Protagoras thuộc trường phái triết học nào

Prodicus đã sống bằng nghề gì?

Prodicus, một nhà ngụy biện, là một đại sứ cho thành phố  quê hương của Ceos. Ông đã đi nhiều nơi và trở nên giàu cò từ những cuộc triển lãm của mình. Một trong những chuyên môn của ông là phân biệt giữa các từ đồng nghĩa, và Socrates đã tuyên bố trong Protagoras và Meno của Plato rằng ông là học trò của Protagoras. Prodicus có hai loại bài nói chuyện của ông: bài nói chuyện có giá một đồng và bài nói chuyện có giá 50 đồng [tùy theo yêu cầu của thính giả]. Socrates chế nhạo rằng, ông ta sẽ học được nhiều hơn về những lời của Prodicus nếu ông ta có thể đủ khả năng chi trả cho những bài giảng 50 đồng. Bài giảng một đồng có lượng khán giả lớn hơn nhiều, nhưng, theo Aristotle, Prodicus đôi lúc cho khán giả lớn hơn một sự trả giá bằng cách “trượt giá những bài giảng 50 đồng cho họ.” Nếu câu chuyện của Aristotle đúng, các nhà bình luận học thuật đã bỏ sót khả năng, đó là các nhà Ngụy biện đã phát minh ra các kỹ thuật bán hàng hiện đại.

Câu 43: Protagoras nổi bật về điều gì?

Protagoras, quê ở Abdera nhưng sống tại thành Thrace [490- 420 TCN], người được tán dương hơn hết trong số tất cả các nhà ngụy biện. Plato đã viết: Ptotagoras là người đầu tiên tự gọi mình là một nhà ngụy biện. Ông đã huấn luyện các thanh niên trẻ làm chính trị và đã kết thân với nhà chính trị Pericles [495- 429 TCN], ông này đã thỉnh cầu Protagoras viết một bản Hiến pháp cho thuộc địa mới của Thuri. Ptotagoras là một ngòi bút không biết mệt mỏi. Các tác phẩm của ông. gồm: “Bàn về Chân lý,” “Bàn về Các Thần,” và “Phản Logic,” tuy vậy, không một tác phẩm nào còn tồn tại cho đến ngày nay. Protagoras là tác giả của cương lĩnh về chủ nghĩa nhân văn: “Con người là thước đo của mọi sự, họ coi vật gì là có thì nó có, coi vật gì không có thì không có.”

Protagoras khẳng định rằng linh hồn không ở trên hay vượt lên trên nhận thức của một người. Chủ thuyết tương đối của ông dựa trên những kinh nghiệm nhận thức khác nhau của từng cá nhân riêng biệt; ví dụ, cái gì lạnh lẽo đối với người này, lại có thể ấm áp đối với người  kia. Và ông đã khai triển chủ nghĩa tương đối của kinh nghiệm cá nhân tới những nhóm rộng lớn trong luận điệu rằng “Bất cứ điều gì là đúng đắn đối với một thành phố thì chỉ đúng đắn cho thành phố đó bao lâu nó còn có vẻ là đúng như thế.”

Tuy nhiên, theo Protagoras, dầu cho tất cả những nhận thức và ý tưởng về sự công bằng là đúng, ông cho rằng có những điều này có thể tốt hơn điều kia. Ông nhận thấy đây là công việc của nhà ngụy biện để thay đổi não trạng con người ngõ hầu họ có được những ý tưởng tốt hơn về cái gì là công bằng và cái gì là tốt đẹp. Càng có những nhận thức và ý tưởng cao hơn thì đồng nghĩa với những kết qủa tốt hơn. Nói cách khác, các nhà ngụy biện đã hướng dẫn “khách hàng” của họ làm thế nào để thành công.

Câu 44: Gorgias đã nói gì về tư tưởng và sự hiện hữu?

Gorgias sinh tại thành phố Leontini thuộc Sicily [485- 380 TCN], giảng dạy nghệ thuật thuyết phục để thành công trong chính trị. Khảo luận còn sót lại của ông “Bàn về Cái Không; hay về Bản chất” khẳng định rằng chẳng có gì là chân thật [ông phủ nhận mọi chân lý]. Ông trình bày tư tưởng của mình trong một luận đề như sau: “Không có gì tồn tại; nếu có gì tồn tại, nó không thể hiểu được; và, cho dù nó có thể hiểu được, nó cũng không thể truyền đạt được. Bởi vì, chúng ta có một tư tưởng về một điều gì đó thì không có nghĩa là điều đó tồn tại. Chẳng hạn, những tư tưởng không đưa đến sự hiện hữu về điều đang nghĩ, hay những người khác cũng không thể suy nghĩ về những con vật không có thực. Hay nói cách khác, không phải tất cả mọi thứ chúng ta nghĩ về nó thì nó tồn tại hay nó có thực. Vì thế, Gorgias kết luận, nếu bất cứ thứ gì tồn tại, nó không thể được hiểu đúng. Có một ‘khoảng cách’ giữa tư tưởng và sự vật, cũng như có ‘khoảng trống’ giữa những suy nghĩ của những con người khác nhau.

