Quê hương của trương định bình tây đại nguyên soái ở đâu

.

Cập nhật lúc: 10:16, 20/08/2021 [GMT+7]

[Báo Quảng Ngãi]- Vào dịp tưởng nhớ 157 năm Ngày Anh hùng dân tộc Trương Định tuẫn tiết [20/8/1864 - 20/8/2021], trong mỗi người dân lại bùi ngùi xúc động nhớ về ông với niềm tôn kính vô bờ. Anh hùng dân tộc Trương Định đã khơi dậy mạnh mẽ trong nhân dân lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất. 

Vị nguyên soái của lòng dân

Vào dịp lễ giỗ Anh hùng dân tộc Trương Định, nhiều người dân đến đền thờ ở xã Tịnh Khê [TP.Quảng Ngãi], để thắp nén hương bày tỏ lòng thành kính tri ân. Năm nay, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên lễ tưởng niệm được Sở VH-TT&DL, Ban Quản lý Khu Chứng tích Sơn Mỹ tổ chức đơn giản nhưng vẫn đảm bảo trang nghiêm. Gia đình ông Trương Thanh, ở thôn Tư Cung, xã Tịnh Khê, cháu họ của Anh hùng dân tộc Trương Định, thì năm nào cũng đều làm giỗ vọng. Thắp hương tưởng nhớ vị Anh hùng của dân tộc, ông Thanh tự hào chia sẻ, Bình Tây đại nguyên soái Trương Định là niềm tự hào đối với nhân dân hai tỉnh Quảng Ngãi, Tiền Giang nói riêng và cả nước nói chung. Ông là tấm gương sáng về lòng yêu nước, kiên trung để thế hệ con cháu noi theo.

Học sinh tham gia chào cờ, hát Quốc ca trước Đền thờ Anh hùng dân tộc Trương Định, xã Tịnh Khê [TP.Quảng Ngãi]. [ảnh chụp trước ngày 26/6/2021]. ẢNH: Kim Ngân
Anh hùng dân tộc Trương Định sinh năm 1820, tại thôn Trường Định, xã Tư Cung, phủ Bình Sơn [nay là xã Tịnh Khê, TP.Quảng Ngãi]. Cha ông là Trương Cầm, giữ chức lãnh binh tỉnh Gia Định. Vào thời vua Thiệu Trị, ông theo cha vào Nam, lấy vợ và sinh sống tại huyện Tân Hòa [nay là huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang]. Trương Định là người đứng đầu trong việc khai hoang lập ấp và được triều đình phong cho chức Quản cơ. Ông tham gia chống giặc ngoại xâm cùng quân triều đình, lập được nhiều chiến công. Đến năm 1862, nhà Nguyễn ký hòa ước Nhâm Tuất, giao 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, hạ lệnh cho Trương Định bãi binh và đi nhận chức Lãnh binh ở An Giang. 

Theo yêu cầu của nhân dân và các nghĩa sĩ, Trương Định đã khước từ lệnh của triều đình và nhận danh hiệu Bình Tây đại nguyên soái, tiếp tục cuộc chiến đấu chống Pháp. Ngày 20/8/1864, giặc Pháp bất ngờ bao vây đánh úp nghĩa quân, Trương Định bị trọng thương. Không để rơi vào tay giặc, ông đã rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết người anh hùng.

Tuy sự nghiệp cứu nước chưa thành, nhưng Trương Định đã để lại tấm gương sáng về lòng yêu nước, thương dân và tinh thần kiên trung, bất khuất. Tinh thần Trương Định và cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo mãi mãi lưu danh cùng non sông đất nước.

Đền thờ Anh hùng dân tộc Trương Định được công nhận Di tích lịch sử cấp tỉnh vào năm 2014. Hằng năm có hơn 18 nghìn lượt khách đến viếng, tham quan đền thờ. Để ghi nhớ công lao của vị Anh hùng dân tộc, tại TP.Quảng Ngãi hiện có một tuyến đường mang tên Trương Định.

