Chiến lược phát triển giáo dục đại học 2022-2030

Năm 2021, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng nặng nề đến nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có ngành giáo dục.

Theo Bộ GD-ĐT, kế hoạch năm học bị đứt đoạn, chương trình và nội dung giáo dục phải thay đổi theo hướng chỉ còn phần cốt lõi; gần 20 triệu trẻ em, học sinh, sinh viên phải tạm dừng đến trường, chuyển sang học trực tuyến, học qua truyền hình trong nhiều tháng liên tiếp. 

Hơn 70.000 sinh viên không thể ra trường đúng hạn, ảnh hưởng tới việc cung cấp nguồn nhân lực.

Ảnh: Thanh Tùng

Trong điều kiện khó khăn, ngành Giáo dục đã chủ động chuyển trạng thái hoạt động để ứng phó với dịch Covid-19 nhằm hạn chế tối đa tác động tiêu cực của dịch bệnh đến các hoạt động của ngành. Bộ GD-ĐT cũng đã ban hành nhiều văn bản và triển khai nhiều nhiệm vụ để chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương, cơ sở giáo dục ứng phó với dịch Covid-19.

Căn cứ các chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ GDĐT, các địa phương chủ động, linh hoạt xây dựng và triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch năm học để ứng phó với diễn biến khó lường của dịch Covid-19, đảm bảo yêu cầu đầu ra của chương trình giáo dục phổ thông.

Các cơ sở đại học chủ động tổ chức cho sinh viên học trực tuyến để hoàn thiện khối lượng chương trình và bảo đảm chất lượng đào tạo cũng như kế hoạch học tập năm học 2021-2022; tích cực tham gia xây dựng, phát triển hệ thống trực tuyến đại chúng mở và các khóa học trực tuyến dùng chung nhằm tạo một nền tảng để kết nối chia sẻ học liệu và thúc đẩy tổ chức dạy học trực tuyến trong các cơ sở đào tạo.

Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhắc lại những khó khăn mà ngành Giáo dục phải đối mặt trong năm 2021 do dịch bệnh Covid-19, đồng thời chỉ ra những việc đã làm được và những điều còn “đáng tiếc” của năm qua.

Bộ trưởng cũng cho hay, năm nay, trong khó khăn, hơn 1,5 triệu nhà giáo đã thể hiện tinh thần năng động, sáng tạo, trách nhiệm, đã hành động vì nghề và vì học sinh.

Từ những việc đã làm được và những việc chưa làm được của năm qua, ông Sơn cho rằng, bài học kinh nghiệm rút ra là phải đặc biệt lưu ý bám sát thực tiễn. Thời gian qua, nhiều việc đã được chỉ đạo và thực hiện sát với thực tiễn nhưng cần tăng cường hơn nữa. Ngoài ra, cần tăng tính hành động trong công việc.

Nhấn mạnh tới các nhiệm vụ lớn của năm 2022, ông Sơn cho hay trước hết, toàn ngành sẽ tiếp tục triển khai nhiệm vụ có tính thời sự là chống dịch Covid-19, hạn chế tối đa tác động tiêu cực của dịch tới giáo dục và đào tạo.

Trước thực tế có khoảng 70.000 sinh viên đại học chưa thể tốt nghiệp ra trường do dịch bệnh, ông Sơn đề nghị các trường đại học, cao đẳng tích cực hơn nữa đưa sinh viên trở lại trường học tập. Cùng đó, tăng cường bù đắp chất lượng giáo dục đại học, sau đại học cho sinh viên, học viên. “Trọng tâm vẫn là bù đắp, củng cố chất lượng giáo dục từ phổ thông tới đại học” - ông Sơn nêu rõ.

Trong năm 2022, ngành Giáo dục cũng sẽ tập trung hoàn thành, ban hành Chiến lược phát triển giáo dục 2021-2030, tầm nhìn 2045 và triển khai nhanh các công việc liên quan đến chiến lược này.

Đối với giáo dục phổ thông, theo ông Sơn, năm 2022 và 2023 được xác định là 2 năm trọng yếu trong triển khai Chương trình Giáo dục phổ thông 2018. Vì vậy, cần phải nhìn thấy hết thách thức đặt ra về nguồn lực, điều kiện thực hiện để có phương án khắc phục và triển khai. Ngoài ra, kỳ thi THPT và triển khai tự chủ đại học cũng được Bộ trưởng nhìn nhận còn nhiều thách thức, cần phải có các giải pháp, hành động ráo riết hơn.

