Ăn đứng dựng ngược nghĩa là gì

Mục lục bài viết

  • 1. Lời dạy của đức Khổng Tử
  • 2. Pháp luật và đạo đức
  • 3. Suy nghĩ bước đầu về đặc trưng và vai trò của đạo đức tôn giáo
  • 4. Quyền lợi thương mại và đạo đức khoa học
  • 5. Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản
  • 6. Lý do kinh tế và di hại đạo đức
  • 7. Bàn thêm về khái niệm "giá trị đạo đức"
  • 8. Vai trò của pháp luật đối với việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức ở Việt Nam hiện nay

1. Lời dạy của đức Khổng Tử

Con người ta sinh ra lớn lên già cả rồi bệnh tật mất đi. Cát bụi lại trở về cát bụi. Âu cũng là quy luật thường tình của một kiếp người. Sinh, lão, bệnh, tử vốn là như vậy. Tuổi trung niên đã có những bước thăng trầm trong cuộc sống, có những thành công, có những thất bại trong cuộc sống vật chất, cuộc sống tình cảm đôi lứa.

Ngẫm lại thời gian trôi đi như thoi đưa, không biết bao giờ mới về với ngày xưa ơi, để rồi cùng ôn lại những kỷ niềm thời niên thiếu có buồn, vui, sướng , khổ, có điều ngây thơ, trong trắng chưa vương vấn bụi đường đời.

Đi qua rồi ngẫm lại mới thấy rằng kinh nghiệm cuộc sống đường đời sẽ mãi là những bài học mới cho tất cả chúng ta, dù ở địa vị nào, số phận nào đi chăng nữa. Sang hèn trong kiếp con người ta, không hơn thì cố gắng bằng người, để trong thiên hạ dù là gay đi chăng nữa không để người ta cười người ta khinh. Các bậc tiền bối dạy đời bằng một quá trình đúc kết kinh nghiệm cuộc sống chắt lọc từ thực tế mà nên triết lý sống.

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại, gọi: 1900.6162

>> Xem thêm: Lời dạy của đức Khổng Tử - Giá trị cốt lõi của đạo đức

LỜI DẠY CỦA ĐỨC KHỔNG TỬ

[Đọc hết mới là kẻ trọng đạo lý, hiểu hết mới mong có nhân cách hơn người]

Hình hài của mẹ của cha

Trí khôn đời dạy, đói no tự mình

Sang hèn trong kiếp nhân sinh

Buồn vui sướng khổ thường tình thế thôi

Không hơn hãy cố gắng bằng người

Cho thiên hạ khỏi ai cười ai khinh

Có chí thì ham học

>> Xem thêm: Những ưu điểm trong tư tưởng quản lý của Khổng Tử?

Bất chí thì ham chơi

Trí khôn tạo nên người

Đức nhân tìm ra bạn

Thành đạt nhờ đức dày

Làm nên nhờ có thầy

Đủ đầy nhờ có bạn

Gái ngoan nhờ đức hạnh

Trai mạnh nhờ lực cường

Tươi đẹp lắm người thương

Lực cường nhiều kẻ mạnh

>> Xem thêm: Một số đặc điểm về nội dung tư tưởng quản lý của Khổng Tử?

Dễ thích nghi thì sống

Biết năng động thì nên

Đủ tài trí làm nên

Đủ sức bền thì thắng

Biết mình khi hoạn nạn

Hiểu bạn lúc gian nguy

Nghèo hèn bởi tự ti

Ngu si vì tự phụ

Tài đức cao hơn phú

Hạnh phúc đủ hơn giàu

Sống trung tín bền lâu

Tình nghĩa sâu hạnh phúc

Đủ tài thì đỡ cực

Đủ sức thì đỡ nghèo

Dốt nát hay làm theo

Hiểu biết nhiều thì lợi

Hỏng việc thì hấp tấp

Va vấp bởi vội vàng

Cảnh giác với lời khen

Bình tâm nghe lời trách

Quá nghiêm thì ít bạn

Dễ dãi bạn khinh nhờn

Không hứa hão là khôn

Không tin xằng ít vạ

Làm ơn đừng mong trả

Được ơn nhớ đừng quên

Nhu nhược bị ép trèn

Quá cương thì bị gãy

Cái quý thì khó thấy

Dễ lấy thường của tồi

Của rẻ là của ôi

Dùng người tội sinh vạ

Đẹp lòng hơn tốt mã

Nền nã hơn kiêu kì

Thận trọng từng bước đi

Xét suy khi hành động

Hiểu biết nhiều dễ sống

Luôn chủ động dễ thành

Thận trọng trước lợi danh

Giữ mình đừng buông thả

Tránh xa phường trí trá

Tai vạ bởi nể nang

Tài giỏi chớ khoe khoang

Giàu sang đừng kênh kiệu

Học bao nhiêu vẫn thiếu

Học bao nhiêu chẳng thừa

Nhân đức chớ bán mua

Được thua không nản trí

Đủ đức tài bớt lụy

Đủ dũng khí chẳng hàng

Có vợ đảm thì sang

Có bạn vàng thì quý

Đói nghèo vì bệnh sĩ

Quẫn trí dễ làm liều

Tỉnh táo với tình yêu

Biết điều khi yếu thế

Lo việc nhà chớ kể

Ân nghĩa chớ đếm đong

Người phúc lộc nhờ nguồn

Sống bất nghĩa tai ương

Sống bất lương tù ngục

Phải cầu xin là nhục

Phải khuất phục là hèn

Hay đố kị nhỏ nhen

Hay ép trèn độc ác

Lắm gian truân càng sáng

Nhiều hoạn nạn càng tinh

Với mình phải nghiêm minh

Với chúng sinh thân ái

Đang thắng phòng khi bại

Gặt hái phòng mất mùa

Thói quen thường khó chừa

Say sưa thường khó tỉnh

Sống ỉ lại ăn sẵn

Dễ bạc phân tán mình

Sống dựa dẫm ngu đần

Sống bất cần phá sản

Hay đua đòi hoạn nạn

Quá nể bạn tai ương

Gia đình trọng yêu thương

Sống nhịn nhường hỉ hả

Thiếu tình thương man trá

Gắn vàng đá cũng tan

Biết dạy dỗ con ngoan

Chịu bảo ban con giỏi

Tinh khôn nhờ học hỏi

Cứng cỏi nhờ luyện rèn

Sống vì nhau dễ bền

Sống vì tiền đổ vỡ

Rèn con từ mới nở

Khuyên vợ lúc mới về

Muốn hiểu cần lắng nghe

Khốn nạn quên mẹ cha

Tốt đẹp hãy bày ra

Xấu xa nên đậy lại

Có ích thì tồn tại

Có hại thì diệt vong

Nhiều tham vọng long đong

Lắm ước mong lận đận

Hay vội vàng hối hận

Quá cẩn thận lỗi thời

Biết được người là sáng

Hiểu được bạn là khôn

Khiêm tốn là tự tôn

Kiêu căng là tự sát

Hứa trước thì khó đạt

Hèn nhát thì khó thành

Thù hận bởi lợi danh

Tranh giành vì chức vị

Giàu sang hay đố kị

Tài trí sinh ghét ghen

Tham giàu thì cuồng điên

Tham quyền thì độc ác

Vì tiền thì dễ bạc

Vì tình nghĩa bền lâu

Người hiểu nói trọn câu

Người dốt tâu phách lối

Có quyền thì hám lợi

Có tội thường xum xoe

Khờ dại hay bị lừa

Nó bừa hay vạ miệng

Đa ngôn thì tai tiếng

Ngậm miệng dễ được tin

Hám lợi hay cầu xin

Hám quyền hay xu nịnh

Thật thà hay oan trái

Thẳng thắn hay bị hại

Thông thái hay bị ngờ

Chiều con quá con hư

Tiền của dư con hỏng

Giàu mạnh thường thao túng

Nghèo vụng dễ theo đuôi

Người tài giỏi khó chơi

Kẻ trây lười khó bảo

Thành tâm thì đắc đạo

Mạnh bạo việc dễ thành

Quân tử thì trọng danh

Tiểu nhân thì trọng lợi

Bất tài hay đòi hỏi

Lộc lõi khó khiêm nhường

Tình nghĩa thường khó quên

Nợ nhân duyên khó trả

Khó thuần phục kẻ sĩ

Khó phòng bị tướng tài

Biết chấp nhận thảnh thơi

Hay hận đời đau khổ

Của quý thì khó giữ

Con cầu tự khó nuôi

Nhà dư của hiếm hoi

Nhà lắm người bạc cạn

Khó gần người quá sạch

Vắng khách tại quá nghèo

Dễ nổi danh kị hiền

Dễ kiếm tiền khó giữ

Kiếp người là duyên nợ

Lành vỡ lẽ thường tình

Bại thành từ lực trí

Thời gian đừng uổng phí

Thời cơ chớ bỏ qua

Biết suy nghĩ sâu xa

Vững vàng khi thành bại

Cần học và hành mãi

Sẽ gặt hái thành công

Công ty luật Minh Khuê [sưu tầm & biên tập]

2. Pháp luật và đạo đức

Một cháu bé 3 tuổi bị bảo mẫu hành hạ một cách dã man. Một đêm hội từ thiện của người đẹp và doanh nhân hướng về đồng bào đang nhọc nhằn vật lộn sau cơn lũ dữ biến thành trò đùa vô lương tâm của những kẻ háo danh. Một chủ doanh nghiệp pha nước lã vào xăng bán cho thượng đế… Những vụ việc diễn ra trong thời gian qua đã làm đau lòng tất cả những người có lương tri.

Những hành vi thiếu nhân văn không chỉ là vấn đề nhức nhối về đạo đức. Vi phạm pháp luật chắc chắn sẽ bị trừng phạt thích đáng. Những hành vi đáng lên án nêu trên diễn ra ngày càng nhiều hơn đang cứa vào lòng xã hội ta và buộc mỗi người phải suy nghĩ về trách nhiệm xã hội, trách nhiệm cộng đồng và lớn hơn thế nữa.

Dù có chua chát cũng phải thấy rằng các hiện tượng nêu trên không hề ngẫu nhiên mà là hệ quả của một môi trường xã hội đang có nhiều vấn đề mà ở đó không ít người đã đánh mất nét đẹp đã được đúc kết từ ngàn đời, xúc phạm cốt cách Việt Nam. Cốt cách Việt Nam là những giá trị đạo đức phổ biến được xã hội thừa nhận với những nội dung cụ thể về lòng yêu nước, cái thiện, lương tâm, trách nhiệm... Qua bao tháng năm, các thế hệ người Việt đã sống với tinh thần "thương người như thể thương thân", "nhiễu điều phủ lấy giá gương", "chị ngã em nâng"... Nhưng giờ đây, một bộ phận người Việt không còn tôn trọng những nguyên tắc cao đẹp đó.

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162

Điều này rất đáng để mỗi người chúng ta suy nghĩ.

Nhiều người cho rằng trong nền kinh tế thị trường, đời sống kinh tế - xã hội có nhiều biến đổi tích cực, song cũng nảy sinh không ít những tiêu cực. Kinh tế thị trường với quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... ở một khía cạnh nào đó đã khuyến khích lối sống thực dụng, coi trọng giá trị vật chất, lợi ích cá nhân mà coi nhẹ giá trị tinh thần, lợi ích cộng đồng. Cũng có người viện dẫn những hành vi đáng bị lên án trên được hình thành cùng với sự xuống cấp của hệ thống giáo dục… Và có quá lời hay không khi có người cho rằng đó là biểu hiện của sự xuống cấp về trách nhiệm cộng đồng, ý thức xã hội?

Dù nói gì đi nữa thì cốt lõi ở đây vẫn là pháp luật và đạo đức, bởi đó chính là nền tảng vận hành của xã hội. Theo nhiều nhà nghiên cứu, đạo đức và pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Một xã hội có nền tảng đạo đức tốt sẽ là cơ sở để pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và tự giác. Mặt khác, pháp luật nghiêm sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc giữ gìn, phát triển nền đạo đức xã hội tốt đẹp. Viện dẫn điều này để có thể thấy rằng pháp luật chưa nghiêm, kỷ cương xã hội còn bị buông lỏng, tình nghĩa đồng bào bị xem nhẹ tất yếu sẽ tiếp tục phát sinh lối sống tha hóa và những hành vi vô nhân tính.

