Trình bày các nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế cho ví dụ minh hóa

Mục lục bài viết

  • 1. Tư vấn về quản lý kinh tế ở Việt Nam ?
  • 2. Những vấn đề về quản lý vốn Nhà nước
  • 3. Khi nhà nước quản lý kinh doanh
  • 4. Quản lý doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa
  • 5. Phân tích quản lý nhà nước về mô hình tập đoàn và cổ phần hóa

1. Tư vấn về quản lý kinh tế ở Việt Nam ?

Xin chào luật sư! Em là một sinh viên, hiện em có một câu hỏi muốn nhờ luật sư giúp đỡ: Trình bày quản lý nhà nước về kinh tế ở việt nam ? Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước. Nguyên tắc quản lý và thẩm quyền từng cơ quan ? Phương pháp, cách thức nhà nước quản lý kinh tế?

Xin cảm ơn Luật sư!

Người gửi: NV Lê

>> Xem thêm: Hàng tồn kho của doanh nghiệp là gì ? Nguyên tắc kế toán Hàng tồn kho

Tư vấn pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, gọi:1900.6162

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến chuyên mục tư vấn pháp luật của chúng tôi. Câu hỏi của bạn, Luật Minh Khuê xin trả lời như sau:

1. Trình bày quản lí nhà nước về kinh tế ở việt nam ?

Quản lý kinh tế của nhà nước là một dạng của quản lý xã hội của nhà nước.Nó quan trọng nhưng cũng rất phức tạp. NN quản lý toàn bộ nền KT quốc dân trên tất cả các lĩnh vực, các ngành kinh tế, các lãnh thổ kinh tế, các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế hoạt động trong toản bộ nền kinh tế – xã hội.

Quản lý trên phạm vi quốc gia và hoạt động KT đối ngoại ở nước ngoài: Dn có vốn đầu tư của VN ở nước ngoài, xuất nhập khẩu, thẩm định công nghệ thiết bị chuyển giao về VN.

Quản lý trên tầm vĩ mô, KT nhà nước đóng vai trò chủ đạo về hiệu quả, công bằng và bền vững. Nhà nước không can thiệp, không giải quyết những vấn đề quản lý sản xuất kinh doanh nội bộ của các chủ thể kinh tế trong hoạt động trong nền kinh tế thị trường [cá nhân, doanh nghiệp, các tập đoàn,…]

Những nội dung quản lý kinh tế chủ yếu của Nhà nước ta bao gồm:

– Quyết định chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc trước hết vào đường lối và chiến lược phát triển kinh tế. Để xây dựng chiến lược đúng, có căn cứ khoa học, cần phân tích đúng thực trạng kinh tế – xã hội, xác định rõ mục tiêu phát triển, lựa chọn phương án tối ưu. Muốn vậy, cần thực hiện dân chủ hoá, khoa học hoá, thể chế hoá quyết sách.

– Kế hoạch. Kế hoạch nói ở đây là kế hoạch thực hiện mục tiêu của quyết định chiến lược, nó là sự triển khai và cụ thể hoá quyết định chiến lược. Kế hoạch xác định mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, nêu ra các biện pháp và phương thức thực hiện các mục tiêu đó.

>> Xem thêm: Khái niệm giao kết hợp đồng, nguyên tắc giao kết hợp đồng ?

– Tổ chức. Tổ chức là một nội dung của quản lý nhằm bảo đảm thực hiện kế hoạch đã định. Nó bao gồm việc bố trí hợp lý cơ cấu, xác định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức và dựa vào yêu cầu cụ thể của các cơ cấu để lựa chọn và bố trí cán bộ thích hợp.

– Chỉ huy và phối hợp. Nền kinh tế là một hệ thống phức tạp, bao gồm nhiều chủ thể khác nhau, vì thế để cho nền kinh tế hoạt động bình thường, có hiệu quả, cần có sự chỉ huy thống nhất [điều chỉnh từ một trung tâm]. Để có thể chỉ huy nền kinh tế, phải có cơ quan quản lý thống nhất, cơ quan đó có quyền lực, có đầy đủ thông tin về các mặt để điều hoà, phối hợp các mặt hoạt động của nền sản xuất xã hội, giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh để bảo đảm cân bằng tổng thể của nền kinh tế.

– Khuyến khích và trừng phạt. Bằng các đòn bảy kinh tế và động viên về tinh thần, khuyến khích mọi tổ chức kinh tế hoạt động theo định hướng của kế hoạch, cố gắng thực hiện nhiệm vụ của kế hoạch. Muốn vậy, phải có chế độ thưởng phạt rõ ràng, hoạt động theo định hướng kế hoạch, làm lợi cho nền kinh tế thì được khuyến khích; ngược lại, không làm theo định hướng của kế hoạch, làm hại thì phải ngăn chặn và trừng phạt.

2. Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước

2.1. Các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương

a. Chính phủ, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất

¨ Vị trí pháp lý của Chính phủ trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước

1. Chính phủ là một thiết chế chính trị nắm quyền hành pháp, theo nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân công, phân cấp rành mạch giữa ba quyền: lập, hành và tư pháp, Chính phủ có chức năng cụ thể là:

+ Có quyền lập qui để thực hiện các luật do cơ quan lập pháp định ra;

+ Quản lý công việc hàng ngày của nhà nước;

>> Xem thêm: Thành phần tổ chức và nguyên tắc hoạt động của lực lượng Dân quân tự vệ

+ Quyền tổ chức bộ máy hành chính và quản lý bộ máy đó;

+ Trong phạm vi luật định, có quyền tham gia vào các dự luật, hỗ trợ Quốc hội trong hoạt động lập pháp.

2. Là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước, đảm bảo hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Là cơ quan điều hành cao nhất, Chính phủ chỉ đạo tập trung, thống nhất các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cấp chính quyền địa phương. Chính phủ có toàn quyền quyết định các vấn đề có liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước trên phạm vi toàn quốc, trừ các công việc của Quốc hội và UBTV Quốc hội. [Ðiều 112 Hiến pháp 1992 và Chương II, Luật tổ chức Chính phủ công bố ngày 10/02/1992]

3. Là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ và các thành viên của Chính phủ chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo với Quốc hội. Chính phủ phải trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội khi Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội có yêu cầu.

4. Trách nhiệm của Chính phủ và các cơ quan thành viên: Chính phủ do Quốc hội lập ra trong kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội. Quốc hội bầu TTCP theo đề nghị của Chủ tịch nước, giao cho TTCP đề nghị danh sách các Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ để Quốc hội phê chuẩn. Ðiều này xác định ba yếu tố:

+ Vai trò và trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội;

+ Vai trò cá nhân của TTCP trong việc lãnh đạo toàn bộ công việc của Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Lãnh đạo toàn bộ hoạt động của Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, có quyền ra quyết định, chỉ thị, xác định vai trò, trách nhiệm của các thành viên khác trong Chính phủ; xác định trách nhiệm cá nhân của những thành viên này.

+ Trách nhiệm cá nhân Bộ trưởng về lĩnh vực mình phụ trách.

¨ Thẩm quyền của Chính phủ

- Quyền sáng kiến lập pháp: Trên cơ sở đường lối chính sách pháp luật của Ðảng và nhà nước, Chính phủ dự thảo:

>> Xem thêm: Mẫu hợp đồng nguyên tắc mua bán hàng hóa song ngữ Anh - Việt

+ Các văn bản luật trình Quốc hội;

+ Các văn bản pháp lệnh trình UBTV Quốc hội;

+ Các dự án kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước;

+ Các chính sách lớn về đối nội và đối ngoại của nhà nước.

- Quyền lập quy: tức là ban hành những văn bản quản lý dưới luật có tính chất qui phạm pháp luật nhằm:

+ Ðưa ra các chủ trương, biện pháp để thực hiện chính sách, pháp luật;

+ Bảo vệ lợi ích nhà nước;

+ Bảo đảm trật tự xã hội;

+ Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;

Chính phủ có thẩm quyền ban hành nghị quyết, nghị định. TTCP có thẩm quyền ban hành quyết định, chỉ thị. Trong đó, nghị định của Chính phủ bao giờ cũng là văn bản pháp quy.

>> Xem thêm: Hiệp hội các nước Đông Nam Á [ASEAN] là gì ? Mục tiêu, nguyên tắc, cơ cấu tổ chức của ASEAN

- Quyền quản lý và điều hành toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội theo đúng đường lối, chủ trương chính sách của Ðảng, văn bản luật của Quốc hội, UBTV Quốc hội và hệ thống văn bản lập quy của Chính phủ.

- Quyền xây dựng và lãnh đạo toàn bộ hệ thống tổ chức, các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương tới địa phương, từ cơ quan HCNN có thẩm quyền chung đến cơ quan HCNN có thẩm quyền chuyên môn.

- Quyền tổ chức những đơn vị sản xuất, kinh doanh theo những hình thức thích hợp, lãnh đạo các đơn vị ấy kinh doanh theo đúng kế hoạch, đúng cơ chế, đúng pháp luật.

¨ Cơ cấu tổ chức Chính phủ

- Về cơ cấu tổ chức: Chính phủ gồm có Thủ tướng Chính phủ, các Phó thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Theo quy định của pháp luật thì Thủ tướng Chính phủ bắt buộc phải là đại biểu Quốc hội.

+ Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục hoạt động đến khi Quốc hội khóa mới thành lập Chính phủ mới.

+ Bộ và các cơ quan ngang bộ do Quốc hội thành lập theo đề nghị của TTCP.

