Thuốc có tác dụng trong bao lâu

Một loại thuốc được chỉ định phụ thuộc vào sự cân bằng giữa lợi ích và nguy cơ của nó. Khi đưa ra quyết định, bác sĩ lâm sàng thường cân nhắc các yếu tố có phần chủ quan, chẳng hạn như kinh nghiệm cá nhân, truyền miệng, người thực hành trước và ý kiến chuyên môn.

Số bệnh nhân cần được điều trị [NNT] ít mang tính chủ quan về những lợi ích có thể có của một loại thuốc [hoặc bất kỳ sự can thiệp nào khác]. NNT là số bệnh nhân cần được điều trị để mang lại lợi ích cho một bệnh nhân. Ví dụ, hãy xem xét một loại thuốc làm giảm tỷ lệ tử vong của một bệnh cụ thể từ 10% xuống 5%, giảm nguy cơ tuyệt đối là 5% [1 trong 20]. Điều đó có nghĩa là 100 bệnh nhân, 90 người sẽ sống ngay cả khi không điều trị, và do đó sẽ không được hưởng lợi từ thuốc. Bên cạnh đó, 5 trong số 100 bệnh nhân sẽ chết mặc dù họ dùng thuốc và do đó cũng không có lợi. Chỉ có 5 trong 100 bệnh nhân [1 trong 20] được hưởng lợi từ việc dùng thuốc; Do đó, cần 20 bệnh nhân được điều trị để 1 bệnh nhân được hưởng lợi từ việc điều trị, và NNT là 20. NNT có thể được tính toán đơn giản là nghịch đảo của việc giảm nguy cơ tuyệt đối; nếu giảm nguy cơ tuyệt đối là 5% [0,05], NNT = 1/0,05 = 20. NNT cũng có thể được tính toán cho các tác dụng không mong muốn, trong trường hợp đó đôi khi nó được gọi là số người cần được điểu trị để xảy ra tác hại [NNH].

Quan trọng là NNT dựa trên sự thay đổi nguy cơ tuyệt đối; không thể tính được từ những thay đổi nguy cơ tương đối. Nguy cơ tương đối là tỷ lệ phần trăm của hai nguy cơ. Ví dụ, một loại thuốc giảm tỷ lệ tử vong từ 10% xuống 5% nghĩa là làm giảm tử vong tuyệt đối 5% nhưng giảm tỷ lệ tử vong tương đối là 50% [tức là tỷ lệ tử vong 5% chỉ ra rằng ít tử vong hơn 50% so với tỷ lệ tử vong 10%]. Thông thường, lợi ích được báo cáo trong y văn là giảm nguy cơ tương đối bởi vì nhìn vào số liệu này sẽ thấy thuốc hiệu quả hơn so với giảm nguy cơ tuyệt đối [trong ví dụ trước, giảm 50% tử vong có vẻ tốt hơn giảm 5%]. Ngược lại, các tác dụng không mong muốn thường được báo cáo theo nguy cơ tuyệt đối tăng bởi vì chúng tạo ra một loại thuốc an toàn hơn. Ví dụ, nếu thuốc tăng tỷ lệ xuất huyết từ 0,1% đến 1%, mức tăng này thường được báo cáo là 0,9% hơn là 1000%.

  • Tính toán số người cần được điều trị [NNT] dựa trên sự thay đổi nguy cơ tuyệt đối, chứ không phải là tương đối.

Khi NNT cân bằng với NNH, điều quan trọng là cân nhắc giữa lợi ích cụ thể và các nguy cơ. Ví dụ, một thuốc có nhiều tác hại hơn lợi ích vẫn có thể được kê đơn nếu các tác hại đó là nhỏ [ví dụ tác hại có thể hồi phục, nhẹ] và các lợi ích là lớn [ví dụ như ngăn ngừa tử vong hoặc phòng bệnh]. Trong mọi trường hợp, sử dụng các chỉ tiêu hướng tới bệnh nhân là tốt nhất.