Như vậy, có thể thấy, những hành vi đáng lên án đã kể trên là hệ lụy của một quá trình chuyển biến xã hội mà ở đó có không ít người coi thường pháp luật, coi thường những giá trị đạo đức truyền thống…

Như vậy và cũng vì vậy, hơn lúc nào hết, người Việt cần phải chung tay gây dựng và bồi đắp cho một hệ thống luật pháp cũng như việc áp dụng pháp luật nghiêm minh, một tinh thần cộng đồng bền vững. Đây chính là nền tảng, điểm tựa để tẩy trừ, loại bỏ những hành động bất lương khỏi đời sống xã hội.

Công ty luật Minh Khuê [sưu tầm]

3. Suy nghĩ bước đầu về đặc trưng và vai trò của đạo đức tôn giáo

Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Cơ chế kinh tế mới đã thực sự kích thích tính năng động, sáng tạo và khơi dậy tiềm năng của con người. Những thành tựu về nhiều mặt, nhất là sự phát triển kinh tế trong những năm qua là một minh chứng đầy sức thuyết phục về tính hiệu quả của cơ chế mới.

Tuy nhiên, trong xã hội đã nảy sinh, đang tồn tại và có xu hướng phát triển những hiện tượng suy thoái về đạo đức và nhân cách con người. Hiện tượng suy thoái đạo đức không chỉ diễn ra trên bình diện xã hội mà cả trong tổ chức đảng và cơ quan công quyền. Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực… Thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi…"[1] . Đó là nguy cơ lớn đối với sự sống còn của Đảng và chế độ ta.

Làm sao để ngăn chặn một cách hiệu quả sự suy thoái đạo đức đang có xu hướng gia tăng hiện nay? Điều này cần có sự nỗ lực của nhiều người, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực; trong đó không thể bỏ qua vai trò của đạo đức tôn giáo. Đảng ta cũng thừa nhận rằng, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp trong công cuộc xây dựng xã hội mới.

Đạo đức tôn giáo luôn gắn với đạo đức xã hội và chịu ảnh hưởng của đạo đức xã hội. Tuy nhiên, đạo đức tôn giáo lại có tính đặc thù. Điều này biểu hiện ở chỗ:

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162

Một là, tôn giáo phản ánh khát vọng về hạnh phúc của con người.

Trong lịch sử nhân loại đã từng tồn tại những quan niệm khác nhau về hạnh phúc. Người vô thần quan niệm hạnh phúc khác người hữu thần; người lao động quan niệm hạnh phúc khác giai cấp bóc lột; kẻ đi xâm lược quan niệm hạnh phúc khác với người nô lệ; người già quan niệm hạnh phúc khác với người trẻ… Mỗi cá thể, mỗi cộng đồng người ở từng quốc gia, dân tộc cũng có quan niệm khác nhau về hạnh phúc.

Hạnh phúc là một trong những phạm trù cơ bản của đạo đức học, là mối quan tâm lớn, là mục đích của con người. Nó bắt nguồn và tồn tại trong cuộc sống hiện thực như những cảm nhận, phân tích, đánh giá có tác dụng mạnh mẽ đến ý nghĩa, hành vi, quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với xã hội[2], đồng thời hạnh phúc gắn liền với tự do. Đạo đức xã hội xã hội chủ nghĩa là phải kiến tạo được môi trường, trong đó mọi người sống hạnh phúc và tự do. Tự do của mỗi người không hạn chế hoặc thủ tiêu tự do của người khác; ngược lại, tự do của mỗi người tạo điều kiện phát triển tự do của mọi người, một xã hội thực sự mình vì mọi người và mọi người vì mình. Lịch sử quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những thập niên qua ngày càng cho thấy tính phức tạp, lâu dài của việc kiến tạo hạnh phúc ở cuộc sống trần thế.

Trên thực tế, chẳng ai có thể đạt được hạnh phúc tuyệt đỉnh như mơ ước của tín đồ Kitô giáo và Phật giáo về xã hội ở Thiên đường hoặc cõi Niết bàn xa xôi nào đấy.

Khi bàn về hạnh phúc, các nhà thần học Công giáo chia mức độ hạnh phúc làm hai loại: hạnh phúc tương đối là cảm giác của con người về việc thỏa mãn nhu cầu cụ thể ở cuộc sống trần gian; còn hạnh phúc tuyệt đối là hạnh phúc tuyệt hảo, hoàn thiện, tột đỉnh, vĩnh hằng. Hạnh phúc tuyệt đối chỉ có ở Thiên đường, ở nước Chúa ngàn năm. "Nước Đức Chúa Trời" được mô tả là nơi yên lành, vô lo, chẳng có cướp bóc và nô lệ, chẳng có khổ đau, bệnh tật và chết chóc; nghĩa là ở "nơi ấy", con người được mãn nguyện và hạnh phúc hoàn toàn trong việc hưởng thụ trọn vẹn tình thương yêu của Chúa.

Phật giáo quan niệm khi con người được giải thoát và đạt sự giác ngộ cao sẽ tới Niết bàn – nơi hạnh phúc siêu việt, đồng thời khuyên tín đồ lấy "một đời sống đạo đức là một đời sống hạnh phúc"[3]. Phật giáo quan niệm hạnh phúc trước hết là đoạn tuyệt với "tham, sân, si" để an tâm, thư thái, để yên tĩnh về tâm hồn và sau khi chết, con người được hưởng hạnh phúc tuyệt đối ở cõi Tây phương cực lạc.

Phật giáo Đại thừa có nói về một số Tịnh thổ nổi tiếng, như Tịnh thổ Di Lặc, Tịnh thổ Linh Sơn, Tịnh thổ Như lai, Tịnh thổ A Di Đà Phật… Thế giới Tây phương cực lạc là Tịnh thổ A Di Đà Phật. Trong thế giới cực lạc ấy, đâu đâu người ta cũng thấy Phật và Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Mọi thứ đều quý giá và thanh cao. Mọi người ở đấy đều có trí tuệ cao siêu, dung mạo đoan trang, thái độ cởi mở, chỉ có vui vẻ mà không bao giờ có khổ đau, phiền não, bất công và hận thù.

Dù được mô tả có đôi chút khác nhau, song, Thiên đường của Công giáo hay Niết bàn của Phật giáo vẫn có điểm chung, đó là "một thế giới hoàn mỹ”, nơi đạt đến tuyệt đỉnh của niềm ước mơ, khát vọng về hạnh phúc của con người. Tuy tôn giáo chỉ là "hạnh phúc hư ảo của nhân dân", nhưng không ít người vẫn cảm thấy "hạnh phúc" khi chưa có hạnh phúc thực sự; tuy tôn giáo là "mặt trời ảo tưởng", là “trái tim của thế giới không có trái tim”, nhưng chừng nào mà khát vọng nơi trần tục không được thỏa mãn thì dường như nó vẫn là một động lực kích thích con người vươn tới. Thực ra, Thiên đường, Niết bàn mang nặng ý nghĩa nhân sinh, thể hiện khát vọng của con người vươn tới hạnh phúc vĩnh hằng. Vì thế, đó vẫn là nhu cầu tinh thần của đồng bào có tôn giáo. Chính sự nỗ lực không ngừng phấn đấu để đến với cái "xã hội lý tưởng” ấy đã góp phần không nhỏ cho con người trút bỏ tội lỗi, giã từ cái ác để vươn tới cái thiện.

Hai là, tôn giáo hướng con người tới hành vi làm thiện, tránh ác.

Thiện, ác là hai phạm trù xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân loại và trở thành phạm trù phổ biến trong đạo đức của mọi thời kỳ lịch sử. Thiện, ác là cặp phạm trù đối lập, đồng thời cũng là hai phạm trù cơ bản có quan hệ chặt chẽ trong đạo đức xã hội và đạo đức tôn giáo. Tuy nhiên, thiện, ác trong tôn giáo có điểm tương đồng, nhưng cũng có sự khác biệt với thiện, ác thế tục ở mức độ nhất định. Cùng là vấn đề thiện, ác, nhưng trong tôn giáo, chúng được đề cao, cường điệu và thiêng hóa bằng giáo lý, giáo luật, tín điều để mọi người tuân thủ một cách nghiệm ngặt dưới sức mạnh của thần quyền.

Trong đạo đức tôn giáo và đạo đức xã hội thì thiện, ác vẫn là hai phạm trù trung tâm và trọng yếu nhất. Nhưng, vấn đề thiện, ác trong đạo đức tôn giáo được gắn chặt với hậu quả của hành vi hành xử của tín đồ và do có sự thưởng phạt "nghiêm minh" bởi các đấng siêu nhiên, nên tính giáo dục và khả năng răn đe của nó đạt hiệu quả rất cao.

Nhiều học thuyết cho rằng, con người vốn mang tính thiện, cái ác thật sự chỉ xuất hiện cùng với sự hình thành các cộng đồng người và phát triển trong xã hội có sự phân hóa giai cấp, khi mà trong xã hội tồn tại những lợi ích đối lập nhau. Cho đến nay, thiện và ác vẫn song hành như hai mặt ở trong từng con người. Tuy nhiên, từ dân tộc nọ đến dân tộc kia, từ thời kỳ này sang thời kỳ khác, những quan niệm về thiện, ác đã biến đổi rất nhiều thậm chí đến mức trái ngược nhau.

Theo quan niệm của Khổng giáo, bản tính con người là có tính thiện: "nhân chi sơ tính bản thiện". Thần học của Kitô giáo quan niệm, con người toàn thiện không phải do tu tập, mà là "sánh bước cùng Thiên Chúa". Đạo Công giáo cho Chúa là cái thiện toàn năng, tức Chúa là mẫu hình lý tưởng, là nguồn gốc của cái thiện. Từ quan niệm về cái thiện, Kinh thánh đề cập đến nhân đức, đó là hành vi và biểu hiện cụ thể của cái thiện. Khi cái thiện nhường chỗ cho cái ác, là lúc con người không còn chế ngự được dục vọng, không làm chủ được mình tất sẽ dẫn đến sống buông thả để cho cái ác xuất hiện, tội lỗi hoành hành, nhân cách bị lu mờ. Cái ác vốn có nguồn gốc từ quỷ dữ là kẻ thù của cái thiện, cũng là địch thủ của Thiên Chúa và mọi tín đồ. Cái ác xuất hiện trên trần thế là sự kết hợp giữa quỷ dữ và tật xấu của con người. Kinh thánh cho rằng, con người có các tật xấu cơ bản, đó là: kiêu ngạo, dâm ô, hờn giận, ăn uống quá độ, ghen ghét, lười biếng… Công giáo răn dạy tín đồ làm lành, tránh ác là noi gương Chúa. Sự ban thưởng và trừng phạt đối với ai làm thiện hoặc mắc ác: "Ai làm việc thiện sẽ sống lại để được sống. Còn ai làm điều ác sẽ sống lại để nhận án phạt" có tác dụng lớn đối với việc giáo dục tính hướng thiện ở con người. Thiên đường của Kitô giáo, Hồi giáo và Niết bàn của Phật giáo cũng như Địa ngục có tác dụng khuyến thiện, trừ ác đối với các tín đồ.

Phật giáo rất chú ý giáo hóa chúng sinh bằng "Ngũ giới", "Thập thiện". Đó chính là nhằm gạt bỏ điều ác, khuyến khích làm điều thiện. Phật giáo quan niệm "thiện" không chỉ là chuẩn mực đạo đức cần có, mà còn là phương tiện để giải thoát.

Trái ngược với Thiên đường và Niết bàn là Địa ngục mà các tôn giáo đều nói đến. Đạo Kitô coi Địa ngục là nơi ở của những người chết mà trước đó không tin đạo và phạm nhiều tội ác. Đạo Phật coi Địa ngục là cõi khổ, là nơi đày đoạ các chúng sinh khi sống có nhiều tội ác. Nhưng đạo Phật coi cuộc sống ở Địa ngục không phải là vĩnh viễn. Theo luật luân hồi, nghiệp báo, những kẻ trả hết nợ của tội ác do mình gây nên sẽ được tái sinh ở kiếp sống khác tốt đẹp hơn, trong đó có kiếp người. Phật giáo quan niệm rằng, Địa ngục không phải chỉ có một mà có nhiều loại [sách Phật có ghi tới 136 loại Địa ngục]. Tuỳ theo tội nặng, nhẹ mà con người bị đầy xuống từng loại Địa ngục tương ứng với tội lỗi đã mắc theo luật nhân quả nghiệp báo. Các tín đồ Hồi giáo cho Địa ngục là nơi ghê rợn, ở đấy có lửa cháy đùng đùng, khói cuộn ngút ngàn. Những người bị đày xuống đó phải đeo gông xiềng, chịu đủ mọi cực hình tra tấn.