- Chính phủ hoạt động bằng 3 hình thức căn bản. Hiệu lực của hoạt động Chính phủ là kết quả tổng hợp của cả 3 hình thức, hoạt động sau đây:

+ Hoạt động của tập thể Chính phủ: phiên họp Chính phủ

+ Sự chỉ đạo điều hành của TTCP và các phó Thủ tướng [theo sự phân công của TTCP].

>> Xem thêm: Phân tích các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ?

+ Sự hoạt động của các Bộ trưởng với tư cách là thành viên tham gia vào hoạt động Chính phủ, đồng thời cũng là người đứng đầu một Bộ hay cơ quan ngang Bộ.

- Chính phủ chỉ hoạt động dưới hai danh nghĩa: tập thể Chính phủ, hoặc cá nhân TTCP. Không có danh nghĩa thường vụ hay thường trực Chính phủ bởi vì theo Luật tổ chức Chính phủ hiện hành, không có cơ quan thường trực Chính phủ.

- Chính phủ là cơ quan làm việc theo chế độ tập thể, những vấn đề quan trọng của Chính phủ phải được thảo luận và quyết định theo đa số [Ðiều 19 Luật tổ chức Chính phủ]

- Các vấn đề đưa ra Chính phủ thảo luận phải là vấn đề trọng yếu nhất có ý nghĩa quốc gia, có tầm chiến lược, kinh tế, khoa học kỹ thuật chung cho cả nước, cho các ngành và các địa phương trọng yếu cụ thể.

¨ Nhiệm vụ và quyền hạn của TTCP

Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các cấp. Thẩm quyền của TTCP được qui định trong điều 114, Hiến pháp 1992 và Ðiều 20, Luật tổ chức Chính phủ.

Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên khác của Chính phủ. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, TTCP ban hành văn bản quyết định và chỉ thị.

Ðể đảm bảo vai trò chỉ đạo của TTCP, đồng thời phát huy khả năng sáng tạo chủ động của các phó TTCP và các Bộ trưởng, cần phải:

+ Phó Thủ tướng được phân công phụ trách khối hay lĩnh vực hoặc giúp Thủ tướng chỉ đạo việc phối hợp các công việc giữa các Bộ trưởng phải bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của TTCP.

+ Trong phạm vi quyền hạn được qui định và được giao, các phó TTCP và các Bộ trưởng phải chủ động trong hoạt động của mình. Tuy vậy, vẫn phải đảm bảo việc phối hợp và điều hoà chung trong Chính phủ, bởi vì quyết định của tập thể Chính phủ là quyết định cao nhất của cơ quan hành pháp nước CHXHCN Việt nam.

>> Xem thêm: Nguyên tắc tối huệ quốc [viết tắt theo tiếng Anh là MFN] là gì ? Phân tích nguyên tắc tối huệ quốc ?

b. Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ

¨ Bộ, cơ quan ngang Bộ [gọi tắt là cơ quan cấp Bộ] là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương; là cơ quan chuyên môn được tổ chức theo chế độ thủ trưởng một người, đứng đầu là các Bộ trưởng hay Chủ nhiệm ủy ban. Các cơ quan cấp Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo ngành [quản lý chức năng, quản lý liên ngành] hay đối với lĩnh vực [quản lý tổng hợp] trên phạm vi toàn quốc [Ðiều 2 Luật tổ chức Chính phủ]. Cụ thể như sau:

- Bộ quản lý theo lĩnh vực là cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực lớn, ví dụ như: kế hoạch, tài chính, khoa học, công nghệ, lao động, giá cả, nội vụ, ngoại giao, tổ chức và công vụ. Các lĩnh vực này liên quan đến hoạt động tất cả các Bộ, các cấp quản lý nhà nước, tổ chức xã hội và công dân.

- Bộ quản lý theo lĩnh vực có những nhiệm vụ:

+ Giúp Chính phủ nghiên cứu và xây dựng chiến lược kinh tế-xã hội chung;

+ Xây dựng các dự án kế hoạch tổng hợp và cân đối liên ngành; xây dựng các qui định chính sách, chế độ chung

+ Kiểm tra và bảo đảm sự chấp hành thống nhất pháp luật trong hoạt động của các Bộ và các cấp về lĩnh vực mình quản lý;

+ Phục vụ và tạo điều kiện cho các Bộ quản lý ngành hoàn thành nhiệm vụ.

- Bộ quản lý ngành là cơ quan Nhà nước Trung ương của Chính phủ, có trách nhiệm quản lý những ngành kinh tế-kỹ thuật, văn hoá, xã hội, ví dụ như: nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, thương mại, văn hoá thông tin, giáo dục, y tế. Bộ quản lý ngành có thể tập hợp với nhau thành một hoặc một nhóm liên quan rộng. Nó có trách nhiệm chỉ đạo toàn diện các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, kinh doanh do mình quản lý về mặt nhà nước.

¨ Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ là thủ trưởng cao nhất của Bộ hay cơ quan ngang Bộ.

>> Xem thêm: Hệ thống chính trị là gì ? Đặc điểm của hệ thống chính trị ?

- Bộ trưởng, một mặt là thành viên của Chính phủ, tham gia quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền chung của Chính phủ; mặt khác là thủ trưởng người đứng đầu Bộ thực hiện quyền hành pháp, tức là người đứng đầu hệ thống hành chính Nhà nước đối với ngành hay lĩnh vực, để quản lý ngành hay lĩnh vực được giao trong phạm vi cả nước.

- Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu sự lãnh đạo của Thủ tướng Chính phủ, chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực, ngành mình phụ trách trên phạm vi cả nước, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật trong ngành, lĩnh vực; chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách.

¨ Các cơ quan thuộc Chính phủ là những cơ quan có chức năng gần ngang Bộ như Tổng cục du lịch, Tổng cục hải quan, Tổng cục thống kê... Thủ trưởng các cơ quan này không phải là thành viên của Chính phủ, họ có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ nhưng không có quyền biểu quyết.

¨ Mối quan hệ giữa ngành và Bộ:

- Bộ là một phạm trù tổ chức nhà nước, là cơ quan Trung ương quản lý nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc tổ chức hành chính nhà nước.

- Ngành [ví dụ như ngành kinh tế-kỹ thuật] là một phạm trù kinh tế, và các tổ chức liên hiệp ngành, hoạt động theo nguyên tắc và phương thức kinh doanh.

- Không nhất thiết khi có một ngành hình thành do chuyên môn hoá ngày càng sâu thì phải có một Bộ chủ quản. Bởi vì trên thực tế, do xu hướng ngày càng mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho xí nghiệp, cho nên ngày càng xuất hiện nhiều ngành phân chia rất hẹp. Ðiều đó, cần sự quản lý bao quát hơn của Bộ, chứ không phải lúc nào cũng thành lập một Bộ riêng.

¨ Mối quan hệ giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ nếu có mối liên hệ với nhau, phải có trách nhiệm tôn trọng quyền quản lý của nhau, phối hợp thực hiện những nhiệm vụ của nhà nước.

2.2 Các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương

¨ Khái niệm: Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương là những cơ quan hành chính nhà nước thay mặt chính quyền ở địa phương.

>> Xem thêm: Phân tích những nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân gia đình ?

¨ Phân cấp: Các cơ quan HCNN ở địa phương được chia thành ba cấp

- Cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh: tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

- Cơ quan hành chính nhà nước cấp huyện: huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh;

- Cơ quan hành chính nhà nước cấp xã: xã, phường, thị trấn.

Trên thực tế, ở các địa phương cơ sở đều có các ấp, hoạt động gần giống như một cấp hành chính địa phương thứ tư. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương chỉ có 3 cấp tỉnh, huyện, xã.

¨ Lý luận về các cơ quan nhà nước ở địa phương:

- Các cơ quan nhà nước ở địa phương không phải là "cơ quan của địa phương". Quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất. Ðây là những cơ quan thay mặt cho nhà nước ở địa phương để thực hiện chức năng quản lý ở địa phương theo luật định.

- Các cơ quan nhà nước ở địa phương được hình thành từ trong quá trình lịch sử, gắn bó với các điều kiện địa lý, kinh tế, văn hoá, xã hội, cách thức tổ chức bộ máy nhà nước...Khác với một số nhà nước khác trên thế giới, chỉ có hai cấp chính quyền địa phương là tỉnh và huyện, bộ máy chính quyền địa phương của nước ta được tổ chức theo 3 cấp. Lý luận sự cần thiết về vai trò và chức năng của cấp xã đã được chứng minh rõ ràng từ trong lịch sử lập pháp Việt nam: có những chức năng của nhà nước chỉ thực hiện được ở cấp xã, nên thực hiện ở cấp xã hoặc chỉ thực hiện có hiệu quả ở cấp xã. Hương ước cấp xã là một ví dụ sinh động. Tương tự như vậy, đối với cấp huyện và cấp tỉnh cũng sinh ra từ sự đòi hỏi của quản lý và các điều kiện khác nêu trên. Vì vậy, tất yếu cần có một nhận thức đúng hơn về chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương không chỉ là những cơ quan thực hiện những chức năng mà cơ quan trung ương khi trung ương không thể thực hiện được như một "cánh tay nối dài", chúng còn có vai trò và sứ mệnh riêng.

¨ Nguyên tắc hoạt động

Khác với cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và với các cơ quan nhà nước khác, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc: phụ thuộc theo chiều dọc và phụ thuộc theo chiều ngang. Cụ thể:

>> Xem thêm: Bảy nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là gì ?

+ UBND các cấp [cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung], vừa phụ thuộc cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp trên vừa phụ thuộc vào hội đồng nhân dân [HÐND] cùng cấp [cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp ở địa phương].

