Phong trào đấu tranh chống thực dân của nhân dân châu Phi có ý nghĩa Lịch sử như thế nào

Việc để đất nước rơi vào tay của thực dân phương Tây, là do các quốc gia phong kiến Đông Nam Á không tiến hành duy tân đất nước nhằm đưa đất nước phát triển, không có tầm nhìn cũng như tiến bước theo thời đại, bảo thủ, cố duy trì chiếc ngai vàng phong kiến đang trở nên mục ruỗng. Khi thực dân phương Tây đến “gõ cửa” thì giai cấp cầm quyền các nước này thực hiện phương sách giữ nước bằng việc “đóng cửa”, ngăn chặn người và hàng hóa từ châu Âu đến, hoặc quá thụ động trong việc tìm kiếm chính sách đối phó với mưu toan của thực dân phương Tây. Kết quả là các nước Đông Nam Á lần lượt rơi vào tay các nước thực dân, biến các nước này thành thuộc địa, trở thành nơi khai thác thị trường và nhân công của riêng mình. Trong tình hình đó, các quốc gia Đông Nam Á buộc phải tiến hành đấu tranh vũ trang chống lại các cuộc xâm lược để giữ nước, giữ độc lập dân tộc. Cũng vì thế, phong trào đấu tranh vũ trang chống xâm lược diễn ra sôi nổi từ khi thực dân châu Âu nổ súng xâm lược.

       Với tinh thần và ý chí chiến đấu quật cường, toàn thể nhân dân các quốc gia Đông Nam Á đã tự nguyện tham gia vào hàng ngũ yêu nước, chiến đấu chống lại kẻ thù chung, nhằm hoàn thành một ước nguyện là góp một phần sức lực nhỏ bé của mình công cuộc bảo vệ sự tồn vong của quốc gia dân tộc. Có thể nói rằng phong trào là sự thể hiện truyền thống yêu nước nồng nàn, là đỉnh cao của tinh thần quật cường của nhân dân các nước Đông Nam Á.

       Ngay từ khi thực dân phương Tây xâm nhập và xâm lược, nhân dân Đông Nam Á đã vùng dậy đấu tranh mạnh mẽ để bảo vệ đất nước. Cuộc đấu tranh giữ đất, giữ làng diễn ra bền bỉ, liên tục, kiên cường, lớp trước ngã xuống, lớp sau nối tiếp tiến lên, kiên quyết đánh giặc cho dù phải hy sinh cả tính mạng; tất cả vì một mục tiêu chiến đấu cho dân tộc sinh tồn. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, cuộc đấu tranh mới ở giai đoạn khởi đầu, đặt nền móng cho những bước tiến của giai đoạn sau.

       Trước khi người Âu châu đến "gõ cửa", các nước Đông Nam Á đang ở trong tình trạng thấp kém, lạc hậu cách xa rất nhiều lần so với phương Tây. Nhưng khi bị xâm lược, các quốc gia Đông Nam Á đều tiến hành kháng cự để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Những cuộc kháng cự đó có khi là do nhà nước phong kiến tiến hành, có khi do một hoàng thân lãnh đạo, nhưng cũng có khi do chính nhân dân tự động tiến lên khi tổ quốc bị xâm lăng.

      Khi thực dân phương Tây xâm lược, các nhà nước phong kiến ở Đông Nam Á đã cùng với nhân dân đứng lên kháng chiến chống xâm lược. Nhưng đến khi các vương triều và giai cấp phong kiến đầu hàng thực dân thì nhân dân đã tự động đứng lên chống xâm lược và chống luôn cả giai cấp phong kiến nhu nhược đầu hàng. Mặc dù không có sự lãnh đạo của chính quyền, nhưng cuộc chiến đấu chống ngoại xâm của nhân dân tỏ ra rất anh dũng, quả cảm, mang lòng yêu nước sâu sắc. Tuy nhiên, các cuộc chiến đấu ấy đều ở trong trạng thái thiếu tổ chức, thiếu đường lối lãnh đạo đúng đắn. Các cuộc chiến tranh của nhân dân Indonesia chống Bồ Đào Nha và Hà Lan dưới sự lãnh đạo của Tơrunô Giôgiô, của Đipônêgôrô, cuộc kháng chiến của nhân dân Achê, cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ở các địa phương Đà Nẵng, Quảng Nam, Gia Định và những cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kỳ dưới sự lãnh đạo của Trương Định, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực...Những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Khơ Me dưới sự lãnh đạo của hoàng thân Sivôtha, của AchaSoa, của Pôcumbô; những cuộc chống trả quân Anh của quân đội Miến Điện do Mahabanđula chỉ huy và những cuộc kháng cự sau đó của nhân dân Miến Điện; các cuộc nổi dậy chống Tây Ban Nha của các tiểu vương và các bộ lạc ở Cebu, ở Manila, ở các đảo Luxông, Xamara, Lâyetta của Philippin… mang những sắc thái khác nhau nhưng đều chung mục đích chống xâm lược, bảo vệ độc lập và chịu chung một kết cục là bị đàn áp thất bại.