Tri ân vị Anh hùng dân tộc

Sau khi Bình Tây đại nguyên soái Trương Định hy sinh, người dân ở tỉnh Tiền Giang đã lập đền thờ để tưởng nhớ vị anh hùng. Năm 1881, ở quê nhà Tịnh Khê, nhân dân đã lập đền thờ Trương Định. Trải qua chiến tranh ác liệt, đền thờ bị tàn phá. Năm 2007, UBND tỉnh xây dựng Đền thờ Anh hùng dân tộc Trương Định, với diện tích hơn 2ha, dưới chân núi Đầu Voi, thuộc xóm Khê Thuận, xã Tịnh Khê. Đây là nơi lúc thiếu thời, Trương Định thường tập bắn cung, luyện võ nghệ.

Học sinh các trường tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp Anh hùng dân tộc Trương Định tại Đền thờ ông ở xã Tịnh Khê [TP.Quảng Ngãi]. [ảnh chụp trước 26/6/2021] Ảnh: K.Ngân
Năm 2009, Sở VH-TT&DL giao đền thờ cho Ban Quản lý Khu chứng tích Sơn Mỹ quản lý. Từ đó đến nay, đền thờ được quan tâm đầu tư, trùng tu nên ngày một khang trang. Tại đền thờ có khu trưng bày nhiều hiện vật liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Anh hùng dân tộc Trương Định. Hiện tại có 4 bản trích, gần 50 ảnh tư liệu, hơn 40 hiện vật và hàng chục tài liệu.

Em Nguyễn Lê Hoàng Phương, học sinh lớp 5A, Trường Tiểu học Chánh Lộ [TP.Quảng Ngãi] chia sẻ, nhà trường đã tổ chức cho chúng em tham quan Đền thờ Anh hùng Trương Định. Đến đây, em hiểu hơn về những cống hiến của ông đối với đất nước và rất đỗi tự hào về người con của quê hương Quảng Ngãi. 

Theo Giám đốc Ban Quản lý Khu chứng tích Sơn Mỹ Phan Thị Vân Kiều, trong thời gian đến, đơn vị sẽ tiếp tục sưu tầm hiện vật liên quan đến Anh hùng Trương Định và đổi mới trưng bày hình ảnh, hiện vật để phục vụ khách tham quan. Qua đây góp phần giáo dục lịch sử, truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ, nhớ về Anh hùng dân tộc Trương Định để ra sức lao động, học tập, đóng góp xây dựng quê hương, đất nước.

KIM NGÂN

09:07, 15/12/2018

Nằm trên đường dẫn xuống biển Mỹ Khê, cách Khu di tích cấp quốc gia Chứng tích cuộc thảm sát Sơn Mỹ khoảng 800 m, đền thờ Bình Tây đại nguyên soái Trương Định là một trong những điểm đến nổi tiếng nhất của tỉnh Quảng Ngãi.

Đây là đền thờ Trương Định thứ hai, sau đền thờ ông tại thị xã Gò Công [tỉnh Tiền Giang] xây năm 1972. Đền thờ tọa lạc ở xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi, quê hương của người anh hùng dân tộc Trương Định.

Theo sử sách, Trương Định sinh năm 1820 tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn [nay là xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi]. Cha ông là Lãnh binh Trương Cầm, từng giữ chức Hữu thủy Vệ úy Gia Định dưới thời vua Thiệu Trị. Năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam. Năm 1850, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của Nguyễn Tri Phương, Trương Định xuất tiền mộ dân nghèo lập đồn điền ở Gia Thuận [Gò Công] nên được nhà Nguyễn bổ làm Quản cơ, hàm chánh lục phẩm.

Đền thờ Bình Tây đại nguyên soái Trương Định.