Ví dụ: UBND huyện Ô Môn, trong hoạt động của mình vừa phụ thuộc vào UBND tỉnh Cần Thơ vừa phụ thuộc vào HÐND huyện Ô Môn.

+ Các sở, phòng, ban [cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn] vừa phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên vừa phụ thuộc vào UBND cùng cấp [cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp].

Ví dụ: Phòng văn hóa-thông tin huyện Thốt Nốt, trong hoạt động của mình vừa phụ thuộc vào Sở văn hóa-thông tin tỉnh Cần Thơ vừa phụ thuộc vào UBND huyện Thốt Nốt.

a. ủy ban nhân dân

¨ Vai trò

- UBND do HÐND bầu ra, là cơ quan chấp hành của HÐND, nó là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có chức năng và nhiệm vụ chấp hành hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HÐND cùng cấp.

- Nhiệm vụ và quyền hạn của UBND được quy định cụ thể trong Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức HÐND và UBND [Ðiều 42, Luật sửa đổi];

¨ Tính chất và hoạt động

- UBND là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung. Nhiệm kỳ của UBND theo nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân cùng cấp.

>> Xem thêm: Chi thường xuyên là gì ? Phạm vi, nguyên tắc của việc chi thường xuyên

- UBND gồm có một Chủ tịch, một hay nhiều phó Chủ tịch và các ủy viên. Chủ tịch UBND phải là đại biểu HÐND, do HÐND cùng cấp bầu ra và được Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp phê chuẩn [ nếu là cấp tỉnh thì phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn ].

- UBND là một thiết chế tập thể trong đó Chủ tịch UBND là người trực tiếp lãnh đạo hoạt động của UBND. Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, UBND phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.

¨ Chủ tịch UBND

- Chủ tịch UBND có nhiệm vụ và quyền hạn riêng được quy định trong pháp luật, phải chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình. Chủ tịch UBND là: "Người lãnh đạo và điều hành công việc của UBND, chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình; cùng với UBND chịu trách nhiệm về hoạt động của UBND trước HÐND cùng cấp và trước cơ quan nhà nước cấp trên".

- Tuy UBND làm việc theo chế độ tập thể, nhưng mỗi thành viên của UBND chịu trách nhiệm cá nhân về phần công tác của mình trước HÐND cùng cấp tương ứng. Trong đó, Chủ tịch UBND là người đứng đầu, chỉ đạo và phân công công tác cho các Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBND.

- Mặt khác, Chủ tịch UBND có những thẩm quyền riêng [xem Ðiều 49, Ðiều 52... Luật tổ chức HÐND và UBND]

- Theo pháp luật hiện hành, thiết chế thường trực UBND và chức danh Uỷ viên thư ký UBND không còn nữa.

b. Các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn ở địa phương

- Các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn ở địa phương là các sở, phòng, ban được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc, hoạt động theo chế độ thủ trưởng một người, đứng đầu giám đốc sở, phòng, ban.

- Là cơ quan giúp việc cho UBND, quản lý nhà nước trong phạm vi lãnh thổ của mình. Người đứng đầu các cơ quan này do Chủ tịch UBND quyết định bổ nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm.

>> Xem thêm: Quyền bầu cử, ứng cử là gì ? Nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân

- Việc thành lập hay bãi bỏ những cơ quan này do UBND quyết định sau khi tham khảo ý kiến của cơ quan chủ quản chuyên môn cấp trên

2.3. Các đơn vị cơ sở trực thuộc cơ quan quản lý hành chính nhà nước

Ðây không phải là cơ quan hành chính nhà nước nhưng chúng nằm trong hệ thống của các cơ quan hành chính nhà nước. Các đơn vị cơ sở trực thuộc cơ quan hành chính nhà nước tổ chức và hoạt động dưới sự quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước. Bao gồm hai loại:

- Các đơn vị hành chính sự nghiệp: là các trường học, bệnh viện..., các đơn vị này có tài sản riêng, có một tập thể cán bộ, công nhân viên chức chuyên môn, kỹ thuật, hoạt động dựa vào ngân sách nhà nước.

- Các đơn vị sản xuất kinh doanh: là các xí nghiệp, liên hiệp xí nghiệp, công ty, tổng công ty, lâm trường ..., là các đơn vị, tổ chức quản lý kinh tế trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, hoạt động theo nguyên tắc hoạch toán kinh tế.

3. Phương pháp, cách thức nhà nước quản lí kinh tế ?

Phương pháp quản lý kinh tế của Nhà nước là tổng thể những cách thức tác động có chủ đích và có thể có của Nhà nước lên hệ thống kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu quản lý của Nhà nước.

Trong thực tế tổ chức và quản lý đối với nền kinh tế, Nhà nước có thể và cần phải thực hiện các biện pháp chủ yếu, đó là: phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế và phương pháp giáo dục thuyết phục.

1. Phương pháp hành chính

1.1. Khái niệm
Phương pháp hành chính là cách thức tác động trực tiếp của Nhà nước thông qua các quyết định dứt khoát có tính bắt buộc trong khuôn khổ luật pháp lên các chủ thể kinh tế, nhằm thực hiện các mục tiêu của Nhà nước trong những tình huống nhất định.

>> Xem thêm: Nguyên tắc bồi thường về đất khi nhà nước thu hồi đất ? Không có sổ đỏ có được bồi thường không ?

1.2. Đặc điểm

Phương pháp này mang tính bắt buộc và tính quyền lực.
- Tính bắt buộc đòi hỏi các đối tượng quản lý [các doanh nghiệp, các doanh nhân…] phải chấp hành nghiêm chỉnh các tác động hành chính, nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời, thích đáng.
- Tính quyền lực đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước chỉ được phép đưa ra các tác động hành chính đúng thẩm quyền của mình.
Thực chất của phương pháp này là sử dụng quyền lực Nhà nước để tạo sự phục tùng của đối tượng quản lý [các doanh nghiệp, doanh nhân…] trong hoạt động và quản lý của Nhà nước.

1.3 Hướng tác động
- Tác động về mặt tổ chức: Nhà nước xây dựng và không ngừng hoàn thiện khung pháp luật, tạo ra một hành lang pháp lý cho các chủ thể tham gia vào hoạt động của nền kinh tế. Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về mặt tổ chức hoạt động của các chủ thể kinh tế và những quy định thuộc về thủ tục hành chính buộc tất cả những chủ thế từ cơ quan nhà nước đề doanh nghiệp phải tuân thủ.
- Tác động điều chỉnh hành động, hành vi của các chủ thể kinh tế là những tác động mang tính bắt buộc của Nhà nước lên quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu quản lý của Nhà nước.

1.4. Trường hợp áp dụng phương pháp hành chính
Phương pháp hành chính được dùng để điều chỉnh các hành vi mà hậu quả của nó có thể gây ra thiệt hại cho cộng đồng, cho Nhà nước. Trong trương hợp những hành vi này diễn ra khác với ý muốn của Nhà nước phải sử dụng phương pháp cưỡng chế để ngay lập tức đưa hành vi đó tuân theo một chiều hướng nhất định, trong khuôn khổ chính sách, pháp luật về kinh tế. Chẳng hạn, những đơn vị nào sản xuất hàng nhái, hàng giả bị Nhà nước phát hiện sẽ phải chịu xử phạt hành chính như: đình chỉ sản xuất kinh doanh, nộp phạt, tịch thu tài sản…

2. Phương pháp kinh tế

2.1. Khái niệm

Phương pháp kinh tế là cách thức tác động gián tiếp của Nhà nước, dựa trên những lợi ích kinh tế có tính hướng dẫn lên đối tượng quản lý tự giác chủ động quản lý nhằm làm cho các đối tượng quản lý tự giác chủ động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

2.2. Đặc điểm
Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động lên đối tượng quản lý không bằng cưỡng chế hành chính mà bằng lợi ích, tức là Nhà nước chỉ đề ra mục tiêu, nhiệm vụ phải đạt, đặt ra những điều kiện khuyến khích về kinh tế, những phương tiện vật chất có thể sử dụng để họ tự tổ chức việc thực hiện nhiệm vụ. có thể thấy đay là phương pháp quản lý tốt nhất để thực hành tiết kiệm và nâng cao hiệu quả kinh tế. Phương pháp này mở rộng quyền hành động cho các chủ thể kinh tế, đồng thời cũng tăng trách nhiệm kinh tế của họ.

Trân trọng./.

kinh t

>> Xem thêm: Định mức lao động là gì ? Nguyên tắc xây dựng định mức lao động

Nề

2. Những vấn đề về quản lý vốn Nhà nước

Thực hiệnLDN 2020 đối với DNNN trong thời hạn 4 năm là không đơn giản vì cơ chế quản lý vốn Nhà nước tại DNNN hiện tại là hết sức phức tạp, do khái niệm đại diện chủ sở hữu chưa được làm rõ trong các quy định pháp luật. Ngày 3/12/2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định 199/2004/NĐ-CP về việc ban hành quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào DN khác [Nghị định 199].

Nghị định này thay thế hàng loạt Nghị định của Chính phủ và các văn bản của Chính phủ đã ban hành liên quan đến quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào DN khác.

Như vậy có thể nói Nghị định 199 là văn bản mới nhất về những vấn đề quản lý vốn nhà nước đang có hiệu lực.

Tuy nhiên một vấn đề đặt ra là liệu rằng Nghị định 199 có thể thực hiện được nhiệm vụ đổi mới cơ chế hành chính chủ quản hiện nay để thay thế bằng cơ chế chủ quản mới hay không? Hình bóng của cơ chế chủ quản mới là gì?

