Biện pháp giáo dục đạo đức học sinh THCS vùng cao

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

I. Tổng quan về đề tài:

Giáo dục đạo đức để hình thành nhân cách người công dân tương lai của đất nước Việt Nam thấm đượm đạo lí truyền thống của dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của ngành giáo dục.

          Nội dung của đề tài nhằm giúp học sinh trau dồi, rèn luyện đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, thực hiện năm điều Bác Hồ dạy, xây dựng con người mới- những chủ nhân tương lai của đất nước, tập trung trong các mối quan hệ: gia đình, nhà trường, xã hội - đất nước, con người.

 II. Lý do chọn đề tài:

      Để nắm bắt được đặc điểm tâm lý học sinh ở Tiểu học đã là một việc khó mà việc tìm hiểu đặc điểm tâm lý học sinh người dân tộc thiểu số lại càng khó hơn nhiều. Học sinh dân tộc luôn có tính thẳng thắn, thật thà và tự trọng. Các em học sinh miền núi có gì không vừa ý thường tỏ thái độ ngay. Đặc điểm thẳng thắn, thật thà cộng với khả năng diễn đạt bằng tiếng phổ thông còn hạn chế, có những lúc làm cho giáo viên không hài lòng. Vì vậy, cần nắm vững đặc điểm này, thận trọng suy xét trong quá trình đánh giá phẩm chất đạo đức của từng em. Các em học sinh dân tộc thường có lòng tự trọng cao, nếu các em gặp phải những lời phê bình nặng nề, gay gắt hoặc khi kết quả học tập kém, quá thua kém bạn bè một vấn đề nào đó, bị bạn bè chê cười,... các em dễ xa lánh thầy cô giáo và bạn bè hoặc bỏ học. Nếu giáo viên không hiểu rõ thì sẽ nản lòng và từ đó giáo viên thiếu nhiệt tình cần thiết để tìm ra phương hướng và biện pháp giải quyết.

     Học sinh luôn có niềm tin sâu sắc vào giáo viên và thực tiễn. Các em thường dễ dàng nghe theo những người mình đã tin cậy, đặc biệt là giáo viên. Khi các em đã tin giáo viên, các em thường quyết tâm thực hiện cho được những công việc giáo viên giao, nhiều khi các em còn bắt chước tác phong, cử chỉ, ngôn ngữ,.. của giáo viên.Vì vậy, giáo viên phải luôn gần gũi, đi sâu, đi sát giúp đỡ các em, cố gắng cảm hoá các em bằng sự tận tình chăm sóc của mình; đồng thời cũng phải gương mẫu về mọi mặt để dành được sự tin yêu của các em, từ đó phát huy tác dụng giáo dục của mình. Bạn bè và dư luận tập thể có tác dụng chi phối việc học tập của học sinh, nhất là việc đi học chuyên cần. Có em vì nghe bạn nên đã nghỉ học đi chơi, ở nhà làm việc giúp gia đình,… Nói chung những ý kiến tán đồng hoặc chê cười của bạn bè và tập thể đều có ảnh hưởng đến quá trình suy nghĩ và hành động của từng em.

      Bản thân tôi đã được học tập, tự tìm tòi nghiên cứu, hơn nữa đã qua thực tế hơn mười năm giảng dạy học sinh dân tộc thiểu số, trong đó có học sinh khối lớp 1, điều mà tôi luôn trăn trở là hầu như giáo viên chưa nắm bắt được đặc điểm tâm lý của các em, giáo viên còn ngại khó, chưa thực sự yêu thương các em, chính vì thế việc giáo dục đạo đức của các em chưa được chú trọng, ảnh hưởng đến việc học tập của các em. Với mong muốn cải thiện điều đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài: Biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh dân tộc thiểu số  lớp 1.3- Trường Tiểu học Cam Phước Tây 1”.

III. Phạm vi và đối tượng- khách thể nghiên cứu:

          Đề tài tập trung tìm hiểu, phân tích thực trạng và đề xuất những biện pháp giáo dục đạo đức phù hợp với học sinh dân tộc thiểu số lớp 1.3 -Trường Tiểu học Cam Phước Tây 1.