Tháng 2-1859, thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, Trương Định cho đóng quân ở Thuận Kiều, đánh thắng giặc ở Thị Nghè, Cây Me... Đầu năm 1861, Pháp tấn công Gia Định lần hai, Trương Định đem quân phối hợp với binh của tướng Nguyễn Tri Phương phòng giữ tuyến Chí Hòa. Đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông lui về Gò Công, chiêu binh mộ sĩ, trấn giữ vùng Gia Định - Định Tường. Tháng 6-1862, triều đình Huế ký hòa ước với Pháp, xuống chiếu bãi binh, lệnh Trương Định về An Giang giữ chức Lãnh binh. Tuy nhiên, Trương Định đã kháng chiếu, từ chối thư dụ hàng của tướng Pháp, tiếp tục ở lại Gò Công, xưng là Trung thiên Tướng quân, được nhân dân tôn là Bình Tây đại nguyên soái, xây dựng lực lượng, tiếp tục kháng chiến chống Pháp. Nghĩa quân của ông đã giành được nhiều thắng lợi, gây khiếp sợ và góp phần ngăn chặn âm mưu chiếm nhanh Nam Kỳ của thực dân Pháp.

Ngày 19-8-1864, được tay sai chỉ đường, giặc Pháp bất ngờ tấn công vào đại bản doanh của Trương Định, ông bị trọng thương. Rạng sáng ngày 20-8-1864, ông đã rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết. Sau khi ông tuẫn tiết, thi hài ông được gia đình và nhân dân an táng trọng thể tại Gò Công. Vua Tự Đức đã truy tặng ông phẩm hàm và cho lập đền thờ ông ở quê nhà Tư Cung vào năm 1871.

Trải qua những năm tháng chiến tranh, đền thờ Trương Định tại Quảng Ngãi được lập dưới thời nhà Nguyễn đã không còn dấu vết. Năm 2007, để bày tỏ lòng tri ân người anh hùng dân tộc đã hy sinh vì nghĩa lớn, tỉnh Quảng Ngãi đã đầu tư xây dựng đền thờ Trương Định gồm các hạng mục: đền thờ chính, nhà trưng bày, nhà bia ghi công, sân hành lễ, đường nội bộ… Từ khi được xây dựng đến nay, đền thờ Bình Tây đại nguyên soái đã trở thành biểu tượng về truyền thống yêu nước hào hùng của địa phương và là điểm đến để thể hiện lòng tri ân đối với vị anh hùng dân tộc của nhân dân xứ Quảng.

Phạm Tuấn Vũ

1. Bình Tây Đại Nguyên Soái là ai?

Bình Tây đại Nguyên soái là Trương Định, ông là vị thủ lĩnh vĩ đại thời kỳ đầu thực dân Pháp xâm lược nước ta.

Trương Định còn có tên là Trương Công Định, ông sinh năm 1820 ở phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi [nay là xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi]. Trương Định sống ở quê hương Quảng Ngãi cho đến năm 24 tuổi mới theo cha là Trương Cầm- người giữ chức Chưởng lý Thủy sư vào Gia Định [thời vua Thiệu Trị].

Trương Định là người chí dũng song toàn. Sau khi cha ông mất, ông ở lại nơi cha đóng quân. Sau đó, ông kết hôn với bà Lê Thị Thưởng, vốn là con gái của một hào phú ở huyện Tân Hòa [Gò Công Đông ngày nay].

Đôi nét về Trương Định

Năm 1850, hưởng ứng chính sách khai hoang của triều đình, ông đã đứng ra chiêu mộ khoảng 500 dân nghèo khai hoang lập lập ấp ở Gò Công, Gia Định. Với công lao đó, ông được triều đình Huế phong chức Quản cơ, hàm Lục phẩm, nên dân chúng còn gọi ông là Quản Định. Năm 1854, trong thời gian khẩn hoang Trương Định đã gặp và cưới bà Trần Thị Sanh – là anh em con cô con cậu với bà Từ Dũ Thái Hậu [mẹ vua Tự Đức].