>> Xem thêm: Nhận định đúng sai môn luật hành chính [phần 2]? Nguyên tắc xử phạt hành chính theo quy định pháp luật ?

Luật sư tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp trực tuyến gọi số:1900.6162

“Công ty hoá” các DNNN đúng với chuẩn mực công ty là không đơn giản vì cơ cấu và cách thức quản trị công ty có sự khác biệt về cơ bản so với quy định hiện hành về quản trị DNNN. Vấn đề cơ bản là sở hữu trong DNNN với cơ chế đại diện chủ sở hữu như hiện nay vẫn luôn rơi vào tình trạng “vô chủ”.

Ngay cả khi cổ phần hoá, Nhà nước chỉ còn giữ vai trò là cổ đông thì cái “cổ đông nhà nước” cũng không thể như cổ đông khác! Vì vốn vẫn không phải là của con người thực, như những cổ đông thể nhân khác! Cổ đông đó vẫn phải nghe lệnh của cấp trên!

Khi chuyển DNNN thành công ty TNHH 1 thành viên thì nhà nước vẫn giữ 100% vốn, vấn đề là ai giữ? Nếu không làm rõ vấn đề này thì vẫn xảy ra câu chuyện vô chủ như trước, nên việc chuyển đổi này chỉ là hình thức và gây lãng phí! Vậy khi chưa bán hết sở hữu nhà nước thì Nhà nước thực hiện nguyên tắc chủ quản mới như thế nào?

Về lý thuyết thì nguyên tắc chủ quản mới phải đảm bảo các đặc điểm được quy định tại Điều 168 Luật doanh nghiệp.

- Thực hiện quyền chủ sở hữu với vai trò là người đầu tư vốn nhà nước như những nhà đầu tư khác. Nhưng cái khác là làm thế nào để thực hiện chữ “như” này khi mà đồng tiền không thực sự là của con người thực.

- Bảo toàn và phát triển vốn nhà nước.

- Tách chức năng thực hiện quyền chủ sở hữu ra khỏi chức năng quản lý hành chính có nghĩa là phải tìm giải pháp lập một cơ quan ngang Bộ chuyên lo về kinh doanh. Mô hình Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước sẽ thực hiện chức năng này. Với cách này sẽ đụng chạm tới các Bộ ngành khác và UBND các tỉnh đang quản lý vốn nhà nước tại DN! Việc bàn giao vốn đến nay vẫn chưa nhúc nhích.

- Tách chức năng thực hiện quyền chủ sở hữu với chức năng kinh doanh! Những người đại diện chủ sở hữu không trực tiếp quản lý điều hành DN! Trên thực tế rất khó tách 2 chức năng này!

>> Xem thêm: Phân biệt Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc và Nguyên tắc đối xử quốc gia

- Thực hiện quyền sở hữu một cách tập trung và thống nhất và nguyên tắc một DN chỉ do tổ chức thực hiện quyền chủ sở hữu tại DN tránh tình trạng lắm cha con khó lấy chồng.

Trên thực tế việc thực hiện nguyên tắc chủ quản mới là không dễ dàng vì các lý do sau:

- Cách thức làm việc “tập thể” nhiều người có quyền nhưng không ai chịu trách nhiệm, thiếu niềm tin vào cá nhân, thiếu sự chịu trách nhiệm, thích quyền to nhưng không chịu trách nhiệm gì!

- Thiếu cán bộ quản trị kinh doanh phù hợp, nguy cơ trao quyền cho người không đủ năng lực.

- Sự thay đổi trên sẽ động chạm tới cơ chế lợi ích hiện nay.

Vấn đề cần trao đổi là Nghị định 199/2004/NĐ-CP đã thể hiện những đổi mới về cơ chế chủ quản mới như thế nào! Nội dung cần xác định ai là chủ thể đại diện quyền sở hữu nhà nước.

Nghị định 199/2004 có đề cập tới việc chuyển giao vốn nhà nước về Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.

Chương IV: Quản lý vốn nhà nước đầu tư vào DN về ý tưởng của chương này là phải tập trung việc quản lý vốn nhà nước đầu tư và kinh doanh vào Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước. Trong khi chưa chuyển giao cho Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước thì quy định về đại diện chủ sở hữu vẫn chưa có gì thay đổi.

Khoản 6 Điều 44. Nghị định 199 quy định các Bộ, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm chuyển giao nhiệm vụ quản lý vốn nhà nước tại DN khác cho Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước theo quyết định và lịch trình của Thủ tướng Chính phủ.

Chức năng của Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước của tất cả các loại vốn ở các loại công ty do Bộ ngành, địa phương chuyển giao.

>> Xem thêm: Phân tích các nguyên tắc cơ bản trong hệ thống Luật quốc tế

Tuy nhiên tại Khoản 3 Điều 44 quy định UBND cấp tỉnh trong thời gian chưa chuyển giao cho Tổng Công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước là đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước ở các công ty TNHH 1 thành viên, vốn nhà nước ở DN khác do ngân sách địa phương đầu tư góp vốn, vốn nhà nước ở công ty cổ phần do UBND cấp tỉnh quy định thành lập thực hiện cổ phần hoá toàn bộ, vốn nhà nước ở công ty liên doanh do công ty nhà nước góp toàn bộ vốn vào liên doanh mà không còn pháp nhân công ty nhà nước.

Với quy định này thì các công ty nhà nước đã cổ phần hoá một bộ phận sẽ vẫn là đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư vào công ty cổ phần do cổ phần hoá một bộ phận. Về lý thuyết và thực tế quy định này tạo nên một số bất ổn như sau:

- Thứ nhất khi cổ phần hoá một bộ phận thì bộ phận này không ảnh hưởng gì tới hoạt động của công ty và như vậy hoàn toàn có thể độc lập tách rời công ty cổ phần khỏi công ty nhà nước và uỷ ban có thể áp dụng quy chế quản lý vốn như những công ty nhà nước cổ phần hoá toàn bộ. Việc thiếu quy định giao cho UBND quản lý số vốn này tạo ra kẽ hở cho việc quản lý vốn nhà nước không tập trung, bị phân tán cho nhiều công ty nhà nước.

- Thứ hai, có thể lạm dụng việc tái cơ cấu, sáp nhập các công ty nhà nước thuộc quyền để tiếp tục cổ phần hoá tạo nên cổ phần hoá lồng ghép và tạo ra cơ hội để vụ lợi cho những người có lợi ích từ công ty nhà nước do việc cố tình quên không đấu giá công khai cổ phần của công ty cổ phần đã cổ phần hoá từ một bộ phận DNNN trước đây vì giá trị của cổ phần này vẫn được kê nguyên giá gốc. Với cách này họ có thể biến vốn nhà nước thành vốn của công ty cổ phần.

- Thứ ba, khi bàn giao với Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước thì UBND tỉnh là người bàn giao và số vốn nhà nước tại công ty cổ phần do cổ phần hoá một bộ phận đã bị tính vào vốn của công ty cổ phần. Do hiệu quả của cổ phần hoá lồng ghép và nhà nước sẽ không kiểm soát được dòng vốn cụ thể của nhà nước đang nằm ở đâu, phát huy tác dụng ra sao.

Từ những thực tế không minh bạch trong việc quản lý vốn đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước, nên sớm có một nghị định mới thay thế Nghị định 187/2004/NĐ-CP và Nghị định 199/2004/NĐ-CP.

- Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN một cách công khai minh bạch theo khả năng mua của thị trường. Nhà nước chỉ giữ lại những cổ phần không có người mua và sẵn sàng bán tiếp.

- Phần vốn nhà nước còn lại sẽ được thu hẹp, khi đó nhanh chóng giao cho Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước quản lý. Nhà nước sẽ dần thoát khỏi vai trò là người đầu tư và kinh doanh chỉ còn đóng vai trò là người quản lý xã hội.

MKLAW FIRM [Sưu tầm & Biên tập]

3. Khi nhà nước quản lý kinh doanh

Nếu nền kinh tế tập trung bao cấp công hữu hóa không chấp nhận thành phần kinh tế tư nhân, thì ngược lại, nền kinh tế thị trường nhiều thành phần lại đòi hỏi phải có thành phần kinh tế nhà nước, đơn giản chỉ vì nếu thiếu, thì đó không còn là kinh tế thị trường nhiều thành phần nữa.

Theo định đề này, có thể thấy cải cách doanh nghiệp nhà nước có hai nội dung chủ yếu:

1. Cổ phần hóa một bộ phận kinh tế nhà nước, trong đó cổ phần hóa được hiểu giống như tư nhân hóa khi toàn bộ một doanh nghiệp được cổ phần hóa và đa phần trường hợp là chỉ cổ phần hóa một phần doanh nghiệp. Cả hai dạng cổ phần hóa nêu trên đều đã diễn ra trong thực tế.

