Làm thế nào xây dựng phong cách của người lãnh đạo, quản lý

Xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ của cán bộ cơ sở

Ngày đăng: 04/04/2018 02:50
Mặc định Cỡ chữ

Phong cách lãnh đạo, quản lý có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến uy tín của cán bộ và tác động đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức, phong cách của cán bộ cấp dưới và lợi ích của quần chúng. Thực tế cho thấy, có những nhiệm vụ chưa hoàn thành tốt, cán bộ chưa có uy tín, không phải do người cán bộ thiếu nhiệt tình, kiến thức, năng lực hay phương tiện vật chất bảo đảm mà còn do phong cách lãnh đạo, quản lý chưa phù hợp. Bởi vậy, việc xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ cho cán bộ cơ sở là vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài.

Cán bộ xã trực tiếp làm công tác tuyên truyền, vận động nhân dân ở cơ sở - Nguồn: laichau.gov.vn

Từ nhận thức…

Cán bộ cơ sở là người trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có quan hệ trực tiếp với quần chúng, với dân, gần dân, sát dân nhất, giải quyết mọi vấn đề ở cơ sở, trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của nhân dân. Phong cách, lề lối làm việc của cán bộ cơ sở có vai trò to lớn để nghị quyết, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước thấm sâu vào nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, niềm tin của quần chúng và đi vào cuộc sống.

Có nhiều kiểu phong cách lãnh đạo, quản lý song cán bộ cơ sở cần định hướng lựa chọn và xây dựng cho mình một phong cách dân chủ, bởi đây là kiểu phong cách có nhiều ưu điểm nhất, đem lại hiệu quả cao trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức và nâng cao uy tín của người cán bộ.

Phong cách dân chủ được đặc trưng bằng việc người cán bộ biết sử dụng quyền lực của mình một cách hợp lý, không lạm dụng quyền lực; biết lắng nghe, tranh thủ ý kiến của cán bộ cấp dưới, của quần chúng, đưa họ tham gia vào việc ra quyết định và thực hiện quyết định; có cách thức làm việc khoa học, tác phong sâu sát, cụ thể, tỷ mỷ. Người cán bộ cơ sở phải luôn đặt lợi ích của tập thể, của quần chúng lên trên hết, vì lợi ích của tập thể, của quần chúng. Mọi suy nghĩ hành động đều vì tập thể, vì quần chúng. Không có biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bản vị, vì lợi cá nhân mà vi phạm lợi ích của tập thể, vì lợi ích nhóm mà vi phạm lợi ích của tập thể lớn, làm giảm sút niềm tin của cấp dưới, của quần chúng nhân dân đối với mình. Sinh thời, Bác Hồ đã căn dặn mỗi cán bộ: “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh”[1].

Trong công tác lãnh đạo, quản lý người cán bộ biết đặt mình trong khuôn khổ tổ chức. Không bao giờ được đặt mình cao hơn tổ chức, ở ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ chức. Biết kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách. Tôn trọng và lắng nghe ý kiến tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng phải có tính nguyên tắc, tính quyết đoán, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm, có những quyết định kịp thời, đặc biệt trong những thời điểm quan trọng, then chốt, không dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể, thiếu trách nhiệm.

Người cán bộ cơ sở cần có cách thức làm việc khoa học, mang tính kế hoạch, bài bản, sáng tạo và hiệu quả. Biết tổ chức, phân chia, sắp xếp công việc, tổ chức động viên cấp dưới và quần chúng thực hiện. Kiểm soát khéo léo việc chấp hành của cấp dưới và quần chúng, biết rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng kịp thời. Không ngừng sáng tạo, đổi mới, tìm ra hướng đi mới, cách làm hay, mang lại hiệu quả. Khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, được chăng hay chớ, tùy tiện, thiếu kế hoạch, luộm thuộm, gặp sao làm vậy, làm chiếu lệ, không ngăn nắp, làm không đến nơi đến chốn, hoặc bệnh phô trương hình thức.

Cấp cơ sở là cấp tổ chức thực hiện, cấp hành động, hiện thực hóa đường lối của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, chủ trương, kế hoạch, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, đòi hỏi người cán bộ phải có tác phong sâu sát, cụ thể, tỷ mỷ, gương mẫu, nói đi đôi với làm. Thực sự hiểu rõ từng người, từng việc, từng mốc thời gian cụ thể. Đi sâu, đi sát cấp dưới, quần chúng để hiểu rõ cấp dưới, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng, chung chung, qua loa, đại khái, nói mà không làm, nói nhiều làm ít hoặc “nói một đường, làm một nẻo”.