Thiên đường – Địa ngục là hai thế giới đối lập nhau do con người tưởng tượng nên nhằm thưởng công và phạt tội đối với những ai làm được điều thiện hoặc mắc tội ác. Dù là những thế giới không tưởng, nhưng không ít người đã tin vào cái thế giới mà tôn giáo tưởng tượng ra và trên giác độ đạo đức học, thì những "thế giới" ấy có giá trị trừ ác, hướng thiện hữu hiệu để bổ sung cho luật pháp mà nhiều thể chế chính trị đã nhận ra.

Ba là, tôn giáo nhấn mạnh đức khoan dung, lòng vị tha và thương người.

Sự nhẫn nhục, chịu đựng cũng là một biểu hiện của đức khoan dung trong đạo đức tôn giáo. Khoan dung là thái độ nhân nhượng, hiếu hòa, tôn trọng với những gì khác ta. Chính vì thế mà ở Việt Nam và Trung Quốc đã hình thành và tồn tại cái gọi là Tam giáo [Nho – Phật – Lão]. Một trong 14 điều răn của kinh Phật đối với tín đồ là "Lễ vật lớn nhất của loài người là khoan dung"[4].

Trong đạo đức Kitô giáo, tình yêu thương được đề cập trên bốn phương diện: yêu Chúa, yêu thương mình, yêu thiên nhiên và yêu tha nhân. Trong đó, yêu thương Chúa là trên hết, yêu bản thân là thứ hai và yêu tha nhân là trọng tâm: "Hãy yêu mến Thiên Chúa trước hết, rồi đến bản thân ngươi, sau đó sẽ yêu thương người gần mình nhất như chính bản thân mình… Bởi vì nếu không yêu bản thân mình thì làm sao ngươi có thể yêu thương người gần mình một cách chân thực"[5]. Ngoài con người ra, Kitô giáo còn nhắc tín đồ phải yêu thiên nhiên. Thiên nhiên cũng là tạo vật của Chúa và vì vậy, yêu Chúa không thể không yêu tạo vật của Chúa. Tha nhân được hiểu không chỉ là những người đồng đạo, mà còn là con người nói chung, không phân biệt chủng tộc, giai cấp, giới tính, năng lực, trình độ, cá tính, thiện ác, thậm chí cả kẻ thù.

Cả kinh Cựu ước và Tân ước đều đề cập đến giới răn, yêu thương người khác nhưng tính chất và mức độ lại không như nhau, thậm chí đôi chỗ còn trái ngược nhau.

Lòng vị tha, bác ái trong các tôn giáo có nét nổi bật là ít vụ lợi, khước từ sự trả ơn, đáp nghĩa. Đó cũng là đặc trưng của đạo đức tôn giáo. Vị tha là vì người khác, nó đối lập với vị kỷ [tức là sống cho mình và vì mình]. Tinh thần vị tha là thương yêu người khác một cách chân thành, hết mình với thái độ vô tư, vì động cơ đức ái, nên tình thương có tính tự giác cao. Phật dạy con người phải sống vị tha, sống để đi tìm hạnh phúc cho người khác chứ không phải chỉ lo hạnh phúc cho riêng mình. Từ vị tha mà đến thương người và chính thương người mới là vị tha.

Phật giáo nêu cao triết lý sống "thương người như thể thương thân" qua hành động “từ bi”. Điều này có tác dụng giáo dục con người hành thiện, với biểu hiện "lá lành đùm lá rách" khi có thiện tai, bất hạnh trong cộng đồng. Theo nhà Phật, "từ bi" là tình thương yêu không giới hạn, vô bờ bến. Tình thương con người mà tôn giáo đề cập không phải chung chung, mà khá cụ thể, thiết thực. Tôn giáo đòi hỏi các tín đồ của mình có hành động cụ thể, như cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách mặc, chăm lo người ốm đau, bệnh hoạn, chăm sóc người già nua, đối xử tốt với kẻ dưới, tha thứ kẻ tội lỗi, khuyên can người lầm lạc, bảo ban kẻ dốt nát… luôn đặt mỗi con người trong tình thương yêu đồng loại. Kitô giáo đòi hỏi mỗi tín đồ phải có một tình thương yêu con người một cách chân thành, trong sáng và thiết thực: "Anh chị em đừng thương yêu nhau bằng lời nói xuông, bằng miệng lưỡi bên ngoài, phải thương yêu một cách chân thực và bằng việc làm"[6]. Còn Phật giáo coi cứu một người phúc đẳng hà sa và "Cứu một mạng người còn hơn xây bảy tháp phù đồ" hay khuyên tín đồ hãy phấn đấu vì an lạc cho Chư thiên và cho loài người.

Bốn là, tôn giáo đưa ra những chuẩn mực giá trị ràng buộc cuộc sống gia đình

Trong xã hội, gia đình được coi là cộng đồng đầu tiên, là tế bào tạo của xã hội loài người. Gia đình có vai trò quan trọng trong việc định hướng phẩm chất đạo đức của con người. Khổng giáo quan niệm có "tề gia" mới cai trị được đất nước [trị quốc], và có đủ hai tiêu chuẩn ấy mới có thể "bình thiên hạ" được. Kitô giáo rất quan tâm tới gia đình và coi đền thờ tại gia là nơi chuyển giao đức tin của tiền nhân, vun trồng các truyền thống tôn giáo, dâng lời cầu nguyện chung lên Thiên Chúa và diễn tả các niềm tin tôn giáo trong cuộc sống hàng ngày. Khổng giáo, Kitô giáo đều rất chú ý tới những chuẩn mực đạo đức trong gia đình theo các mối quan hệ chủ yếu: quan hệ giữa cha mẹ với con cái, giữa vợ với chồng.

Người cha được công nhận là gia trưởng, là chủ và là hiện thân của toàn gia đình. Người cha có uy quyền trong việc giáo dục con cháu, được coi là cội nguồn của một tông đường và là sợi dây nối kết một dòng tộc, góp phần duy trì chủng tộc. Nếu ai chết mà không có con nối dõi, người ta coi như đã bị Thiên Chúa phạt, còn Khổng giáo coi là tội "bất hiếu". Còn người mẹ được gọi là "Mẹ của sự sống". Thiên Chúa đã tạo dựng nên sự sống con người, gồm có cha và mẹ, nếu không có cha mẹ thì không có con cái và tất yếu, thiếu họ thì không thể có con dân Thiên Chúa được. Như vậy, nếu tôn trọng Đấng tạo hoá thì con người phải biết tôn kính cha mẹ. Thiên Chúa muốn đặt cha mẹ bên cạnh Thiên Chúa trong việc hành xử của con, nhưng so với Thiên Chúa thì cha mẹ chỉ đứng ở hàng thứ yếu. Điều đó không phải hạ thấp vai trò của cha mẹ, mà chỉ là để làm nổi bật tính duy nhất vô nhị của Chúa. Điều răn thứ tư trong bảng thập giới quy định con người: "Hãy thảo kính cha mẹ để ngày đời của các ngươi được dài trên Đức Chúa"[7]. Chính Giêsu đã nêu gương về sự tôn kính với cha mình, mặc dù cha là người thợ mộc, còn mẹ là người phụ nữ bình dân. Thảo kính cha mẹ còn thể hiện ở sự vâng phục. Vâng phục cha mẹ là chấp nhận trật tự, đẳng cấp của thụ tạo. Kitô giáo còn đưa ra hình thức chế tài trong việc thực hiện giới răn thứ tư: "Ai thảo kính cha mẹ sẽ được phần thưởng là được sống lâu và hạnh phúc trên cõi trần thế"; ngược lại, "Ai cười nhạo cha và không tuân phục mẹ theo bổn phận, kẻ ấy sẽ bị quạ mổ xác bên suối và chim kền kền xé thịt".

Trong thập giới có điều 6 và điều 9 ngăn cấm các hành vi tội lỗi trong quan hệ vợ chồng nhằm góp phần bảo vệ hôn nhân. Công đồng Vatican 2 đã ca ngợi những vợ chồng: "Dựa vào suy tính khôn ngoan với một lòng quảng đại hào hiệp đã chấp nhận nuôi dạy tốt trong một gia đình". Kitô giáo ca ngợi hôn nhân một vợ một chồng và hôn nhân bất khả ly: "Điều gì Thiên Chúa đã phối hợp thì loài người không được phân ly"[8].

Đạo đức tôn giáo mang trong nó tính "thiêng", có phần "hư ảo" nên có những điểm khác với đạo đức thế tục. Nhưng chính điều đó là đặc trưng của đạo đức tôn giáo và đã làm cho không ít người tiếp nhận giá trị đạo đức thế tục dễ dàng và thể hiện ở những hành vi cụ thể trong thế giới hiện tồn hơn. Đạo đức tôn giáo đã góp phần làm lành mạnh hóa quan hệ giữa con người với con người và với tự nhiên. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa đạo đức tôn giáo chỉ có tính tích cực mà không có tính tiêu cực và cũng không nên quên rằng, vẫn còn hiện tượng phi đạo đức, phản văn hóa nảy sinh từ tôn giáo.

Công ty luật Minh Khuê [sưu tầm]

4. Quyền lợi thương mại và đạo đức khoa học

Thương mại hóa giáo dục không chỉ đơn thuần là một quá trình liên quan đến việc tổ chức và điều hành trường đại học, mà đôi khi còn mang tính biểu tượng. Trước đây, ở các đại học Úc và Anh, hiệu trưởng được gọi là “Vice Chancellor”, một chức danh xuất phát từ thời trung cổ ở Anh. Nhưng khi thương mại hóa xâm lấn đến đại học, người ta bắt đầu gắn thêm một chức danh khác: “President” [chủ tịch], bên cạnh Vice Chancellor.

Ði xa hơn biểu tượng một bước là quan niệm. Có người dựa trên nguyên lí kinh tế để lí giải rằng giáo dục là phương tiện để đạt được mục đích. Vì là phương tyện, nên giáo dục có thể là một dịch vụ, và do đó có kẻ bán và người mua. Ở nước ngoài, có thời người ta còn đề nghị gọi sinh viên là “customer” [khách hàng] và thầy cô trong đại học là “service provider” [người cung cấp dịch vụ]. Thời đại nhiễu nhương đến nỗi có người xem giáo sư chỉ là người cung cấp dịch vụ! Có giáo sư [hình như là từ trường MIT] mỉa mai nói rằng, những kinh tế gia hình như họ sử dụng trí thông minh không đúng chỗ hay là tế bào trí tuệ của họ có vấn đề rối loạn chromosome.

Các trường đại học phương Tây thường thực hiện cuộc thăm dò ý kiến của sinh viên và giáo sư. Kết quả thăm dò cho thấy sinh viên nhất định không chịu gọi là “khách hàng” và giáo sư lại càng không chịu khi gọi họ là người cung cấp dịch vụ. Thế là mấy cụm từ “khách hàng” và “người cung cấp dịch vụ” bị loại bỏ khỏi ngữ vựng giáo dục đại học.

Giáo dục là một lĩnh vực rất đặc thù trong xã hội, một lĩnh vực rất khác với thương mại và các cơ sở công quyền. Ðại học là những trung tâm khoa học và văn hóa của một quốc gia, là nơi để khám phá khoa học, quảng bá văn hóa, và phản biện xã hội. Vai trò của người thầy hay cô không phải là người bán hàng ở siêu thị, hay là người làm hài lòng khách hàng; trong giáo dục đại học, vai trò của thầy/cô là thách thức và kích thích suy nghĩ của sinh viên, cung cấp những định hướng về nghiên cứu. Do đó, thước đo về thành công là sự trưởng thành về tri thức, chứ không phải là sự hài lòng của khách hàng.

Trên thế giới, các đại học tư phát triển mạnh. Ở Mĩ các đại học danh tiếng như Harvard, Yale, Stanford… và các viện nghiên cứu trứ danh như Howard Hughes Medical Instytute, Whitehead Instytute, Broad Instytute… đều thuộc tư nhân. Ở Nhật, Hàn Quốc, và Philipin, trên 80% sinh viên theo học tại các đại học tư. Nhưng đại đa số các trung tâm giáo dục và khoa học tư nhân bất vụ lợi [non-profit organizatyon], chứ không phải những trung tâm làm lời và chia chác lời cho các cổ đông.

Ở Mĩ, có lẽ chỉ có trường đại học Phoenix là trường có cổ phần và được liệt kê trên New York Stock Exchange. Trường này được thành lập vào năm 1976 do tập đoàn Apollo làm chủ, và nay có gần 400.000 sinh viên. Nhìn qua chương trình đào tạo của trường này, chúng ta dễ dàng thấy chương trình dạy rất hẹp và mang tính dạy nghề [vocatyonal training] hơn là hàn lâm như các đại học truyền thống, họ cũng không quan tâm đến nghiên cứu khoa học – một lĩnh vực hoạt động không thể thiếu của một trường đại học chính qui. Chính vì thế mà có người [như Philip Altbach chẳng hạn] không ngần ngại gọi là các pseudo universityes [đại học dỏm].

