc cường giao cảm hoặc thức ăn có chứa tyramin hoặc dopamin. Hiệu ứng này được gọi là phản ứng phô mát vì pho mát chín có hàm lượng cao tyramin. MAOIs được sử dụng không thường xuyên vì lo lắng về phản ứng này. Liều thấp hơn của miếng selegilin được xem là an toàn khi sử dụng mà không có những hạn chế về chế độ ăn uống cụ thể, trừ khi liều lượng phải cao hơn mức khởi đầu (miếng dán 6 mg). Các MAOIs chọn lọc và có hồi phục (ví dụ, moclobemid, befloxaton), ức chế MAO-A, tương đối không có những tương tác này nhưng không có ở Mỹ.

Để ngăn ngừa cơn tăng huyết áp và tăng thân nhiệt cấp, bệnh nhân dùng MAOIs nên tránh dùng thuốc cường giao cảm (ví dụ như pseudoephedrin), dextromethorphan, reserpin, và meperidin cũng như các loại bia mạch nha, rượu Chianti, rượu sherry (rượu có nguồn gốc từ phía Nam Tây Ban Nha), rượu mùi, thực phẩm chín hoặc già có chứa tyramin hoặc dopamin (ví dụ: đậu tằm, chiết xuất từ nấm men, quả sung đóng hộp, nho khô, sữa chua, pho mát, kem chua, nước tương, cá hồi, trứng cá muối, gan, vỏ chuối, thịt mềm). Bệnh nhân có thể mang thuốc chlorpromazin 25 mg và, ngay khi những dấu hiệu của phản ứng tăng huyết áp xảy ra, dùng 1 hoặc 2 viên khi họ đến phòng cấp cứu gần nhất.

Các tác dụng phụ thường gặp của MAOIs gồm rối loạn cương dương (ít gặp nhất với tranylcypromin), lo âu, buồn nôn, chóng mặt, mất ngủ, phù phổi và tăng cân.

Những bệnh nhân dùng MAOIs và những người cần thuốc chống cơn hen hoặc chống dị ứng, gây tê tại chỗ hoặc gây tê toàn thân phải được điều trị bởi bác sĩ tâm thần cùng với bác sỹ nội khoa, nha sĩ hoặc chuyên gia gây tê với chuyên môn về hóa dược tâm thần kinh.

Đăng lúc: 09:25:58 30/11/2015 (GMT+7)

Các loại thuốc điều trị trầm cảm bao gồm: SSRIs (thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc), SNRIs (serotonin và norepinephrine tái hấp thu các chất ức chế), MAOIs (thuốc ức chế monoamine oxidase) và tricyclics. Tuy nhiên, dùng loại thuốc trầm cảm nào phải do bác sĩ khám bệnh và quyết định. Điều quan trọng là khi dùng thuốc nếu gặp một trong các triệu chứng sau: đau đầu, buồn nôn, mất ngủ và căng thẳng, kích động hoặc cảm giác bồn chồn, giảm tình dục, khô miệng, táo bón, mờ mắt hoặc buồn ngủ vào ban ngày… thì cần phải thông báo ngay cho bác sĩ điều trị của mình biết, vì đây có thể là các tác dụng phụ do thuốc gây ra.

Đối với trường hợp dùng thuốc hoặc tâm lý hoặc kết hợp cả hai phương pháp này không hiệu quả người ta có thể dùng liệu pháp điện (ECT). Trong những năm gần đây, liệu pháp này đã được cải thiện rất nhiều và có thể giúp cho người bị trầm cảm nặng, những người đã không thể cảm thấy tốt hơn với phương pháp điều trị khác. ECT có thể gây ra tác dụng phụ này ngắn hạn, trong đó có sự nhầm lẫn, mất phương hướng và mất trí nhớ. Những tác dụng phụ này thường rõ ràng ngay sau khi điều trị. Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng sau một năm điều trị ECT, bệnh nhân không có tác dụng phụ về mặt nhận thức.

Có nên uống thuốc chống trầm cảm không

Cần theo dõi những bất thường trong quá trình dùng thuốc.