2. Trương Định trở thành thủ lĩnh chống Pháp khi nào?

Năm 1859, khi Pháp đưa quân chiếm thành Gia Định, Trương Định đem nghĩa binh lên đóng ở Thuận Kiều để ngăn chặn. Năm 1860, dưới quyền của Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương, Trương Định tham gia giữ đồn Kỳ Hoà, được triều đình phong chức Phó lãnh binh. Sau khi đồn Kỳ Hoà thất thủ, ông cùng nghĩa quân rút về Gò Công xây dựng căn cứ kháng chiến chống Pháp. Trương Định đã tổ chức nhiều trận phục kích địch ở Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn làm cho Pháp bị tổn thất lực lượng rất nhiều.

Sau khi ký hoà ước Nhâm Tuất, triều đình Huế cắt 03 tỉnh miền Đông Nam Kỳ giao cho Pháp. Triều đình vừa phong ông chức Lãnh binh, vừa buộc ông phải chuyển đi nhậm chức ở An Giang và giải tán nghĩa quân chống Pháp. Trước sự nhu nhược của Tự Đức, Trương Định cương quyết chống lại lệnh của triều đình, ở lại Gò Công, Mỹ Tho tiếp tục lãnh đạo nghĩa quân và cùng nhân dân chống Pháp.

Trương Định được nhân dân tôn làm Bình Tây đại Nguyên soái

Nghĩa quân và nhân dân tôn Trương Định làm Bình Tây đại Nguyên soái. Ông là người thương dân chân thành và yêu nước nồng nàn, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hy sinh, quyết tâm chống giặc Pháp xâm lược đến cùng. Trương Định từng tuyên bố: “Chúng tôi sẽ lấy lau làm cờ, chặt tầm vông làm vũ khí. Dứt khoát không bao giờ ngừng chống bọn giặc cướp nước”.

Trong tuyên ngôn công bố với triều đình và nhân dân, Trương Định thể hiện lập trường và quyết tâm chống Pháp, bảo vệ đất nước của người thủ lĩnh nghĩa quân và của nhân dân Việt Nam. Lúc này, lực lượng nghĩa quân của Trương Định lên đến gần 6.000 người. Ông được những người chủ chiến ở triều đình, cũng như các nhân sĩ và nhân dân ủng hộ.

Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và Phan Văn Trị, cùng nhiều danh sĩ ở Nam Kỳ nhiệt tình ủng hộ Trương Định trong công cuộc chống Pháp. Trương Định đã liên kết được với các lực lượng nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Võ Duy Dương, Đỗ Đình Thoại… cùng phối hợp tổ chức các trận đánh Pháp. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân Trương Định mở rộng từ Gò Công đến Chợ Lớn, Gia Định, từ biển đông đến biên giới Campuchia.

Ngày 26/02/1863, Pháp mở đợt tấn công vào căn cứ nghĩa quân. Cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt. Trương Định buộc phải rút quân về Biên Hoà lập căn cứ ở Lý Nhơn và đưa một bộ phận nghĩa quân về Thủ Dầu Một – Tây Ninh để tiếp tục chiến đấu.

3. Trương Định mất khi nào?

Cuối năm 1864, trong một trận chiến tại căn cứ Tân Hoà, ông rơi vào vòng vây của quân Pháp. Do sự phản bội của Huỳnh Tấn, tên này trước kia từng theo ông chống Pháp đã rời bỏ hàng ngũ kháng chiến về làm tay sai cho Pháp.

Trương Định và lực lượng nghĩa quân quyết tử chiến với giặc. Trong lúc chiến đấu, không may ông bị đạn bắn gãy xương sống. Không để rơi vào tay giặc, Trương Định rút gươm tự sát vào rạng sáng ngày 20 tháng 8 năm 1864. Khi ấy, ông 44 tuổi.

