Nguyên tắc bình đẳng trong giao dịch dân sự

Căn cứ Điều 8 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) tuân thủ pháp luật về nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự được quy định như sau:

“Điều 8. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự

1. Trong tố tụng dân sự mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội.

Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án.

2. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự.”

2. Một số khái niệm cơ bản.

- “Bình đẳng” được hiểu đó là sự ngang hàng nhau về địa vị và quyền lợi.

- “Quyền” là cái mà con người ta có và họ được tự quyết sử dụng hay không sử dụng nó.

- “Nghĩa vụ”: là điều bắt buộc cá nhân, con người phải thực hiện. Mọi hành vi làm cản trở lại quyền thiêng liêng này là vi phạm quyền con người và chuẩn mực đạo đức xã hội.

- “Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự” là những tư tưởng pháp lý chủ đạo, có tính bắt buộc chung, thể hiện quan điểm có tính định hướng của Nhà nước trong việc xét xử các vụ việc dân sự, được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự, trong đó trước Toà án, mọi công dân, cơ quan, tổ chức đều có địa vị pháp lý ngang nhau, không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, thực hiện nghĩa vụ và chịu trách nhiệm pháp lý, các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Toà án giải quyết vụ việc dân sự độc lập, khách quan, đúng pháp luật và có trách nhiệm tạo điều kiện để đương sự được bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự.

3. Quy định của BLTTDS 2015 về nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự.

Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS được cụ thể hóa quy định tại Điều 16 Hiến pháp 2013: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc này khẳng định vị trí của “mọi người”, mọi cơ quan, tổ chức trong TTDS là như nhau, không ai, không cơ quan, tổ chức nào có quyền đứng trên pháp luật để được hưởng những ưu tiên, ưu đãi cũng như không ai bị phân biệt đối xử về dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội của mình và các dấu hiệu khác. Để bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự được khách quan đúng pháp luật thì giữa các đương sự phải được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ TTDS. Bên này được đưa ra yêu cầu chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thì bên kia cũng phải được đưa ra yêu cầu, chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nguyên tắc này là tiền đề chủ yếu để thực hiện tranh tụng trong TTDS tại phiên tòa.

Nội dung cơ bản của nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS xác định khi tham gia tố tụng và các đương sự bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS, Tòa án có trách nhiệm thực hiện những biện pháp do luật định để các đương sự được thực sự bình đẳng với nhau trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ.

Tuy nhiên, Điều này chỉ nói về sự bình đẳng của mọi người và cơ quan, tổ chức trong TTDS với tư cách là các bên, những người tham gia tố tụng. Điều này không nói rằng những người tham gia tố tụng bình đẳng với cơ quan tiến hành tố tụng hay người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, ở đây cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, họ phải có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong TTDS. Họ không được gây cản trở, gây khó khăn, lạm quyền hoặc dùng những hành vi làm ảnh hưởng đến quyền bình đẳng của mọi người, cơ quan, tổ chức trong TTDS.

Như vậy, Điều luật đã khẳng định được chân lý của BLTTDS đó chính là khi tham gia tố tụng mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, cơ quan, tổ chức, cá nhân đều có quyền bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án cũng như Tòa án, Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong TTDS.

Luật Hoàng Anh

Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ pháp luật dân sự

Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lí do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần dân tộc, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau.

Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ dân sự là nguyên tắc có ý nghĩa, vị trí rất quan trọng của pháp luật dân sự. Khi xem xét nguyên tắc này cần lưu ý là, vì đây là nguyên tắc cơ bản nên việc áp dụng nó không chỉ giới hạn trong giao dịch dân sự, hợp đồng mà trong các giao dịch dân sự nói chung, được thể hiện ở chính phương pháp điều chỉnh của luật dân sự, ở việc công nhận các chủ thể có năng lực pháp luật dân sự như nhau, bình đẳng trong việc hưởng các quyền dân sự theo luật định. Đây cũng chính là nguyên tắc tiền đề được cụ thể hóa trong nhiều nghành luật khác có quan hệ mật thiết với pháp luật dân sự, chẳng hạn nguyên tắc bình đẳng của các doanh nghiệp, nguyên tắc bình đẳng trong hoạt động thương mại (Điều 10 của Luật thương mại 2005),….

Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ dân sự được áp dụng đối với mọi chủ thể của quan hệ dân sự, kể cả giữa cơ quan nhà nước với cá nhân trong quan hệ dân sự. Chẳng hạn khi mua bán văn phòng phẩm, bồi thường thiệt hại do viên chức gây ra khi thi hành công vụ thì cơ quan nhà nước không được hưởng quy chế của cơ quan công quyền như trong pháp luật hành chính là chủ thể bình đẳng với các chủ thể khác.