IV. Mục tiêu nghiên cứu:

          Bản thân tôi nghiên cứu đề tài này để tìm ra nguyên nhân chủ yếu khiến học sinh thiếu tự tin trong giao tiếp, ít chăm học, kết quả học tập không như mong muốn, chậm hòa mình vào tập thể. Từ đó có những giải pháp ưu việt, những kinh nghiệm thiết thực để phục vụ tốt hơn cho việc giảng dạy, giáo dục đạo đức. Bên cạnh đó, tôi muốn trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp để cùng nhau giúp học sinh dân tộc khối lớp 1 của Trường rèn luyện đạo đức tốt để làm nền tảng về sau.

V. Phương pháp nghiên cứu:

- Nghiên cứu tài liệu: Giáo trình Giáo dục Tiểu học; chuyên đề Giáo dục Tiểu học;…

- Phương pháp thử nghiệm:  Đề ra các biện pháp và áp dụng thử nghiệm ở  lớp, sau đó trao đổi đồng nghiệp cùng thử nghiệm.

          - Phương pháp điều tra: Điều tra các biểu hiện trước và sau khi áp dụng, các kết quả thu được.

- Phương pháp tổng kết:  Theo dõi kết quả của lớp chủ nhiệm [lớp có 100%  học sinh dân tộc]; tổng kết, đúc rút kinh nghiệm.

 VI. Tính mới của đề tài:   

Đề tài này không nghiên cứu tràn lan nhiều biện pháp mà chỉ tập trung vào một số biện pháp cơ bản, thiết thực nhất để giúp học sinh có thể hình thành những thói quen đạo đức tốt. Tuy nghiên cứu dựa trên tình hình, đặc điểm của học sinh dân tộc lớp 1.3 Trường Tiểu học Cam Phước Tây 1, nhưng đây  là những biện pháp cơ bản, nên có thể ứng dụng cho các lớp, trường khác có học sinh dân tộc. Những biện pháp này tuy đơn giản, nhưng nếu kiên trì áp dụng sẽ mang lại những hiệu quả nhất định.

B. NỘI DUNG

 

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:

  1. Một số khái niệm:

   1.1.Giáo dục:

- Giáo dục là hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.

- Giáo dục được hiểu như là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về mặt tư tưởng, đạo đức, hành vi, ... nhằm hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ và những hành vi thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội.

   1.2. Đạo đức: Có thể hiểu theo một vài khái niệm sau:

- Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội.

- Đạo đức là toàn bộ những quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và cả bản thân mình.

   1.3. Giáo dục đạo đức:

- Giáo dục đạo đức cho học sinh chính là sự tác động có mục đích, có kế hoạch nhằm hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, quan điểm, lập trường giai cấp, bồi dưỡng cho các em những thói quen hành vi đạo đức tốt, những nét tính cách của con người Việt Nam mới, con người vừa có đức vừa có tài.

   1.4. Tại sao phải nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh?

- Do tính quy luật của thời đại, do sự phát triển của xã hội, do khoa học và kĩ thuật ngày càng tiên tiến, do nhu cầu của con người ngày càng cao. Xã hội đòi hỏi con người phải có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn mới đáp ứng được. Ngày nay trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới việc đào tạo và bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ là việc làm cần thiết và cấp bách hơn lúc nào hết.

- Học sinh tiểu học mới bắt đầu bước những bước chập chững vào cuộc sống, vào thế giới tri thức vô tận của nhân loại. Không phải chỉ cần đem lại cho các em những tri thức, vốn hiểu biết là đủ, chúng ta còn phải chỉ bảo, dạy cho các em biết ứng xử, giáo dục hình thành nhân cách cho các em: ”học ăn, học nói, học gói, học mở”.

- Với học sinh lớp 1 nói chung, học sinh dân tộc thiểu số lớp 1.3 nói riêng, giáo dục đạo đức là giúp học sinh bước đầu rèn luyện năng lực: tự phục vụ, tự quản; hợp tác; tự học, giải quyết vấn đề và phẩm chất: chăm học, chăm làm; tự tin; trung thực; đoàn kết;

 2. Một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức con người:

- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Đạo đức là cái gốc của con người phát triển toàn diện mà trường phổ thông có trách nhiệm đào tạo”.

- Bác khẳng định: “Có tài mà không có đức chỉ là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.

II.Thực trạng:

   1. Thuận lợi:

 - Đa số các em đều có ý thức học tập, chăm chỉ, lễ phép, ngoan hiền, biết vâng lời.