Vấn đề đạo đức của việc thương mại hóa giáo dục đại học cũng đáng quan tâm, nhưng hình như những người đang lớn tiếng chủ trương thương mại hóa chưa nghĩ đến. Xin kể lại một câu chuyện thú vị nhưng tiêu biểu về trường hợp của giáo sư y khoa Nancy Olivieri thuộc ÐH Toronto [Canada]. GS.Olivieri nghiên cứu về một loại thuốc mới [deferiprone] dùng trong việc điều trị bệnh thalassaemia và công trình nghiên cứu được sự tài trợ của công ty Apotex. Trong thời gian nghiên cứu, GS. Olivieri phát hiện rằng, thuốc deferiprone chẳng những không có hiệu quả lâm sàng mà còn có thể gây tổn hại đến gan và tim cho trẻ em. GS. Olivieri thông báo cho công ty biết về phát hiện này, và đề nghị theo đúng qui định y đức, phải thông báo cho bệnh nhân biết sự thật. Nhưng trong vòng 72 giờ khi nhận được thông tin từ GS. Olivieri, công ty Apotex quyết định ngừng nghiên cứu, thu hồi tất cả thuốc trong bệnh viện, và đe dọa sẽ đưa GS. Olivieri ra tòa!

Ðiều đáng chú ý là ban giám hiệu Ðại học Toronto đứng về phía … công ty, bởi vì đơn giản đại học đang thương lượng để được tài trợ 25 triệu USD từ công ty này. Dưới áp lực của công ty, hiệu trưởng trường này còn đi xa hơn một bước là yêu cầu GS. Olivieri tạm nghỉ việc trong một thời gian! Nhưng GS. Olivieri nhất định đấu tranh cho đến cùng. Sau cùng thì sự thật vẫn thắng: bà chẳng những không nghỉ việc mà còn công bố phát hiện của mình cho thế giới biết.

Câu chuyện trên cho thấy thương mại hóa có thể dẫn đến những mâu thuẫn giữa quyền lợi thương mại và đạo đức khoa học. Ngay cả những người xem giáo dục là “hàng hóa” cũng phải thú nhận rằng, thương mại hóa đại học là một quá trình nguy hiểm và có nhiều rủi ro [xem Wayne Renke, The Corporate Campus: Commercializatyon and the Dangers toCanada’s Colleges and Universityes].

Ở nước ta, nhiều đại học thật ra chưa hẳn là đại học [hiểu theo nghĩa là một trung tâm văn hóa và khoa học và có nghiên cứu khoa học] mà chỉ là những trường dạy nghề, hay trung học cấp 4. Trong tình trạng này, các đại học chưa phải là môi trường lí tưởng để đầu tư kiếm lời.

Công ty luật Minh Khuê [sưu tầm]

5. Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản

Quyển "Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản" của Max Weber, đã được dịch ra trên 20 thứ tiếng, và cho đến nay có lẽ là quyển được đọc và thảo luận nhiều nhất trong ngành xã hội học. Tác phẩm này trở thành một tài liệu giáo khoa không thể thiếu trong các phân khoa học xã hội ở các đại học trên thế giới. Trong công trình này, Weber đi tìm nguồn gốc của sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản cận đại Âu châu nơi ethos và nền đạo đức khổ hạnh duy lý Tin Lành...

Giới thiệu về nội dung

Max Weber [tên đầy đủ là Maximilian Carl Emil Weber] [1864 - 1920], nhà xã hội học người Đức, là một trong số ít tác giả có tầm ảnh hưởng lớn lao trong ngành xã hội học, và được xem là một trong những ông tổ của ngành khoa học xã hội này, bên cạnh những tác giả tên tuổi như Karl Marx, E'mile durkheim,...

Một số luận điểm và công trình nghiên cứu của ông đã và vẫn còn tiếp tục là đề tài gây tranh luận trong giới học thuật, kể cả về phía những người ngưỡng mộ lẫn phía những kẻ phê phán. Kể từ khi có bản dịch đầu tiên sang tiếng Nga cho tới những bản dịch sang tiếng Nhật sau này, các công trình của ông đã không ngừng gây ảnh hưởng lớn lao tới các bước phát triển của ngành xã hội học ở hầu như tất cả các nước trên thế giới.

Quyển "Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản" [1904 - 1905] của Max Weber, đã được dịch ra trên 20 thứ tiếng, và cho đến nay có lẽ là quyển được đọc và thảo luận nhiều nhất trong ngành xã hội học. Tác phẩm này trở thành một tài liệu giáo khoa không thể thiếu trong các phân khoa học xã hội ở các đại học trên thế giới.

Trong công trình này, Weber đi tìm nguồn gốc của sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản cận đại Âu châu nơi ethos và nền đạo đức khổ hạnh duy lý Tin Lành. Luận điểm độc đáo của Weber một mặt đã phác hoạ một cái khung phương pháp luận nhằm tìm hiểu những động lực văn hoá - tinh thần vốn luôn luôn chi phối, thúc đẩy hoặc cản trở các quá trình biến đổi kinh tế - xã hội, nhưng mặt khác cũng gợi ra cho chúng ta nhiều câu hỏi bổ ích cần tiếp tục nghiên cứu và giải đáp trong bài toán phát triển ở từng "nền văn hoá", từng quốc gia trong thế giới hiện đại.

Đâu là nguồn gốc ra đời của chủ nghĩa tư bản cận đại ở Châu Âu? Thế nào là "tinh thần" của chủ nghĩa tư bản? Cần hiểu thế nào về mối quan hệ giữa kinh tế và văn hoá? Đấy chỉ là một vài trong số nhiều vấn nạn mà Max Weber cố gắng đưa ra lời lý giải trong công trình này.

------------------

Mục lục

Vài ghi chú của nhóm dịch giả
Những chữ viết tắt
Những chữ viết tắt các quyển Kinh Thánh mà Max Weber trích dẫn

Lời giới thiệu
Lời nhận xét mở đầu

Max Weber - Nền đạo đức tinh lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản

Phần I: Vấn đề

Chương 1: Tôn giáo và sự phân tầng xã hội
Chương 2: "Tinh thần" của chủ nghĩa tư bản
Chương 3: Khái niệm "Beruf" theo Luther. Các mục tiêu nghiên cứu

Phần II: Quan niệm đạo đức về nghề nghiệp trong đạo tin lành khổ hạnh

Chương 4: Các nền tảng tôn giáo của nền khổ hạnh tại thế
Chương 5: Nền khổ hạnh và tinh thần của chủ nghĩa tư bản
Các giáo phái tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản
Thư mục các công trình được Max Weber trích dẫn trong quyển sách này
Niên biểu tóm tắt cuộc đời và một số công trình chính của Max Weber

Tác phẩm của Max Weber
Thư mục chọn lọc một số công trình nghiên cứu về Max Weber

----------------------

Tinh thần kinh doanh [theo quan điểm của Weber]
Trần Hữu Quang, Thời báo kinh tế Sài Gòn


Để tìm hiểu khái niệm tinh thần kinh doanh, trước hết chúng ta cần trở lại với những tư tưởng độc đáo của Max Weber, nhà xã hội học Đức, người thường được coi là một trong những ông tổ của ngành xã hội học, khi ông viết về tinh thần của nhà kinh doanh để giải thích sự ra đời của xã hội tư bản chủ nghĩa.

Thoạt tiên, Weber nhấn mạnh rằng, trái ngược với quan niệm ngộ nhận thông thường, chủ nghĩa tư bản hoàn toàn không phải là hệ quả của ham muốn chiếm hữu hay ham muốn chạy theo tiền bạc, vốn là hiện tượng có thể bắt gặp ở bất cứ xã hội nào vào bất cứ thời đại nào. “Lòng hám lợi vô độ không hề giống chút nào với chủ nghĩa tư bản, và lại càng không mảy may liên quan gì tới tinh thần của nó”. Ngược lại, chủ nghĩa tư bản, theo Weber, “chính là sự chế ngự, hay chí ít là sự điều tiết bằng lý tính, cái bản năng phi lý tính ấy” [8].

Theo Weber, trên khắp thế giới ở đâu cũng có thương nhân, những người cho vay, những nhà kinh doanh trong chế độ thực dân, những ông chủ đồn điền sở hữu nô lệ, những kẻ đầu cơ, những “kẻ phiêu lưu tư bản chủ nghĩa”… Nhưng phần lớn hoạt động của những loại người này “đều mang tính chất thuần túy phi lý tính và đầu cơ, hoặc là thiên về cách chiếm hữu bằng bạo lực, nhất là chiếm đoạt chiến lợi phẩm thông qua chiến tranh, hay dưới hình thức chiến lợi phẩm tài chính, nghĩa là thông qua việc bóc lột những người bị trị” [8]. Theo Weber, đấy chỉ là những loại hình chủ nghĩa tư bản thương mại, chủ nghĩa tư bản hướng đến chiến tranh, hoặc là một thứ chủ nghĩa tư bản phiêu lưu mà thôi.

Weber cho rằng chủ nghĩa tư bản đúng nghĩa chỉ bắt đầu xuất hiện ở xã hội Âu châu thời cận đại. Ông định nghĩa “hành vi kinh tế tư bản chủ nghĩa” là “hành vi dựa trên hy vọng đạt được doanh lợi bằng cách tận dụng những cơ hội trao đổi, nghĩa là dựa trên những cơ may chiếm hữu một cách hòa bình [về mặt hình thức]”. Và ông định nghĩa chủ nghĩa tư bản chính là sự tồn tại và sự hoạt động của những doanh nghiệp mang mục đích làm ra lợi nhuận “luôn luôn tái sinh” và có lối tổ chức thuần lý đối với lao động và sản xuất [8]. Từ xưa tới nay, thương nhân nào cũng muốn kiếm lời tối đa qua mỗi vụ buôn bán. Nhưng nét đặc trưng của nhà kinh doanh tư bản chủ nghĩa không phải là đi tìm “lợi nhuận tối đa”, mà là ở chỗ ông ta luôn nung nấu ham muốn tích lũy không ngừng ngày càng nhiều, và do vậy mà ý chí sản xuất-kinh doanh của ông ta cũng trở nên không có giới hạn. Chính là sự kết hợp giữa ham muốn lợi nhuận với tính kỷ luật thuần lý và lối tổ chức sản xuất thuần lý mới tạo nên nét đặc trưng của chủ nghĩa tư bản Tây phương [1].

Ngoài việc nhìn nhận vai trò tác động quan trọng của những yếu tố như thị trường và kỹ thuật, Max Weber còn đặc biệt nhấn mạnh tới sự tồn tại hết sức cần thiết của một nền luật pháp và một bộ máy hành chính được xây dựng trên cơ sở thuần lý, vì chỉ có như vậy mới có thể hình thành được một nền kinh doanh hiện đại và một tinh thần kinh doanh lành mạnh. Ông viết: “Chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp thuần lý hiện đại đòi hỏi phải có sự tiên liệu có tính toán, không chỉ về mặt kỹ thuật sản xuất, mà cả về mặt luật pháp, cũng như một bộ máy hành chính với những quy tắc hình thức rõ ràng. Không có những yếu tố này, thì chắc chắn sẽ có thể nảy sinh thứ chủ nghĩa tư bản phiêu lưu và thương mại đầu cơ, cũng như đủ mọi loại chủ nghĩa tư bản chịu sự chi phối của chính trị, chứ không thể nảy sinh loại hình doanh nghiệp thuần lý được điều khiển bởi sự chủ động của cá nhân với một số vốn thường trực và sự tiên liệu vững chắc” [8].

Khái niệm “tinh thần của chủ nghĩa tư bản” [the spirit of capitalism] của Weber, theo nhà xã hội học Mỹ Talcott Parsons, không phải chỉ nói về sự chiếm hữu như nhiều tác giả thường lầm tưởng, mà trước hết và chủ yếu bao hàm tư duy lý tính [rationalism] - hiểu như là một tâm thế mở luôn hướng đến những cách giải quyết vấn đề mới, đối lập với óc thủ cựu [traditionalism]; và một thái độ tận tâm và chuyên cần đối với công việc vì chính công việc chứ không vì mục đích nào khác, thái độ mà Weber diễn giải trong một khái niệm mang ý nghĩa kép là “Beruf” [tiếng Đức, có nghĩa là nghề nghiệp-thiên chức, hay nghề nghiệp-bổn phận] [4]. Giả thuyết nổi tiếng của Weber là chính quan niệm đạo đức và tinh thần “khổ hạnh” [Askese] duy lý của đạo Tin lành đã tạo ra một tâm thế và một môi trường xã hội thuận lợi cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Con người có bổn phận lao động một cách cần cù và duy lý nhằm tạo ra doanh lợi và phải có một lối sống cần kiệm - đây chính là lối ứng xử cần thiết cho sự hình thành của nhà kinh doanh, bởi nó có nghĩa là phải lao động cật lực và không ngừng tái đầu tư số lợi nhuận mới được tạo ra nhằm có thể tiếp tục phát triển các phương tiện sản xuất [8].