Trong hoạt động lãnh đạo, quản lý và trong cuộc sống cá nhân phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải thể hiện siêng năng, chăm chỉ, toàn tâm, toàn ý với công việc chung. Thực hiện nếp sống văn minh, đoàn kết, tương thân, tương ái; thực hành tiết kiệm, sống khiêm tốn, giản dị, trong sạch, chống xa hoa, lãng phí.

Thực tiễn cho thấy ở nơi nào, ở người cán bộ nào có phong cách dân chủ sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cấp dưới, cho quần chúng chủ động trong công việc, phát huy trí tuệ, sáng kiến, tham gia tích cực vào công việc chung, đồng thời tạo ra bầu không khí tâm lý tích cực, gần gũi, thân thiện, đoàn kết, tin tưởng. Uy tín của người cán bộ vì thế ngày càng được củng cố và nâng cao. Ngược lại ở nơi nào, cán bộ nào có phong cách độc đoán, chuyên quyền, hoặc tự do, tùy tiện thì ở đó mất dân chủ, trí tuệ tập thể không được phát huy, công việc không chạy, kém hiệu quả, tập thể không đoàn kết, niềm tin thấp.

Thực tế hiện nay vẫn còn cán bộ cơ sở thực hiện công tác lãnh đạo, quản lý theo kiểu độc đoán, chuyên quyền, tập trung quyền lực vào tay mình; chưa vì tập thể, hoặc vì lợi ích nhóm mà vi phạm lợi ích của tập thể, của quần chúng. Không tuân thủ nghiêm nguyên tắc lãnh đạo tập thể, thiếu khiêm tốn, thiếu tôn trọng quần chúng, chưa thu hút và phát huy trí tuệ tập thể. Quyết định hay việc làm còn có biểu hiện mang tính chủ quan, thiếu sự phân tích, xem xét kỹ lưỡng. Một số cán bộ cơ sở còn có biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, hành chính, giấy tờ, không nghiên cứu, xem xét tình hình thực tiễn “cưỡi ngựa xem hoa”, thiếu sâu sát, cụ thể, tỷ mỷ, không gương mẫu, nói chưa đi đôi với làm hay “nói một đường, làm một nẻo”, còn lãng phí, tham nhũng, làm giảm sút niềm tin của cấp dưới, của quần chúng.

Đến hành động…

Phong cách lãnh đạo, quản lý là nét đặc sắc, đặc trưng riêng và là sự sáng tạo của mỗi cán bộ, thông qua quá trình học tập và rèn luyện thực sự nghiêm túc và trách nhiệm, trên cơ sở sự chuyển hóa từ nhận thức đến hành động, thấm sâu giữa lời nói với việc làm, sự thống nhất giữa cách nghĩ, cách làm và cách sống. Vì vậy, để xây dựng, củng cố phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ của cán bộ cơ sở, cần quan tâm một số biện pháp sau:

Một là, nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ cơ sở.

Phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức là yếu tố nền tảng để hình thành và phát triển phong cách lãnh đạo, quản lý. Chỉ có lập trường chính trị, tư tưởng kiên định, vững vàng, đạo đức, lối sống tốt đẹp, người cán bộ mới tích cực nghiên cứu, tìm chọn con đường, biện pháp thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao nhất, đem lại lợi ích thiết thực cho tập thể. Đó chính là mảnh đất tốt để nảy nở, phát triển phong cách dân chủ. Cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo; cách làm việc dân chủ, tập thể, nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tiễn chỉ có thể là sản phẩm của trí tuệ, của tri thức, tình cảm đúng đắn, của phẩm chất nhân cách người cán bộ. Vì vậy, yêu cầu mỗi cán bộ ở cơ sở phải tích cực học tập, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống để có khả năng gây ảnh hưởng đến mọi người xung quanh và cấp dưới, lôi cuốn, thuyết phục, khơi dậy niềm tin ở người khác bằng tính kiên định, vững vàng trước thử thách, khó khăn, bằng ngôn ngữ, thái độ, cử chỉ, tính nhất quán trong lời nói và hành động.

Hai là, chú trọng bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị, tri thức khoa học lãnh đạo, quản lý, trình độ chuyên môn, năng lực tổ chức cho đội ngũ cán bộ cơ sở.