 - Học sinh có đầy đủ đồ dùng học tập, tác phong tương đối gọn gàng, sạch sẽ. Nguyên nhân là các em học sinh dân tộc được các nhà hảo tâm giúp đỡ, lại được hỗ trợ tiền học bổng hàng tháng vì vậy các em có điều kiện mua sách vở, dụng cụ học tập, quần áo để đến trường. Thư viện nhà trường cũng đã cung cấp sách giáo khoa, truyện đọc và đồ dùng học tập cho học sinh.

 - Ban giám hiệu quan tâm sâu sát về chỉ đạo cũng như cơ sở vật chất cho lớp học, tạo điều kiện tốt nhất cho các em được học tốt. Trường học khang trang, bàn ghế, bảng đen đầy đủ, trang trí lớp tốt, sắp xếp hợp lí.

 - Sĩ số học sinh lớp ít thuận lợi việc kèm cặp học sinh [16 HS / lớp].

 - Một số phụ huynh biết quan tâm đến việc học của con em. Phụ huynh là những bố mẹ trẻ nên biết chăm sóc con tốt hơn.

 - Giáo viên chủ nhiệm là người địa phương, đã có nhiều năm công tác và dạy học sinh dân tộc lớp 1.

 - Đa số học sinh ở gần trường thuận tiện cho việc đi lại học 2 buổi/ngày.

2. Khó khăn:

     - Các em biết thực hiện theo sự phân công của giáo viên nhưng sự phối hợp giữa giáo viên và học sinh chưa diễn ra nhẹ nhàng, còn mang tính áp đặt. Quan hệ giữa giáo viên và học sinh chưa thực sự gần gũi, thương yêu, các em còn sợ sệt, ngại khi đến gần giáo viên để trao đổi, nói chuyện.

     - Tuy sĩ số học sinh ở các lớp khá ít [16 em/lớp] nhưng vẫn còn học sinh chưa có ý thức chăm học, tập trung kém dẫn đến kết quả học tập chưa cao. Việc có kết quả học tập kém cũng dẫn các em đến sự chán nản, không còn hứng thú học tập, càng mất tự tin.

     - Còn một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con em nên trang bị đồ dùng học tập còn nhiều hạn chế. Việc tự chuẩn bị, sử dụng, bảo quản sách vở, đồ dùng học tập của học sinh còn chưa tốt.

     - Một số học sinh áo quần còn chưa gọn gàng, chưa sạch sẽ, vệ sinh cá nhân, tác phong chưa tốt. Chưa có tính kỉ luật: vẫn còn hiện tượng cho con nghỉ học để đưa đi làm cùng với gia đình có khi  đến 1-2 ngày mới về.

     - Trong học tập, giao tiếp phần lớn học sinh còn rất chậm, chưa tự tin, có em khi giáo viên hỏi không trả lời chỉ cúi mặt hoặc khi yêu cầu đứng lên sẽ ôm ghì bàn khư khư, nếu giáo viên tiếp tục hỏi em sẽ khóc và hôm sau không dám đến lớp. Có vài em đến lớp phải có mẹ ngồi bên suốt vài tuần đầu, không có mẹ tuyệt đối không đi học.

     - Chưa có tính tập thể, trong quan hệ bạn bè chưa biết cách ứng xử phù hợp, thiếu sự chia sẻ, đoàn kết, yêu thương. Khi trả lời câu hỏi thường rất ngắn gọn, không đầy đủ câu gây cho người nghe có cảm giác khó chịu.

3. Nguyên nhân:

     - Một số phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập, còn thiêng về lao động chân tay để kiếm sống là chủ yếu nên việc trang bị đồ dùng học tập, quần áo cho con em  đi học chưa được chú trọng.

     -Vốn Tiếng Việt của học sinh còn rất hạn chế, khả năng nghe, nói còn yếu, trong giao tiếp thường không mạnh dạn hoặc không biết thể hiện bằng Tiếng Việt còn nói lấp lửng nửa câu tiếng Kinh nửa câu tiếng mẹ đẻ. Ngôn ngữ nói và viết thường sử dụng như nhau không phân biệt được, chữ viết thường thiếu dấu. Đôi khi giáo viên đưa ra yêu cầu học trò ngơ ngác không hiểu.

     - Chưa quen dùng trí óc, ngại suy nghĩ, thích hợp tư duy trực quan hình ảnh. Tư duy với vật cụ thể, gần gũi với đời sống thì dễ dàng hơn. Thiếu tính kiên trì, độ tập trung kém. Chẳng hạn khi làm bài tập, nếu mỗi em làm một câu sẽ đúng hoàn toàn nhưng khi cho làm vào vở tăng số câu lên sẽ có nhiều em làm bài sai.