Câu 45: Kết luận ‘bất cứ điều gì là thực thì không để được hiểu đúng’ của Gorgias có nghĩa gì không?

Không, đó là ‘khoảng trống’ [hay ‘khoảng cách’] trong lý luận của ông. Đúng là khi nghĩ về một vật thì không bảo đảm vật ấy tồn tại, và cũng không có nghĩa là không một tư tưởng nào của chúng ta là tư tưởng về cái tồn tại.

Câu 46: Hippias đã đóng góp gì cho việc nghiên cứu?

Nhà ngụy biện Hippias thành Ellis [460-400 TCN] đã kiếm được nhiều tiền trong những chuyến đi của ông. Ông là một nhà thông thái, sáng tác thơ, kịch, viết lịch sử, diễn thuyết; ông tham gia bàn luận văn chương, thiên văn học, hình học, số học, nghệ thuật, đạo đức học, và kỹ thuật ghi nhớ. Ông đã thực hiện một khám phá toán học quan trọng về đường cong khi chia 3 cạnh của một góc, gọi là quadratrix[1]. Ông đã lên tiếng chống lại những quan điểm Tiền-Socrates về thực tại ẩn tàng và ủng hộ sự tự lập như một nhân đức. Trong những mâu thuẫn giữa tự nhiên và quy ước, Hippias nói rằng phải có bản chất theo sau biện hộ. Điều này có nghĩa là nếu ông cảm thấy thích thú làm một điều gì đó, nhưng có một luật lệ chống lại nó, ông thiên về làm điều đó và bẻ gãy luật lệ.

Câu 47: Prodicus nói với thính giả của ông điều gì? 

Prodicus thành Ceos [465 – 415 TCN] đã nói rằng bốn yếu tố của Empedocles: đất, gió, lửa và nước là thánh thiêng [một học thuyết mà nhà soạn kịch Aristophanes [446 – 386 TCN] đã chế nhạo trong The Birds]. Ông cũng cho rằng bất cứ điều gì cần thiết cho con người thì được xem là thánh thiện, đây không phải là một cái nhìn truyền thống về tôn giáo trong xã hội Hy Lạp cổ đại.

Prodicus lập luận rằng không có sự tốt lành tuyệt đối, bởi vì cái gì tốt cho người này thì không hẳn tốt đối với người khác, một học thuyết cổ võ cho chủ nghĩa tương đối. Trong những cuộc thảo luận của ông về ngôn ngữ, Prodicus đã cố gắng chỉ ra hai từ không thể có cùng một ý nghĩa. Ông cũng không đồng thuận với Democratus [460 – 371 TCN], người đã nói rằng cùng một sự vật thì có thể có những tên gọi khác nhau.

Câu 48:  Thrasymachus nghĩ gì về ý niệm công bình?

Thrasymachus thành Bithynia [459- 415 TCN] được biết nhiều đến như là một nhân vật trong tác phẩm Cộng Hòa của Plato, vốn là người mà Socrates đánh bại trong những cố gắng ban đầu để định nghĩa công bình. Thrasymachus khẳng quyết rằng công bình thì không gì hơn ngoài điều mang lại lợi ích cho những người có quyền lực, và vì thế nó không có lợi cho những người bị người có quyền thống trị. Trong đời sống thực tế, Thrasymachus được tín nhiệm để đi khắp Hy Lạp giảng dạy, cùng với những nhân vật nổi tiếng ở Athens. Trong một bài diễn thuyết ông viết cho một thành viên của hội đồng thành phố, ông đã ủng hộ sự hiệp nhất và tính hiệu quả trong việc quản trị của đất nước Hy Lạp.

Chuyển ngữ: Nhóm Maiorica, Học viện Dòng Tên

Nguồn: Naomi Zack, Ph.D., The Handy Philosophy Answer Book, [Visible Ink Press, 2010], 21-23.

[1]  Trong toán học, a quadratrix [tiếng la tinh là quadrator, squarer] là một đường cong có các tung độ, chúng là một đơn vị đo lường diện tích của các đường cong khác.

Người ngụy biện , bất kỳHy Lạp giảng viên, nhà văn, và giáo viên trong thứ 5 và thế kỷ thứ 4 TCN , hầu hết trong số họ đi về nói tiếng Hy lạp cho hướng dẫn thế giới trong một loạt các đối tượng để đổi lấy phí.