Cần chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, tri thức về khoa học lãnh đạo, quản lý như chức năng của lãnh đạo, quản lý; nhân cách của người lãnh đạo, quản lý; những vấn đề tâm lý trong công tác cán bộ và quan điểm của Đảng về công tác cán bộ; các kiểu phong cách lãnh đạo, quản lý; phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ; những kỹ năng cần thiết của cán bộ lãnh đạo, quản lý [kỹ năng lập kế hoạch, phân tích, xử lý thông tin; kỹ năng tổ chức, điều hành cuộc họp; kỹ năng soạn thảo văn bản; kỹ năng giao việc, bố trí, phân công công việc; kỹ năng thuyết trình, động viên, khuyến khích cấp dưới, giao tiếp, ứng xử, phối hợp và làm việc nhóm; kỹ năng sử dụng phương tiện]. Đồng thời, cần quan tâm bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, làm cơ sở cho việc xây dựng và phát triển phong cách dân chủ.

Tổ chức bồi dưỡng cán bộ thông qua các đợt tập huấn, học tập chính trị tại chức hàng năm. Thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 15-5-2016 “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Hướng dẫn Số 52-HD/BTGTW của Ban Tuyên giáo Trung ương, ngày 20-11-2017 về học tập chuyên đề năm 2018 “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Nghị quyết Trung ương 4 [khóa XII]. Thông qua bình xét phân loại đảng viên, nhận xét, đánh giá cán bộ, thông qua đóng góp, phê bình của tổ chức tổ chức quần chúng như công đoàn, phụ nữ, đoàn thanh niên để nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ cơ sở. Tổ chức thăm dò ý kiến của quần chúng trong cơ quan, đơn vị, địa phương đối với phẩm chất, năng lực, phong cách của đội ngũ cán bộ. Thực hiện tốt quy định cán bộ cấp trên bồi dưỡng cán bộ cấp dưới; phát huy tính tự giác, tích cực tự bồi dưỡng của mỗi cán bộ.

Ba là, tăng cường rèn luyện trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ, trong sinh hoạt, học tập, trong hoạt động phối hợp công tác với các cơ quan, đơn vị, trong giải quyết các mối quan hệ xã hội.

Bất cứ việc gì cũng cần đầu tư suy nghĩ, làm việc có kế hoạch, mục đích rõ ràng, bám sát nhiệm vụ chính trị, sâu sát thực tế, nghiên cứu nắm chắc tình hình; chương trình kế hoạch phải phù hợp với chức trách, nhiệm vụ, đối tượng và thường xuyên được bổ sung, hoàn thiện trong quá trình tổ chức thực hiện. Xác định rõ nội dung, yêu cầu, chỉ tiêu và những giải pháp cụ thể. Lãnh đạo, quản lý toàn diện, nhưng không dàn trải mà có trọng tâm trọng điểm, coi trọng tính thiết thực, hiệu quả. Chú trọng rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn.

Nêu cao tính tự giác, làm chủ bản thân trong cuộc sống, sinh hoạt, học tập. Tôn trọng tập thể, lắng nghe ý kiến quần chúng. Luôn thể hiện thái độ đoàn kết, thân tình, trung thực, có nếp sống văn hoá, ý thức tổ chức kỷ luật, nêu cao tự phê bình và phê bình, nghiêm khắc với bản thân, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm; phát huy tính tự giác, mô phạm, nói đi đôi với làm, gương mẫu cho cấp dưới và quần chúng noi theo.

Bốn là, chủ động khắc phục phong cách quan liêu. Đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện xa rời tập thể, xem thường quần chúng, trốn tránh trách nhiệm, làm việc vô nguyên tắc, nói một đường, làm một nẻo; chỉ biết lo cho mình, không biết quan tâm người khác; làm việc thiếu kế hoạch, thiếu tiến độ, thụ động chờ đợi chỉ thị cấp trên; thiếu sâu sát, cụ thể, tỷ mỷ, thiếu gương mẫu.

Để khắc phục phong cách quan liêu một cách triệt để, phải nêu cao ý thức phục vụ nhân dân, thật sự tôn trọng và bảo đảm quyền làm chủ của quần chúng. Rèn luyện phong cách dân chủ, khoa học, thiết thực, cụ thể, sâu sát. Nâng cao kiến thức, năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ. Cải tiến tổ chức bộ máy gọn nhẹ, giảm bớt những khâu trung gian không cần thiết. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; kết hợp chặt chẽ kiểm tra, giám sát của Đảng và tổ chức chính quyền với kiểm tra của quần chúng.