     Quá trình đấu tranh chống xâm lược của nhân dân các nước Đông Nam Á diễn ra không cùng thời điểm cụ thể, không giống nhau về hình thức, lại khác về phương pháp đấu tranh, nhưng lại có điểm chung, thống nhất ở mục tiêu: ngăn chặn quá trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân, cố gắng bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Trong quá trình xâm lược, thực dân phương Tây vấp phải sự kháng cự kéo dài và kiên cường, liên tục của nhân dân từng nước. Ngay trong một nước cuộc kháng cự này thất bại, cuộc khởi nghĩa khác lại nổi lên, người trước ngã xuống, người sau tiến lên, kiên quyết đánh đuổi quân xâm lược. Ở Campuchia, cuộc chiến đấu do hoàng thân Sivôtha tổ chức đang tiếp diễn thì cuộc khởi nghĩa do Acha Soa lãnh đạo đã bùng lên. Khi Acha Soa bị bắt, cuộc khởi nghĩa không tan rã mà nó được tiếp sức bằng cuộc nổi dậy của nghĩa quân Pô cum Bô. Ở Việt Nam, cuộc xâm lăng của thực dân Pháp bị sự tấn công liên tục và khắp nơi của nhân dân yêu nước. Từ Đà Nẵng, Quảng Nam cho tới Gia Định, Cần Thơ, Đồng Tháp Mười… đều vấp phải phong trào kháng Pháp của nhân dân. Ở Miến Điện, ba lần tiến hành chiến tranh là cả ba lần thực dân Anh gặp phải sự chống cự quyết liệt của quân đội triều đình. Sau khi quân triều đình thất bại, thì nhân dân khắp cả nước vùng lên chống lại thực dân Anh bằng cuộc chiến tranh du kích bền bỉ, anh dũng làm cho quân giặc khiếp sợ.

      Phong trào đấu tranh vũ trang của các quốc gia Đông Nam Á từ thế kỷ XVI đến những năm cuối thế kỷ XIX thực sự tạo thành một sức mạnh to lớn, bước đầu làm chậm bước tiến của thực dân phương Tây, không những thế còn làm cho đội quân xâm lược nhà nghề nhiều phen kinh sợ, hàng ngàn binh lính thực dân đã phải bỏ mạng tại nơi đây. Phong trào là sức mạnh của sự đoàn kết quân dân, nhiều giai tầng trong xã hội, mặc dù bị thất bại, nhưng nó tạo cơ sở cho các phong trào đấu tranh thời kỳ sau phát triển mạnh mẽ và giành được thắng lợi hoàn toàn. Các cuộc đấu tranh chống lại thực dân phương Tây do người nông dân lãnh đạo, hay do một nhà sư, một trí thức phong kiến, một hoàng thân hoặc một thủ lĩnh bộ lạc đứng đầu, thì tất cả đều chung một mục tiêu bảo vệ cho kỳ được đất nước, giữ cho kỳ được xóm làng quê hương không để rơi vào tay giặc.

5/6/2021 1:39:02 PM

Điện Biên Phủ “một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó chỉ rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”1. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ không chỉ ghi dấu ấn tốt đẹp và chiến công hiển hách trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, mà còn tác động mạnh mẽ đến an ninh, chính trị thế giới, trở thành điểm hẹn hòa bình, hữu nghị và hợp tác.