Thuật ngữ ngụy biện [tiếng Hy Lạp ngụy biện ] đã có ứng dụng sớm hơn. Đôi khi nó được cho là có nghĩa ban đầu chỉ đơn giản là “thông minh” hoặc “người có tay nghề cao”, nhưng danh sách những người mà các tác giả Hy Lạp đã áp dụng thuật ngữ này theo nghĩa sớm hơn của nó khiến có thể nó bị hạn chế hơn về ý nghĩa. Các nhà tiên tri, nhà thần thánh và nhà thơ chiếm ưu thế, và các nhà ngụy biện sớm nhất có lẽ là “nhà hiền triết” trong các xã hội Hy Lạp sơ khai. Điều này sẽ giải thích ứng dụng tiếp theo của thuật ngữ này choBảy khôn ngoan Men [7th-6 thế kỷ TCN ], người tiêu biểu cho sự khôn ngoan thực tiễn đầu cao nhất, và trước Socrate nhà triết học nói chung. Khi nàoProtagoras , ở một trong nhữngĐối thoại của Plato [Protagoras ] được tạo ra để nói rằng, không giống như những người khác, anh ta sẵn sàng tự gọi mình là Nhà ngụy biện, anh ta đang sử dụng thuật ngữ theo nghĩa mới của nó là "giáo viên chuyên nghiệp", nhưng anh ta cũng muốn tuyên bố tiếp nối với các nhà hiền triết trước đó như một người thầy của trí tuệ. . Plato vàTuy nhiên, Aristotle đã thay đổi ý nghĩa một lần nữa, khi họ tuyên bố rằng những giáo viên chuyên nghiệp như Protagoras không tìm kiếm sự thật mà chỉ giành chiến thắng trong tranh luận và đã sẵn sàng sử dụng các phương tiện không trung thực để đạt được điều đó. Đây được sản xuất theo nghĩa “hay câu nệ hoặc fallacious nhà lý hoặc chí Quibbler”, mà vẫn chiếm ưu thế cho đến ngày nay. Cuối cùng, dưới thời Đế chế La Mã , thuật ngữ này được áp dụng cho các giáo sư hùng biện , các nhà hùng biện, và các nhà văn văn xuôi nói chung, tất cả những người này đôi khi được coi là cấu thành cái mà ngày nay được gọi là phong trào Ngụy biện thứ hai [ xem bên dưới phong trào Ngụy biện thứ hai ].

Raphael: chi tiết từ School of Athens

Plato [trái] và Aristotle, chi tiết từ Trường học Athens , bức bích họa của Raphael, 1508–11; ở Stanza della Segnatura, Vatican. Plato chỉ lên trời và cõi của hình thức, Aristotle chỉ trái đất và cõi vạn vật.

Album / Oronoz / SuperStock

Những cái tên tồn tại của gần 30 nhà ngụy biện được gọi đúng như vậy, trong đó quan trọng nhất là Protagoras, Gorgias ,Antiphon ,Prodicus , vàThrasymachus . Plato phản đối mạnh mẽ rằngSocrates hoàn toàn không phải là một nhà ngụy biện — ông không mất phí, và sự tận tâm của ông đối với sự thật là điều không thể nghi ngờ. Nhưng từ nhiều quan điểm, anh ấy được coi là một thành viên khá đặc biệt của phong trào. Số lượng các nhà ngụy biện thực tế rõ ràng là lớn hơn nhiều so với 30, và trong khoảng 70 năm, cho đến c. 380 bce , chúng là nguồn duy nhất của cao hơngiáo dục ở các thành phố Hy Lạp tiên tiến hơn. Sau đó, ít nhất làAthens , phần lớn chúng đã bị thay thế bởi các trường phái triết học mới, chẳng hạn như trường phái của Plato và Isocrates . Plato đối thoại Protagoras mô tả một cái gì đó giống như một hội nghị của nhà Ngụy biện tại nhà của Callias ở Athens ngay trước khi cuộc chiến Peloponnesian [431-404 TCN ].Antimoerus của Mende, được mô tả là một trong những học sinh xuất sắc nhất của Protagoras, được hướng dẫn chuyên môn để trở thành Nhà ngụy biện, và rõ ràng đây đã là một cách bình thường để bước vào nghề.