     - Vốn dĩ trẻ ở độ tuổi này còn rất ham chơi, thích khám phá, ưa cái mới lạ, hay bắt chước những gì mình nhìn thấy, chưa biết phân biệt đúng- sai, tốt- xấu, điều này với học sinh dân tộc càng rõ nét.

     - Khác với những đứa trẻ thông thường, tình cảm học sinh dân tộc luôn rõ ràng, mộc mạc, không quanh co, che đậy. Trong độ tuổi này, các em thường có xu hướng thần tượng người lớn, thích được quan tâm, gần gũi, trò chuyện, bắt chước cử chỉ, điệu bộ của người lớn.

     - Học sinh sống giản dị, hồn nhiên, thật thà, trung thực, nghĩ và hiểu thế nào thì nói ra như thế ấy. Cô giáo hoặc bạn bè làm điều gì phật ý, học sinh thường biểu hiện thái độ ngay. Thích kiểu sống tự do, trong tập thể thường chậm hòa mình và biểu hiện một số thói quen chưa tốt: lề mề, chậm chạp, e thẹn.

     - Giáo viên còn ngại nên thiếu sự gần gũi, động viên, giúp đỡ các em khi cần thiết, chưa kịp thời. Đôi khi vẫn còn phê bình các em dẫn đến các em thiếu tự tin, chưa cảm thấy thoải mái khi đến trường.

III. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề:

  1. Vấn đề cần giải quyết:

Cần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh dân tộc lớp 1.3 để bước đầu giúp các em hình thành những phẩm chất tốt, từ đó sẽ học tập tốt hơn.

  2. Biện pháp cụ thể:

Để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh dân tộc thiểu số  lớp 1.3, giúp các em có những nhận thức đúng đắn, người giáo viên phải biết gắn kết trách nhiệm, nhiệm vụ của mọi thành viên trong nhà trường với các tổ chức đoàn thể, xã hội, gia đình, để cùng chăm lo giáo dục, phát triển nhân cách cho các em. Để làm tốt công tác này, bản thân tôi đã thực hiện một số nội dung sau:

    2.1 Thường xuyên tuyên truyền, quán triệt đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng cho phụ huynh, học sinh:

    Đối với học sinh dân tộc thiểu số, cha mẹ các em chưa nhận thức được về quan điểm đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Họ chỉ biết hưởng thụ và coi như đó là lẽ đương nhiên, ví dụ như các em được đến trường học tập, được hưởng mọi sự quan tâm của Đảng và nhà nước, cha mẹ các em không phải đóng góp tiền, các em còn được nhà nước cấp cho sách, được các nhà tài trợ cho đồ dùng học tập, được nhận học bổng mỗi tháng… Như vậy nhà trường, giáo viên chủ nhiệm cần tuyên truyền bằng mọi cách để phụ huynh thường xuyên quan tâm đến việc học của con em, hiểu được tại sao phải học, học để làm gì…Còn học sinh phải có nghĩa vụ học tập tốt, tuyên truyền cho gia đình thực hiện tốt mọi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.

Thực hiện tốt biện pháp này sẽ giúp học sinh biết trung thực, có trách nhiệm.

     2.2  Liên hệ thường xuyên với chính quyền địa phương, nhà trường và gia đình học sinh:

    Để công tác giáo dục đạo đức cho hoc sinh dân tộc thiểu số ở lớp 1.3 có hiệu quả, giáo viên chủ nhiệm phải giữ mối liên hệ thường xuyên với cấp Uỷ Đảng và chính quyền địa phương để kịp thời nắm bắt những thông tin về tình hình địa phương, về học sinh để kịp thời giải quyết phù hợp, nhất là với học sinh hay nghỉ học cần phải vận động kịp thời không để cho các em nghỉ thường xuyên sẽ dẫn đến bỏ học. Giáo viên cũng nên liên hệ địa phương để biết tranh thủ sự giúp đỡ của các nhà hảo tâm ủng hộ thêm đồ dùng học tập cho các em.

     Giáo viên chủ nhiệm là người gần gũi, theo dõi học sinh hằng ngày nên khi phát hiện những bất thường không nên chủ quan mà nên báo với nhà trường để có biện pháp giải quyết kịp thời tránh dẫn đến tình huống xấu.