Cũng giống như trong mọi lĩnh vực khác, bình đẳng trong quan hệ dân sự không có nghĩa là ngang bằng, cào bằng. Trong một số trường hợp do ý nghĩa xã hội của vấn đề mà Bộ luật dân sự quy định những lợi thế, ưu tiên nhất định cho đối tượng tham gia quan hệ dân sự.

Theo nghĩa rộng, việc vi phạm nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ dân sự sẽ bị xử lí bằng các quy định bảo vệ quyền nhân thân, bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật xâm phạm tính mạng, sức khỏe. Riêng đối vơi giao dịch dân sự và hợp đồng, nếu vi phạm nguyên tắc này thì theo yêu cầu của bên bị thiệt hại, giao dịch dân sự đó có thể bị vô hiệu.

Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là những quan điểm, tư tưởng xuyên suốt, mẫu mực trong toàn bộ quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật dân sự, được quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự gồm 5 nguyên tắc như sau:

1. Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.

2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của thuật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.

3. Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.

4.Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. 

5. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự. 

Nguyên tắc bình đẳng trong giao dịch dân sự

Tư vấn Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

Trong BLDS năm 2005 nguyên tắc cơ bản được quy định riêng trong Chương II gồm có 9 điều luật: từ Điều 4 đến Điều 12 và Điều 13 quy định căn cứ xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự (bản chất cũng là một nguyên tắc).

Theo nguyên lý chung của pháp luật dân sự, nguyên tắc cơ bản này được áp dụng cho tất cả các chế định trong bộ luật. Tùy thuộc tính chất đặc thù của mỗi loại quan hệ dân sự, mỗi chế định trong bộ luật lại quy định nguyên tắc đặc trưng riêng thể hiện là những quy định chung hoặc ghi nhận thành một nguyên tắc như: nguyên tắc giao kết hợp đồng (Điều 389); nguyên tắc bồi thường thiệt hại (Điều 605)…

Các quy định chung hoặc ghi nhận thành một nguyên tắc tại các chế định cụ thể, chỉ được áp dụng cho riêng chế định đó mà không áp dụng cho các chế định khác.

Quá trình tổng kết thi hành và áp dụng BLDS năm 2005 các nhà làm luật nhận thấy rằng: mặc dù được kế thừa hệ thống pháp luật có từ khi thành lập nước, nhưng có những nguyên tắc không được sử dụng trong xác lập, thực hiện các quan hệ dân sự; hoặc những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Tòa án chưa bao giờ áp dụng khi giải quyết tranh chấp như Điều 6, Điều 8 BLDS.

Để đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật lập pháp và tạo thuận lợi cho việc áp dụng, vận dụng, trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, nay BLDS năm 2015 quy định chỉ trong Điều 3: Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, gồm có 5 điều khoản cơ bản nhất.

1. Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản 

So với Điều 5 BLDS năm 2005 thì khoản 1 Điều 3 trên đây bảo đảm chặt chẽ về kỹ thuật lập pháp, đầy đủ về nội dung của yếu tố bình đẳng trong quan hệ dân sự.

Quy định tại khoản 1 Điều 3 đã cụ thể hóa các quy định Hiến pháp năm 2013 về các quyền cơ bản của công dân, gồm: quyền tự do, bình đẳng về nhân thân và tài sản của cá nhân và một cơ chế bảo hộ như nhau không có sự phân biệt đối xử.

Nghĩa là, đã là chủ thể trong các quan hệ dân sự đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong quá trình xác lập, thực hiện hoặc giải quyết tranh chấp (nếu có), không có bất kỳ sự phân biệt nào trong các quan hệ dân sự nhân thân và tài sản.

Bình đẳng là khái niệm chính trị – pháp lý, đây là yếu tố cơ bản của nền dân chủ trong chế độ nhà nước pháp quyền được ghi nhận trong Hiến pháp – đạo luật cơ bản của nhà nước ta cùng nhiều đạo luật khác; rộng hơn là các chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật.

Trong quan hệ dân sự, bản chất là bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm trong xác lập, thực hiện quan hệ dân sự. Bình đẳng và không phân biệt đối xử có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế đặc quyền, đặc lợi hoặc cạnh tranh không lành mạnh khi lợi dụng sự yếu thế về kinh tế. Quan hệ dân sự không bảo đảm yếu tố bình đẳng có thể bị coi là vô hiệu.

Trước đây, khi hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003 (khoản 3 Điều 43 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai) thì cá nhân chủ hộ giao dịch tài sản là quyền sử dụng đất của hộ gia đình mà không được sự đồng ý của các thành viên trong hộ, thì giao dịch đó vô hiệu.

Nhưng khoản 1 Điều 107 BLDS năm 2005 lại quy định người đại diện hộ gia đình xác lập giao dịch vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình là chưa thống nhất.

