Chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam trong thời kỳ nhất nhảy vào Đông Dương

được biên tập bởi Thích Nhật Từ

Giới thiệu về cuốn sách này

Trong sách “Lịch sử khẩn hoang miền Nam”, Nhà Nam bộ học Sơn Nam viết: “Trước khi người Pháp đến, đất Nam kỳ đã là nơi việc cai trị tổ chức thành nền nếp khá minh bạch. Người Pháp nghiên cứu kỹ lưỡng, sửa đổi hoặc noi theo phần nào để áp dụng có lợi cho việc thực dân...”.

Kênh xáng Xà No được đào trong giai đoạn chính quyền thực dân Pháp cai trị Nam kỳ [1901-1903]. Ảnh: LÝ ANH LAM

Trước hết, để thi hành chính sách cai trị, họ xóa bỏ hết cấp phủ, huyện; lập địa hạt, nhưng sau đó đặt lại cấp tỉnh, rồi cấp quận. Việc chọn tỉnh hay quận lỵ; đặt tên tỉnh, quận cũng khá nôm na theo địa danh sở tại, thường lấy tên các ngôi chợ lớn nhất trong vùng.

Pháp vẫn duy trì cấp tổng từ triều Nguyễn. Đứng đầu là cai tổng, phụ tá có phó tổng. Để tỏ ra dân chủ, chính quyền Pháp cho tổ chức các cuộc bầu cử với quy chế phức tạp, thường thì khuyến khích những người chịu hợp tác với Pháp, nhất là giới địa chủ, người giàu có, theo Tây học ra ứng cử.

Đối với cấp hạ tầng: Pháp vẫn duy trì bộ máy quản trị xã, thôn thời triều Nguyễn, với các chức vụ Hương chủ, Hương cả; Xã trưởng hay Thôn trưởng hoặc Lý trưởng. Từ năm 1876, các xã, thôn, thống nhất gọi là làng. Một cơ chế hành chính khác: Ngày 13-3-1909, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định việc thành lập các làng mới từ các sở điền tư nhân có tối thiểu 400 mẫu, từ 80 nông dân trực tiếp sản xuất. Các làng kiểu này đặt dưới sự quản trị theo quy chế chung của các làng khác. Ban hội tề làng, do nông dân trong làng bầu cử lên. Trường hợp này đã có tại làng Vị Thanh, vốn trên đất có điền Tây Pall Serrure. Đối chiếu tư liệu, có thể sở điền này thành lập làng Hưng Thạnh [thuộc tổng An Minh]. Về sau, do biến động hành chính, làng này giải thể.

Ngày 27-8-1904, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định công nhận các làng Việt Nam là hạ tầng cơ sở, tổ chức điều hành bởi một hội đồng đại hương chức, gọi là ban hội tề, gồm các chức danh như: Hương cả, hương chủ, hương sư, hương trưởng, hương chánh, hương giáo, hương quản, thủ bộ, hương thân, hương hào, lý trưởng,…

Đây là cơ chế hành chính có dung hòa, giữa cung cách truyền thống thời triều Nguyễn và lối mới theo phương Tây, mà người Pháp nhằm siết chặt chế độ cai trị. Tất nhiên, họ bày ra các kiểu ứng cử, bầu cử như có vẻ dân chủ, nhưng thật ra vẫn là các địa chủ, người giàu có đắc cử theo ý đồ của chính quyền Pháp. Do vậy mới xảy ra nhiều vụ hương chức là địa chủ lấy đất của tá điền hoặc áp bức, bóc lột dân nghèo cô thế, nhất là lúc đào kinh xáng Xà No và các con kinh khác trong vùng. Nhiều người trở thành địa chủ nắm trong tay hàng ngàn mẫu đất nên họ phải len lỏi vào bộ máy chính quyền để thâu tóm và giữ gìn ruộng, đất.

Vùng Hỏa Lựu, Vị Thủy, Long Mỹ, Vị Thanh xưa vẫn phải thực hiện theo nền hành chính chung của Nam kỳ, như cơ chế vừa nêu. Và thực tế, bộ máy do chính quyền thực dân tổ chức, sắp đặt nên đã thành cơ hội tốt cho “cường hào, ác bá” lập thành phe phái ra tay thâu tóm ruộng đất, ức hiếp dân nghèo.