Năm là, hoàn thiện hệ thống các quy định, quy chế, quy tắc trên cơ sở quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy môi trường hoạt động dân chủ trong cơ quan, đơn vị, địa phương.

Hoàn thiện hệ thống quy chế lãnh đạo của các tổ chức đảng, quy chế hoạt động của tổ chức chính quyền. Định kỳ kiểm tra, rà soát, bổ sung hệ thống quy chế cho phù hợp với sự phát triển của tình hình. Kịp thời phổ biến những nội dung mới, những nội dung bổ sung, điều chỉnh trong chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, hệ thống văn bản, quy chế mới, làm cơ sở cho đội ngũ cán bộ kịp thời có sự bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện phong cách lãnh đạo, quản lý của mình.

Tạo dựng môi trường làm việc, bầu không khí thực sự dân chủ trong mọi hoạt động. Bằng các thiết chế dân chủ, tạo điều kiện cho mỗi cán bộ cơ sở phát huy hết sức lực, khả năng, trí tuệ của mình, được thảo luận, đề xuất, hiến kế cho lãnh đạo trong các lĩnh vực hoạt động. Cán bộ đứng đầu ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương phải tiêu biểu về phong cách dân chủ cho cán bộ cấp dưới học tập, noi theo. Việc đánh giá cán bộ, đảng viên ở cương vị lãnh đạo, quản lý phải chú trọng cả về phẩm chất, năng lực và phong cách, phương pháp, tác phong công tác.

Thực tiễn luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, đặt ra những yêu cầu mới đối với việc tu dưỡng, rèn luyện và hoàn thiện phong cách lãnh đạo, quản lý của người cán bộ. Việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện phong cách dân chủ của cán bộ cơ sở đòi hỏi thực hiện sự thống nhất và đồng bộ giữa giải pháp từ phía lãnh đạo cơ quan, đơn vị, địa phương và tự học tập, rèn luyện không ngừng của bản thân mỗi cán bộ. Có như vậy mới đem lại hiệu quả thiết thực./.

Nguyễn Văn Tỵ

----------------------------------------------------

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.56

Theo: tapchicongsan.org.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Xây dựng phong cách người đứng đầu theo tư tưởng của Bác Hồ

[ĐCSVN] - Phong cách của Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Bác để lại cho Đảng và dân tộc ta. Việc nghiên cứu, học tập, vận dụng phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có phong cách lãnh đạo của người đứng đầu, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có đức, có tài.

Tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã trở thành di sản tinh thần vô cùng quý giá đối với Đảng và dân tộc ta

Những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản vô giá đối với cách mạng Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về phong cách lãnh đạo sâu sát. Chỉ tính trong 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc [1955 - 1965], mặc dù tuổi đã cao, công việc bộn bề, nhưng Bác Hồ đã đi thăm trên 700 địa điểm ở các địa phương, nông trường, xí nghiệp, đơn vị bộ đội, hợp tác xã nông nghiệp… từ miền núi đến hải đảo xa để thăm hỏi đồng bào, chiến sỹ, xem xét tình hình, kiểm tra công việc.

Bác Hồ nói chuyện tại buổi khai mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân, chính
ở cơ quan Trung ương [6/2/1953]. [Ảnh tư liệu]

Phong cách lãnh đạo của người đứng đầu bao gồm tổng hợp các biện pháp, phương pháp, cách thức riêng, tiêu biểu mà người đứng đầu sử dụng hàng ngày để thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo của mình. Phong cách được quy định bởi chức năng, nhiệm vụ, phẩm chất, tri thức, điều kiện chính trị, điều kiện sống của người đứng đầu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, nhắc nhở về phong cách của người đứng đầu là: Phong cách dân chủ, nhưng quyết đoán; lãnh đạo sát sao, quyết đoán, khéo dùng người, trọng dụng người, cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo. Các nội dung này được thể hiện cụ thể như sau:

Một là, phong cách dân chủ nhưng quyết đoán: Bác Hồ yêu cầu người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức phải: “Gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp xếp nó thành những ý kiến có tính hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, làm nó thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó” [1].

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: Một người dù có tài giỏi đến đâu, cũng không thể nắm được hết mọi mặt của một vấn đề, cũng không thể biết hết được mọi việc trong đơn vị cũng như đời sống của xã hội. Do đó, cần có cách làm việc tập thể để phát huy trí tuệ của tập thể, trí tuệ của đông đảo quần chúng nhân dân nhằm hoàn thành nhiệm vụ của một tập thể, một địa phương, mà nếu chỉ riêng người cán bộ lãnh đạo, quản lý thì không làm nổi.

Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu, người quản lý; có ý thức tập thể cao, tạo ra bầu không khí làm việc dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng không có tính quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể thì không có những kịp thời, đáp ứng yêu cầu và công việc không thể tiến triển được.

Hàng ngày Bác Hồ đọc báo, đọc thư của đồng bào gửi đến, thấy những ý kiến hay, cần tiếp thu, những việc cần giải quyết Người đều dùng bút đỏ đóng khung lại, chuyển đến cơ quan có trách nhiệm yêu cầu nghiên cứu giải quyết.

Lãnh đạo sâu sát sẽ nâng cao tính khách quan, minh bạch, tăng cường được công tác kiểm tra, giám sát, từ đó kiểm soát tốt hơn việc thực thi quyền lực, kiểm tra, giám sát chặt chẽsử dụng tài sản của Nhà nước, của nhân dân, góp phần phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu dựa vào quần chúng nhân dân để giám sát, kiểm tra, nhằm loại trừ các hành vi trục lợi, tham ô, biến của công thành của riêng…

Hai là, phong cách khéo dụng người, trọng dụng người tài: Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Việc dùng người phải hợp lý, đúng năng lực và sở trường của họ, đúng người, đúng việc, chớ “dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn” [2] và phải cho họ hiểu rõ mọi mặt các công việc họ phải phụ trách. Dùng người mà không đúng công việc sẽ không chạy, không được việc, làm thui chột nhân tài, có hại cho Đảng và cũng thể hiện sự yếu kém trong công tác cán bộ của Đảng.

Ba là, phong cách cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo: Theo Bác Hồ, cán bộ lãnh đạo, quản lý, phải là người vừa “hồng” vừa “chuyên”, có đạo đức cách mạng, có tinh thần anh dũng, gương mẫu, chịu đựng gian khổ, hy sinh và có năng lực thực thi nhiệm vụ được giao.

Để có tri thức khoa học, người đứng đầu phải chịu khó học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ về chính trị, văn hóa, nghiệp vụ. Nếu chủ quan, tự mãn, ít nghiên cứu lý luận và thực tiễn nên gặp thuận lợi dễ lạc quan, gặp thành công sớm phải căn bệnh kiêu ngạo, khi gặp khó khăn thì dễ lúng túng, bị động, dẫn đến bi quan, dao động, lập trường cách mạng không vững.

Bác Hồ nhắc nhở: “Học hỏi là việc phải tiếp tục, suốt đời. Suốt đời phải gắn lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày thay đổi mới, nhân dân càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân” [3].

Trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng phong cách lãnh đạo của người đứng đầu có ý nghĩa quan trọng góp phần truyền cảm hứng, tạo niềm tin và động lực cho cán bộ, đảng viên tích cực tham gia, nêu cao trách nhiệm trong công tác và cuộc sống, tạo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân.

Để xây dựng phong cách người đứng đầu, trong điều kiện mới, chúng ta cần tập trung thực hiện các giải pháp cơ bản, như tăng cường giáo dục, rèn luyện, xây dựng phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo, khơi dậy ý thức tự giác, tinh thần học hỏi thường xuyên trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên; xây dựng các quy định về đạo đức công vụ, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát…

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII và các chuyên đề về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, ‘tự chuyển hóa” trong nội bộ, đòi hỏi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp phải vừa “hồng”, vừa “chuyên”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu phải gương mẫu, không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh./.

-------------------------------

1. Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 272.

2, 3. Sđd, Tập 5, tr. 273, 293.

Trần Thông

TIN LIÊN QUAN

  • Hà Nội xây dựng 3 phương án tổ chức lễ khai mạc, lễ bế mạc SEA Games 31
  • Chủ tịch nước dự Lễ khánh thành Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt
  • Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí thành lập thành phố Phổ Yên
  • Điều tra nguyên nhân tử vong của nam sinh Bình Định mất tích khi đi nhập học
  • Công dân nhập ngũ nhiễm COVID-19 xử lý thế nào?
  • Liên tiếp phát hiện tài xế ô tô dương tính với ma túy
  • Nạo vét hàng loạt bãi cạn trên các tuyến đường thủy quốc gia

Xây dựng và rèn luyện phong cách người cán bộ lãnh đạo theo lời Bác dặn

05/05/2020 | 14:53

Nhân cách của cán bộ lãnh đạo là tổng hòa các yếu tố về phẩm chất và năng lực, nhất là yêu cầu về đạo đức. Việc xây dựng và rèn luyện nhân cách cán bộ lãnh đạo là một nhiệm vụ thường xuyên, cần thiết, có ý nghĩa quan trọng của công tác cán bộ.