Sau cổ phần hóa, doanh nghiệp nhà nước sẽ có hai loại: [i] Doanh nghiệp nhà nước [không/chưa cổ phần hóa], bao gồm những doanh nghiệp lớn trong những ngành kinh tế – kỹ thuật nòng cốt. Những doanh nghiệp này có thể mang những tên gọi khác nhau, như Tập đoàn A, Tổng công ty B, Công ty cổ phần C, Công ty TNHH một thành viên D…, song có đặc điểm chung: Nhà nước vẫn là chủ sở hữu duy nhất. Nhà nước cần nắm giữ những doanh nghiệp này vì đó chính là sức mạnh và cũng là quyền lực kinh tế mà Nhà nước có thể trực tiếp sử dụng cùng với quyền lực chính trị để quản lý xã hội. Và đó cũng là những lĩnh vực mà Nhà nước phải đảm nhiệm duy trì và phát triển, dù vốn đầu tư có lớn, suất sinh lợi có thấp. [ii] Doanh nghiệp cổ phần hóa một phần, sở hữu hỗn hợp, Nhà nước chỉ là một đồng sở hữu, với tên gọi là Công ty cổ phần N, Công ty cổ phần M… Phân biệt hai loại doanh nghiệp như vậy nhằm tạo thuận tiện cho việc xây dựng cơ chế quản lý kinh doanh của chủ sở hữu – Nhà nước phù hợp với từng loại.

Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi: 1900.6162

>> Xem thêm: Nguyên tắc định giá tài sản góp vốn trong doanh nghiệp?

2. Đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước nhằm củng cố, tăng cường khu vực kinh tế nhà nước. Quản lý kinh tế vốn là chức năng quan trọng nhất của Nhà nước ta trong thời bình. Trước đây, khi nền kinh tế công hữu hóa còn vận hành theo cơ chế tập trung bao cấp, hệ thống quản lý kinh tế của Nhà nước được tổ chức theo ngành, trong đó có lẽ chỉ trừ ngành nông nghiệp, còn các ngành khác hầu như đều đã quốc doanh hóa. Cho nên các cơ quan quản lý ngành mặc nhiên trở thành chủ quản các doanh nghiệp, vừa quản lý nhà nước với tư cách cơ quan quyền lực, vừa quản lý kinh doanh với tư cách chủ sở hữu.

Với tư cách chủ sở hữu, Nhà nước không thể buông chức năng quản lý kinh doanh đối với các doanh nghiệp của mình. Một câu hỏi lập tức nảy sinh: nếu các chủ quản [cũ] chỉ quản lý nhà nước, thì cơ quan nào sẽ đại diện chủ sở hữu quản lý kinh doanh các đơn vị kinh tế nhà nước?

Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường nhiều thành phần, bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đối với các doanh nghiệp này, đương nhiên các cơ quan nhà nước chỉ quản lý về mặt hành chính nhà nước, trong khi đó, với tư cách chủ quản, vẫn quản lý hoạt động kinh doanh đối với các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc. Hệ quả khó tránh là xuất hiện tình trạng phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.

Mặt khác, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, chức năng quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh ngày càng trở nên phức tạp, đòi hỏi các cơ quan quản lý phải chuyên nghiệp hơn. Từ thực tế đó, hình thành ý tưởng tách quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh, xóa bỏ cơ chế “chủ quản”.

Với tư cách cơ quan quyền lực, Nhà nước thực hiện quản lý hành chính nhà nước đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp nhà nước cũng phải chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp và tất cả các văn bản dưới luật liên quan như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Trước pháp luật, các thành phần kinh tế đều bình đẳng.

Tuy nhiên với tư cách chủ sở hữu, Nhà nước không thể buông chức năng quản lý kinh doanh đối với các doanh nghiệp của mình. Một câu hỏi lập tức nảy sinh: nếu các chủ quản [cũ] chỉ quản lý nhà nước, thì cơ quan nào sẽ đại diện chủ sở hữu quản lý kinh doanh các đơn vị kinh tế nhà nước? Vấn đề này rất quan trọng nhưng lâu nay dường như còn bỏ ngỏ. Do đó chức năng quản lý của chủ sở hữu cũng bị bỏ ngỏ theo. Về danh nghĩa, doanh nghiệp nhà nước có chủ là Nhà nước nhưng thực tế dường như vô chủ, tạo môi trường màu mỡ cho lạm quyền, tham ô, tham nhũng.

Đã từng xuất hiện ý tưởng giao chức năng này cho các tổng công ty. Song như thực tế đã cho thấy, các tổng công ty, kể cả Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước, không đủ tầm để thực hiện chức năng này, vì bản thân nó cũng chỉ là một doanh nghiệp, chỉ có tầm nhìn của doanh nghiệp, trong khi nếu là đại diện Nhà nước phải có tầm nhìn quốc gia. Có thể nói đây là một khoảng trống trong cơ chế quản lý kinh doanh khu vực kinh tế nhà nước.

Về mặt bộ máy, khoảng trống này bộc lộ rõ khi cần xử lý những vấn đề kinh doanh vượt quá thẩm quyền của hội đồng quản trị và tổng giám đốc, do thiếu một cấp trên để thỉnh thị. Chẳng lẽ mỗi lúc như vậy lại trực tiếp trình lên Thủ tướng hoặc chủ tịch UBND tỉnh, thành phố ?

Nhưng đó chỉ là một khoảng trống. Còn một khoảng trống quan trọng khác: thiếu hẳn vai trò chỉ đạo ở tầm chủ sở hữu trong điều hòa, phối hợp, nhất là trong tái phân phối vốn đầu tư và tích lũy nội bộ của kinh tế nhà nước. Cần nhấn mạnh rằng chính đây mới là thế mạnh của kinh tế nhà nước cần phát huy để tạo ra sức mạnh tổng thể và xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, nhất là trong cải cách cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân. Khoảng trống này bộc lộ rõ trong tình trạng nhiều tổng công ty/tập đoàn đang hoạt động như những vương quốc độc lập.

Với lý do kinh doanh đa ngành, đã xuất hiện tình trạng đầu tư chồng lấn, trái ngành giữa nhiều đơn vị kinh tế nhà nước, tình trạng sa đà vào những đầu tư rủi ro và không có thế mạnh như bất động sản, chứng khoán, ngân hàng, công ty tài chính… gây ra những cơn sốt và thua lỗ không đáng có, trong khi nhiều hạng mục cần thiết cho nền kinh tế, đúng thế mạnh lại bị buông lơi do “thiếu” vốn.

>> Xem thêm: Liên hợp quốc là gì ? Tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc

Có lẽ do thấy được khoảng trống nói trên và nhằm lấp khoảng trống đó, một dự thảo nghị định về tập đoàn kinh tế nhà nước đã được soạn thảo và có lúc đã được công luận chú ý. Tiếc rằng dự thảo chưa đủ sức thuyết phục. Chúng ta đang thiếu một cơ chế quản lý kinh doanh đối với các doanh nghiệp nhà nước, chứ không phải chỉ đối với tập đoàn kinh tế nhà nước. Cho nên rất cần một nghị định [thậm chí một luật riêng] quy định rõ ràng cơ chế này. Cơ sở pháp lý của nghị định này không phải là Luật Doanh nghiệp nhà nước hiện hành [cũng sắp hết hiệu lực], mà là Luật Doanh nghiệp 2020

Trong khuôn khổ Luật Doanh nghiệp và bằng nghị định này, với tư cách đại diện chủ sở hữu, Chính phủ quy định khuôn khổ cho cơ chế quản lý kinh doanh các doanh nghiệp thuộc sở hữu của mình. Nghị định này mang tính chất nội quy hơn là pháp quy. Nó chỉ có giá trị thi hành trong khu vực kinh tế nhà nước. Chính phủ không thể thông qua nghị định này để quy định những ưu ái riêng cho doanh nghiệp nhà nước.

Trong nghị định này, vấn đề quan trọng bậc nhất là quy định hệ thống bộ máy quản lý kinh doanh các doanh nghiệp nhà nước cùng với những quy định về phân công, phân cấp quản lý trong hệ thống về các chỉ tiêu tăng trưởng, về chế độ lao động – tiền lương, tiền thưởng, về tái phân phối vốn tích lũy giữa các doanh nghiệp nhà nước thông qua việc lập và sử dụng quỹ đầu tư chung của kinh tế nhà nước trên cơ sở huy động vốn tương đối “thừa”, sử dụng kém hiệu quả ở doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác đang “đói” và có khả năng sử dụng vốn hiệu quả hơn.

Nghị định này cũng cần quy định cơ chế quản lý kinh doanh của Nhà nước đối với các công ty cổ phần sở hữu hỗn hợp nhằm cụ thể hóa quyền và trách nhiệm của cổ đông – Nhà nước trong khuôn khổ Luật Doanh nghiệp.

[MKLAW FIRM: Biên tập.]

>> Xem thêm: Nguyên tắc kế toán chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang của doanh nghiệp

4. Quản lý doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa

Sự kiện hơn 1.500 doanh nghiệp nhà nước [DNNN] được cấp tốc chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên theo Nghị định số 25/2010/NĐ-CP [NĐ25] đã và đang… chìm dần với thông tin: về cơ bản đã về đích đúng hạn.

Đã có nhiều ý kiến cho rằng, hoạt động theo Luật doanh nghiệp, các DNNN sau chuyển đổi sẽ có một hành lang pháp lý rộng hơn, tự chủ cao hơn, năng động hơn. Từ đó, chúng ta sẽ có những doanh nghiệp mạnh, góp phần thúc đẩy nhanh hơn nữa cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Đó là hy vọng và không ai có thể cấm người ta hát những "Bài ca hy vọng" như vậy!

Tuy nhiên, nhìn thẳng vào sự thật có thể thấy, việc các DNNN chuyển thành Công ty TNHH một thành viên theo NĐ25 vừa qua, thực chất chỉ là tạo ra những chiếc "bình mới" cho một "chất rượu" cũ mà thôi. Các DNNN sau khi chuyển đổi thành Công ty TNHH một thành viên sẽ chưa [hoặc không] có sự thay đổi nào đáng kể về quản trị doanh nghiệp – khâu quyết định đối với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Bởi lẽ, công tác quản trị các DNNN sau chuyển đổi theo NĐ 25, vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của cơ chế chủ quản.