Cảnh báo về thuốc chống trầm cảm

Mặc dù thực tế là các thuốc SSRI và thuốc chống trầm cảm khác thường an toàn và đáng tin cậy, tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng thuốc có thể có tác động không chủ ý trên một số người, đặc biệt là người trẻ tuổi. Năm 2004, Cơ quan Quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA) đã xem xét dữ liệu từ các nghiên cứu về thuốc chống trầm cảm có liên quan đến gần 4.400 trẻ em và thanh thiếu niên đang được điều trị trầm cảm. Báo cáo chỉ ra rằng, 4% của những người này đã xuất hiện ý nghĩ tự tử (mặc dù không có vụ tự tử xảy ra), so với 2% của những người đã uống thuốc giả dược. Thông tin này đã khiến FDA phải cảnh báo (vào năm 2005) trên nhãn tất cả các thuốc chống trầm cảm để cảnh báo cho công chúng về khả năng tăng nguy cơ suy nghĩ tự tử của thuốc.

Cảnh báo cũng nhấn mạnh rằng, trẻ em, thanh thiếu niên và thanh niên khi dùng thuốc chống trầm cảm cần được theo dõi chặt chẽ, đặc biệt là trong những tuần đầu điều trị với các triệu chứng như trầm cảm nặng hơn, suy nghĩ hoặc hành vi tự tử. Chúng bao gồm các thay đổi bất thường trong hành vi như mất ngủ, kích động. Tuy nhiên, kết quả xem xét lại các thử nghiệm ở trẻ em từ năm 1988 - 2006 cho thấy những lợi ích của thuốc chống trầm cảm có khả năng lớn hơn rủi ro khi điều trị cho trẻ em và thanh thiếu niên bị trầm cảm và rối loạn lo âu.

Nguồn: Sức khỏe đời sống

Không ít người nghĩ rằng triệu chứng của bệnh hết rồi thì cần gì uống thuốc nên đã tự bỏ, rồi chính họ không giải thích được vì sao bệnh tái phát.

Chị Trần Thị Thanh, 45 tuổi, thường thấy ác mộng kèm cảm giác sợ hãi khi ngủ. Khi đi khám, bác sỹ kết luận chị bị trầm cảm và phải điều trị. Sau 12 tuần điều trị, khi tái khám, bác sỹ cho biết triệu chứng trầm cảm của chị đã hết. Nhưng bác sỹ vẫn kê thuốc kéo dài tới 20 tuần. Điều này khiến chị Thu băn khoăn vì hai lẽ. Thứ nhất, triệu chứng bệnh đã hết thì sao phải uống thuốc, phải chăng bác sỹ muốn bệnh nhân mua thuốc để kiếm lợi. Thứ hai, thuốc trầm cảm thường để lại nhiều tác dụng phụ nên chị không muốn uống kéo dài. Tin mình đã khỏi bệnh nên chị đã ngưng thuốc. Sau đó 2 tháng chị lại có những triệu chứng của bệnh. 

Thuốc trầm cảm không giống kháng sinh

BS. Trần thị Hồng Thu, trưởng khoa Lâm sàng, bệnh viện Tâm thần ban ngày Mai Hương, Hồng Mai, Hà Nội nhấn mạnh, bệnh nhân dù được cho là hết triệu chứng cũng không được tự ý dừng thuốc. Bác sỹ Thu cho biết, thuốc chống trầm cảm đóng vai trò rất quan trọng trong điều trị bệnh. Bệnh nhân trầm cảm cần uống thuốc liên tục trong thời gian dài (tối thiểu một năm). Nhiều người phải uống thuốc suốt đời.

Đó là bởi thuốc chống trầm cảm không giống như thuốc kháng sinh. Kháng sinh tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh, khi ta cảm thấy bớt bệnh nghĩa là bệnh nhiễm khuẩn đã hết và không cần uống thêm kháng sinh nữa. Còn với thuốc chống trầm cảm không tác dụng như kháng sinh, mà tác dụng tương tự như viên tylenol chống đau đầu. Khi uống, tylenol làm giảm cơn đau, nhưng nguyên nhân gây đau vẫn còn đó và khi ngưng tylenol thì nhức đầu trở lại.

Trong bệnh trầm cảm, nguồn gây bệnh là thay đổi sinh hóa học ở não và thay đổi này kéo dài. Vì thế cần phải uống thuốc chống trầm cảm lâu hơn, dù triệu chứng bệnh đã giảm.

Tự ngưng sẽ tái bệnh

Bác sỹ Thu khẳng định: “ Nguyên nhân đưa tới tái phát trầm cảm phần lớn do ngưng thuốc quá sớm”. Hiện rất khó tiên lượng bệnh nhân nào không tái phát, bệnh nhân nào sẽ tái phát khi ngừng thuốc. Do đó bác sỹ Thu khuyên bệnh nhân nên tiếp tục dùng thuốc từ 6- 9 tháng sau khi đã hết bệnh. Tới lúc này, thay đổi sinh hóa trong não đã trở lại bình thường và người bệnh ít bị tái phát sau khi ngưng thuốc.

