Nghiên cứu biểu tượng: một số hương tiếp cận lý thuyết
Tóm tắt 1. Mở đầu 1.1. Một số thuật ngữ Biểu tượng (symbol) là một từ bắt nguồn từ ngôn ngữ cổ ở châu Âu (Symbolon trong tiếng Hy Lạp. Symbolus trong tiếng La Mã). Một số người định nghĩa « biểu tượng là biểu trưng », như vậy biểu tượng (symbol: danh từ) đã được đồng nhất hoàn toàn với biểu trưng (symbol: động từ), tuy nhiên biểu tượng trước hết là hình ảnh hoặc vật biểu trưng. Nghĩa nguyên phát là dấu hiệu nhận biết, sự phân đôi của vật tín ước, tạo ra tính chất kép: hình ảnh và vật biểu trưng, được gán cho ý nghĩa biểu trưng.
2. Những lý thuyết biểu tượng và biểu tượng tôn giáo 2.1. Lý thuyết của các nhà ký hiệu học và nhân học biểu tượng Vào đầu thế kỷ XX, các nhà ngôn ngữ học như Ferdinand Mongin de Saussure người Thụy Sĩ (1857 -1913), đồng thời cũng là nhà ký hiệu học (Semiotician), đã tạo ra một trào lưu nghiên cứu biểu tượng kết hợp với phong trào cấu trúc luận. Ký hiệu học đã tạo ra một sức hút lớn không chỉ đối với các nhà ngôn ngữ học, mà còn hấp dẫn các nhà nhân học, nhân chủng học, sử học, triết học, tôn giáo học và nghệ thuật học. 2.2. Hướng nghiên cứu biểu tượng từ dấu hiệu đến biểu trưng và thần thoại, chống lại ký hiệu học Luc Benoist, Jean Chevalier và Alain Gheerbrant… là những đại diện tiêu biểu cho hướng nghiên cứu biểu tượng từ “Dấu hiệu, biểu trưng và thần thoại”. Hướng tiếp cận này có xu hướng chống lại trào lưu ký hiệu hóa các biểu tượng. Tác giả Trần Trọng Kim trong «Phật Lục» cũng phân biệt hiệu riêng và biểu tượng. Hiệu riêng ở đây được hiểu là dấu hiệu, biểu trưng riêng để nhận biết từng vị. Hiệu riêng hẹp và chưa đạt đến ý nghĩa tổng thể của biểu tượng: «Tượng thờ chư Đại Bồ-tát, thì đầu đội mũ bảo quan, cổ đeo anh lạc, nghĩa là đeo dây châu báu, hoặc ngồi hoặc đứng trên tòa sen, có khi cưỡi trên con thú tay cầm pháp bảo hay cầm quyết, là hiệu riêng của từng vị ».
2.3. Biểu tượng học tôn giáo (The Religious Symbolism & Iconography) 2.3.1. Biểu tượng học tôn giáo và biểu tượng luận cấu trúc Biểu tượng học tôn giáo là một khoa học phương pháp luận trong nghiên cứu biểu tượng nói chung, biểu tượng luận tôn giáo nói riêng và chủ nghĩa tượng trưng kỳ ảo. Nền tảng của bộ môn khoa học này có mối quan hệ chặt chẽ với lý thuyết ký hiệu học, hệ biểu trưng, thế giới sự vật, con người, hệ hình tượng, và hình tượng nghệ thuật. 2.3.2. Ký hiệu học, hình tượng học và biểu tượng học Việc coi các thành tựu ký hiệu học hiện đại vào thế kỷ XX là toàn bộ cơ sở cho các hình thái văn hóa biểu tượng tôn giáo đã có từ thời kỳ nguyên thủy sẽ bỏ qua nhiều lý thuyết biểu tượng quan trọng trong quá khứ của các triết gia, các nhà sử gia, ngôn ngữ học cổ đại, kịch tác gia. 2.3.3. Tư duy Đông và Tây về mối quan hệ bộ ba: hình tượng – biểu tượng – khái niệm Trên một tinh thần duy lý, phương Tây xác lập mối quan hệ bộ ba chặt chẽ và biện chứng. Tin Lành loại bỏ ngẫu tượng của thờ cúng biểu tượng qua hình tượng nghệ thuật. Các biểu tượng tôn giáo thuần túy được tôn thờ như biểu tượng thánh giá. 2.3.4. Tại sao hình tượng nghệ thuật không phải ký hiệu toàn phần? Hình tượng nghệ thuật là sự kết hợp tổng thể giữa ký hiệu (ngôn ngữ học), ngôn ngữ bán ký hiệu (gốc hình ảnh phản ánh tính phồn thể của đời sống nói chung và đời sống sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo như ngôn ngữ hình tượng và ngôn ngữ biểu tượng) với ngôn ngữ hình thân (vd. Kịch hình thể). 2.3.5. Công thức phân tử của biểu tượng