Cờ “Quyết chiến - Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries [Ảnh Tư liệu TTXVN]

Tầm vóc của chiến thắng Điện Biên Phủ

Thời gian càng lùi xa, ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng Điện Biên Phủ càng được nhận thức đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc hơn. Điện Biên Phủ được xem như “trận Vanmi của các dân tộc da màu”2. Chiến thắng Điện Biên Phủ tác động mạnh mẽ, sâu rộng đối với phong trào giải phóng dân tộc; cổ vũ, động viên nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc vùng lên giải phóng và xây dựng quốc gia độc lập, tự do của mình. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cụm từ “Việt Nam - Hồ Chí Minh - Điện Biên Phủ” không chỉ trở thành lời chào mời, mà còn có ý nghĩa như một “mệnh lệnh” trong cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, nô dịch. Riêng cụm từ “Điện Biên Phủ” đi vào ngôn ngữ các dân tộc, như một động từ “dienbienfuer”, có nghĩa là “tấn công”, “quyết chiến đến cùng để giành thắng lợi”. Nó thể hiện một khát vọng chân chính về cuộc sống tươi đẹp, một niềm tin vững chắc mà các dân tộc phải đấu tranh để giành lấy bằng sức mạnh của chính mình, v.v.

Từ ngày 07/5/1954 đến nay, không chỉ nhân dân Việt Nam mà các nhà nghiên cứu, tướng lĩnh, các chính trị gia trên thế giới, nhất là ở Pháp và Mỹ đã viết về Điện Biên Phủ - “sự kiện thế kỷ” dưới nhiều hình thức, thể loại: văn học, nghệ thuật, hồi ức, hồi ký,… tập trung nhiều nhất là lĩnh vực khoa học quân sự. Các tác phẩm đều đi tìm lời lý giải cho chiến thắng “chấn động địa cầu” này. Tựu chung đều thống nhất nhận định đó là thắng lợi của trí tuệ và tầng sâu văn hóa Việt Nam; của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là thắng lợi vẻ vang của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà còn là chiến công vĩ đại của nhân loại trong thế kỷ XX.

Vậy mà, hiện nay, xuất hiện một số ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược về Chiến thắng lịch sử này. Song, dù nhận định thế nào đi nữa, cũng chưa có một tướng lĩnh, chính khách, nhà nghiên cứu lịch sử phương Tây nào phủ nhận ý nghĩa Chiến thắng Điện Biên Phủ như “một thất bại hoàn toàn... một sự thất thủ... và phải gọi đúng tên nó: một sự đầu hàng”3 của thực dân Pháp. Hơn thế nữa, Bécna Phôn khẳng định rằng, trong lịch sử Pháp, “Điện Biên Phủ là em của hai trận: Xơđăng 1870 và Xơđăng 1940” mà Pháp thua Đức.     

Tác động của “tiếng sấm Điện Biên Phủ

“Đúng 22 giờ ngày 07/5, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ vĩ đại đã thu được toàn thắng”4. Một “không khí im lặng não nề” của Quốc hội Pháp khi nghe tin Điện Biên Phủ thất thủ lúc 13 giờ 42 phút ngày 08/5/1954 - “không khí của hội trường rộng rãi âm vang thông báo tình hình... người ta nghe tiếng nói của ông như tiếng nức nở của một thiếu phụ ở chốn xa xăm nào đó”5. Và ngày 11/5/1954, Hội đồng Chính phủ Pháp đã họp một phiên bi thảm nhất của nước Pháp, kể từ tháng 5/1940.

Trong hồi ký “Tấn bi kịch Đông Dương...”6 sau này, Lanien thừa nhận rằng: “Thất bại cực kỳ to lớn ở Đông Dương đã làm cho Chính phủ Pháp lo ngại, chủ yếu do những tác động vang dội của nó ở Paris... nó giáng một đòn tinh thần rất nặng vào dư luận quần chúng, cũng như một vài giới quân sự...”7. Trong quyển “Đông Dương hấp hối 1953 - 1954”, Hăngri Nava cay đắng thừa nhận sự thất thủ của tập đoàn cứ điểm [Điện Biên Phủ] đã gây ra một sự choáng váng sâu sắc không có lợi cho chúng ta”, v.v. Ký giả Pháp, Giulét Rôi, trong cuốn “Trận Điện Biên Phủ” cho rằng: “Điện Biên Phủ thất thủ gây ra một sự kinh hoàng ghê gớm. Đó là một trong những thất bại của phương Tây, báo hiệu sự tan rã của các thuộc địa và sự cáo chung của nền cộng hòa. Tiếng sấm của sự kiện vẫn còn âm vang”.