     Thường xuyên thăm hỏi gia đình học sinh, trao đổi khéo léo về tình hình học tập của con em họ. Qua đó, giáo viên có thể nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh của phụ huynh cũng như hiểu thêm về đặc điểm của từng em để việc dạy dỗ, giáo dục được thuận lợi hơn.

Thực hiện tốt biện pháp này sẽ giúp học sinh biết tự phục vụ, tự quản và biết chăm học, chăm làm, trở thành những con ngoan, trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ.

 2.3 Tăng cường công tác giáo dục đạo đức cho học sinh dân tộc thiểu số lớp      1.3 thông qua vai trò của giáo viên chủ nhiệm:

    Trong nhà trường, giáo viên chủ nhiệm là người gần gũi với các em hơn cả nên cần nhẹ nhàng, thân thiện, yêu thương học sinh vì các em còn quá nhỏ lại phải vào môi trường học tập nề nếp. Ngay từ đầu năm học, giáo viên chủ nhiệm cần phải gần gũi nắm bắt được hoàn cảnh gia đình, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các em để áp dụng biện pháp giáo dục cho phù hợp. Hàng tuần, qua giờ truy bài, qua tiết dạy của mình và tiết sinh hoạt cuối tuần, giáo viên chủ nhiệm phải quan tâm đến các em, phát hiện kịp thời những diễn biến, những thay đổi trong học tập và trong cuộc sống, những ảnh hưởng không tốt đến tâm lý, đến nhận thức tư tưởng đạo đức của các em. Phải tạo được sự tin cậy giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh  để có những điều gì vướng mắc các em không hiểu các em có thể mạnh dạn trao đổi với giáo viên chủ nhiệm. Không được phân biệt trong giao tiếp, đối xử, thờ ơ với học sinh để các em có sự mặc cảm, xa lánh giáo viên. Thông qua mỗi bài dạy giáo viên hình thành cho các em những tình cảm trong sáng, khơi dậy tình yêu gia đình, yêu quê hương đất nước. Và điều không thể thiếu khi giảng dạy học sinh dân tộc thiểu số, nhất là lớp 1 thì cần thiết giáo viên chủ nhiệm nên biết một số câu, từ thông dụng trong giao tiếp bằng tiếng dân tộc sẽ giúp thuận lợi công việc hơn rất nhiều, phụ huynh cũng như học sinh sẽ thêm vui và quý cô giáo hơn. Giáo viên chủ nhiệm cần: trung thực, chân thành và thân thiện với học sinh, đã hứa với học sinh điều gì cần thực hiện đúng lời hứa.Tập cho học sinh  quen dần tính phê bình và tự phê bình để giúp nhau tiến bộ nhất là vào các tiết sinh hoạt lớp. Giáo viên cần biểu dương kịp thời các gương người tốt việc tốt, góp ý có lý có tình các sai sót. Giáo viên cũng cần giáo dục về lòng yêu nước,  những nét độc đáo, về tính thật thà, tinh thần giúp đỡ nhau trong học tập, lúc ốm đau. Khi giao việc giáo viên nên giao việc cụ thể, đúng người, đúng việc; xong công việc có nhận xét, góp ý, biểu dương….

Thực hiện tốt biện pháp này sẽ giúp học sinh biết đoàn kết, hợp tác, chia sẻ.

 2.4 Thông qua các hoạt động ngoại khóa để giáo dục đạo đức cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 1.3:

   Bên cạnh việc giảng dạy trong lớp, giáo viên chủ nhiệm nên chú trọng tổ chức các tiết ngoại khoá theo chủ điểm tháng với các hoạt động bổ ích dưới nhiều hình thức “Học mà chơi”, “Chơi mà học” để thu hút các em hứng thú học tập. Khi giao việc cho học sinh cần cụ thể, rõ ràng để các em có trách nhiệm thực hiện. Giáo viên nên tranh thủ thời gian nghỉ giữa giờ, các tiết sinh hoạt lớp hướng dẫn các em một số bài hát ngắn, trò chơi đơn giản để học sinh hào hứng học tập hơn. Giáo viên nên cùng các em làm một số đồ dùng dạy học, đồ dùng học tập đơn giản để các em có cơ hội tiếp xúc với giáo viên nhiều hơn, càng thêm vui thích khi đến trường. Qua đó, rèn cho các em sự tự tin, tính tự giác, tinh thần tập thể, sự năng động, sáng tạo, ý thức vươn lên. Nắm bắt được đặc điểm tâm lý của học sinh là điều rất cần thiết đối với người giáo viên, nó là cơ sở để xây dựng mối quan hệ thầy trò, giúp cho người giáo viên dễ dàng hơn trong công tác dạy học và cả công tác giáo dục đạo đức học sinh.