Dữ liệu về gen đang ngày càng được sử dụng để xác định các phân nhóm bệnh nhân nhạy cảm hơn với những lợi ích và tác dụng không mong muốn của một số loại thuốc. Ví dụ, ung thư vú có thể được xét nghiệm các chỉ dấu di truyền HER2 dự đoán đáp ứng với các loại thuốc hóa trị liệu nhất định. Bệnh nhân HIV/AIDS có thể được xét nghiệm với allele HLA-B * 57: 01, gen dự đoán quá mẫn với abacavir, làm giảm tỷ lệ phản ứng quá mẫn và do đó làm tăng NNH. Sự khác nhau về gen của các enzym chuyển hóa thuốc khác nhau giúp dự đoán bệnh nhân đáp ứng với thuốc xem dược học di truyền Gen dược học như thế nào và cũng thường ảnh hưởng đến lợi ích, tác hại, hoặc cả hai.

Một mục tiêu phát triển thuốc là có sự khác biệt lớn giữa liều hiệu quả và liều gây ra các tác dụng không mong muốn. Sự khác biệt lớn được gọi là phạm vi điều trị rộng, hệ số điều trị, hoặc cửa sổ điều trị. Nếu phạm vi điều trị là hẹp [ví dụ, < 2], các yếu tố thường không quan trọng về mặt lâm sàng [ví dụ, tương tác giữa thức ăn và thuốc, tương tác thuốc-thuốc Tương tác thuốc , sai sót nhỏ trong liều lượng] có thể gây ra những tác động lâm sàng có hại. Ví dụ, warfarin có một phạm vi điều trị hẹp và tương tác với nhiều loại thuốc và thức ăn. Liều thuốc chống đông không đủ làm tăng nguy cơ biến chứng của các bệnh cần được điều trị bằng thuốc chống đông máu [ví dụ tăng nguy cơ đột quỵ trong rung tâm nhĩ], trong khi quá liều thuốc chống đông làm tăng nguy cơ chảy máu.

Trang chủ > Tin tức > Thông tin sức khỏe > Uống thuốc lúc nào cho hợp lý?

Nhiều người bệnh cho rằng uống thuốc sau ăn sẽ bảo vệ tốt dạ dày khỏi các tác dụng phụ của thuốc. Suy nghĩ này chưa hoàn toàn chính xác với đa số thuốc, mỗi loại thuốc có thời gian uống thuốc phù hợp khác nhau và tùy theo mục đích điều trị của bác sĩ. Có kiến thức về vấn đề này sẽ giúp bạn nâng cao hiệu quả mỗi khi phải sử dụng thuốc điều trị bệnh.

Hiệu quả của thuốc phụ thuộc vào thời điểm uống thuốc

Thực phẩm và đồ uống làm thay đổi tốc độ hấp thu nhanh chậm của thuốc. Nếu người bệnh uống thuốc trước khi ăn 1 giờ [uống thuốc lúc đói], thời gian thuốc trong dạ dày chỉ trong vài chục phút đồng hồ rồi được chuyển ngay xuống ruột giúp thuốc hấp thu vào máu rất nhanh.

Ngược lại, nếu thuốc được uống ngay sau bữa ăn, thời gian thuốc trong dạ dày sẽ kéo dài hơn rất nhiều từ 1 đến 4 tiếng đồng hồ sau đó mới chuyển xuống ruột để hấp thu. Lúc này, thuốc sẽ được hấp thu từ từ, tác dụng khởi phát chậm sau khi uống.

Ta có thể chia thuốc uống làm 3 loại chính dựa vào bữa ăn: Uống thuốc trước, trong và sau ăn.

Bữa ăn thường là thời điểm tốt nhất để uống thuốc.

Thuốc nên uống ngay sau khi ăn

Các thuốc kém bền với môi trường acid trong dịch vị dạ dày: Các thuốc này nhờ thức ăn được trung hòa bớt dịch vị dạ dày nên giảm mức độ phân hủy. Điển hình như các kháng sinh: Ampicillin, Erythromycin, Lincomycin…

Các thuốc giảm đau Aspririn và thuốc chống viêm không steroid[NSAID]: Các dạng thuốc này nếu không được thiết kế có lớp bao bảo vệ trước dịch vị dạ dày nên uống ngay sau khi ăn để tránh các tác dụng phụ lên dạ dày của các loại thuốc này.

Thuốc nên uống lúc đói

Uống thuốc vào lúc bụng đói giúp cơ thể hấp thu thuốc một cách nhanh nhất để sớm có tác dụng điều trị trên cơ thể người sử dụng. Điển hình trong các trường hợp người bệnh đang bị các nhiễm khuẩn cần sử dụng các kháng sinh đường uống cho hiệu quả tức thì.