YÊU CẦU CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN CÁCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO

Xây dựng và rèn luyện nhân cách người cán bộ lãnh đạo là một trong những mối quan tâm hàng đầu trong suốt cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thấm nhuần quan điểm: “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn thì mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”, việc xây dựng và rèn luyện nhân cách cán bộ lãnh đạo là một trong những nội dung quan trọng của công tác cán bộ, góp phần để mỗi người hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Nhân cách là những phẩm chất và năng lực của con người, là tổng hòa của tài và đức. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo nói riêng phải có đủ tài và đức - đó là điều kiện cần và đủ; trong đó, đạo đức được coi là gốc của nhân cách và tài giữ vai trò quan trọng: “Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn… chính trị là đức, chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức thì hỏng”. Những yêu cầu của Hồ Chí Minh về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt trong tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở mỗi giai đoạn nhất định, yêu cầu về năng lực và phẩm chất đạo đức của người cán bộ lãnh đạo lại có những yêu cầu cụ thể, song tựu trung lại thì đó phải là những người luôn nỗ lực “học để làm việc, làm người làm cán bộ. Học để phục sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”.

Người cán bộ lãnh đạo phải có tài, cụ thể là:

1] Có tư duy lý uận, "lý luận đi đôi với thực tiễn", góp phần vào việc xây dựng, triển khai thực hiện và sửa đổi, bổ sung các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp thực tiễn.

2] Có năng lực chuyên môn, vận dụng kiến thức chuyên môn phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn hiệu quả.

3] Có năng lực lãnh đạo, quản lý; dự báo - định hướng phát triển; tổng kết thực tiễn.

4] Có kiến thức xã hội; sử dụng tốt công nghệ thông tin... Muốn có được năng lực đó, người cán bộ lãnh đạo phải nỗ lực học tập, rèn luyện, vì cách mạng cũng là một nghề, làm nghề gì cũng phải học.

Đồng thời, người cán bộ lãnh đạo phải có đức, cụ thể là:

1] Phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; luôn đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình.

2] Gương mẫu đi đầu, dấn thân đảm nhận những công việc khó; dám nghĩ, dám làm, quyết tâm vượt mọi khó khăn trong lãnh đạo, chỉ đạo và phải có tài dùng người "tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy".

3] Luôn thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; thống nhất giữa nói và làm, nói ít làm nhiều; gắn bó với nhân dân, vì nhân dân tận tâm, tận lực phục vụ, xứng đáng là người lãnh đạo, người "công bộc" trung thành của nhân dân...

Những yêu cầu cần và đủ về tài và đức Hồ Chí Minh nêu ra góp phần xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo, đảm bảo uy tín và khả năng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quần chúng thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Không ít lần nhấn mạnh rằng, chức vụ - quyền lực của mỗi cán bộ lãnh đạo là do nhân dân tín nhiệm, ủy thác, nên theo Hồ Chí Minh: cùng với việc Đảng cầm quyền, được giao đảm nhiệm các vị trí trọng yếu trong cơ quan Đảng và Nhà nước, khi thực thi các quyền lực đó - cán bộ lãnh đạo là những người đại diện cho nhân dân, là “công bộc của dân”, chứ không phải là “quan cách mạng”. Do đó, trong mọi thời điểm, thời chiến hay thời bình, để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ, người cán bộ lãnh đạo không chỉ phải có bản lĩnh, kiên định thực hiện mục tiêu cách mạng mà còn phải luôn học hỏi và lắng nghe; dám nghĩ, dám làm và dám ra quyết định ở những thời điểm khó khăn, có tính bước ngoặt; gần gũi, chân thành, tin tưởng đồng chí, đồng bào, v.v.. để quy tụ được mọi người, nhân nguồn sức mạnh của khối đoàn kết trong Đảng, địa phương, cơ quan, đơn vị.