Chủ quản là gì?

Chủ quản và cơ chế chủ quản là sản phẩm của thời kỳ nền kinh tế nước ta được quản lý theo kế hoạch tập trung. Sau này, cơ chế đó được gọi với cái tên đầy đủ là "Kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp". Những đặc trưng cơ bản của cơ chế chủ quản là:

- Các doanh nghiệp trong nền kinh tế đều là DNNN, do Nhà nước làm chủ sở hữu. Khi đó, Nhà nước độc quyền kinh doanh. Người dân mà kinh doanh là vi phạm pháp luật, là con buôn, là "bọn tiểu thương"!

- Mỗi doanh nghiệp, khi đó được gọi là Xí nghiệp, đều do một cơ quan quản lý Nhà nước quản lý, gọi là cơ quan chủ quản. Chẳng hạn, Xí nghiệp sản xuất xe đạp thì do Ty [sau này là Sở] Công nghiệp quản lý; Xí nghiệp Thương mại bán buôn, bán lẻ thì do Ty [Sở] Thương nghiệp quản lý, v.v…

- Mỗi Xí nghiệp có một Giám đốc Xí nghiệp do Giám đốc Sở bổ nhiệm hoặc đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh bổ nhiệm tuỳ theo quy mô của Xí nghiệp.

- Mọi hoạt động của Xí nghiệp từ tuyển dụng nhân sự, kế hoạch sản xuất, mua vật tư, nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm, giá bán, địa chỉ của người mua hàng…đều phải được lập kế hoạch và được cơ quan chủ quản phê duyệt.

- Các Xí nghiệp cứ hoạt động theo kế hoạch được duyệt. Cuối năm, nếu có lãi thì nộp về Ngân sách Nhà nước sau khi đã được trích các quỹ theo chỉ tiêu được duyệt, nếu bị lỗ thì Ngân sách Nhà nước cấp bù.

Cơ chế chủ quản tồn tại khá lâu trong lịch sử phát triển nền kinh tế nước ta và đó là cơ chế "không đội trời chung" với cơ chế thị trường. Rất may, từ năm 1986, đất nước ta đổi mới tư duy, công dân được tự do kinh doanh, kinh tế thị trường đang từng ngày được xác lập. Tuy vậy, cơ chế chủ quản vẫn chưa được xoá bỏ hoàn toàn, nó vẫn tồn tại và "biến dạng" một cách tinh vi hơn. Điều đó được chứng minh với những tư liệu được viện dẫn ngay chính trong NĐ 25.

Các Công ty TNHH một thành viên ra đời từ NĐ 25 phải được gọi đúng tên là Công ty TNHH Nhà nước một thành viên. Bởi lẽ, Nhà nước vẫn là chủ sở hữu 100% vốn điều lệ của những công ty đó. Cụm từ "Nhà nước một thành viên" đã được sử dụng để đặt tên cho một số DNNN trước đây. Song, trong lần chuyển đổi này, cụm từ trên đã không được sử dụng để tránh vi phạm nguyên tắc "thương mại không phân biệt đối xử" – một trong những nguyên tắc cơ bản của WTO mà Việt Nam đã gia nhập. Vì "Nhà nước vẫn là chủ sở hữu 100% vốn điều lệ" cho nên những nội dung cơ bản của "Cơ chế chủ quản" trong công tác quản trị các DNNN vẫn còn nguyên vẹn đối với các Công ty TNHH một thành viên hình thành sau chuyển đổi.Điều đó được biểu hiện ở những câu hỏi đã được đặt ra từ lâu nhưng chưa bao giờ được giải đáp đến nơi, đến chốn.

Ai là chủ sở hữu của Công ty?

Điều 3 NĐ25 quy định: "Nhà nước là chủ sở hữu đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do mình nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ. Chính phủ thống nhất tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ". Song, Nhà nước luôn luôn là một danh từ chung, không chỉ cụ thể là ai. Vì vậy, trong trường hợp này, chủ sở hữu vẫn không được xác định. NĐ 25 có chỉ rõ hơn: "Mỗi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được chuyển đổi từ công ty nhà nước hoặc thành lập mới chỉ do một tổ chức được phân công, phân cấp dưới đây thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu [sau đây gọi tắt là chủ sở hữu]…". Và các tổ chức đó là:Thủ tướng Chính phủ hoặc một tổ chức chuyên trách được Chính phủ phân công; Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương [sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh]; Công ty mẹ trong mô hình công ty mẹ – công ty con, công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước [SCIC] trong một số trường hợp. Rõ ràng, việc xác định "chủ sở hữu của Công ty" vẫn bùng nhùng như trước đây, tức là, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước lại là "chủ sở hữu" của các đơn vị kinh doanh. Dấu ấn của cơ chế chủ quản vẫn còn nguyên vẹn!

Chủ sở hữu làm gì?

Khoản 5 Điều 3 NĐ 25 quy định: "Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có các quyền, nghĩa vụ quy định tại các Điều 64, 65 và 66 Luật Doanh nghiệp, Nghị định này và Điều lệ công ty". Song, khoản 12 Điều 20 NĐ 25 lại liệt kê những vấn đề khi Hội đồng thành viên quyết định phải được chủ sở hữu chấp thuận như: chiến lược phát triển, kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm của công ty; danh mục đầu tư, các ngành nghề kinh doanh chính và các ngành nghề không có liên quan đến ngành nghề kinh doanh chính; việc điều chỉnh, bổ sung ngành nghề kinh doanh chính của công ty; những ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn, dự án có nguy cơ rủi ro cao; Phê duyệt các dự án đầu tư; hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác trên mức quy định;Phê duyệt các phương án huy động vốn trên mức quy định; góp vốn đầu tư vào công ty khác; thay đổi cơ cấu sở hữu của công ty con làm mất quyền chi phối của công ty; Điều chỉnh vốn điều lệ công ty; chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác; Phê duyệt báo cáo quyết toán; phương án sử dụng lợi nhuận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác của công ty; phương án xử lý các khoản lỗ trong quá trình kinh doanh;bổ sung, sửa đổi Điều lệ công ty; bổ nhiệm, thuê, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng với Tổng giám đốc v.v….

Với các Chủ tịch công ty trong mô hình không có Hội đồng thành viên, những vấn đề phải được chủ sở hữu chấp thuận cũng được quy định tương tự tại khoản 3 Điều 27 NĐ 25.
Những quy định nêu trên về hình thức là rất đầy đủ, thể hiện rằng, chủ sở hữu có rất nhiều quyền và có trách nhiệm rất cao. Song, trên thực tế, chủ sở hữu chỉ có một việc là "cho ý kiến" chấp thuận hay không chấp thuận đề nghị của Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch Công ty. Điều đó hoàn toàn không khác gì quan hệ giữa ông Trưởng Ty [Giám đốc Sở] với ông Giám đốc Xí nghiệp trong cơ chế chủ quản trước đây.

Chủ sở hữu là con người cụ thể nào?

Chủ sở hữu một Công ty không thể là một cơ quan, tổ chức mà phải là một con người cụ thể. Quy định tại NĐ 25 cho ta thấy: tuỳ theo từng Công ty, chủ sở hữu sẽ là Thủ tướng Chính phủ; Bộ trưởng; Chủ tịch UBND cấp tỉnh; người được Công ty mẹ hoặc SCIC giao quyền.

Câu hỏi được đặt ra là, liệu các quan chức trong bộ máy công quyền [Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND cấp tỉnh] có đủ điều kiện [ít nhất là về thời gian] để thực hiện các quyền của chủ sở hữu hay không? Câu trả lời là: không! Chẳng hạn, một vị Chủ tịch UBND cấp tỉnh với hàng trăm cuộc họp mỗi tháng và phải chịu trách nhiệm đối với mọi hoạt đng trên địa bàn tỉnh thì lấy đâu ra thời gian để "thực hiện quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu công ty"? Hơn nữa, quản lý một công ty kinh doanh liên quan đến rất nhiều vấn đề từ kinh tế, kỹ thuật đến lao động, đất đai, pháp luật và tập quán quốc tế… Do đó, không phải cứ xin ý kiến là chủ sở hữu có thể "cho ý kiến" được ngay. Tất yếu phải có các cơ quan tham mưu, nghiên cứu và trình lên ý kiến giải quyết. Và không loại trừ trường hợp khi ý kiến chấp thuận được thông báo thì thời cơ kinh doanh đã… mất!

Với những "chủ sở hữu" không phải là quan chức mà là đại diện của công ty mẹ hoặc SCIC thì câu hỏi đặt ra lại là: Họ có dám "cho ý kiến" không? Vốn của Công ty là vốn Nhà nước. Do dó, nếu "cho ý kiến" kịp thời nhưng gặp rủi ro, kinh doanh thua lỗ, liệu họ có tránh khỏi tội "cố ý làm trái, gây hậu quả nghiêm trọng"? Vì vậy, để chắc chắn, đến lượt mình, họ lại đi "xin ý kiến" cấp trên trước khi "cho ý kiến" với người "xin ý kiến"! Những quy trình "xin" và "cho" ý kiến nêu trên là xa lạ đối với hoạt động kinh doanh trong kinh tế thị trường. Đó là "bản nhạc của cơ chế chủ quản" đã được "soạn lời mới" trong NĐ25!

Ai sẽ chịu trách nhiệm khi Công ty mất vốn?