Thực hiện tốt biện pháp này sẽ giúp học sinh biết đoàn kết, hợp tác, tự tin.

 2.5. Phát huy vai trò tự quản của tập thể và tự rèn luyện của học sinh.

Trẻ nhỏ vốn có ý chí tự lực cánh sinh, độc lập khám phá cuộc sống. Vì vậy, giáo viên nên phối hợp quá trình giáo dục và quá trình tự giáo dục để các em tự thể hiện, tự đánh giá và điều chỉnh hành vi của mình trong việc rèn luyện đạo đức. Giáo viên phải chọn ra được ban cán sự có năng lực, uy tín, có sức thuyết phục, có năng lực tổ chức, điều khiển hoạt động tập thể. Vận động học sinh thực hiện tốt tinh thần phê bình và tự phê bình để giúp bạn cùng tiến bộ. Sự tương tác giữa học sinh với nhau hằng ngày sẽ giúp các em hình thành và điều chỉnh hành vi đạo đức của mình.

Thực hiện tốt biện pháp này sẽ giúp học sinh biết đoàn kết, hợp tác, giao tiếp tốt, tự tin..

 2.6 Thông qua các môn học khác để giáo dục đạo đức cho học sinh:

     Ngoài các môn Toán, Tiếng Việt giáo viên cũng cần chú ý đến các môn học khác. Mỗi môn học mang mục tiêu riêng nhưng chúng không tách biệt mà hỗ trợ lẫn nhau. Đặc biệt là môn đạo đức và kĩ năng sống, giáo viên không nên xem nhẹ mà cần phải hướng dẫn học sinh biết phân tích từng tình huống, hướng các em lựa chọn cách ứng xử tối ưu nhất, từ đó dần dần hình thành ở các em một nhân cách đạo đức tốt, giao tiếp tốt và biết tự tin vào bản thân và đương nhiên sẽ có hành vi đúng đắn. Trong các tiết học, luôn cần có sự chuyển đổi không khí để thu hút sự chú ý  của học sinh, tránh nhàm chán, mệt mỏi. Cần cố gắng sắp xếp sao cho tiết học của mình luôn có không khí thoải mái, vui tươi, tạo điều kiện cho các em thi đua để thêm hứng thú.

Thực hiện tốt biện pháp này sẽ giúp học sinh biết tự tin, trung thực, đoàn kết, hợp tác, tự học và giải quyết vấn đề.

2.7 Xây dựng môi trường sư phạm mẫu mực trong nhà trường:

Tập thể hội đồng sư phạm nhà trường thực hiện tốt phong trào: “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”và “ Mỗi thầy cô giáo là tấm gương sáng cho học sinh noi theo”. Hơn ai hết giáo viên chủ nhiệm là người phải làm tốt nhiệm vụ này vì giáo viên chủ nhiệm là người ảnh hưởng trực tiếp, thường xuyên, lâu dài và mang tính quyết định trong việc giáo dục học sinh.Triển khai rộng rãi mô hình "Lớp học thân thiện, học sinh tích cực" nhằm tạo môi trường thân thiện, gần gũi, tình đoàn kết, tình yêu thương của thầy cô giáo đối với các em, tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng giúp đỡ học sinh, làm thế nào để học sinh thấy được: "Mỗi ngày đến trường là một ngày vui".. Mỗi lời nói, hành động của giáo viên đều phải gương mẫu. Từ đó hình thành trong nhận thức các em một môi trường học tập lành mạnh góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp trong tâm hồn các em.

Thực hiện tốt biện pháp này sẽ giúp học sinh biết tự tin,hợp tác..