Khắc phục tình trạng này, nay Điều 103, 104 BLDS năm 2015 đã xác định cụ thể hậu quả pháp lý. Khoản 1 Điều 103 BLDS năm 2015 quy định: “Nghĩa vụ dân sự phát sinh từ việc tham gia quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân được bảo đảm thực hiện bằng tài sản chung của các thành viên”. Tính chất bình đẳng của các thành viên trong hộ gia đình còn được xem xét dưới góc độ của Luật hôn nhân và gia đình.

2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. 

Theo truyền thống, tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận là tiêu chí quan trọng để các chủ thể của quan hệ dân sự xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình.

Tự do ý chí trong việc lựa chọn hướng xác lập quan hệ dân sự cụ thể và tự nguyện, không bị đe dọa, cưỡng ép trong xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự là yêu cầu cơ bản đối với mọi quan hệ dân sự. Vi phạm quy định trên đây, quan hệ dân sự cụ thể đó có thể bị coi là vô hiệu.

Tính chất điều chỉnh của pháp luật dân sự hoàn toàn khác với tính chất điều chỉnh của luật hình sự và một số ngành luật khác. Khi quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự Điều 2 Bộ luật hình sự năm 2015 vẫn tiếp tục quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” và khoản 1 Điều 8 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự…”.

Như vậy, trong thực tế có thể có những hành vi nguy hiểm” nhưng nếu Bộ luật hình sự không quy định đó là tội phạm vì chưa gây nguy hiểm cho xã hội thì người thực hiện hành vi đó cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Chức năng cơ bản của hình phạt trong trách nhiệm hình sự chủ yếu nhằm mục đích: trừng trị, giáo dục người phạm tội và rắn đe, phòng ngừa tội phạm, được quy định trước trong Bộ luật hình sự. Trong pháp luật hình sự không có sự “thỏa thuận” về trách nhiệm pháp lý như trong trách nhiệm dân sự. Tính chất bình đẳng trong pháp luật hình sự hoàn toàn khác tính chất bình đẳng trong pháp luật dân sự: các bị cáo chỉ bình đẳng trước pháp luật tại Tòa án và được xét xử công bằng.

Còn trong pháp luật dân sự, các chủ thể có quyền tùy nghi thỏa thuận dù chưa được pháp luật dân sự quy định, nhưng mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”.

Vì vậy, mặc dù BLDS năm 2015 không có quy định, không dự liệu… nhưng các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự vẫn có thể thỏa thuận với nhau và vẫn có sự ràng buộc pháp lý. Sự ràng buộc này vẫn được pháp luật dân sự công nhận; quyền và nghĩa vụ của các bên vẫn được pháp luật bảo đảm thực hiện.

3. Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực. 

Yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa và truyền thống đạo đức là trong quan hệ xã hội hoặc trong quan hệ pháp luật phải thiện chí, trung thực, không gian dối và có thiện chí thực hiện đúng, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà chủ thể đã cam kết.

Một trong những yêu cầu của quan hệ dân sự là: các bên phải cùng nhau hợp tác, thiện chí, trung thực khi xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Các bên không chỉ chăm lo đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà còn phải tôn trọng, quan tâm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Trong quá trình xác lập, thực hiện quan hệ dân sự, các bên không được lừa dối, chây ỳ mà phải giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho nhau thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự, không bên nào được lừa dối bên nào.

Do đặc trưng của giao lưu dân sự nên trước đây BLDS năm 1995 còn có quy định: các giao dịch dân sự đã xác lập luôn được suy đoán là thiện chí, trung thực.

Vì vậy, nếu một bên cho rằng bện kia không trung thực, thiện chí thì phải đưa ra được chứng cứ, bằng chứng để chứng minh tính chất không trung thực, thiện chí đó. Hiện tại, Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vẫn quy định: việc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự là quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Nhưng nội dung này hiện không còn được ghi nhận trong BLDS năm 2015.

Thông thường, các quan hệ dân sự khi xác lập, thực hiện luôn được coi là thiện chí, trung thực. Truyền thống của pháp luật dân sự là phương thức suy đoán: mọi quan hệ dân sự được xác lập, thực hiện đều được coi là thiện chí, trung thực.

Nếu một chủ thể cho rằng, trong quá trình xác lập, thực hiện quan hệ dân sự nhưng phía chủ thể bên kia đã không thiện chí, trung thực, thì họ phải có trách nhiệm chứng minh về tính không thiện chí, trung thực của chủ thể bên kia theo các quy định và nguyên tắc tố tụng dân sự.

Nói cách khác, khi xác định yếu tố thiện chí, trung thực phải có chứng cứ để chứng minh. Dân gian đã có câu thành ngữ: “nhầm thua, vô ý mất tiền”.

4. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. 

Nguyên tắc quan trọng này thể hiện giới hạn quyền hành xử của các cá nhân, pháp nhân khi xác lập, thực hiện quan hệ dân sự. Pháp luật dân sự tôn trọng quyền tự định đoạt theo tự do ý chí của chủ thể, nhưng không phải là không bị bất kỳ một hạn chế nào.

Để bảo vệ lợi ích của nhà nước, của dân tộc, lợi ích cộng đồng và lợi ích hợp pháp của người khác, khoản 4 Điều 3 BLDS năm 2015 đã quy định rõ giới hạn “không được xâm phạm”. Nghĩa là, trong quan hệ dân sự (bao gồm cả việc xác lập, thực hiện) vì lợi ích của một chủ thể mà làm ảnh hưởng hoặc xâm phạm đến “lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” thì quan hệ dân sự đó không được pháp luật dân sự công nhận, bảo hộ.

Như vậy, việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ dân sự không phải luôn được thực hiện tùy nghi theo ý chí và mong muốn của chủ thể.

Quá trình xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ dân sự phải chú ý giới hạn cấm không được xâm phạm và thực hiện theo sự hướng dẫn của quy phạm pháp luật dân sự thể hiện tại các điều luật tương ứng.

Do các quan hệ dân sự phong phú, đa dạng nên pháp luật dân sự cho phép các chủ thể trong quá trình xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ dân sự có thể cam kết, thỏa thuận những nội dung mà BLDS không có quy định nhưng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của BLDS; không làm thiệt hại hoặc ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

5. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự. 

Có thể thấy, BLDS là bộ “luật tư” gắn liền với trách nhiệm của các chủ thể (chủ yếu là trách nhiệm tài sản), nên nguyên tắc đặc trưng là chủ thể trong quan hệ dân sự phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự do chính chủ thể đã xác lập.

Trong pháp luật dân sự thì trách nhiệm tài sản là trách nhiệm của chủ thể này trước chủ thể khác khi có hành vi vi phạm nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu hoặc khắc phục những hậu quả xấu do hành vi vi phạm gây ra. Đặc trưng của trách nhiệm pháp lý trong luật dân sự tuy cũng là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước nhưng bản chất pháp lý hoàn toàn khác và chỉ mang tính chất tài sản.

Tự chịu trách nhiệm dân sự có thể được quy định trong pháp luật dân sự nhưng cũng có thể do các chủ thể thỏa thuận trong quá trình cam kết, thỏa thuận xác lập các giao dịch dân sự (chủ yếu là đối với các quan hệ về hợp đồng).

Tự chịu trách nhiệm dân sự là cơ sở pháp lý nhằm bảo đảm cho mọi quan hệ dân sự đã được các chủ thể xác lập luôn được thực hiện nghiêm minh trong một hành lang pháp lý an toàn.

Khi có một bên trong giao dịch dân sự không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ các điều khoản mà chủ thể đó đã tự nguyện cam kết, thỏa thuận, thì họ phải tự chịu trách nhiệm dân sự trước bên có quyền bị vi phạm.

Khi một chủ thể có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến các quyền tuyệt đối của một chủ khác thì chủ thể có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần do | hành vi gây thiệt hại trái pháp luật của mình gây ra.

Trong các quan hệ dân sự mỗi chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự cụ thể phải tự chịu trách nhiệm về các hành vi và hậu quả của hành vi đó. Nếu bên vi phạm không tự nguyện thực hiện thì có thể bị cưỡng chế thực hiện.

Trong quan hệ dân sự thì trách nhiệm tài sản là trách nhiệm của chủ thể này trước chủ thể khác khi có hành vi vi phạm nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu hoặc khắc phục những hậu quả xấu do hành vi vi phạm gây ra.

Đặc trưng của trách nhiệm pháp lý trong luật dân sự tuy cũng là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước nhưng bản chất pháp lý hoàn toàn khác và nguyên tắc là chủ thể phải tự chịu trách nhiệm về cam kết, thỏa thuận xác lập quan hệ dân sự.

Do các quan hệ dân sự phong phú, đa dạng nên pháp luật dân sự cho phép các chủ thể trong quá trình xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ dân sự có quyền chuyển giao quyền và nghĩa vụ đó cho chủ thể khác.

Khi đó, trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự tùy thuộc vào nội dung cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể.

Việc để chủ thể khác phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự phụ thuộc vào nội dung ủy quyền theo các quy định về đại diện (từ Điều 134 đến Điều 143 BLDS năm 2015); hoặc các quy định về chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ theo quy định tại phần nghĩa vụ dân sự và hợp đồng (từ Điều 365 đến Điều 371 BLDS năm 2015).