Cái chết của Trương Định là tổn thất lớn đối với phong trào kháng chiến chống Pháp của nghĩa quân và nhân dân ta lúc bấy giờ. Thương tiếc người anh hùng dân tộc, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã làm bài văn tế khóc người anh hùng:

“Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt,

thương đấng anh hùng gặp lúc gian truân

Đất Gò Công cây cỏ ủ ê

Cảm niềm thần tử, hết lòng trung ái

Xưa còn làm tướng, giốc rạng ngời hai chữ Bình Tây

Nay thác theo thần, xin dựng hộ một câu phúc thán….”

Cuộc khởi nghĩa chiến đấu chống giặc Pháp xâm lược của Trương Định chỉ trong thời gian ngắn từ năm 1859 đến 1864 đã trở thành điểm son ngời sáng trong lịch sử dựng nước, giữ nước và chống ngoại xâm của dân tộc ta. Và, Trương Định đã trở thành người thủ lĩnh vĩ đại của nghĩa quân chống giặc Pháp xâm lược.

4. Lăng mộ và đền Trương Định nằm ở đâu?

Sau khi Trương Định mất vào ngày 20/8/1864, bà Trần Thị Sanh là người vợ thứ của Trương Định và nhân dân mang Ông về an táng rất trọng thể, tại một địa điểm thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.

Mộ Trương Định ban đầu [1864] được làm bằng hồ ô dước và trên bia đá có khắc mấy chữ: “Đại Nam – An Hà lãnh binh kiêm Bình Tây Đại tướng quân Trương công húy Định chi mộ”. Nhà cầm quyền Pháp bắt đục bỏ dòng chữ Bình “Tây Đại tướng quân” và yêu cầu bà Sanh 10.000 quan tiền vì tội lập bia trái phép.

Năm 1874, bà Sanh làm đơn xin tu sửa mộ cho chồng. Lần này mộ Trương Định được xây bằng đá hoa cương, có 3 bức hoành phi và 6 trụ đá ghi lại thân thế và sự nghiệp của ông. Một lần nữa, các hoành phi và trụ đá bị Pháp ra lệnh đục bỏ…

Lặng mộ và đền thờ Trương Định tại Gò Công

Nhà nghiên cứu Huỳnh Minh cho biết: “Trải nhiều năm Pháp thuộc, mộ Trương Định trở thành hoang phế. Sau có bà Huỳnh Thị Điệu, còn gọi là bà Phủ Hải, cho sửa chữa lại. Năm 1956, được sửa sang lần nữa”

Từ năm 1972 đến năm 1973 xây thêm đền thờ. Lăng mộ và đền thờ Trương Định đã được Bộ Văn hóa – Thông tin Việt Nam công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa quốc gia ngày 6 tháng 12 năm 1989.

Lễ hội tưởng niệm ông diễn ra tại đây các ngày 19 và 20 tháng 8 dương lịch hàng năm. Trương Định cũng được hậu thế tôn vinh tại di tích nhà thờ họ Trương Việt Nam thuộc thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư, Ninh Bình. Đền Trương là nơi thờ những người họ Trương nổi tiếng có công trong lịch sử đã khuất.

Ngoài mộ và đền thờ tại thị xã Gò Công, nhân dân còn lập một đền thờ và dựng tượng Trương Định tại xã Gia Thuận huyện Gò Công Đông, nơi được gọi là “Đám lá tối trời” mà Trương Định và nghĩa quân từng làm căn cứ chống Pháp để thờ. Hàng năm vào hai ngày 19 và 20 tháng 8 dương lịch, Gò Công đều tổ chức lễ hội Văn hóa anh hùng Trương Định với mục đích hướng về cội nguồn, tưởng nhớ công đức của tiền nhân đối với dân tộc và đất nước.

Đối với nhân dân Gò Công nói riêng và toàn thể nhân dân Việt Nam nói chung thì Trương Định là người anh hùng dân tộc sẽ mãi mãi được các thế hệ sau khắc ghi.

Để ghi nhớ công ơn của ngài Nhà nước đã đặt tên một con phố tại Hà Nội mang tên Trương Định.

Video liên quan

Chủ Đề