. . . .

Tài liệu tham khảo:

[1] Raymond Aron, Les étapes de la pensée sociologique [1967], Paris, Gallimard, 1993.

[2] Peter Drucker, Innovation and Entrepreneurship [1985], New York, Harper&Row Publ., Perennial Library, 1986.

[3] Peter Drucker, The Effective Executive, HarperCollins, 1966.

[4] Talcott Parsons, “Introduction”, trong Max Weber: The Theory of Social and Economic Organization [1947], New York, The Free Press, 1964.

[5] Joseph Schumpeter, Théorie de l’évolution économique [1911].

[6] Joseph Schumpeter, Capitalisme, socialisme et démocratie [1942], Paris, Petite Bibliothèque Payot, 1963.

[7] Trần Văn Thọ, “Nếu không có tinh thần doanh nghiệp…” [bài thuyết trình do Công Thắng lược ghi], TBKTSG, 10-10-2002, tr. 34.

[8] Max Weber, Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản [1904-1905], bản dịch của Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng và Trần Hữu Quang, Nhà xuất bản Tri thức, tủ sách Tinh hoa tri thức thế giới.

Chủ nghĩa tư bản ra đời từ đâu?

K. Thức, Sài Gòn tiếp thị

Trong Lời nhận xét mở đầu cuốn Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản [1] viết năm 1919, Max Weber phản bác lại quan niệm ngộ nhận thông thường cho rằng chủ nghĩa tư bản hoàn toàn không phải là hệ quả của lòng hám lợi hay máu tham tiền vốn là những hiện tượng mà người ta có thể bắt gặp ở bất cứ xã hội nào vào bất cứ thời đại nào. Ông viết: “[…] Ham muốn ấy đã từng tồn tại và đang tồn tại nơi những người hầu bàn, bác sĩ, người xà ích, nghệ sĩ, người đàn bà lẳng lơ, viên chức tham ô nhũng lạm, người lính, kẻ trộm cắp, kẻ viễn chinh, cờ bạc, ăn mày. […] Lòng hám lợi vô độ không hề giống chút nào với chủ chủ nghĩa tư bản, và lại càng không mảy may liên quan gì tới tinh thần của nó”.

Ngược lại, chủ nghĩa tư bản, theo Weber, “chính là sự chế ngự, hay ít nhất cũng là sự điều tiết bằng lý tính, cái bản năng phi lý tính ấy”. Sự chế ngự và điều tiết ấy lại phù hợp với một số yếu tố của đạo Tin Lành, tạo ra được động cơ thuận lợi cho sự hình thành của chế độ tư bản chủ nghĩa trong xã hội phương Tây thời cận đại, chứ không ở bất cứ nơi nào khác.

Nền đạo đức Tin Lành mà Weber phân tích trong quyển sách nói trên chủ yếu là quan niệm giáo thuyết của phái Calvin. Theo đó, tín đồ không thể biết được là mình sẽ được cứu độ hay sẽ bị kết án, và đây là điều làm cho họ cảm thấy lo âu, khắc khoải. Để thoát ra khỏi nỗi lo âu này, do xu hướng tâm lý tự nhiên, họ sẽ đi tìm trong thế giới này những dấu hiệu chứng tỏ mình được chọn. Weber cho rằng chính vì thế mà một số tông chứng tỏ mình được Thiên Chúa chọn thông qua thành quả và sự nghiệp của mình trong thế gian, trong đó có sự thành công về mặt kinh tế. Do vậy cá nhân bị thúc đẩy đến chỗ phải cần cù làm việc để vượt qua nỗi khắc khoải là không biết mình có được cứu rỗi hay không. Weber viết: “[…] Để đạt tới sự tự tin này, cách thức thích hợp nhất được khuyến khích là “hãy làm việc không ngơi nghỉ trong một nghề” [rastlose Berufsarbeit].

Từ khái niệm Beruf mang ý nghĩa thiên chức của con người, Weber viết như sau: “Một trong các bộ phận cấu thành của tinh thần tư bản chủ nghĩa hiện đại, tức là lối sống thuần lý dựa trên ý tưởng Beruf, đã được phát sinh từ tinh thần của nền khổ hạnh Kitô giáo – đó chính là điều mà các trình bày của chúng tôi muốn chứng minh”.

Trong một công trình khác, Weber đã từng so sánh giáo thuyết Thanh giáo ở châu Âu với tư tưởng Nho giáo ở Trung Hoa: nhà Nho điển hình chi tiêu những khoản tiết kiệm của mình và của gia đình để đỗ đạt cao, ra làm quan, bảo đảm cho mình cơ sở xã hội của một cuộc sống giàu sang. Tín đồ Thanh giáo điển hình kiếm được nhiều tiền, tiêu xài ít, và do bị thúc bách phải tiết kiệm bởi tư tưởng khổ hạnh, nên tái đầu tư các khoản lợi nhuận của mình dưới hình thức tư bản vào các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa thuần lý. “Tư duy duy lý” Nho giáo hàm nghĩa là một sự thích nghi duy lý với thế gian; còn tư dư duy lý Thanh giáo là một sự làm chủ duy lý đối với thế gian.

Theo Weber, cả hai đều không thể làm nảy sinh được “tinh thần tư bản chủ nghĩa”.

Max Weber là một trong những ông tổ của ngành xã hội học. Cuốn sách trên viết vào những năm 1904 - 1905, đã được dịch ra trên 20 thứ tiếng và cho đến nay có lẽ là cuốn được đọc và thảo luận nhiều nhất trong ngành xã hội học.

Qua cuốn sách, người đọc sẽ thấy một cách kiến giải về nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản cận đại ở châu Âu, thế nào là tinh thần của chủ nghĩa tư bản, mối quan hệ giữa kinh tế và văn hoá, v.v.

[1] Bản dịch của Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng và Trần Hữu Quang, NXB Tri Thức, quý 1/2008.

Công ty luật Minh Khuê [sưu tầm & biên tập]

6. Lý do kinh tế và di hại đạo đức

Trong sự bê bối về giáo dục hiện thời, ai cũng thấy là lỗi trước tiên thuộc về những người quản lý và hoạch định chính sách. Nhưng chẳng nhẽ những người lên bục giảng vô can chăng? Vậy thì lỗi của các thầy ở đâu? Tại sao không người trong cuộc nào lên tiếng?

Do nghề nghiệp của mình tôi cũng có dịp làm quen với một số giáo sư, tiến sĩ, và có hiểu phần nào tâm trạng của họ. Dưới đây tôi thử trình bày một khía cạnh cụ thể dẫn tới sự hư hỏng của một số người trong đội ngũ những người dạy học thời nay. Cách làm của tôi là xác định vai trò của sự kiếm sống trong đời sống hàng ngày của mỗi người, kể cả các vị gọi là trí thức. Tức là thử trình bày giáo dục ở khía cạnh ý nghĩa kinh tế, và tạm bịa ra một thuật ngữ là kinh tế học tâm lý nhà giáo.

Từ nhiều năm nay, anh Ng. tôi quen thường xuyên phải làm việc hướng dẫn nghiên cứu sinh làm luận án tiến sĩ, bởi trong chuyên ngành nghiên cứu văn học, anh thuộc loại đầu đàn. Thời gian đầu, mỗi khi gặp nhau anh rất hay đả động tới chuyện này. Luôn luôn anh nhăn nhó và kể với tôi là các ông bà tiến sĩ tương lai ấy buồn cười lắm. Việc học ở ta, từ lớp dưới, vốn đã rất yếu nên sau mười mấy năm mài đũng quần trên ghế nhà trường, mang tiếng là đã xong đại học mà nhiều khi “chẳng hiểu nếp tẻ gì cả” [trong ngôn ngữ hàng ngày, Ng. thường thích thậm xưng một chút như vậy]. Nhưng họ muốn đạt tới bằng cấp bằng mọi giá. Thế là hình thành nên một nhu cầu mà những người như Ng. phải lấp đầy. Ng. làm mà vẫn ngại, vừa làm vừa chán chường. “Nhiều khi phải tự nhủ là mình đang làm những việc chả dây dưa gì đến văn chương thì mới dám tiếp tục” - anh Ng. có lần tâm sự.

Nhiều năm đã trôi qua, mọi chuyện hầu như không có gì thay đổi nếu không muốn nói cứ đuối dần đi nữa. Tôi hiểu như vậy, khi thấy dạo này Ng. ít nói tới chuyện đào tạo. Đáng lẽ phải im lặng mà chịu đựng thì chính tôi lại có lần máy mồm trở lại hỏi :

- Thế sao anh vẫn tiếp tục nhận hướng dẫn?

- Đây là việc nhà trường giao cho, từ chối sao tiện? Hàng năm từ trên bộ đã có chỉ tiêu là phải đào tạo từng này từng kia người.

- ...

- Với lại không mình hướng dẫn thì người khác hướng dẫn. Guồng máy chung nó chạy theo hướng nó, mình có đi ngược lại cũng vô ích.

Ng. không nói tiếp nhưng tôi dần hiểu. Và tôi chợt nhớ ra những lời đồn đại của mọi người chung quanh về khía cạnh chính của vấn đề. Là không vất vả như luyện thi, nhưng công tác đào tạo trên đại học bây giờ cũng “vớ” lắm, học viên càng ở các tỉnh xa hoặc loại kém cỏi không biết gì càng nộp những phong bì nặng cho thầy. Không ai công bố con số cụ thể bao nhiêu, song người ta vẫn nói giăng giăng với nhau cả chỗ riêng tư lẫn chỗ đông người. Thảo nào, chẳng cần tinh ý gì lắm cũng có thể nhận ra sự thay đổi rõ rệt của Ng. Từ chỗ chê ỉ chê eo, anh đã hồn nhiên nhập cuộc. Bao nhiêu tài năng và nghị lực vốn có được anh đem dồn tất cả cho cái mục đích cụ thể mà người ta đã cột anh vào. Anh mang lại cho nó những ý nghĩa bất ngờ. Anh say sưa. Anh mê mải. Giờ đây có ai trong đám bạn bè tâm huyết lảng vảng định nói tới công tác hướng dẫn luận án, anh không bắt lời nữa. Khi nói xa khi nói gần, anh gợi cho người ta cảm tưởng đây là chuyện mâm cơm nhà anh, và thiên hạ sẽ bất lịch sự, nếu cứ nhìn vào đó một cách soi mói.

Không phải chỉ riêng những người làm ở nghề giáo dục rơi vào tình thế nói trên. Mà ở ngành nào, người ta cũng nghe những lời than thở và cách xử lý tương tự. Số phận của con người hiện đại là không có thời gian để nghĩ về hành động của mình mà chỉ có cách lao vào kiếm sống. Không có từ chối bổng lộc, không có từ chức. Lại càng không có xót xa ân hận, không có tự vấn lương tâm. Bởi vậy, trong bóng tối con người ta mới cứ đi mãi vào tội lỗi .

Sau khi xuất phát từ nhu cầu kinh tế để giải thích hành động, tôi muốn nói qua tới khía cạnh đạo đức của vấn đề. Các cụ xưa có hai tiếng “thất đức” để chỉ những việc làm di hại cho nhiều đời sau. Đối chiếu với công việc đào tạo của những người như Ng., dưới tay các anh - “mang thương hiệu Ng.” - đã có bao nhiêu tiến sĩ rởm. Những người càng kém chuyên môn càng giỏi xoay xỏa, leo trèo. Một số trong họ sẽ đóng những vai trò trọng yếu trong nghiên cứu khoa học và đào tạo các lớp người sau. Nói cách khác, lớp người có bằng cấp rởm sẽ đông lên theo cấp số nhân. Mà truy tìm cú hích đầu tiên, vẫn phải gọi tên của Ng. và những đồng sự của anh. Tôi rất ngại dùng chữ thất đức, nhưng chưa tìm ra chữ khác đích đáng hơn.