Theo NĐ 25, tham gia quản lý điều hành Công ty TNHH một thành viên có: Chủ sở hữu, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch Công ty trong mô hình không có Hội đồng thành viên. Câu hỏi được đặt ra là: Nếu do quản lý yếu kém, Công ty bị mất vốn thì ai chịu trách nhiệm và chịu trách nhiệm như thế nào?

Theo Luật Doanh nghiệp, chủ sở hữu sẽ là người chịu trách nhiệm toàn diện và cao nhất là mất hết số vốn đầu tư của mình. Song, trong Công ty TNHH nhà nước một thành viên, vốn của Công ty là vốn của Nhà nước – là tiền đóng thuế của nhân dân. Số vốn đó không thuộc sở hữu của một cá nhân nào. Do đó, những "chủ sở hữu" của Công ty chẳng có gì để mất. Khi công ty thua lỗ và mất vốn, cao lắm, các "chủ sở hữu" được yêu cầu "kiểm điểm, rút kinh nghiệm" hoặc kỷ luật hành chính. Song, ai có thể kỷ luật được một ông Chủ tịch UBND tỉnh khi ông đã hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ của một Chủ tịch UBND tỉnh nhưng có một số Công ty do ông làm "chủ sở hữu" bị mất vốn?

Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty cũng sẽ vô can. Bởi lẽ, trước khi thực hiện những việc quan trọng, họ đã "xin" ý kiến chủ sở hữu và được chấp thuận. Việc không thành công là do khách quan, do năng lực có hạn và hàng nghìn lý do khác đầy sức thuyết phục! Hơn nữa, họ cũng chỉ là người được chủ sở hữu "thuê quản lý" không có hợp đồng. Căn cứ pháp lý nào để quy trách nhiệm cho họ phải bồi thường thiệt hại cho Công ty?

Như vậy, có thể thấy, khi còn là DNNN, DN mất vốn, phá sản đã không có ai chịu trách nhiệm. Chuyển sang Công ty TNHH nhà nước một thành viên, khi công ty bị mất vốn, cũng sẽ không có ai chịu trách nhiệm. Chỉ có nhân dân – những người đóng thuế vào Ngân sách Nhà nước – là bị mất mà không biết kêu ai?

Cần làm gì?

Có thể khẳng định rằng, khi còn duy trì nguyên tắc "Nhà nước làm chủ sở hữu" của Công ty thì không có câu trả lời triệt để, hiệu quả cho những câu hỏi đã nêu. Bởi lẽ, vốn nói chung, vốn trong kinh doanh của mọi doanh nghiệp nói riêng, chỉ được bảo toàn và có hiệu quả khi có một "Chủ sở hữu" đích thực. Vì vậy, xin kiến nghị vài giải pháp trong tương lai:

1. Nhanh chóng thực hiện cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê những Công ty TNHH nhà nước một thành viên sau chuyển đổi. Chuyển đổi hình thức sở hữu DNNN nhằm thu hút vốn đầu tư trong nhân dân, nâng cao năng lực quản trị và sức cạnh tranh của các DN là mục tiêu đã được đặt ra từ lâu của Đảng và Nhà nước ta. Mục tiêu được đặt ra là Nhà nước chỉ giữ và góp vốn chi phối trong khoảng 400 DN hoạt động trong những lĩnh vực có liên quan đến an ninh quốc phòng và lợi ích công cộng. Vì vậy, không có một lý do gì để trì hoãn quá trình này.

2. Để quản lý phần vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân trong những trường hợp cần thiết, cần nhanh chóng đoạn tuyệt với cơ chế chủ quản với những biểu hiện tinh vi hơn hiện nay. Không thể và không nên giao cho một quan chức, công chức trong bộ máy công quyền làm "chủ sở hữu" hoặc "đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại DN". Đó là việc làm phi kinh tế thị trường, cái nôi của nạn tham nhũng, là điều kiện để hình thành những "nhóm lợi ích" chi phối thị trường, phá vỡ kỷ cương, pháp luật.

3. Nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật quản lý vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp, Luật về thuê quản lý doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, tổ chức lại SCIC thành một doanh nghiệp có chức năng nhận uỷ thác đầu tư của Nhà nước để đầu tư vào các DN khác. Đồng thời, cho phép các doanh nghiệp khác trong cả nước được phép nhận uỷ thác đầu tư vốn của Nhà nước để đầu tư vào các DN, công trình, dự án nếu đủ những điều kiện theo quy định của pháp luật.

4. Với những trường hợp do quản lý, điều hành yếu kém, do vụ lợi và đưa DN đến bờ vực phá sản như với Vinashin hiện nay, cần xử lý nghiêm khắc đối với tất cả những ai có liên quan. Không thể để tình trạng, người được "xin" ý kiến cũng có lợi, người đi "xin" ý kiến cũng có lợi và chỉ có nhân dân chịu thiệt khi vốn Nhà nước bị thất thoát như đã và đang xảy ra.

[MKLAW FIRM: Biên tập.]

5. Phân tích quản lý nhà nước về mô hình tập đoàn và cổ phần hóa

Sau một năm gia nhập WTO, bên cạnh những thành tựu thu được, Việt Nam phải đối mặt với hàng loạt vấn đề lớn có xuất phát điểm từ điều hành quản lý kinh tế. Giới doanh nghiệp, người dân tiếp tục trông đợi sự chèo lái của Nhà nước nhằm giảm thiểu những rủi ro tiềm ẩn ở phía trước. Bàn về vấn đề này, các chuyên gia kinh tế khẳng định, để đáp ứng sự trông đợi đó, đã đến lúc cần một sự đổi mới về quản lý Nhà nước...

Luật sư tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp trực tuyến gọi số:1900.6162

Nhà nước nên can thiệp đến đâu?

TS Nguyễn Quang A: "Hầu hết các nước trên thế giới đều đang thực hiện chính sách ít can thiệp mà để nền kinh tế tự vận hành. Nhà nước càng can thiệp ít bao nhiêu thì càng tốt cho nền kinh tế bấy nhiêu. Đó là một cách lãnh đạo rất thông minh..."

PGS TS Trần Đình Thiên: "Câu chuyện quan trọng nhất của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường là việc phân định rõ chức năng của Nhà nước và chức năng của thị trường trong điều hành nền kinh tế. Trước đó, Nhà nước quản trị toàn diện nền kinh tế cũng như xã hội. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, sự phát triển mạnh mẽ của các lực lượng tư nhân đòi hỏi phải phân định lại vai trò trong điều hành nền kinh tế. Sự phân định này càng hiệu quả thì quá trình chuyển đổi diễn ra càng hiệu quả, nền kinh tế phát triển càng năng động.

Có thể nói, Nhà nước ngày càng định rõ và làm đúng chức năng của mình. Thị trường với các chủ thể là các doanh nghiệp cũng đã giành được và làm được những việc của mình. Tuy nhiên, sự phân định này cũng đang gặp không ít khó khăn vì nó liên quan đến lợi ích, năng lực, thói quen của một cơ chế đã tồn tại từ lâu. Cho nên Nhà nước cũng chưa thể dễ dàng bớt can thiệp vào nền kinh tế, vào những việc không phải của Nhà nước. Bên cạnh đó, không chỉ có chuyện quan chức nhà nước cố bám vào đó để hưởng lợi mà sự khó khăn đó còn có liên quan đến những vấn đề khách quan. Ví dụ, các lực lượng thị trường mới nổi cũng chưa thể ngay lập tức đảm nhận được chức năng của mình. Trong bối cảnh mới, Nhà nước còn phải thực hiện thêm chức năng quản trị nền kinh tế thị trường thì đòi hỏi phải có một năng lực mới, cơ chế mới...

Nhìn tổng quát, nền kinh tế có hai việc là tăng trưởng và ổn định thì việc chính của Nhà nước là lo ổn định và hỗ trợ tăng trưởng; việc chính của thị trường là lo tăng trưởng, góp phần làm cho nền kinh tế ổn định. Như vậy, việc của Nhà nước đã rõ, ví dụ như chống lạm phát, làm chính sách cho các thị trường vận hành tốt. Trên nền chính sách đó, doanh nghiệp lo đầu tư tăng trưởng và cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay, Nhà nước nhiều khi lo tăng trưởng hơn là lo ổn định, ví dụ như lo đầu tư vào đâu, lo kiếm vốn cho các tập đoàn nhà nước, làm chỗ dựa cho các tập đoàn - công việc đáng ra thuộc trách nhiệm chính của doanh nghiệp. Trong khi đó, việc chống lạm phát, ổn định môi trường vĩ mô... nhiều khi chưa được quan tâm đủ tầm. Và hệ lụylà sự bất ổn kinh tế vĩ mô, là tâm lý bất an của doanh nghiệp và phân phối nguồn lực không công bằng... ".

TS Võ Trí Thành: "Theo tôi, vai trò của Nhà nước không phải là can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà là tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu phân bổ hiệu quả hơn các nguồn lực như vốn, nhân lực, đất đai... Còn can thiệp bằng cách chỉ bảo doanh nghiệp những công việc quá cụ thể thì cách đó ít ý nghĩa, hơn nữa không ai hiểu hoạt động kinh doanh bằng chính người kinh doanh. Vai trò lớn hơn của Nhà nước là bên cạnh ổn định kinh tế vĩ mô là ổn định xã hội vì bất ổn xã hội thì rất khó có điều kiện hoạt động kinh tế tốt được.