Tiếng sấm Điện Biên Phủ cũng làm rung động Nhà Trắng. Báo Paris Match viết: “Tin Điện Biên Phủ hấp hối đến với Mỹ trong ngày thứ Sáu. Sáng và chiều, Chính phủ, báo chí, dư luận tự hỏi một khi Điện Biên Phủ thất thủ, chuyện gì sẽ xảy ra... Đằng sau sự sụp đổ của Điện Biên Phủ có những dự đoán tối tăm và những giả thuyết còn khiến người ta nản lòng hơn là những sự thật phũ phàng nhất”. Chính phủ Mỹ cũng lo ngại khi “Điện Biên Phủ thất thủ, việc đầu tiên của Tổng thống Aixenhao là triệu tập ngay Hội đồng An ninh quốc gia vào ngày hôm sau, thứ Bảy, hồi 08 giờ 30. Cuộc triệu tập này vi phạm cả  tính chất thiêng liêng của việc nghỉ cuối tuần”.

Chiến thắng Điện Biên Phủ, như W.Phoxtơ, Chủ tịch Đảng Cộng sản Mỹ chỉ rõ “đã lộ rõ sự phá sản chính sách của phố Uôn hòng chinh phục các nước ở Đông Nam Á”. Hơn thế nữa, hãng tin Pháp AFP ngày 07/5/1984, cho rằng nó “đã thúc đẩy và làm tăng cường sự phản kháng các chính sách khống chế tàn bạo của Mỹ ở các nước tư bản khác”; đồng thời khẳng định, Chiến thắng Điện Biên Phủ đã “thổi bùng phong trào độc lập tại nhiều quốc gia thuộc địa trên khắp thế giới”. Chưa hết, còn xâm lược, các đế quốc còn nếm đòn Điện Biên Phủ, đúng như Đavít Hêbơstơm viết: “Điện Biên Phủ không phải là sự bất trắc của số mệnh. Nó là một phán xét”8. Nhấn mạnh về ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng Điện Biên Phủ [1954], tờ Guardian [Anh] năm 2014 nhận định rằng, Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ đơn thuần là biểu tượng thất bại của Pháp, biểu tượng thắng lợi của Việt Nam, mà còn là “dấu mốc mở ra một thời đại mới trên toàn thế giới - thời đại giải phóng dân tộc”. Sử gia Anh Martin Windrow cho rằng, “lần đầu tiên một phong trào độc lập ngoài châu Âu phát triển từ lực lượng du kích đã đánh bại một quốc gia xâm lược châu Âu trong một trận chiến”. Báo Hong Kong Bưu điện Hoa Nam buổi sáng [SCMP] khẳng định: Điện Biên Phủ là biểu tượng của tinh thần quyết tâm tự lực, tự cường, chiến đấu và chiến thắng của dân tộc Việt Nam. Nhà nghiên cứu Anh, Peter Hunt thuộc Đại học King’s College London nhận định: “Điện Biên Phủ đã làm thay đổi cả châu Á và ảnh hưởng của nó còn kéo dài tới ngày nay”9. Năm 1960 được đánh dấu là “Năm Châu Phi” khi 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Như một phản ứng dây chuyền lan rộng khắp thế giới, Algêrie và một loạt các nước thuộc địa của Pháp ở châu Phi, như: Maroc, Tunisia, Guinea [Ghinê], Mali, Madagascar, Cameroom,... đã nổi dậy một cách mạnh mẽ, ào ạt và nhanh chóng, buộc thực dân Pháp không còn con đường nào khác là phải trao trả nền độc lập cho các nước này.

Điện Biên Phủ còn tái diễn trong lịch sử cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ. Năm 1968, từ tháng 01 đến tháng 7, quân Giải phóng miền Nam Việt Nam liên tục tiến công quân Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn ở cứ điểm Khe Sanh [Quảng Trị], qua nhiều đợt tiến công tiêu diệt chi khu quân sự Hướng Hóa, cứ điểm Làng Vây, Tà Cơn, đánh bại cuộc hành quân giải vây “ngựa bay”, siết chặt vòng vây, đánh lấn. Cuối cùng, quân viễn chinh Mỹ phải bỏ ý đồ “bảo vệ Khe Sanh bằng mọi giá”, vì “không chịu đựng một Điện Biên Phủ”, nên phải tháo chạy.  Đó là sự thất bại nặng nề về chính trị đối với Mỹ theo kiểu “Pháp bại trận Điện Biên Phủ”, và Giônxơn đã “ném danh dự nước Mỹ ra để bắt Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân ký cam kết bằng máu” để giữ Khe Sanh [theo nhà sử học Mỹ Sêthơ Sêtsing]. Năm 1972, trong 12 ngày đêm ngoan cố, dã man đánh phá Thủ đô Hà Nội, Mỹ lại nếm đòn “Điện Biên Phủ trên không” [81 máy bay bị bắn rơi, trong đó có 34 chiếc “siêu pháo đài bay” B-52; 5 chiếc F-111 “cánh cụp cánh xòe”. Những điều này xác nhận dự đoán việc Mỹ “ủng hộ các chế độ độc tài quân phiệt... chắc chắn sẽ đưa đến một Điện Biên Phủ”10.