Hồ Chí Minh từng nói, “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”, cho nên, Người không chỉ yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, người cán bộ lãnh đạo nói riêng phải luyện tài: làm giàu tri thức, bồi dưỡng tư duy, cách nhìn tổng thể, biện chứng, chủ động, sáng tạo... mà còn phải rèn luyện đạo đức cách mạng, “như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Từ nhận thức sâu sắc rằng, thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều, những yêu cầu của Hồ Chí Minh về việc cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên, liên tục rèn luyện nhân cách; chủ động phòng và kiên quyết chống lại tư tưởng ỷ lại, lối làm việc dựa trên kinh nghiệm, thiếu tư duy khoa học, sáng tạo cùng những thói hư tật xấu, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu” càng trở nên cần thiết và có ý nghĩa. Theo Người, các cơ quan Đảng, Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là “công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác công việc chung cho dân”, cho nên “việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta. Trên tinh thần đó, muốn lãnh đạo đúng, hiệu quả - người cán bộ lãnh đạo phải gần dân, hiểu dân, vì dân, xứng đáng là công bộc của dân; phải thật thận trọng, phải giữ gìn trước những cám dỗ của quyền lực và là một tấm gương mẫu mực về nhân cách người lãnh đạo luôn “biết làm cho dân tin, dân phục, dân yêu”.

Hồ Chí Minh không chỉ đặc biệt chú trọng công tác cán bộ; nêu rõ, yêu cầu và chỉ ra biện pháp để mỗi người cán bộ lãnh đạo rèn đức, luyện tài, vừa hồng vừa chuyên, xứng đáng với trọng trách Đảng và Nhà nước giao phó, mà Người còn là một tấm gương mẫu mực, trong sáng về nhân cách người lãnh đạo tận tâm, tận lực, suốt đời phấn đấu hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Ở Người là sự thống nhất giữa nói và làm, giữa giáo dục đạo đức và nêu gương đạo đức, nhất quán giữa công việc và đời tư, giữa đạo đức một vĩ nhân và đạo đức đời thường. Tâm huyết và trăn trở với công tác cán bộ, trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh vẫn dành một phần để nói về Đảng, về sự phấn đấu, tu dưỡng của người cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo nói riêng: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn thì mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”.

Chủ tịch HỒ CHÍ MINH

XỨNG ĐÁNG LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO, NGƯỜI ĐẦY TỚ THẬT TRUNG THÀNH CỦA NHÂN DÂN

Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, những yêu cầu về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo theo quan điểm của Hồ Chí Minh càng trở nên cần thiết và có ý nghĩa. Thực tế nhiệm vụ cách mạng, những quy luật vận động của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã hoàn toàn khác với những quy luật vận động của thời kỳ đấu tranh giành chính quyền. Con đường để nhân dân Việt Nam đi đến độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phát triển bền vững không chỉ dừng lại ở lối làm việc chủ quan và kinh nghiệm. Vì vậy, với vị thế lãnh đạo, người cán bộ cần phải bồi dưỡng, nâng cao năng lực lãnh đạo, bao gồm cả năng lực trí tuệ, khả năng quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện; phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, phòng và chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa". Đó chính là tiêu chí, là thước đo, góp phần đánh giá hiệu quả công tác của người cán bộ lãnh đạo.

Trong diễn văn khai mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 7 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn rèn luyện, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao...”. Song vẫn còn “một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ; thiếu gương mẫu, chưa thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân; vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm...”. Hơn bao giờ hết, nhằm đáp ứng yêu cầu và tình hình, nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc xây dựng và rèn luyện nhân cách của cán bộ lãnh đạo theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh càng trở nên cần thiết, cấp bách. Do đó, để khắc phục những tồn tại trên; thấm nhuần những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh và thiết thực đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo chủ đề năm 2018 về “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trong công tác cán bộ cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, cấp ủy các cấp chú trọng việc rèn luyện nhân cách của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trên cơ sở tiêu chí, tiêu chuẩn của từng chức danh, chức vụ cán bộ lãnh đạo được cấp có thẩm quyền ban hành. Từ đó, tiếp tục lựa chọn, đánh giá, đưa vào quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt cán bộ lãnh đạo đúng theo năng lực và phẩm chất đạo đức. Tổ chức thực hiện tốt việc bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ lãnh đạo theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 và Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; kiên quyết khắc phục “tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội,... cần được ngăn chặn và đẩy lùi” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra.

Hai là, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp; gắn đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Tạo điều kiện và gắn việc giáo dục rèn luyện của tập thể với phát huy tính chủ động tự giác trong rèn luyện và tu dưỡng của mỗi cá nhân cán bộ lãnh đạo.