Mặt nào đó, cho thấy việc đào kinh, khẩn đất canh tác mang lại nhiều thành quả thiết thực. Một phần do người giàu có bỏ vốn đầu tư, huy động nhân lực, ứng dụng cơ giới,… Nhưng đồng thời, đều do công sức người nông dân lao động nghèo nỗ lực mới có được. Tuy nhiên, công sức của họ không được thụ hưởng đầy đủ, đôi khi bị tước đoạt thành quả. Và dù có tranh chấp, kiện tụng đến quan làng, quan tổng thì cuối cùng, phần thua thiệt vẫn là người nông dân nghèo, cô thế. Bởi bộ máy cầm quyền do các thế lực địa chủ, hương chức, hội tề nắm giữ.

Tình hình trên phân hóa rõ rệt trong xã hội. Số địa chủ ít, nhưng chiếm hữu ruộng đất rất nhiều. Trong khi nông dân, tá điền thì vẫn làm thuê nộp tô cho địa chủ. Qua khảo sát, tìm hiểu nhân chứng, được biết riêng tại địa bàn Hỏa Lựu - Vị Thanh, sau khi đào kinh xáng Xà No mấy mươi năm, nhiều địa chủ phất lên nắm trong tay từ vài trăm mẫu đến hàng ngàn mẫu ruộng như: Trần Kim Yến, sở hữu phần đất từ Ngã Ba Di Hạn đến Kinh Năm, chạy dài 5km theo sông Nước Đục, với 5 lô rừng tràm rộng hàng ngàn công; Huỳnh Tấn Tước [Chủ Chẹt], điền chủ người Hoa, có số ruộng đất vào hạng nhất nhì Cần Thơ, Rạch Giá tới 12.000 mẫu; Đỗ Hữu Trí, có 500 mẫu, thuộc ấp Thạnh Hòa, xã Hỏa Tiến ngày nay.

Ngoài ra, còn có nhiều điền chủ khác ở Hỏa Lựu không nắm rõ số ruộng đất sở hữu như: Hội đồng Hổ, Trần Phú Quới, Nguyễn Viết Liên, Lý Tấn Lợi. Tại làng Vị Thanh, có cả những địa chủ người Pháp như Duval, Guéry, Labaste đã sở hữu nhiều ruộng đất; hoặc người giàu có ở Sài Gòn, Cần Thơ, Rạch Giá đến xin khai thác đất bờ xáng hay mua ép của nông dân với giá rẻ. 

VỊ THANH

Trong 60 năm tiếp theo, mọi sự phát triển kinh tế-xã hội tại Việt Nam đều chỉ đem lại lợi ích cho người Pháp và một số rất nhỏ người Việt thân Pháp. Mặc dù nhà máy, đường sắt, cảng biển… mọc lên, mang đến công nghiệp hiện đại, nhưng tất cả đều để giúp khai thác và vận chuyển hàng hóa về “mẫu quốc” được thuận lợi hơn. Tính đến năm 1930, nhờ các kỹ sư thủy lợi Pháp, diện tích đất trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long tăng 4 lần. Tuy nhiên, bình quân lượng gạo người nông dân được hưởng lại giảm đi do người Pháp và địa chủ người Việt tịch thu phần lớn.

Năm 1889, tại miền Trung nước Pháp, công ty sản xuất lốp xe Michelin ra đời. Công ty vươn lên trở thành một trong những nhà sản xuất lốp xe hàng đầu thế giới nhờ đón đầu sự bùng nổ của ngành công nghiệp xe hơi đầu thập niên 1920. Để có được thành công ấy, Michelin mở nhiều đồn điền khổng lồ ở Nam Bộ, cung cấp hàng chục nghìn tấn cao su mỗi năm cho nhà máy của mình ở Pháp. Hàng trăm nghìn nông dân bị đẩy vào các đồn điền này bằng họng súng hoặc sự lừa dối, bị vắt kiệt sức trong điều kiện làm việc như địa ngục trần gian. Ngoài ra, người Pháp tăng cường lập ra các đồn điền chè, cà phê… tại những vùng có điều kiện lý tưởng, trên ruộng đất tước đoạt của nông dân.