2.8 Khuyến khích học sinh sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hằng ngày trên lớp:

           Mục tiêu chủ yếu của môn Tiếng Việt ở cấp Tiểu học là hình thành và phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh trên cơ sở trang bị cho các em những kiến thức cơ bản, ban đầu về Tiếng Việt để các em có thể giao tiếp hiệu quả trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Bên cạnh mục tiêu căn bản đó, môn Tiếng Việt còn rèn luyện và phát triển tư duy cho học sinh, góp phần hình thành nhân cách con người mới cho các em theo đặc trưng của môn học. Khi học mỗi bài học môn Tiếng Việt, học sinh dân tộc thiểu số phải thực hiện hai nhiệm vụ: học tập để đạt được mục tiêu của bài và học tập để đạt mục tiêu tăng cường vốn Tiếng Việt sao cho tiếng Việt có thể là một công cụ giúp các em tiếp thu bài học và tham gia giao tiếp. Ngoài quy định tách mỗi bài dạy 2 tiết thành 3 tiết, vào các tiết luyện buổi chiều giáo viên cũng nên chú trọng rèn tất cả các kĩ năng cho học sinh. Khi sử dụng lưu loát tiếng Việt các em trở nên mạnh dạn, tự tin, hoạt bát hơn, học tập cũng tiến bộ hơn nhiều.

Học sinh học 2 buổi/ngày đòi hỏi việc giao tiếp cũng phải tăng lên, lợi dụng điều đó hằng ngày khi học sinh trao đổi với nhau giáo viên nên nhắc các em sử dụng Tiếng Việt và đương nhiên thời gian đầu phải theo dõi, khuyến khích các em thường xuyên, chỉ những câu, từ không nói được bằng tiếng Việt thì các em dùng tiếng mẹ đẻ. Bản thân giáo viên cũng thường xuyên tham gia vào quá trình giao tiếp của các em để hiểu, nói được tiếng dân tộc. Dần dần, cả giáo viên và học sinh đều được tăng thêm vốn từ. Khoảng cách giữa giáo viên và học sinh ngày càng được rút ngắn, học sinh và phụ huynh thêm yêu quý giáo viên. Hoạt động dạy học, giáo dục của giáo viên trở nên thuận lợi hơn. 

Thực hiện tốt biện pháp này sẽ giúp học sinh biết tự tin, tự học và giải quyết vấn đề.

     *Tuy mỗi biện pháp mà bản thân tôi đã nêu trên giáo viên nào cũng biết, tuy nhiên, để làm tốt điều đó thì không phải giáo viên nào cũng làm được. Mỗi biện pháp có những ưu điểm riêng, không có biện pháp nào là tối ưu, giáo viên cần biết kết hợp để việc giáo dục đạo đức cũng như dạy học cho các em được tốt hơn.

IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:

   1] Kết quả xếp loại năng lực, phẩm chất:    [TSHS : 16/8 nữ]

       Giữa học kì 1:

Xếp loại

Năng lực

Phẩm chất

Tự phục vụ, tự quản

Hợp tác

Tự học, giải quyết vấn đề

Chăm học, chăm làm

Tự tin

Trung thực

Đoàn kết

Tốt

6 [37,5]

5 [31,2]

10 [62,5]

7 [43,8]

6 [37,6]

5 [31,2]

9 [56,3]

Đạt

6 [37,5]

7[43,8]

2 [12,5]

4 [25]

5 [31,2]

8 [50]

5 [31,2]

Cần cố gắng

4 [25]

4 [25]

4 [25]

5 [31,2]

5 [31,2]

3 [18,8]

2 [12,5]

       Cuối năm học:

Xếp loại

Năng lực

Phẩm chất

Tự phục vụ, tự quản

Hợp tác

Tự học, giải quyết vấn đề

Chăm học, chăm làm

Tự tin

Trung thực

Đoàn kết

Tốt

7 [43,8]

5 [31,2]

7 [43,8]

8 [50]

7 [43,8]

8 [50]

6 [37,5]

Đạt

9 [56,2]

11 [68,8]

9 [56,2]

8 [50]

9 [56,2]

8 [50]

10 [62,5]

Cần cố gắng

/

/

/

/

/

/

/

2] Các mặt đạt được:

Khi áp dụng các biện pháp đã đề ra, bản thân tôi thấy những ưu điểm sau:

   - Khả năng sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp, học tập của học sinh tốt hơn.

   - Học sinh hứng thú hơn khi tham gia trò chơi, hoạt động ngoại khóa.

   - Khả năng diễn đạt câu lưu loát hơn  làm cho học sinh thêm tự tin.

   - Phụ huynh và học sinh thêm yêu quý giáo viên, việc giảng dạy và giáo dục càng hiệu quả.