Hầu hết các nhà ngụy biện chính không phải là người Athen, nhưng họ đã biến Athens thành trung tâm của các hoạt động của mình, mặc dù đi du lịch liên tục. Tầm quan trọng của Athens là không nghi ngờ gì một phần là do tự do ngôn luận lớn hơn phổ biến ở đó, một phần là do sự bảo trợ của những người giàu có như Callias, và thậm chí là do sự khuyến khích tích cực củaPericles , người được cho là đã tổ chức các cuộc thảo luận dài với các nhà ngụy biện trong nhà của mình. Nhưng chủ yếu những người theo thuyết ngụy biện tập trung tại Athens vì họ nhận thấy ở đó nhu cầu lớn nhất về những gì họ phải cung cấp, cụ thể là hướng dẫn cho những người đàn ông trẻ tuổi, và mức độ của nhu cầu này theo bản chất của đời sống chính trị của thành phố. Athens là một nền dân chủ , và mặc dù các giới hạn của nó đến mức Thucydides có thể nói rằng nó được điều hành bởi một người đàn ông, Pericles, nhưng nó vẫn mang lại cơ hội cho sự nghiệp chính trị thành công cho những công dân thuộc các nguồn gốc đa dạng nhất , miễn là họ có thể gây ấn tượng với khán giả của mình đủ trong hội đồng và hội đồng. Sau cái chết của Pericles, đại lộ này trở thành con đường dẫn đến thành công chính trị.

Pericles

Pericles, chi tiết của một herm bằng đá cẩm thạch; trong Bảo tàng Vatican.

Anderson — Alinari / Art Resource, New York

Nhận quyền truy cập độc quyền vào nội dung từ Ấn bản đầu tiên năm 1768 của chúng tôi với đăng ký của bạn. Đăng ký ngay hôm nay

Các nhà ngụy biện đã dạy đàn ông cách nói và những gì lý lẽ để sử dụng trong tranh luận công khai. Một nền giáo dục tinh vi ngày càng được săn đón bởi các thành viên của các gia đình lâu đời nhất và những người mới nhập cư đầy tham vọng mà không có sự hỗ trợ của gia đình. Mô hình thay đổi của xã hội Athen khiến những thái độ truyền thống đơn thuần trong nhiều trường hợp không còn phù hợp nữa. Việc chỉ trích những thái độ như vậy và thay thế chúng bằng những lý lẽ hợp lý có sức hút đặc biệt đối với giới trẻ, và nó giải thích sự chán ghét bạo lực mà họ khơi dậy trong những người theo chủ nghĩa truyền thống. Plato cho rằng phần lớn các cuộc tấn công của Người ngụy biện vào các giá trị truyền thống là không công bằng và phi lý. Nhưng ngay cả ông cũng học được ít nhất một điều từ các nhà ngụy biện — nếu các giá trị cũ được bảo vệ, thì nó phải bằng lập luận có lý lẽ, chứ không phải bằng cách thuyết phục truyền thống và niềm tin không phản bác.

Nhìn từ quan điểm này, phong trào cách ngụy biện thực hiện một chức năng có giá trị trong vòng Athen dân chủ trong thế kỷ thứ 5 TCN . Nó cung cấp một nền giáo dục được thiết kế để tạo điều kiện và thúc đẩy thành công trong cuộc sống công cộng. Tất cả các nhà ngụy biện dường như đã được đào tạo vềhùng biện và nghệ thuật nói, và phong trào Tinh tế, chịu trách nhiệm cho những tiến bộ lớn trong lý thuyết tu từ , đã đóng góp rất nhiều vào sự phát triển của phong cách trongphòng thi . Trong thời hiện đại, quan điểm đôi khi đã được nâng cao rằng đây là mối quan tâm duy nhất của các nhà ngụy biện. Nhưng phạm vi chủ đề mà các Nhà ngụy biện chính xử lý khiến điều này khó xảy ra, và ngay cả khi thành công theo hướng này là mục đích cuối cùng của họ, thì các phương tiện họ sử dụng chắc chắn cũng gián tiếp như trực tiếp, vì học sinh không chỉ được hướng dẫn về nghệ thuật nói, nhưng trong ngữ pháp; trong bản chất của đức hạnh [ aretē ] và các cơ sở của đạo đức; trong lịch sử xã hội và nghệ thuật; trong thơ ca , âm nhạc và toán học ; và cả trong thiên văn học và khoa học vật lý. Đương nhiên, sự cân bằng và sự nhấn mạnh khác nhau giữa Sophist và Sophist, và một số cung cấp chương trình giảng dạy rộng hơn những người khác. Nhưng đây là một vấn đề riêng lẻ, và những nỗ lực của các nhà sử học triết học trước đó nhằm chia phong trào Tinh tế thành các giai đoạn mà bản chất của hướng dẫn đã bị thay đổi giờ đây được coi là thất bại vì thiếu bằng chứng. Các nhà ngụy biện ở thế kỷ thứ 5 đã khai trương một phương pháp giáo dục đại học mà về phạm vi và phương pháp đã tiên liệu cách tiếp cận nhân văn hiện đại đã được khai trương hoặc phục hưng trong thời kỳ Phục hưng Châu Âu .

La Hire, Laurent de: Rhetoric

Hùng biện , sơn dầu trên vải của Laurent de La Hire, 1650. 102,5 × 119,5 cm.

Trong một bộ sưu tập riêng

Video liên quan

Chủ Đề