Công nhân lao động trong điều kiện thiếu thốn ở mỏ than tại Quảng Ninh thời kỳ Pháp đô hộ. Ảnh tư liệu.

Người Pháp tuyên bố rằng, nhờ họ mà “xứ An Nam”lạc hậu mới có trường học, bệnh viện, người dân mới được tiếp cận văn hóa, tư duy cấp tiến của phương Tây. Tuy nhiên, số liệu của Pháp lại cho thấy, tới năm 1939, 80% trên tổng số hơn 20 triệu người dân Việt Nam mù chữ; chỉ 15% trẻ em đến tuổi đi học được đến trường; toàn Đông Dương có duy nhất một trường đại học với chưa đầy 700 sinh viên, được đào tạo để phục vụ cho Pháp. Về y tế, ở Việt Nam khi đó chỉ có 2 bác sĩ/100.000 dân, trong khi con số này là 76 ở Nhật Bản và 25 ở Philippines.

Nhưng chính trong công cuộc khai thác thuộc địa ấy, lực lượng nòng cốt cho cách mạng giải phóng dân tộc đã ra đời. Giai cấp công nhân, xuất phát từ những người nông dân bị Pháp đẩy vào nhà máy, hầm mỏ… được tiếp cận với nền sản xuất tiên tiến. Giới chủ Pháp đào tạo họ về tính tập thể, tổ chức, kỷ luật để phục vụ khai thác tài nguyên. Tuy nhiên, đó chính là những năng lực tiềm tàng để lãnh đạo nhân dân sau này. Nền giáo dục thuộc địa Pháp là “cái nôi” của rất nhiều người sau này tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chèo lái cách mạng, như: Trần Phú, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp…

Trước kia, những phong trào khởi nghĩa vũ trang đều hướng về khôi phục chế độ phong kiến, không hiệu triệu được những người sinh ra và lớn lên trong thời thuộc địa. Các phong trào dân tộc chủ nghĩa đầu thế kỷ 20 tuy nhận được nhiều sự ủng hộ nhưng lại phân tán, thiếu lý tưởng đấu tranh phù hợp với nhân dân. Nhưng từ năm 1930 trở đi, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo các phong trào đấu tranh theo cách khác. Cán bộ cách mạng thâm nhập trực tiếp vào tầng lớp lao động trong bộ máy khai thác thuộc địa. Họ cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc với công nhân, từ đó lôi cuốn nông dân, trí thức, đánh thức tinh thần đấu tranh của nhân dân ngay trong lòng xí nghiệp, đồn điền Pháp.

Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhiều phong trào lớn đã ngay lập tức nổ ra, trong đó nổi bật nhất phải kể đến phong trào Xô viết Nghệ-Tĩnh và Phú Riềng Đỏ. Khắp 3 miền, những người nông dân, công nhân mỏ than, dệt may, cao su… không chỉ vùng lên chống lại những người cai trị họ mà còn lập ra các ban lãnh đạo, thậm chí cả chính quyền hoàn chỉnh của nhân dân.

Bất ngờ trước sự tổ chức, quy mô và tiếng vang của những cuộc đấu tranh này, phải đến năm 1931 chính quyền thực dân mới đàn áp được các phong trào và tái thiết lập quyền kiểm soát. Theo Joseph Buttinger, một trong những tác giả nước ngoài nổi tiếng nhất viết về Việt Nam, 1931 là năm đen tối nhất đối với Pháp trong lịch sử đô hộ Việt Nam.

Để giữ thuộc địa bằng mọi giá, chính quyền thuộc địa đã thi hành hàng loạt biện pháp, từ mị dân đến vũ lực để duy trì trật tự xã hội theo ý chí của mình. Trải qua thêm 15 năm đấu tranh giành độc lập và 9 năm chống thực dân Pháp quay lại xâm lược, nhân dân Việt Nam đã gỡ bỏ ách đô hộ kéo dài nhiều thập kỷ. Đó cũng là “cơn địa chấn” đầu tiên đánh đổ hệ thống thuộc địa của “đế chế Pháp”. Năm 2019, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nhận định, chủ nghĩa thực dân mà nước Pháp theo đuổi trong quá khứ là “sai lầm nghiêm trọng, là lỗi của nền cộng hòa”.

ĐĂNG SƠN

Video liên quan

Chủ Đề