   - Tạo niềm vui, sự thoải mái cho học sinh khi đến trường.

   - Hạn chế được tình trạng học sinh nghỉ học, không chịu đi học.

   - Học sinh có ý thức kỉ luật hơn, biết tự giác, hòa đồng không còn thói quen  biểu hiện thái độ như trước.

    - Kết quả học tập cũng ngày một tiến bộ hơn.

    - Học sinh biết giữ vệ sinh cá nhân, bảo vệ của công, biết trang trí, trồng và chăm sóc hoa cho trường lớp sạch đẹp.

    - Phụ huynh biết quan tâm đến việc học của con em, hằng ngày nhắc nhở con em đi học, không còn đưa trẻ đi làm cùng gia đình.

C. PHẦN KẾT LUẬN

I. Những bài học kinh nghiệm:

     Để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 1.3 theo tôi cần:

- Thường xuyên tuyên truyền, quán triệt đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng cho phụ huynh, học sinh.

- Liên hệ thường xuyên với chính quyền địa phương, nhà trường và gia đình học sinh.

-Tăng cường công tác giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua vai trò của giáo viên chủ nhiệm.

-Tăng thời lượng dạy Tiếng Việt cho học sinh.

-Thông qua các môn học khác để giáo dục đạo đức cho học sinh:

- Khuyến khích học sinh sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hằng ngày trên lớp.

- Thông qua các hoạt động ngoại khóa để giáo dục đạo đức cho học sinh.

- Xây dựng môi trường sư phạm mẫu mực trong nhà trường.

II. Khả năng ứng dụng, triển khai:

     Tuy nghiên cứu dựa trên tình hình, đặc điểm của học sinh dân tộc lớp 1.3 Trường Tiểu học Cam Phước Tây 1, nhưng đây  là những biện pháp cơ bản, nên có thể ứng dụng cho các lớp, trường khác có học sinh dân tộc. Những biện pháp này tuy đơn giản giáo viên nào cũng biết nhưng để làm được thì thật không đơn giản, nếu kiên trì áp dụng sẽ mang lại hiệu quả.

 III. Kiến nghị, đề xuất:

  - Đối với một số người dân tộc thiểu số có trình độ, địa phương nên sử dụng vào  công việc phù hợp để làm động lực học tập cho các thế hệ sau.

 - Mở lớp đào tạo tiếng dân tộc cho giáo viên công tác vùng có học sinh dân tộc thiểu số, đặc biệt là giáo viên mẫu giáo, dạy khối lớp 1.

- Nâng cao công tác tuyên truyền để phụ huynh học sinh người dân tộc hiểu tầm quan trọng của việc học tập.

- Quan tâm đến việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với người dân tộc thiểu số hơn nữa nhưng nên tạo việc làm phù hợp để họ kiếm sống bằng sức lao động không nên trợ cấp cho họ làm phần đông ỷ lại vào nhà nước mà lười lao động chỉ biết hưởng thụ bê tha.

     Do những hạn chế về thời gian và kinh nghiệm, kết quả nghiên cứu của bản thân chắc chắn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Bên cạnh đó, những kết luận, biện pháp nêu ra phần nhiều mang tính chủ quan, do đó cần phải được tiếp tục kiểm chứng trong thực tế, rất mong nhận được sự góp ý của qúy Thầy, cô giáo và đồng nghiệp để có thể nghiên cứu sâu hơn về đề tài này, tôi xin chân thành cảm ơn!

Cam Phước Tây, tháng 11 năm 2018

Người viết

Võ Thị Xuân Thế

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạp chí giáo dục Tiểu học.

2. Một số vấn đề tâm lí học về giao tiếp sư phạm [ Ngô Công Hoàn- Bộ GD-        ĐT]

3. 63 cách dạy trẻ tự tin [ Hà Tú- Nhà xuất bản phụ nữ]

4. Một số biện pháp hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số học Tiếng Việt lớp 1,2,3 [Bộ GD-ĐT].

5. Ứng xử sư phạm với học sinh Tiểu học [Hải Yến- Mạnh Quỳnh: Đại học quốc gia Hà Nội].

6. 100 trò chơi dân gian thân thiện tuổi học đường [ Trần Quang Đức]

7. Những điều giáo viên chủ nhiệm cần biết [ Nhiều tác giả- Nhà xuất bản lao động]

Video liên quan

Chủ Đề