Điện Biên Phủ - biểu tượng khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, điểm hẹn hòa bình, hữu nghị và hợp tác của nhân loại

Tờ Tin tức, số ra ngày 11/5/1954 ở Inđônêxia nhận thấy rằng, việc giải phóng Điện Biên Phủ không chỉ là thắng lợi của Việt Nam mà còn “chứng minh nhân dân châu Á có đủ khả năng kết thúc lịch sử của bọn thực dân âm mưu dùng lực lượng vũ trang để thực hiện tham vọng của mình”.

Trong chiến đấu chống Pháp, mỗi khi xung phong, các chiến sĩ Angrêri thét lớn “Điện Biên Phủ” thay cho “Anma” [nghĩa là “xung phong”, “tiến lên”]. Đúng  như Môhamét Banđana, nhà điện ảnh Angiêri đã nói: “mỗi khi đánh giáp lá cà, ba tiếng “Điện Biên Phủ” tăng thêm sức mạnh cho đường lê; khi lao mình dưới làn mưa đạn, ba tiếng “Điện Biên Phủ” đã khích lệ chiến sĩ chúng tôi đánh đến cùng, chiếm bằng được từng tấc đất trên trận địa quân thù”. Còn tờ Sao đỏ [Liên Xô], ngày 08/5/1954 viết: “Việc giải phóng cứ điểm [Điện Biên Phủ] chứng tỏ lực lượng của Quân đội nhân dân Việt Nam, ý chí không gì lay chuyển nổi của nhân dân Việt Nam kiên quyết bảo vệ nền tự do, độc lập của mình” và cũng như các đồng chí Cuba khẳng định: “Là một niềm hy vọng to lớn và tươi sáng, sự cổ vũ các dân tộc chiến đấu. Thắng lợi của Việt Nam chứng tỏ rằng: Bất kỳ một dân tộc nếu đoàn kết, kiên quyết đấu tranh cho tự do và tương lai tươi sáng để có thể đánh bại được đế quốc”. Trong tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt Việt – Lào, Hoàng thân Xuphanuvông, Thủ tướng Chính phủ kháng chiến Pathét Lào, trong điện mừng ngày 08/5/1954 đã chân thành cảm ơn nhân dân Việt Nam với Chiến thắng Điện Biên Phủ “ngoài nhiệm vụ giải phóng đất nước mình, các bạn cũng đương làm nhiệm vụ giúp đỡ đẩy mạnh cuộc kháng chiến của Pathét Lào”, v.v.

Nhận thức ý nghĩa của Chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc luôn ghi nhớ rằng: “ba tiếng Việt Nam - Hồ Chí Minh - Điện Biên Phủ” từ nay gắn liền nhau thành một sự thật vĩ đại, chói lọi, như một niềm hy vọng to lớn và tươi sáng” [Hecto Rôđrighết Lompác, Thứ trưởng Ngoại giao Cuba]. Nhiều đường phố, quảng trường, trường học,… trên thế giới được mang tên “Hồ Chí Minh” và “Điện Biên Phủ”. Ngày 01/6/1956, trận thắng lợi của quân Giải phóng Angiêri [diệt 400 quân Pháp, làm hàng trăm tên bị thương, bắn rơi 08 máy bay] được gọi là “Điện Biên Phủ thứ Nhất”. Thậm chí vào giữa tháng 5/1954, món ăn ngon nhất trong các tiệm ăn ở nhiều thành phố của Angiêri cũng mang tên “món Điện Biên Phủ”.