Mô hình: tam vị (triadic relation) của Peirce Trong khi đó, tư duy gốc của biểu tượng là nhóm tư duy gốc hình ảnh và bán hình ảnh. Vậy thế nào là bán hình ảnh. Bán hình ảnh tức là không chỉ bao gồm hình ảnh mà còn bao gồm trực tiếp cả thân thể/ cơ thể người thực. Nghệ thuật phản ánh tổng thể quy mô hành động của con người, cả lý tính và cảm tính, cả lý trí và xúc cảm trực tiếp, truyền tải giá trị nhân văn. Cuộc sống không phải chỉ là ký hiệu. Ranh giới giữa hình tượng nghệ thuật như là hình thức phản ánh của chính cuộc sống với bản thân cuộc sống thật là mong manh. Con người nhận biết được ranh giới mong manh đó không phải nhờ hoàn toàn vào hệ thống ký hiệu mà phần lớn nhờ vào các chức năng xã hội của nghệ thuật (giáo dục đạo đức-thẩm mỹ, luân lý, phản tư, giải trí, phê bình...). Muốn thực sự nắm bắt quan điểm của hai nhóm nghiên cứu ký hiệu học và biểu tượng học tôn giáo, cần đi vào phân tích công thức phân tử của biểu tượng và biểu tượng tôn giáo mà họ nêu ra: Chú thích cho công thức 2: * Công thức khai tâm là nhận thức về năng lượng tồn tại trong mỗi cá thể và cộng đồng. Do đó, nó có thể chứa đựng các giá trị luân lý, điều chỉnh hành vi đạo đức, tư duy của con người, lý tính và xúc cảm tôn giáo, hay như các giá trị biểu tượng văn hóa được xem là vấn đề trung tâm của lý thuyết phân tâm học, cấu trúc tâm thần bộ thuộc phân tâm học (cái tôi – cái đó – cái siêu tôi)... Từ đó tạo ra các rừng biểu tượng tôn giáo. * Ngôn ngữ cơ thể: Vật biểu trưng là một hòn đá nhưng lại có hình dạng của một bộ phận cơ thể (Ví dụ: Linga). Vào thời cổ đại, thuyết tổng thể về tỷ lệ, về thước đo cơ thể con người (tỷ lệ vàng) trong nghệ thuật kiến trúc của Vitruvius đã là cơ sở cho thuyết nhân thể mỹ (cái đẹp của cơ thể người) trong sáng tạo nghệ thuật tôn giáo của thời kì Phục Hưng. Thân thể là một biểu trưng sống động cho triết lý phồn thực, cho sức mạnh phản ánh tổng thể đời sống của nghệ thuật, cho mình Chúa, cho các biểu tượng Phật sống, các biểu tượng huyền thoại trực tiếp từ những con người hiện thực…
Trong công thức 2, chúng ta quan sát thấy không có hiện tượng “thay đổi khái niệm” từ thần thoại (tư duy gốc hình ảnh là cái phổ quát, khi chuyển vào ngôn ngữ hình tượng và biểu tượng tôn giáo, vẫn giữ nguyên các đặc tính tổng thể của hình ảnh đời sống được khái quát hóa, biểu tượng hóa) sang ngôn ngữ ký hiệu (nhóm nhỏ của cái phổ quát). Trong mối quan hệ giữa văn hóa tôn giáo và biểu tượng, ngôn ngữ biểu tượng được xem là một thành tố quan trọng của văn hoá do con người tạo ra để sử dụng như một loại hình công cụ thông tin và giao tiếp có tính tượng trưng. Chúng ra đời, tồn tại và tác động đến đời sống văn hóa của con người. Việc tìm hiểu ngôn ngữ biểu tượng cũng chính là tìm hiểu đời sống văn hoá và xã hội loài người thông qua các biểu tượng văn hoá do họ sáng tạo ra. Vì vậy, biểu tượng học tôn giáo chính là khoa học có chức năng giải mã các thành tố văn hoá được sản sinh trong đời sống của con người.
Luc Benoist (2006), Dấu hiệu, biểu trưng và thần thoại, Nxb. Thế giới, tr.3. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà Nẵng - Trường Viết văn Nguyễn Du, tr. XIX. Trần Trọng Kim (2010), Phật lục, Nxb. Tôn giáo, tr.105. Đỗ Thị Minh Thảo (2018), Tương tác mở trong mỹ học Việt Nam đương đại, Nxb. Thông tin & truyền thông, tr. 295. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng một số hướng tiếp cận lý thuyết, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 30.
|