Công ty luật Minh Khuê [sưu tầm & biên tập]

7. Bàn thêm về khái niệm "giá trị đạo đức"

Trong bài viết này, tác giả bước đầu xác định và luận giải một số tính chất cơ bản của giá trị đạo đức, như tính xã hội, tính lịch sử cụ thể, tính định hướng cho hành động của con người,… Đồng thời, tác giả cũng phân tích quan hệ giữa giá trị đạo đức với các quy tắc, chuẩn mực đạo đức; làm rõ sự thống nhất và khác biệt giữa chúng.

Trong những năm gần đây, “giá trị đạo đức” là thuật ngữ xuất hiện với tần suất lớn trên các sách báo và tạp chí. Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là chúng ta mới chủ yếu tập trung phân tích, luận giải các giá trị đạo đức cụ thể của đời sống đạo đức, mà hầu như ít bàn đến giá trị đạo đức với tư cách một khái niệm khoa học. Đây là một thiếu sót không nhỏ vì khái niệm là công cụ, phương tiện để nhận thức các đối tượng và do đó, nhận diện các giá trị đạo đức cụ thể một cách khách quan, khoa học nhất thiết phải dựa trên quan niệm thống nhất về “giá trị đạo đức”.

Giá trị là phạm trù được bàn đến và sử dụng từ rất sớm trong lịch sử tư tưởng, bắt đầu bằng quan niệm lợi ích của các nhà triết học cổ đại, như Xôcrát, Platôn, tiếp tục được phát triển ở thời kỳ trung cổ và cận đại. Tuy nhiên, phải đến tận nửa sau thế kỷ XIX những vấn đề về bản chất, cấu trúc của giá trị, vị trí của các giá trị trong hiện thực mới được nghiên cứu với tư cách là lý luận về giá trị. Ở Việt Nam, vấn đề giá trị mới được quan tâm từ khoảng những năm 80 của thế kỷ XX. Theo nhận xét của tác giả Hồ Sĩ Quý, hầu hết các nhà nghiên cứu đầu ngành của khoa học xã hội đều ít nhiều đã tham gia bàn luận về giá trị, giá trị văn hóa, giá trị đạo đức. Có thể kể đến một số tên tuổi tiêu biểu cho những bàn luận này, như Trần Văn Giàu, Trần Đình Hượu, Vũ Khiêu, Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc, Nguyễn Văn Huyên… Tuy nhiên, “đi vào chi tiết vấn đề có thể nói còn khá tản mạn”[[1]]. Nhìn chung các học giả Việt Nam mới chỉ tập trung làm rõ các giá trị đạo đức cụ thể trong đạo đức truyền thống hoặc đạo đức mới, chứ chưa bàn đến giá trị đạo đức với tư cách một khái niệm. Cũng có một vài quan niệm đề cập đến khía cạnh này nhưng chỉ là sự tiếp cận bước đầu, còn hạn chế nhất định và chưa có sự thống nhất. Giá trị đạo đức, theo tác giả Mai Xuân Hợi, “là những cái được con người lựa chọn và đánh giá như việc làm có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương”[2]. Quan niệm này mới chỉ bàn đến giá trị đạo đức từ phương diện lựa chọn, đánh giá của con người, tức là phương diện chủ quan của giá trị đạo đức. Theo tác giả Ngô Toàn, giá trị đạo đức là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hoá hành vi con người[3]. Quan niệm này không đề cập đến mặt chủ quan của giá trị đạo đức, đồng nhất giá trị đạo đức với đạo đức.

Giá trị đạo đức, nhìn từ góc độ cấu thành hệ thống các giá trị tinh thần của đời sống xã hội, là một hình thái của giá trị tinh thần, có quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau với các giá trị khoa học, giá trị thẩm mỹ, giá trị chính trị… Về bản chất, bước đầu có thể khái quát những nội dung chính về giá trị đạo đức: thứ nhất, giá trị đạo đức mang tính xã hội. Thực ra, nói đến giá trị là giá trị xã hội, mang tính xã hội. Ngay cả những giá trị riêng biệt [của sự vật, hiện tượng] hay giá trị cá nhân đều được quy chiếu bởi cái chung, bởi sự thừa nhận, đánh giá của xã hội. Giá trị đạo đức cũng không nằm ngoài đặc điểm chung đó. Vì vậy, trong đời sống đạo đức từ cổ chí kim, dù ở phương Đông hay phương Tây thì vẫn có thể tìm thấy sự tương đồng của những giá trị đạo đức cơ bản, như yêu lao động, trung thực, nhân ái…

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162

Thứ hai, giá trị đạo đức có tính lịch sử cụ thể. Chúng ta biết rằng, lợi ích xã hội là tiêu chuẩn khách quan của các giá trị đạo đức; vì vậy, chỉ khi nào những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hành vi con người phù hợp với lợi ích xã hội, được dư luận đồng tình ủng hộ thì mới có giá trị. Theo đó, trước hết giá trị đạo đức được xác định bởi mức độ phù hợp của những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức đối với lợi ích xã hội, với yêu cầu của tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, lợi ích xã hội và yêu cầu của tiến bộ xã hội lại có tính lịch sử, nghĩa là mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, trên cơ sở những điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể xã hội lại có những yêu cầu riêng về lợi ích và sự tiến bộ xã hội, do đó, giá trị đạo đức cũng có tính lịch sử – cụ thể. Ph.Ăngghen cho rằng, lời răn đạo đức “không được trộm cắp” chỉ có giá trị ở các xã hội có chế độ sở hữu tư nhân về động sản, còn “trong một xã hội mà mọi động cơ đẩy tới trộm cắp đều bị loại trừ, do đó dần dần hầu như chỉ có những người mắc bệnh tâm thần mới phạm tội trộm cắp, thì một nhà truyền bá đạo đức nào muốn trịnh trọng tuyên bố cái chân lý vĩnh cửu: không được trộm cắp, sẽ bị người ta chê cười”[4]. Hơn nữa, với tính cách một hình thái của ý thức xã hội, ý thức đạo đức có cơ sở trực tiếp là các điều kiện của tồn tại xã hội. Ph.Ăngghen viết: “Chúng ta khẳng định rằng xét cho cùng mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế – xã hội lúc bấy giờ” và “từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm đạo đức biến đổi đến mức thậm chí đối lập nhau”[5]. Chính ở đây,những điều kiện lịch sử cụ thể quy định chặt chẽ sự xuất hiện, tồn tại và biến đổi của các giá trị đạo đức.

Thứ ba, giá trị đạo đức là sự bộc lộ thái độ của cá nhân, nhóm xã hội, tập đoàn xã hội về lợi ích. Chính trong quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội, các giá trị đạo đức xuất hiện với tư cách sự nhìn nhận, đánh giá của cá nhân, cộng đồng trước những quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực, hành vi ứng xử. Sự nhìn nhận, đánh giá này chịu sự chi phối trực tiếp của lợi ích và ở đây dường như giá trị đạo đức mang tính chủ quan. Điều này lý giải tại sao một hành vi đạo đức là giá trị đối với một cá nhân, một cộng đồng này mà chưa hẳn là giá trị, thậm chí là phản giá trị đối với một cá nhân, một cộng đồng khác. Giá trị đạo đức, giống như các giá trị nói chung, “là quan niệm về điều mong muốn đặc trưng ẩn hay hiện cho một cá nhân hay một nhóm và ảnh hưởng tới việc lựa chọn các phương thức, phương tiện hoặc mục tiêu của hành động”[6]. Đương nhiên, ở mọi thời đại, mọi nền văn hóa thì hành vi giết người là một tội ác nhưng tiêu diệt kẻ thù trong chiến tranh để bảo vệ hòa bình và độc lập dân tộc thì lại không được nhìn nhận như vậy.[5]

Thứ tư, giá trị đạo đức gắn với hoạt động thực tiễn của con người, định hướng cho hành động của con người. Một mặt, các giá trị được hình thành, tồn tại, biến đổi trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người. Chính trong thực tiễn và chỉ có thông qua thực tiễn, các giá trị vật chất và tinh thần mới xuất hiện, biến đổi. Giá trị cá biệt của hàng hóa chẳng hạn. Với tính cách là sự kết tinh lao động trong hàng hóa, giá trị cá biệt của hàng hóa tỷ lệ thuận với hoạt động lao động tạo ra hàng hóa đó và chỉ có lao động mới tạo ra giá trị hàng hóa. Mặt khác, giá trị, đến lượt nó, lại giữ vai trò định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người. Ví dụ, trong sản xuất hàng hóa, khi giá trị cá biệt của hàng hóa lớn hơn giá trị xã hội thì buộc người sản xuất phải có sự thay đổi về cách thức sản xuất. Tuy nhiên, ở đây, vai trò định hướng của giá trị đối với con người thể hiện sâu sắc hơn qua các giá trị đạo đức. Mỗi cộng đồng người, do các đặc điểm về địa lý, văn hóa đều hình thành nên những mẫu nhân cách mang tính đại diện, là kết quả của sự định hướng giá trị. Người châu Á coi “cần cù, yêu lao động” là giá trị hàng đầu của sự làm người. Nhưng người Mỹ lại coi "tự lực cánh sinh"’ mới là giá trị đáng quý nhất, cần cù cũng được coi trọng nhưng chỉ đứng thứ ba sau “tự lực cánh sinh và thành đạt cá nhân”. Nói rằng người châu Á cần cù, người Do Thái khôn ngoan, hay người Đức ưa chính xác… có nghĩa là các giá trị đó được tôn trọng hơn, được xếp vào vị trí ưu tiên hơn so với các giá trị khác trong định hướng nhân cách của các cộng đồng này[7].

Thứ năm, giá trị đạo đức trừu tượng nhưng có thể nhận thức và noi theo, thực hiện được. Dĩ nhiên, giá trị đạo đức không phải là cái chúng ta có thể dễ dàng nhận thức, càng không phải cái bằng trực quan mà hiểu nhưng như thế không có nghĩa nó là cái không thể nhận thức. Chẳng hạn, trọng tình nghĩa với tính cách một giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, đương nhiên không hoàn toàn đồng nhất với các hành vi ứng xử tương ứng trong đời sống hàng ngày nhưng có thể nhận thức thông qua chính những hành vi đó. Quan trọng hơn, mỗi cá nhân hoàn toàn có thể hiện thực hóa giá trị đó thông qua những cách ứng xử vị tha, nhân nghĩa trong quan hệ của họ với người khác và với xã hội.

Giá trị đạo đức, như đã trình bày ở trên, là một quan niệm vừa cụ thể, vừa trừu tượng và phức tạp. Về cấu trúc, giá trị đạo đức được xem xét với hai yếu tố là bản thân các quan niệm, chuẩn mực, nguyên tắc, hành vi ứng xử của con người và ý nghĩa tích cực đối với con người, với đời sống xã hội của những quan niệm, chuẩn mực, nguyên tắc, hành vi ứng xử đó.

Trước hết, không có giá trị đạo đức chung chung, trừu tượng mà là giá trị đạo đức nằm trong hoặc luôn gắn với những phẩm chất, chuẩn mực cụ thể. Các giá trị đạo đức, theo tác giả Phạm Văn Nhuận, được biểu hiện tập trung trong hệ thống phẩm chất, chuẩn mực đạo đức cơ bản dùng để điều chỉnh thái độ, hành vi của con người mang ý nghĩa xã hội của nó[8]. Chúng ta không thể nói đến giá trị đạo đức mà lại tách rời các quan niệm, chuẩn mực, phẩm chất đạo đức; không thể nhận thức giá trị đạo đức mà không dựa trên cơ sở những quan niệm, chuẩn mực, phẩm chất đạo đức cụ thể. Chẳng hạn, đạo đức cách mạng với tư cách một giá trị sẽ trở nên trừu tượng, khó hiểu nếu không gắn với những chuẩn mực cụ thể – trung, hiếu, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư… Đạo đức cách mạng cũng sẽ trở nên sáo rỗng nếu không nhìn vào một nhân cách lớn với những phẩm chất đạo đức trong sáng đến tuyệt vời của Hồ Chí Minh. Một ví dụ khác – giá trị đạo đức quân nhân trong quân đội nhân dân Việt Nam. Trước hết, giá trị đạo đức quân nhân phải là bản thân những quan niệm về trách nhiệm, nghĩa vụ, danh dự quân nhân, về tình đồng chí, đồng đội, lòng dũng cảm, tinh thần kỷ luật… và các chuẩn mực, quy tắc ứng xử được hình thành trong môi trường hoạt động quân sự. Hơn nữa, chúng ta sẽ không thể hiểu gì về giá trị đạo đức quân nhân cách mạng nếu không nhìn vào những cống hiến, hy sinh của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ Quân đội trong chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, nếu không có hình ảnh về anh “Bộ đội Cụ Hồ” dám xả thân vì nước, vì dân. Tuy nhiên, tiêu chí để đánh giá giá trị đạo đức rất khác biệt với quan niệm, phẩm chất, chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức. Có thể khẳng định rằng, giá trị đạo đức không phải là bất cứ quan niệm, phẩm chất, chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức nào, mà chỉ là những quan niệm, phẩm chất, chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức đạt tới chân, thiện, mỹ. Quan niệm “trung quân” với sự đòi hỏi lòng trung thành tuyệt đối thậm chí đến mức mù quáng, không phân biệt đúng, sai, tốt, xấu, chính, tà của đạo đức phong kiến là một ví dụ. Hồ Quý Ly là một nhà quân sự tài ba nhưng ông đã thất bại trong cuộc chiến tranh chống quân Minh do không được sự ủng hộ của nhân dân mà căn nguyên, gốc rễ là quan niệm trung quân. Cũng chính vì quan niệm trung quân mà ở nhiều triều đại phong kiến vào hồi suy tàn luôn xuất hiện những bậc trung thần, dù thấy rõ sự thối nát của chế độ vẫn không thể thoát khỏi sức nặng của hai chữ “bất trung”, không dám tiến hành những cuộc lật đổ, thậm chí họ còn ra sức bảo vệ, duy trì cái bộ máy đã thối nát ấy. Sự trung quân một cách mù quáng trong nhiều diễn biến của lịch sử đã trở thành lực cản đối với sự phát triển của đất nước mà thái độ bất hợp tác của các sĩ phu Bắc Hà đối với Quang Trung là minh chứng, một sự thật lịch sử có phần chua xót. Trung quân mù quáng như thế đương nhiên không thể là một giá trị đạo đức cho dù nó từng là một phẩm chất được đề cao trong xã hội phong kiến.