Một số nhiệm vụ trọng tâm khác như tăng cường chuyển đổi số; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; tăng cường các thiết chế văn hóa trong hệ thống giáo dục và đào tạo… cũng được ông Sơn lưu ý thực hiện trong năm 2022.

Hải Nguyên

Đang trên ghế giảng đường, song nhiều bạn trẻ đã rất năng động, tự tìm kiếm các công việc làm, thậm chí mang về thu nhập hàng chục triệu đồng.

Theo báo cáo của Vụ Giáo dục đại học [Bộ GD - ĐT], năm 2020 có 240 trường đại học, học viện bao gồm 175 trường công lập, 60 trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn nước ngoài. Quy mô đào tạo được cải thiện đáng kể cùng với cơ cấu ngành nghề ngày càng đa dạng, tiệm cận với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa phương.

Giáo dục đại học [GDĐH] đã gắn kết hơn với nghiên cứu khoa học; thứ hạng của các cơ sở GDĐH Việt Nam trên các bảng xếp hạng thế giới được cải thiện. Lần đầu tiên Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được ghi nhận trong bảng xếp hạng các cơ sở GDĐH tốt nhất thế giới; nhiều trường, nhiều ngành đào tạo đã từng bước sánh ngang với các nền giáo dục hiện đại, chất lượng cao.

Mặc dù vậy, hệ thống GDĐH Việt Nam vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần được giải quyết để nâng cao năng lực toàn hệ thống. Do đó, cần tiếp tục phát triển giáo dục đại chúng, có trọng tâm, trọng điểm và phát triển tinh hoa; đào tạo tập trung vào đầu ra với mục tiêu hình thành thế hệ nhân lực có khả năng, kĩ năng khởi nghiệp với khát vọng phát triển đất nước. Phát triển giáo dục đại học gắn liền với chuyển đổi số để nắm bắt cơ hội, thời cơ của Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 và xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa. 

Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn phát biểu tại phiên họp

Dự thảo Khung Chiến lược phát triển GDĐH giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đưa ra 3 chiến lược phát triển. Thứ nhất, chiến lược tối ưu hóa hệ thống, trong đó, quy hoạch, sắp xếp mạng lưới cơ sở GDĐH, tăng cường tự chủ đại học, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của từng cơ sở GDĐH và cả hệ thống. Thứ hai, chiến lược tài chính đòn bẩy, đổi mới chính sách, cơ chế tài chính nhằm tăng hiệu quả đầu tư từ ngân sách, tạo động lực cho phát huy nội lực của các cơ sở GDĐH và tạo đòn bẩy cho thu hút các nguồn đầu tư khác cho GDĐH. Thứ ba, chiến lược GDĐH số. Theo đó, đẩy mạnh chuyển đổi số trong GDĐH, từ quản lý nhà nước, giữa các cơ sở GDĐH và trong từng cơ sở GDĐH hướng đến mục tiêu xây dựng hệ thống GDĐH minh bạch hơn, linh hoạt hơn, hiệu quả và tiết kiệm chi phí, mở rộng cơ hội tiếp cận GDĐH chất lượng cao.

Tại phiên họp, các đại biểu đều tán thành với quan điểm, định hướng, tầm nhìn và mục tiêu chung mà dự thảo Khung Chiến lược phát triển GDĐH Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đề xuất. GS. TS. Nguyễn Thanh Phương, Chủ tịch Hội đồng trường ĐH Cần Thơ đánh giá, dự thảo Khung Chiến lược gọn, rõ với 3 chiến lược để phát triển GDĐH. Tuy nhiên, ông cho rằng, mục tiêu chung đến năm 2030 Việt Nam phấn đấu nằm trong 4 quốc gia có hệ thống GDĐH tốt nhất khu vực Đông Nam Á "hơi khiêm tốn". GDĐH Việt Nam có thể phấn đấu cao hơn, cạnh tranh với các quốc gia như Malaysia, Singapore..