Nhiều loại thuốc được thiết kế để chống chịu dịch vị dạ dày như dạng thuốc bao tan ở ruột [ví dụ Aspirin pH8], hay dạng phóng thích dược chất kéo dài[như Adalate LP] hoàn toàn có thể uống vào lúc đói để thuốc xuống ruột nhanh và phát huy tác dụng.

Thuốc nên uống trong bữa ăn

Các chất béo[dầu mỡ] trong thức ăn có thể trợ giúp đắc lực cho quá trình hấp thu các thuốc có đặc tính riêng biệt. Ví dụ như các thuốc tan trong dầu như vitamin A, D, E, K hay thuốc Griseofulvin kháng nấm toàn thân nên được sử dụng cùng bữa ăn. 

Các vitamin tan trong dầu dễ hấp thu hơn được sử dụng cùng bữa ăn nhiều dầu mỡ.

Các loại enzym tiêu hóa cũng nên được uống cùng với bữa ăn để được dạ dày trộn và phân bố đều, tăng tác dụng của chúng.

Uống thuốc hợp lý khi người bệnh phải sử dụng nhiều loại thuốc

Có rất nhiều loại thuốc có bản chất kị nhau khiến chúng giảm tác dụng hay quá liều thuốc gây độc tính cho người sử dụng khi được uống cùng lúc. Ví dụ như:

  • Giảm tác dụng: Kháng sinh tetracycline khi được sử dụng cùng các loại thuốc bổ sung canxi hay sắt sẽ tạo thành các kết tủa và được đào thải ngay khỏi cơ thể, làm sự hấp thu của thuốc bị giảm đi. 
  • Gây độc tính: Paracetamol là thuốc giảm đau hạ sốt được sử dụng rất phổ biến nhưng được ghi nhận có các độc tính với gan. Khi sử dụng thuốc này trong trường hợp các bệnh nhân đang điều trị lao bằng Isoniazid, hay điều trị động kinh như phenytoin làm tăng độc tính trên gan của paracetamol.

 

Một số loại thuốc kị nhau khi được sử dụng cùng lúc.

Phương pháp khắc phục thông thường là thay thế bằng các loại thuốc khác không kị nhau. Nếu 2 thuốc này đều cần thiết và không thể thay thế trong quá trình điều trị của bệnh nhân thì nên uống cách xa nhau khoảng 2-3 tiếng

Thời gian uống thuốc còn phụ thuộc vào bản chất riêng của từng loại thuốc

Mỗi loại thuốc có bản chất khác nhau, không thể áp dụng một công thức chung cho việc sử dụng thuốc vào thời gian nào. Tùy vào cơ chế tác dụng và cách hạn chế tác dụng phụ  ví dụ như:

Corticoid là nhóm thuốc có tác dụng trên lâm sàng như chống dị ứng, kháng viêm, ức chế miễn dịch và được sử dụng trong rất nhiều bệnh lý đa dạng. Theo nhịp sinh học của cơ thể con người, sự tiết hormone cortisone của tuyến thượng thận vào khoảng 7 đến 8 giờ sáng.

Khi dùng thuốc corticoid, nồng độ thuốc phải đạt đỉnh phải tương ứng với nồng độ cortisone của cơ thể tiết ra. Đó là lí do tại sao các chuyên gia khuyến cáo nên dùng corticoid vào buổi sáng.

Trong bệnh tiểu đường, Glimepirid và Metformin là 2 thuốc điều trị đái tháo đường nhưng thời gian sử dụng lại khác biệt. Metformin nên uống sau bữa ăn do hạn chế các tác dụng phụ trên đường tiêu hóa như buồn nôn, tiêu chảy. Trái lại, Glimepirid được khuyến cáo nên sử dụng ngay trước bữa ăn do cơ chế kích thích sản sinh insulin trước khi sự tăng đường huyết xảy ra.

Tóm lại, để trả lời câu hỏi “Uống thuốc lúc nào cho hợp lý?”, người bệnh nên tham khảo thông tin từ các bác sĩ kê đơn thuốc hay dược sĩ nơi mua thuốc. Ngoài ra, tờ hướng dẫn sử dụng thuốc cũng là nguồn thông tin đầy đủ và đáng tin cậy cho thời điểm uống thuốc hợp lý.

Video liên quan

Chủ Đề