Giá trị đạo đức không tách rời những quan niệm, chuẩn mực, nguyên tắc, hành vi ứng xử cụ thể nhưng cũng không đồng nhất với quan niệm, chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức.“Đối với con người, thế giới hiện ra trong những khuôn thước, dù rằng bản thân nó [thế giới vô vàn những hiện tượng phong phú và phức tạp] không mang ý nghĩa [sang – hèn, hay – dở, tốt – xấu…] gì đối với chính nó”[9]. Nói cho cùng, giá trị đạo đức là giá trị của các quan niệm, chuẩn mực, nguyên tắc, hành vi ứng xử trong tương quan với chủ thể đạo đức xác định. Từ phương diện này, đạo đức cách mạng với tư cách giá trị không chỉ là những chuẩn mực trung, hiếu, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư – những phẩm chất cơ bản của đạo đức Hồ Chí Minh mà quan trọng hơn, còn là ý nghĩa của những phẩm chất đó đối với mỗi người, đối với đời sống đạo đức dân tộc và nhân loại. Cũng giống như vậy, trong Quân đội nhân dân Việt Nam, giá trị đạo đức quân nhân cách mạng gắn liền nhưng không hoàn toàn đồng nhất với phẩm chất đạo đức, chuẩn mực đạo đức quân nhân. Giá trị đạo đức quân nhân còn là toàn bộ ý nghĩa tích cực của những quan niệm về trách nhiệm, nghĩa vụ, danh dự quân nhân, về tình đồng chí, đồng đội, lòng dũng cảm, tinh thần kỷ luật… và các chuẩn mực, quy tắc ứng xử tốt đẹp và đúng đắn khác đối với quân nhân và với đời sống xã hội. Về thực chất, từ phương diện này, giá trị đạo đức quân nhân chính là sự cảm nhận, đánh giá của quân nhân cũng như của xã hội đối với những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức của người quân nhân cách mạng. Quá trình chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam trong suốt hơn 60 năm qua đã khẳng định những giá trị tiêu biểu của người quân nhân cách mạng, thể hiện tập trung và sinh động trong hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Đó chính là sự ghi nhận, sự tôn vinh của xã hội dành cho lớp lớp cán bộ, chiến sĩ quân đội bởi phẩm chất, nhân cách của họ. Bốn tiếng “Bộ đội Cụ Hồ” tạo cho nhân dân cảm giác yên tâm, tin tưởng, cảm thấy sự gần gũi, thân thương, trìu mến; đồng thời, khiến mỗi cán bộ chiến sĩ luôn cảm thấy vinh dự, tự hào và có trách nhiệm cao hơn. Như vậy, bản thân các quan niệm, chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức chỉ trở thành giá trị đạo đức khi nó có ý nghĩa tích cực đối với chủ thể đạo đức xác định là cá nhân hay cộng đồng người trong một thời đại, một nền văn hoá và một bối cảnh lịch sử nhất định nào đó.

Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu giá trị đạo đức là toàn bộ những quan niệmvề thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng… và các chuẩn mực, quy tắc ứng xử được con người đánh giá, lựa chọn, cũng như ý nghĩa tích cực của những quan niệm,chuẩn mực, quy tắc ứng xử đó đối với con người và đời sống xã hội…

Quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay ở nước ta bên cạnh những mặt tích cực cũng đã xuất hiện những hậu quả ngoài mong muốn, làm cho sự đan xen, hòa quyện giữa các giá trị và phản giá trị trong đời sống đạo đức xã hội vốn đã phức tạp càng trở nên phức tạp hơn. Đã xuất hiện tình trạng “nhiễu” trong việc lựa chọn, tiếp nhận, thẩm định giá trị đạo đức. Điều này cùng với những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường đã tạo ra cộng hưởng tiêu cực, dẫn đến sự suy thoái đạo đức xã hội, làm đảo lộn trật tự thang giá trị xã hội trong một bộ phận xã hội. Một trong những nguyên nhân của tình hình trên chính là sự nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về các giá trị đạo đức, trước hết là sự thiếu thống nhất trong quan niệm về “giá trị đạo đức”. Những ý kiến trong bài viết này chỉ là những suy nghĩ bước đầu, chúng tôi hy vọng sẽ nhận được sự góp ý của những người quan tâm để tiếp tục đi sâu nghiên cứu, hoàn thiện.

Công ty luật Minh Khuê [sưu tầm & biên tập]

8. Vai trò của pháp luật đối với việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức ở Việt Nam hiện nay

Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hoá đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới.

Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức.

Trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, cùng với Nhà nước, pháp luật ra đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đạo đức và dư luận xã hội, pháp luật là công cụ quản lý xã hội chủ yếu của Nhà nước.

Giữa đạo đức và pháp luật luôn có mối quan hệ qua lại, tác động tương hỗ lẫn nhau. Để nâng cao vai trò và phát triển ý thức đạo đức, ngoài các biện pháp tích cực khác, thì không thể thiếu vai trò của pháp luật và ý thức pháp quyển. Pháp luật càng chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề cao, khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh hưởng một cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội.

Từ khi xuất hiện, pháp luật luôn gắn với giai cấp cầm quyền. Đối với xã hội có phân chia và đối kháng giai cấp, mọi hoạt động của đời sống xã hội được đưa vào trong khuôn khổ pháp luật nhằm mang lại lợi ích cho giai cấp thống trị. Trên thực tế, pháp luật của những Nhà nước gắn với giai cấp tiên tiến của thời đại thì thường phù hợp với xu hướng phát triển tiến bộ, vì nó bao hàm những chuẩn mực, những quy định nhằm bảo vệ lợi ích chân chính và phẩm giá con người. Ngược lại, nếu pháp luật của Nhà nước gắn với giai cấp đang suy tàn, không còn vai trò lịch sử thì thường chứa đựng yếu tố trì trệ, bảo thủ, đi ngược lại lợi ích chân chính. Trong trường hợp như vậy, pháp luật sẽ không phản ánh được những yêu cầu đạo đức tiến bộ, phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại.

Trước đây, trong lịch sử, Nho giáo đã lấy đạo đức để răn dạy con người. Với chủ trương “đức trị”, Nho giáo đã “đạo đức hoá chính trị” và đề cao, thậm chí đến mức tuyệt đối hoá việc quản lý xã hội bằng cách nêu gương, cảm hoá, làm cho dân chúng an tâm và từ đó, hy vọng tạo nên sự ổn đình xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng to lớn, tích cực đối với đời sống xã hội, Nho giáo cũng có những mặt hạn chế, tiêu cực và bảo thủ.

Đối lập với chủ trương “đức trị” là tư tưởng “pháp trị”. Thực tế cho thấy, đã từng có những vị vua đùng pháp luật để cai trị đất nước. Với chủ trương “pháp trị”, họ đã có những chính sách thiết thực, thưởng phạt phân minh, đưa xã hội đi vào cuộc sống có quy củ, vận hành theo khuôn khổ của phép nước. Tuy nhiên, cả tư tưởng “đức trị” và “pháp trị” thời phong kiến, bên cạnh mặt tích cực, đều có tính chất phiến diện. Thực ra, những tư tưởng ấy chỉ là những biện pháp khác nhau mà các thế lực thống trị sử dụng để củng cố địa vị và quyền lực của mình.

Trong xã hội không còn đối kháng giai cấp, Nhà nước là người đại điện cho nhân dân lao động. Cho nên, hoạt động của Nhà nước và hệ thống pháp luật tự thân đã bao hàm trong đó ý nghĩa đạo đức. Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, pháp luật luôn có vai trò bảo vệ các giá trị chân chính, bảo vệ các quyền lợi chính đáng của con người, đồng thời, tạo điều kiện cho con người phát huy những năng lực thực tiễn của mình. Việc thực thi pháp luật cũng đồng nghĩa với việc đảm bảo trên thực tế các quyền thiêng liêng của con người, sự tôn trọng các giá trị xã hội. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Do đó, pháp luật cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ nền đạo đức của xã hội. Có thể nói, pháp luật là phương tiện không thể thiếu được cho sự tồn tái bình thường của xã hội nói chung và nền đạo đức nói riêng. Bởi lẽ, “pháp luật bao giờ cũng là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng khó khẳng định bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Vì vậy, không thể buông lỏng pháp luật nếu việc này chưa được chuẩn bị bằng sự tiến bộ đạo đức của xã hội”.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là phải tác động tích cực đến nền đạo đức của xã hội. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi cá nhân trong hoạt động của mình phải tính toán chặt chẽ những điều kiện khách quan và hiệu quả kinh tế. Khi đời sống kinh tế – xã hội đã và đang có những chuyển biến lớn, thì quan hệ giữa con người với con người không thể chỉ là “mối quan hệ trực tiếp, cảm tính, chủ yếu vẫn bị chi phối bởi những nguyên tắc và chuẩn mực của sự phát triển ưu trội về đạo đức” như trước đây, mà nó cần được bổ sung những chuẩn mực, những giá trị mới, như tính kinh tế, tính hiệu quả… Ngay cả việc đánh giá đạo đức cũng cần phải dựa trên các tiêu chí mới đó, ngoài các thước đo vốn có.

Đối với nước ta hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức đã trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết. Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như xã hội dân sự… đòi hỏi phải tích cực hơn nữa trong việc đưa pháp luật vào đời sống, hình thành và phát triển ý thức pháp luật, đồng thời, xã hội hóa tri thức, nâng cao trình độ dân trí, tạo cơ sở nâng cao đạo đức lên trình độ duy lý pháp lý và khoa học, chuyển thói quen điều chỉnh xã hội theo “lệ”, chủ yếu là sự cảm thông sang điều chỉnh xã hội bằng pháp luật trên nguyên tắc công bằng và bình đẳng xã hội. Trong quan niệm về chuẩn giá trị và đánh giá đạo đức, tính khách quan, khoa học và duy lý thay cho sự tuỳ tiện vấn dựa trên cơ sở kinh nghiệm, duy cảm, duy tình. Sự điều chỉnh xã hội bằng pháp luật [với nguyên tắc tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật] làm cho mọi thành viên trong xã hội có thể tự do phát huy khả năng sáng tạo của mình trong môi trường lành mạnh – môi trường vận hành có trật tự, nền nếp, kỷ cương của một xã hội năng động, phát triển và văn minh. Đó cũng chính là nhu cầu tình cảm, là trách nhiệm và yêu cầu đạo đức đối với mỗi công dân trong giai đoạn mới.