Theo GS. TS Nguyễn Hữu Đức, ĐHQG Hà Nội, dự thảo Khung Chiến lược cần làm rõ nội hàm về đổi mới sáng tạo trong các cơ sở GDĐH. Nếu không làm rõ nội dung này thì nghiên cứu khoa học trong các cơ sở GDĐH sẽ vẫn chỉ là “khoa học vị xuất bản”…

Ghi nhận ý kiến đóng góp của các chuyên gia, cơ sở GDĐH, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Hoàng Minh Sơn cho biết, dự thảo Khung Chiến lược sẽ được tiếp tục được hoàn thiện, bám sát quan điểm, định hướng trong Nghị quyết 29; đồng bộ với Chiến lược Phát triển kin tế - xã hội và Chiến lược Phát triển giáo dục Việt Nam, Chiến lược Phát triển khoa học - công nghệ Việt Nam… 

[HNM] - Theo thông tin từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện cả nước có 240 trường đại học với cơ cấu ngành nghề ngày càng đa dạng, tiệm cận với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa phương. Tuy nhiên, giáo dục đại học vẫn còn một số tồn tại cần được giải quyết để nâng cao năng lực hệ thống. Một trong những giải pháp là xây dựng dự thảo khung chiến lược phát triển giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Ban soạn thảo dự thảo đang hoàn thiện dự thảo trên tinh thần bám sát quan điểm các nghị quyết của Đảng, trong đó có Nghị quyết số 29-NQ/TƯ ngày 4-11-2013 của Ban Chấp hành Trung ương “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; huy động sự đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học, trong đó nhấn mạnh đến yếu tố đổi mới và phục vụ cộng đồng.

Ngày 27/5/2022, Hội nghị Triển khai chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 khu vực Đồng bằng sông Hồng và Trung du miền núi phía Bắc được tổ chức tại Trường Cao đẳng Du lịch Hải Phòng. Hội nghị có sự tham gia của đại diện hầu khắp các cơ sở giáo dục nghề nghiệp khu vực phía Bắc.

Ông Phạm Vũ Quốc Bình - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp phát biểu tại hội nghị.

Phát biểu mở màn hội nghị, ông Phạm Vũ Quốc Bình - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp cho rằng, để thực hiện được mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp, ở cấp vĩ mô cần phải có những hành động đột phá, dám nghĩ dám làm, ở cấp cơ sở là các trường, các cơ sở giáo dục cần đổi mới tư duy, sẵn sàng thay đổi.

Cũng tại hội nghị này, đại diện các cơ sở giáo dục nghề nghiệp khu vực miền Bắc đã đóng góp nhiều ý kiến, khuyến nghị, đặt câu hỏi thắc mắc về chính sách với cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục nghề nghiệp. Qua đó, nhiều ý tưởng hay, bài học thực tiễn được hội nghị tiếp thu, nhân rộng.

Báo cáo trước các đại biểu tham gia hội nghị, bà Khương Thị Nhàn - Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính Tổng cục GDNN trình bày về việc triển khai chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, dựa theo Quyết định số 2239/QĐ-TTg ngày 30/12/2021 được Thủ tướng Chính phủ  phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Theo đó, mục tiêu của chung của chiến lược phát triển GDNN là: Phát triển nhanh giáo dục nghề nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường lao động, của người dân và yêu cầu ngày càng cao về số lượng, cơ cấu, chất lượng nhân lực có kỹ năng nghề cho phát triển đất nước trong từng giai đoạn. Đến năm 2045, giáo dục nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu nhân lực có kỹ năng nghề cao của một nước phát triển; trở thành quốc gia phát triển hàng đầu về giáo dục nghề nghiệp trong khu vực ASEAN, bắt kịp trình độ tiên tiến của thế giới, có năng lực cạnh tranh vượt trội ở một số lĩnh vực, ngành, nghề đào tạo.

Trong thực tiễn triển khai chiến lược, mục tiêu của hệ thống giáo dục nghề nghiệp đến năm 2025 là: Bảo đảm quy mô, cơ cấu ngành, nghề đào tạo cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đất nước; chất lượng đào tạo của một số trường tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4, trong đó một số nghề tiếp cận trình độ các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới; góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 30%.

Trong đó, một số chỉ tiêu chủ yếu là:

- Thu hút 40 - 45% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp; học sinh, sinh viên nữ đạt trên 30% trong tổng chỉ tiêu tuyển sinh mới.

- Đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho khoảng 25% lực lượng lao động.

- Tỷ lệ lao động là người dân tộc thiểu số qua đào tạo nghề nghiệp đạt 45%.