Vấn đề ở đây là nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi từ một nền kinh tế do Nhà nước dẫn dắt sang một nền kinh tế do Nhà nước tạo môi trường thuận lợi. Việc chuyển đổi đó phải dần dần và đặc biệt vai trò doanh nghiệpNN, đặc biệt là các tập đoàn vẫn rất lớn. Bên cạnh đó, trong môi trường sôi động, Nhà nước - với tư cách là chủ sở hữu của các doanh nghiệpNN và là một người tạo dựng môi trường, cần nhìn nhận các phương án hoạt động kinh doanh ấy, đánh giá lợi ích và tổn phí của hoạt động ấy xét về dài hạn để có quyết sách tốt nhất cũng như có những giám sát chung đối với các hoạt động, nhất là hoạt động liên quan đến thị trường bất động sản và tài chính".

Nhà nước tập trung vào khâu nào?

TS Nguyễn Quang A: "Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội nhưng cũng có một số nguy cơ không nhỏ. Lạm phát cao, là một loại thuế trá hình đánh vào mọi người, nhất là người nghèo - mà Nhà nước cần có công cụ để giải quyết. Các tập đoàn kinh tế nhà nước tập trung quyền lực kinh tế, nhảy vào các lĩnh vực khác có vẻ dễ sinh lời nhưng rất rủi ro. Đó là mối nguy cơ tiềm ẩn lớn đối với nền kinh tế. Đơn cử như chuyện sốt nóng nhà đất hiện nay đang kéo theo hiệu ứng lan tỏa, kéo cả các nhà đầu tư nước ngoài tham gia, rất nhiều người đầu cơ đẩy giá nhà đất lên một cách phi kinh tế.

Điều cốt lõi mà Nhà nước nên làm lúc này là phải thực sự bình tâm, nhìn lại và từ bỏ những việc không phải là của mình - Đó là không can thiệp quá nhiều vào các hoạt động kinh tế, không ưu ái cho các tập đoàn nhà nước. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên có quyết tâm và lộ trình cụ thể để tinh giản bộ máy và nâng cao lòng tin của dân và doanh nghiệp...

Còn một vấn đề hết sức quan trọng mà Nhà nước cần làm là hoàn thiện hạ tầng cơ sở, trước tiên là hạ tầng cơ sở pháp lý rồi đến đường sá, cầu cảng, các dịch vụ...

Đồng thời, Nhà nước nên lắng nghe nhiều ý kiến khác nhau, trái ngược nhau, lựa chọn và thử nghiệm các ý kiến đó để tìm được một cách quản lý thích hợp nhất".

PGS TS Trần Đình Thiên: "Hiện nay, trong giai đoạn chuyển đổi, thị trường phát triển chưa đồng bộ, Nhà nước có một chức năng nữa là tổ chức quá trình chuyển đổi và nâng đỡ các lực lượng thị trường phát triển, hỗ trợ để các thị trường hoàn thiện thông qua các cơ chế, công cụ. Việc thứ 2 cũng rất quan trọng của Nhà nước là trong giai đoạn hội nhập, bước ra thế giới, với đội ngũ doanh nghiệp yếu, sức cạnh tranh chưa cao, chưa quen luật lệ quốc tế, Nhà nước phải tổ chức quá trình hội nhập, ví dụ ký kết các hiệp định để quá trình hội nhập diễn ra với tốc độ cao mà không quá nghiệt ngã. Song song là Nhà nước phải giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. Ví dụ hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ, tạo cơ hội tiếp thị cho doanh nghiệp, kết nối các khu vực doanh nghiệp lại bằng cơ chế chính sách...

Tất cả những việc liên quan đến ổn định vĩ mô, liên quan đến chính sách phát triển, chính sách ổn định xã hội trong tầm nhìn dài hạn là việc của Nhà nước. Đó là những việc càng ngày càng khó. ở đây có một việc liên quan đến cải cách hành chính và giảm biên chế. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, có nhiều công việc khác hẳn về chất so với trước đây, trong khi năng lực bộ máy chưa kịp thay đổi theo kịp điều kiện mới. Do đó mới có chuyện tồn ứ công việc. Có những thống kê cho thấy hồ sơ nhà đất tồn đọng tới 70%. Bên cạnh đó, áp lực giảm biên chế đã dẫn đến câu chuyện thừa và thiếu của bộ máy hành chính. Điều đó đòi hỏi một bộ máy khác, giảm về lượng nhưng phải tăng về chất. Đặc biệt là tiền lương, Việt Nam đang thực hiện chế độ tiền lương không theo công việc mà theo đầu người và thang bậc. Không hề có quan hệ hữu cơ nào giữa công việc và tiền lương. Do đó, không ai giải quyết công việc dựa trên tiền lương. Nhưng muốn đạt được hiệu quả, cần thay đổi lại nguyên tắc trả lương xứng đáng theo công việc".

TS Võ Trí Thành: "Việc Nhà nước cần tập trung năm nay là ổn định kinh tế vĩ mô. Đây không chỉ là câu chuyện giảm mức giá tiêu dùng, lạm phát mà còn liên quan đến biến động trên thị trường bất động sản, tài chính và chứng khoán... ".

Nên giữ hay buông các tập đoàn?

TS Nguyễn Quang A: "Tổng đầu tư của nhà nước vẫn chủ yếu dành cho các tập đoàn và các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả nhưng đang tìm cách bành trướng, lấn sân sang những lĩnh vực có vẻ "dễ ăn [xổi]" như ngân hàng, chứng khoán, bất động sản. Điện thiếu, nhưng ngành điện bành trướng sang ngân hàng, bất động sản... Các tập đoàn này có thể là những quả bom nổ chậm đối với nền kinh tế, chứ chưa chắc đã là những quả "đấm" như người ta kỳ vọng. Tôi e rằng trong vòng 5-7 năm tới chúng ta sẽ có thể phải hứng chịu những hậu quả khó lường. Hiện tượng phải dùng tiền ngân sách để giải quyết vấn đề nợ, để xóa nợ, khoanh nợ cho các doanh nghiệp NN trong những năm qua mà bây giờ cũng chưa được giải quyết triệt để phải là bài học đắt giá cho các nhà hoạch định chính sách. Nếu không khéo chúng sẽ trở lại với mức độ trầm trọng hơn. Theo tôi, Nhà nước nên thúc đẩy quá trình tư nhân hóa các tập đoàn kinh tế nhà nước càng nhanh càng tốt".

PGS TS Trần Đình Thiên: "Cách tổ chức các tập đoàn kinh tế như hiện nay có nguy cơ sẽ làm cho thị trường méo mó, hiệu quả giảm, khi thị trường mở ra sẽ rất nguy hiểm. Một thực tế hiện nay là các tập đoàn kinh tế nhà nước đang nhận được sự yểm trợ quá lớn của nhà nước thông qua sự ưu ái về nguồn lực tài chính, về cơ hội đầu tư... khiến khu vực tư nhân bị đẩy ra ngoài những cơ hội lớn, kìm hãm sự tăng trưởng của khu vực này. Trong khi đó, khu vực tư nhân tạo việc làm nhiều nhất, sử dụng vốn hiệu quả nhất - hai yếu tố rất quan trọng cho một nước nghèo đi lên thì phải giành cơ hội cho tư nhân.

TS Võ Trí Thành: "Chúng ta nên cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, ngoại trừ rất ít những doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước cần phải giữ vốn 100%. Ngay cả những doanh nghiệp nhà nước hiện đang giữ vốn trên 51% thì cũng nên xem xét lại. Cái quan trọng đằng sau cổ phần hóa là chúng ta hướng tới hai mục đích tối thượng:nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp đó và tạo tác động lan tỏa của doanh nghiệp đó với toàn bộ nền kinh tế; thu hút được nhiều lực lượng tham gia vào doanh nghiệp đó để nâng cao kỹ năng quản trị, chất lượng công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực...

GIÁO DỤC VÀ Y TẾ - NHÀ NƯỚC HAY TƯ NHÂN LÀM?

TS Nguyễn Quang A: Theo tôi, ngay cả những lĩnh vực như giáo dục, y tế, Nhà nước cũng không nên tự mình làm mà nên để cho lĩnh vực đó tự vận động. Nhìn ra thế giới, Mỹ không hề có Bộ Giáo dục theo nghĩa như của ta mà Mỹ để cho cộng đồng làm việc đó.

Trong khi đó, ở Việt Nam vẫn duy trì nền giáo dục do Nhà nước nắm giữ trong khi Nhà nước không còn là nhà sử dụng lao động duy nhất. Theo Tổng cục Thống kê, lao động trong khu vực nhà nước hiện nay khoảng 4 triệu người, chỉ chiếm khoảng 10% tổng số lao động - một phần rất nhỏ so với 90% còn lại. Đó là lý do mà Nhà nước không nên ôm đồm hết lĩnh vực này.

PGS TS Trần Đình Thiên: Giáo dục, y tế là 2 lĩnh vực Nhà nước phải đóng vai trò chính trong đó. Thứ nhất, hai lĩnh vực này là sống còn cho một đất nước theo nghĩa một bên tạo ra năng lực trí tuệ, một bên tạo ra năng lực thể chất. Nhà nước muốn phát triển nguồn nhânlực chính là phải quan tâm tới hai yếu tố này. Thứ hai, đầu tư cho hai lĩnh vực đó phải được tổ chức lại. Vấn đề giáo dục và y tế đang trong quá trình chuyển đổi. Tuy nhiên tư nhân chỉ làm được một số phần việc, còn về đại cục, Nhà nước phải tổ chức hệ thống đó đảm bảo người nghèo tiếp cận được với các dịch vụ đó. Đây là những việc lâu dài nhưng hết sức cấp bách mà Nhà nước cần phải lo ngay từ bây giờ.

Nguồn: Diễn đàn doanh nghiệp

[MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.]

Video liên quan

Chủ Đề