Công cuộc đổi mới ở nước ta đang diễn ra trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Thực tế đó luôn đòi hỏi và thúc đẩy nâng cao trình độ dân trí, trình độ nghề nghiệp cho lực lượng lao động và xã hội hóa tri thức khoa học. Từ đó, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân và của toàn xã hội cũng được nâng lên, làm cho khả năng điều chỉnh của đạo đức cũng biến đổi và phát triển theo chiều hướng tích cực. Sự biến đổi đó được biểu hiện ở tính duy lý cao hơn trong việc đánh giá, lựa chọn những giá trị và chuẩn mực đạo đức. Mỗi người trong hoạt động của mình đã có ý thức hơn trong việc tôn trọng pháp luật, có bản lĩnh hơn trong đấu tranh vì công bằng và lẽ phải, biết trân trọng và hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp. Có thể nói, việc chuyển sự điều chỉnh mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội với thói quen theo “lệ”, và nặng về đạo đức sang điều chỉnh bằng pháp luật, đề cao tính nhân bản là một trong những chuyển biên quan trọng nhất trong đời sông xã hội. Bởi lẽ, việc hình thành ý thức pháp luật của mỗi công dân là điều kiện để nâng cao ý thức đạo đức và năng lực thực hiện những hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, đồng thời là cơ sở để phát triển đạo đức của xã hội.

Chúng ta đã biết, cả pháp luật và đạo đức đều góp phần bảo vệ các giá trị chân chính, đều liên quan đến hành vi và đụng chạm đến lợi ích của con người và xã hội. Pháp luật tham gia điều chỉnh quan hệ xã hội bằng những quy phạm, điều khoản quy định các quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Các quy phạm pháp luật quy định chi tiết các hành vi được phép và hành vi bị cấm đoán. Đồng thời, chúng còn xác định cụ thể các cách cư xử lẫn những hình phạt sẽ áp dụng nếu chủ thể vi phạm. Ngoài ra, pháp luật còn thực hiện điều chỉnh mối quan hệ giữa con người và xã hội bằng sự bắt buộc, cưỡng chế từ bên ngoài. Trong khi đó, đạo đức lại điều chỉnh các mối quan hệ bằng dư luận xã hội, bằng sự giác ngộ và sự thôi thúc từ bên trong. Sự khác biệt nhưng lại thống nhất này là cơ sở để pháp luật và đạo đức bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Do vậy, có thể nói, pháp luật không những là công cụ để quản lý Nhà nước, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức.

Thực tế những năm vừa qua ở nước ta cho thấy, hệ thống pháp luật và việc thi hành pháp luật đã có những tác động rõ rệt đến đời sống xã hội. Những quy định trong Hiến pháp, trong các luật và văn bản dưới luật luôn đề cao tính nhân đạo và nhân văn bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của Nhà nước mà nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ. Nói đúng hơn, đó là hệ thống pháp luật phục vụ cho việc thực thi các lợi ích cơ bản của con người, đặc biệt là lợi ích của người lao động. Vì vậy, các nguyên tắc định hướng cho việc xây dựng nội dung của hệ thống pháp luật, như công bằng, nhân đạo, vì sự phát triển tiến bộ của con người và xã hội… cũng chính là những nguyên tắc đạo đức cơ bản mà nhân loại tiến bộ đã, đang và sẽ hướng tới. Có thể nói, pháp luật sẽ góp phần rất lớn trong việc hình thành ý thức tôn trọng và chấp hành những quy phạm chung, giúp con người có những hành vi ứng xử văn minh, phù hợp với chiều hướng phát triển tiến bộ của thời đại.

Trong hệ thống văn bản pháp luật của nước ta, kể cả Hiến pháp, các bộ luật và văn bản dưới luật thường có nhiều quy phạm pháp luật ghi nhận những giá trị, những chuẩn mực đạo đức. Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “Nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Ngoài ra, các bộ luật, như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em… đều được xây dựng trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy, có thể nhấn mạnh rằng, pháp luật vừa là công cụ hữu hiệu trong việc bảo tồn những giá trị truyền thông, vừa góp phần bồi đắp nên những giá trị mới trong đó có ý thức đạo đức. Việt Nam vốn là một nước kém phát triển, lại đang chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện như vậy, sự ít hiểu biết về pháp luật của một bộ phận nhân dân cùng với những bất cập của hệ thống pháp luật đã dẫn đến tình trạng vi phạm kỷ cương xã hội, coi thường pháp luật Nạn tham nhũng và các hành vi làm ăn bất lương, vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật đang ngày càng gia tăng. Những biểu hiện xuống cấp và suy thoái đạo đức, đặc biệt là “ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền” đang là nỗi bất bình của toàn xã hội. Thực tế nhức nhối đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do pháp luật chưa đầy đủ hoặc thiếu chặt chẽ và việc thi hành pháp luật còn chưa nghiêm, chưa công bằng. Trong bối cảnh như vậy, luật pháp cần phải tỏ rõ sức mạnh của mình để lập lại trật tự, kỷ cương. Bởi lẽ, nếu đạo lý không đủ mạnh để thuyết phục thì pháp lý phải ra tay. Nếu dư luận xã hội chưa đủ độ để lên án thì luật pháp phải kết án”.

Những năm gần đây, các cơ quan chức năng đã nỗ lực trong việc thanh tra, khám phá và đưa ra xét xử công khai nhiều vụ trọng án, kiên quyết trừng trị thích đáng những kẻ phạm tội, thu lại cho đất nước một lượng lớn tài sản. Việc làm đó không những được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ cái đúng, cái thiện, lên án cái sai, bài trừ cái ác, mà còn chứng tỏ vai trò vô cùng quan trọng của luật pháp trong việc bảo vệ nền đạo đức và lành mạnh hóa đời sung xã hội. Có thể nói, trong tiến trình đổi mới đất nước, pháp luật đã góp phần đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, duy trì và tạo được một số chuyển biến khả quan về mặt xã hội, góp phần không nhỏ trong việc củng cố tiềm lực quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo thế và lực đưa nước ta từng bước hội nhập với thế giới. Chúng ta cũng đang từng bước xây dựng. sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống luật pháp cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Nhiều văn bản pháp luật và dưới luật được ban hành và đang đi vào cuộc sống, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. Điều đó càng khẳng định một thực tế là, nếu như pháp luật ngày một hoàn thiện hơn, hoạt động tuyên truyền pháp luật được phổ biến rộng rãi hơn và việc thực hiện ngày càng nghiêm minh hơn thì ý thức pháp luật sẽ được nâng cao hơn, sự định hướng hành vi cho mọi công dân cũng sẽ tốt hơn.

Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống pháp luật của Nhà nước ta vẫn còn thiếu những quy định cần thiết trong lĩnh vực quản lý kinh tế và các quy định về quyền cơ bản của công dân. Việc phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được chú trọng nếu như không nói là còn bị xem nhẹ. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành luật của các cơ quan chức năng còn nhiều bất cập những kinh nghiệm xây đựng hệ thống pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật còn nhiều hạn chế. Tâm lý tiểu nông, thói quen của người sản xuất nhỏ làm cho nhiều người còn mang nặng tư tưởng phép vua thua lệ làng”. Điều đó lý giải tại sao trong đời sống xã hội vẫn còn không ít người chưa có thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Trước đây, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: pháp luật không phải là để trừng trị con người, mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Đáng tiếc là ở nước ta, vẫn còn một bộ phận dân chúng coi pháp luật là sự trói buộc mình nên đã có tâm lý trốn tránh pháp luật. Thực tế đó cũng làm cho việc thực thi pháp luật càng trở nên phức tạp hơn và chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp chưa thực sự công tâm, nghiêm minh, gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật và tình trạng pháp luật bị buông lỏng đã tạo điều kiện cho những hiện tượng phản đạo đức xuất hiện, gây ảnh hưởng xấu đến việc xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh và tiến bộ.

Pháp luật không loại trừ một ai và không phân biệt đối xử với bất kỳ ai. Đứng trước pháp luật thì mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau. Pháp luật là công cụ hữu hiệu để quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của con người theo hướng ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác và khuyến khích, nâng đỡ, phát huy cái tốt, cái thiện vốn có trong mỗi con người. Việc thực thi pháp luật là nhằm xây đựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, tiến bộ vì con người và cho con người. Với quan niệm như vậy, pháp luật và việc thực thi pháp luật là môi trường nuôi dưỡng và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức.

Công cuộc đổi mới ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề phải tăng cường hơn nữa vai trò của pháp luật. Việc nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp luật không chỉ nhằm lập lại trật tự, kỷ cương xã hội, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức mới. Để làm được điều đó, đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ nhiều biện pháp quan trọng.

Trước hết, cần phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc hơn nữa vai trò của pháp luật trong việc xây đựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhận thức đầy đủ vấn đề này là một quá trình khó khăn và lâu đài. Trải qua thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội VIII của Đảng đã nhấn mạnh rằng, cần phải “tăng cường pháp chế, xây đựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật”. Gần đây, Đại hội X của Đảng đã khẳng định rằng, chúng ta cần “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Điều đó cho thấy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền đang trở thành vấn đề thực sự có ý nghĩa cấp bách trong điều kiện và yêu cầu phát triển mới của đất nước. Bởi vì, đây là vấn đề không những góp phần tăng cường cơ sở pháp lý để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và nuôi dưỡng ý thức đạo đức mới.

Thứ hai, chúng ta cần phải xây dựng đồng bộ và hoàn. thiện hệ thống pháp luật. Phương châm chỉ đạo của Đảng ta là: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật”. Vấn đề này có liên quan chặt chẽ với việc nghiên cứu các giá trị, đặc biệt là các giá trị truyền thống. Thông qua quá trình đó, chúng ta có thể lựa chọn các chuẩn mực, các giá trị phù hợp để luật hóa chúng, biến thành những quy phạm chung của xã hội mà mỗi công dân đều có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh. Có thể nói, đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và thực sự cấp bách trong quá trình xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh ở nước ta hiện nay.

Thứ ba, để nâng cao vai trò và hiệu quả của hệ thống pháp luật, ngoài các biện pháp trên, cần phải quan tâm đến chất lượng của các cơ quan làm luật và đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật. Thực tế những năm vừa qua cho thấy, đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi pháp luật không những còn thiếu và yếu về năng lực, thiếu ý thức trách nhiệm, mà còn thiếu cả cái tâm của con người. Đã có không ít trường hợp cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xử lý không nghiêm những trường hợp vi phạm, thậm chí chính bản thân họ cũng vi phạm pháp luật. Do vậy, việc nâng cao chất lượng của các cơ quan này cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đang là đòi hỏi cấp bách hiện nay.

Thứ tư, để tăng cường vai trò của pháp luật thì việc thực thi pháp luật phải nghiêm minh, công bằng. Đứng trước pháp luật, mọi công dân đều bình đẳng cả về quyền và nghĩa vụ. Tất cả mọi hành động vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm khắc. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người nghiêm chỉnh chấp hành. Trong thực thi pháp luật, về phía Nhà nước, việc tổ chức thực hiện phải nghiêm minh, thưởng phạt phải rõ ràng, về phía công dân, tất cả mọi người không loại trừ ai đều có nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện đúng pháp luật, có ý thức tôn trọng pháp luật.

Thứ năm, cần tổ chức tốt việc đưa pháp luật vào đời sống thông qua hoạt động giáo dục pháp luật. Bởi vì, một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh vẫn chưa thể đem lại hiệu quả cao nếu những quy định của nó không được mọi người biến thành hành động trong thực tế. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: việc công bố đạo luật chưa phải là đã xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt. Theo Người, việc giáo dục pháp luật là một trong những công đoạn hết sức quan trọng. Nó không chỉ giúp nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, mà còn tạo ra khả năng hình thành những nhu cầu, tình cảm, những chuẩn mực mới, đồng thời, góp phần củng cố ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức, ngăn chặn các biểu hiện xâm phạm lợi ích chính đáng của người khác, khuyến khích những hành vi hợp pháp và hợp đạo lý.

Ngoài ra, để tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành ý thức đạo đức, cần phải đẩy mạnh hơn nữa các chương trình kinh tế – xã hội, như xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng phải khắc phục những thiếu sót trong các chính sách quản lý kinh tế – xã hội, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật cho phù hợp với yêu cầu của đất nước và bối cảnh quốc tế. Mặt khác, cũng cần phải tăng cường hơn nửa lực lượng, phương tiện, kinh phí cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, xây dựng các cơ quan này thực sự trong sạch, vững mạnh.

Tóm lại, muốn xã hội ổn định và ngày càng phát triển, cần phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ để điều chỉnh các hoạt động của con người và của toàn xã hội. Sự hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định rằng, để góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế – xã hội, chúng ta phải “hoàn chỉnh hệ thống pháp luật”, cụ thể là: “… tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, của các cơ quan tư pháp, đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, tăng cường hiệu lực và hiệu quả các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Đó là cơ sở xã hội, cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức mới trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

Công ty luật Minh Khuê [sưu tầm]

Video liên quan

Chủ Đề