- Tỷ lệ lao động là người khuyết tật còn khả năng lao động được học nghề phù hợp đạt 35%.

- Tỷ lệ lao động có các kỹ năng công nghệ thông tin đạt 80%.

- Ít nhất 30% cơ sở giáo dục nghề nghiệp và 50% chương trình đào tạo các ngành, nghề trọng điểm đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng.

- Phấn đấu 100% nhà giáo đạt chuẩn; khoảng 80% cán bộ quản lý được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng quản lý - quản trị hiện đại.

- Phấn đấu khoảng 80% ngành, nghề đào tạo được xây dựng, cập nhật chuẩn đầu ra theo Khung trình độ quốc gia.

- Phấn đấu có khoảng 70 trường chất lượng cao, trong đó: 03 trường thực hiện chức năng trung tâm quốc gia đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao, 06 trường thực hiện chức năng trung tâm vùng đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao, 40 trường tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4 và 03 trường tiếp cận trình độ các nước phát triển trong nhóm G20; khoảng 150 ngành, nghề trọng điểm, trong đó 05 -10 ngành, nghề có năng lực cạnh tranh vượt trội trong các nước ASEAN-4.

Đại diện Tổng cục GDNN và các Vụ liên quan lắng nghe ý kiến, thảo luận cùng các đại biểu tại hội nghị.

Mục tiêu phát triển GDNN đến năm 2030 là: Tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục nghề nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực có kỹ năng nghề cho quốc gia đang phát triển, có công nghiệp hiện đại; chủ động tham gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế; một số trường tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4, trong đó một số nghề tiếp cận trình độ các nước phát triển trong nhóm G20; góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 - 40%.

Một số chỉ tiêu chủ yếu của giai đoạn này là:

- Thu hút 50 - 55% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp; học sinh, sinh viên nữ đạt trên 40% trong tổng chỉ tiêu tuyển sinh mới.

- Đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho khoảng 50% lực lượng lao động.

- Tỷ lệ lao động là người dân tộc thiểu số qua đào tạo nghề nghiệp đạt 50%.

- Tỷ lệ lao động là người khuyết tật còn khả năng lao động được học nghề phù hợp đạt 40%.

- Tỷ lệ lao động có các kỹ năng công nghệ thông tin đạt 90%.

- Ít nhất 70% cơ sở giáo dục nghề nghiệp và 100% chương trình đào tạo các ngành, nghề trọng điểm đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng.

- Phấn đấu 100% nhà giáo đạt chuẩn; khoảng 90% cán bộ quản lý được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng quản lý - quản trị hiện đại.

- Phấn đấu khoảng 90% ngành, nghề đào tạo được xây dựng, cập nhật chuẩn đầu ra theo Khung trình độ quốc gia.

- Phấn đấu có khoảng 90 trường chất lượng cao, trong đó: 06 trường thực hiện chức năng trung tâm quốc gia đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao, 12 trường thực hiện chức năng trung tâm vùng đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao, 60 trường tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4 và 06 trường tiếp cận trình độ các nước phát triển trong nhóm G20; khoảng 200 ngành, nghề trọng điểm, trong đó 15 - 20 ngành, nghề có năng lực cạnh tranh vượt trội trong khu vực ASEAN và thế giới.

Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 gồm 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, gồm: Hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp; Đẩy nhanh chuyển đổi số, hiện đại hóa cơ sở vật chất thiết bị và đổi mới chương trình, phương thức đào tạo; Phát triển đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề và cán bộ quản lý trong giáo dục nghề nghiệp; Gắn kết chặt chẽ giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp và thị trường lao động; Nghiên cứu ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ; hướng nghiệp, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; Tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính cho giáo dục nghề nghiệp; Truyền thông, nâng cao hình ảnh, thương hiệu và giá trị xã hội của giáo dục nghề nghiệp; Chủ động và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế về giáo dục nghề nghiệp.

Trong đó, giải pháp số hai là "Đẩy nhanh chuyển đổi số, hiện đại hóa cơ sở vật chất thiết bị và đổi mới chương trình, phương thức đào tạo" và giải pháp số ba là "Phát triển đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề và cán bộ quản lý trong giáo dục nghề nghiệp" được xác định là giải pháp đột phá.

Video liên quan

Chủ Đề