Nhân dân các nước thuộc địa ý thức rõ rằng, Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của nhân dân Việt Nam, như Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh khẳng định: “… muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”11. Sự giúp đỡ của bạn bè là cần thiết, song quyết định vẫn là sức mạnh dân tộc. Đúng như Thiếu tướng Kiangiap Mienme nói: “Đây là bài học quý báu nhất của Điện Biên Phủ”. Năm 1993, F. Mitterrand, Tổng thống Pháp đầu tiên đến Việt Nam và tuyên bố: “Tôi ở đây để đóng lại một trang sử và cũng để mở ra một trang khác”12. Georges Saunier đánh giá chuyến thăm Điện Biên Phủ của F. Mitterrand là một hành động dũng cảm: “Điện Biên Phủ là một điểm lịch sử ngoại lệ. Một điểm nợ chết chóc, thất bại mà cũng là điểm quay lại và tĩnh tâm. Các dấu vết khổ đau ở đây rất nhiều. Nó cũng là biểu tượng của một thất bại nào đó của thực dân và việc mất niềm tin của người Pháp,... Chuyến đi cũng là để “hòa giải hoàn toàn giữa dân tộc Pháp và Việt Nam”. Tổng thống F. Mitterrand khi trả lời câu hỏi của báo chí về tinh thần đến thăm Điện Biên Phủ, cái tên gợi trang bi thảm của lịch sử Pháp như sau: “Tôi có thể đến Điện Biên Phủ để suy nghĩ lại, để cảm nhận lại tất cả những gì mà một người Pháp có thể cảm thấy trước sự hy sinh của binh lính để tất nhiên không quên những người khác”13. Trong bài phát biểu tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Ông nói: “Chúng ta đã sống xa nhau và bây giờ chúng ta lại gặp lại nhau”14.

  Cho đến hôm nay và mãi mãi sau này, nhân dân thế giới vẫn ghi nhớ “Điện Biên Phủ anh dũng, vinh quang đời đời sáng mãi”, nó sẽ “không bao giờ phai trong ký ức của mọi người”15. Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử Việt Nam và thế giới với những ý nghĩa khác nhau. Từ góc độ quốc tế, Điện Biên Phủ là biểu tượng của lòng quả cảm của một dân tộc, nguồn cảm hứng bất tận cho khát vọng độc lập, tự do, chính nghĩa của các dân tộc bị đô hộ, áp bức, bóc lột. Chiến thắng này là sự mở đầu cho sự chấm dứt hoàn toàn chế độ thực dân kiểu cũ, nhưng cũng báo hiệu sự thất bại của cả chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Sự can thiệp của đế quốc Mỹ và các nước đồng minh trong cuộc chiến tranh Việt Nam sau đó cũng cùng chung số phận mà Điện Biên Phủ đã là hồi chuông cảnh báo.

Sáu mươi bảy năm đi qua, thế giới nói chung, Việt Nam và Pháp nói riêng đã vĩnh viễn “gác lại quá khứ” để đến hôm nay, Điện Biên Phủ từ “điểm hẹn trong chiến tranh” trở thành “điểm hẹn của hòa bình, hữu nghị và hợp tác”.

PGS, TS. VŨ QUANG VINH, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
________________

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 14, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 315.

2 - Philippe Moreau Defarges - Les relations Internationales dans le monde d’aujourd’hui, Ed STH, Paris, 1992, Pg. 85; Báo Paris Match, ngày 08/5/1954.

3 - Báo Observateur 13/5/1954.

4 - Bộ Tổng tham mưu - Thông báo đặc biệt, ngày 08/5/1954, Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch, 1963, T.6, tr. 243

5 - Báo Paris Match ngày 08/5/1954.

6 - “Điện Biên Phủ - Mốc vàng lịch sử”, Nxb QĐND, H. 1994, tr. 130.

7 - Trường Đại học sư phạm Hà Nội - Chiến thắng Điện Biên Phủ, Nxb Đại học sư phạm, H. 2004, tr. 281.

8 - Sđd, tr. 281.

9 - Tạp chí Lịch sử Đảng, Số [342] 5/2019, tr. 04.

10 - Báo Nhân dân Tây Đức, ngày 27/3/1964.

11 - Trần Dân Tiên - Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, H. 1975, tr. 33.

12 - Georges Saunier - “Francois Mitterrand với châu Á, Tham luận tại Hội thảo “Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại” tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr. 01.

13 - Sđd, tr. 27.

14 - Sđd, tr. 32.

15 - “Điện Biên Phủ - Mốc vàng lịch sử”, Nxb QĐND, H. 1994, tr. 129-135.

Video liên quan

Chủ Đề