Nếu không tiếp tục điều trị thì tỷ lệ tái phát có thể lên tới 25% trong vòng hai tháng đầu và những bệnh nhân nào tiếp tục được điều trị duy trì trong thời gian 2 năm thì tỷ lệ tái phát sẽ thấp hơn so với những bệnh nhân bỏ thuốc. Với các trường hợp trầm cảm kinh niên hoặc trải qua nhiều giai đoạn buồn rầu, cần phải uống thuốc lâu hơn vì ở họ, trầm cảm cũng tương tự như các bệnh mạn tính cao huyết áp, cao đường huyết...

Để bệnh nhân hiểu rõ hơn về việc vì sao phải dùng thuốc kéo dài, bác sỹ Thu giải thích thêm: Hầu hết các thuốc chống trầm cảm có tác dụng làm chậm sự mất mát một vài hóa chất ở não bộ (các chất là serotonin, norepinephrine). Các chất này có công dụng gây hưng phấn tinh thần và nhiều chức năng khác như ăn ngon, ngủ say, suy nghĩ tốt. Ở người bị bệnh trầm cảm, sau khi được sản xuất, hóa chất chưa kịp tác dụng đã bị tế bào lấy lại (reuptake) quá sớm, do đó dẫn truyền tín hiệu thần kinh bị gián đoạn và gây ra tâm bệnh. Thuốc chống trầm cảm nhằm chặn sự lấy lại quá sớm các chất này, tăng serotonin ở não và giúp bệnh nhân giảm cảm giác buồn rầu, thất vọng, chán nản. Nhưng thuốc không có tác dụng ngay, mà phải từ 2-4 tuần lễ sau khi dùng mới thấy hiệu quả. Nếu một loại thuốc có tác dụng tốt mà ngưng quá sớm thì thuốc mất cơ hội chữa bệnh.

Để giảm tác dụng phụ thuốc chống trầm cảm                      

Buồn nôn: Ðây là tác dụng phụ thường thấy nhất của thuốc và cũng là lý do khiến bệnh nhân muốn ngưng thuốc. Ðể tránh buồn nôn, nên uống thuốc khi no bụng, uống nhiều nước, dùng thêm thuốc chống chất chua bao tử.

Tăng cân: Lên cân có thể là do giữ nước trong cơ thể, không vận động hoặc ăn ngon hơn khi thuốc chống trầm cảm làm bệnh nhân yêu đời hơn. Ðể tránh tăng cân, nên ăn nhiều rau trái cây và các loại hạt; vận động ít nhất 30 phút mỗi ngày. Nên cho bác sỹ biết là đang lên cân để có thể lựa thuốc khác cùng công hiệu mà ít lên cân.

Rối loạn tình dục: Ðể tránh tác dụng ngoại ý này, nên nói với bác sỹ đổi thuốc; uống loại chỉ cần một viên mỗi ngày và lập kế hoạch giao hợp trước giờ uống thuốc. Ðôi khi có thể xin ngưng thuốc một vài ngày trong tuần.

Mệt mỏi, buồn ngủ: Ðể tránh khó chịu, nên ngủ mươi phút vào ban ngày, vận động nhẹ, không lái xe cho tới khi hết mệt mỏi, uống thuốc hai giờ trước khi đi ngủ.

Mất ngủ: Do đó, có thể uống thuốc vào buổi sáng, giảm sử dụng thực phẩm có caffeine, thực tập thư giãn trước khi đi ngủ. Nếu cần, nói với bác sỹ cho uống một chút thuốc an thần vào buổi tối.

Kích động, bồn chồn, lo lắng: Dưới tác dụng của vài thuốc chống trầm cảm, bệnh nhân cảm thấy như có nhiều sinh lực, tinh thần quá kích động, đứng ngồi không yên. Ðể giảm khó khăn này, có thể xin bác sỹ cho thuốc an thần một thời gian ngắn và tập thiền định, thư giảm tâm hồn.

Táo bón: Nên uống nhiều nước, ăn nhiều rau trái cây, vận động cơ thể đều đặn. Nếu cần, uống thuốc làm mềm phân.

Theo Tường Vy (Sức khỏe gia đình)

Có nên uống thuốc chống trầm cảm không

Gọi ngay 043. 6275762 để tìm ra giải pháp tốt nhất cho vấn đề của bạn!