Ba là, nêu cao tính tiên phong gương mẫu, thống nhất giữa nói và làm của người cán bộ lãnh đạo trong xây dựng kế hoạch và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ; giữa nỗ lực nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý với rèn luyện phong cách, tác phong công tác khoa học, dân chủ, sáng tạo, gần dân, trọng dân, gắn bó mật thiết với nhân dân; giữa nêu gương đạo đức, lối sống, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với phòng và chống quan liêu, lãng phí, tham nhũng, lợi dụng chức quyền, thu vén cá nhân…; giữa tự phê bình và phê bình với nghiêm túc khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị.


Theo Tạp chí Tuyên giáo

I. Phong cách lãnh đạo là gì ?

Phong cách lãnh đạo là phương thức và cách tiếp cận của một nhà lãnh đạo để đề ra các phương hướng, thực hiện các kế hoạch và tạo động lực cho nhân viên. Dưới góc nhìn của một nhân viên, phong cách đó thường được thể hiện qua các hành động hoặc rõ ràng hoặc ngầm ý từ lãnh đạo của họ [Newstrom, Davis, 1993].

Mỗi một một vị lãnh đạo đều có một phương pháp lãnh đạo ưa thích nhưng cũng có kết hợp nhiều phong cách lãnh đạo cho phù hợp với từng hoàn cảnh. Lãnh đạo thường cảm thấy thoải mái nhất trong một phong cách, nhưng họ vẫn hiểu rằng phải chọn những phong cách hoặc điểm nhìn khác đề phù hợp trong tình huống vì thế hay có thuật ngữ “ Lãnh đạo tình huống”

Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Thứ ba - 11/02/2020 16:15 3.636 0
Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhằm cung cấp tài liệu sinh hoạt chi bộ, đoàn thể tại cơ quan, đơn vị năm 2018, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách: Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh [Tài liệu sinh hoạt chi bộ, đoàn thể, cơ quan, đơn vị năm 2018]. Đây là tài liệu cần thiết và hữu ích, góp phần đưa các nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành nếp sinh hoạt thường xuyên của chi bộ, đoàn thể, cơ quan, đơn vị. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với các đồng chí và bạn đọc.

LỜI NÓI ĐẦU

Phong cách và tác phong là hai khái niệm thường đi đôi với nhau. Phong cách hàm nghĩa rộng hơn, thể hiện những cung cách, cách thức hành xử của một người hay một nhóm người, được thể hiện nhất quán trong lao động, học tập, sinh hoạt, tạo nên cái riêng của mỗi người, phân biệt người này với những người khác. Phong cách hình thành trên cơ sở những yếu tố về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tài năng, sở trường, khí chất của từng người… Tác phong hàm nghĩa cụ thể hơn so với phong cách. Có thể hiểu tác phong là sự thể hiện ra bên ngoài của phong cách, tạo thành lề lối làm việc, thói quen ứng xử, nề nếp sinh hoạt...Trong cuốn sách này, chúng tôi sử dụng nhất quán khái niệm “phong cách Hồ Chí Minh” với cả hai hàm nghĩa của “phong cách” và “tác phong”; sử dụng khái niệm “phong cách làm việc” và “phong cách lãnh đạo” để nói về phong cách, tác phong công tác trong công việc và trong lãnh đạo, điều hành đất nước.

Phong cách làm việc và phong cách lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang đậm dấu ấn riêng của Người, gắn liền với tư tưởng, đạo đức, lối sống, mục đích sống của Người; vừa dân tộc vừa hiện đại, vừa khoa học vừa cách mạng, vừa cao cả vừa thiết thực; thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức, thẩm mỹ; là tấm gương sáng cho mọi người, mọi thế hệ người Việt Nam học tập và làm theo.

Khi còn nhỏ, Hồ Chí Minh đã sớm định hình một phong cách nền nếp, ngăn nắp, cần mẫn. Những năm tháng bôn ba ở nước ngoài, lăn lộn với cuộc sống của người lao động, hòa mình trong phong trào công nhân đã hình thành ở Người một phong cách làm việc khoa học, quý trọng thời gian và sắp xếp công việc hàng ngày một cách cụ thể, hợp lý. Những trải nghiệm cùng với những tác động và ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa phương Đông và phương Tây mà Người đã tiếp nhận trong những năm tháng hoạt động cách mạng đã hình thành ở Chủ tịch Hồ Chí Minh một phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo đặc trưng của Người, được thể hiện đậm nét và sâu sắc trong cách giải quyết công việc hàng ngày trên cương vị là người đứng đầu Đảng và Nhà nước sau này.

Có thể nói một cách rất khái quát về phong cách làm việc Hồ Chí Minh, đó là lề lối, cung cách, cách thức làm việc dân chủ, quần chúng, khoa học, nêu gương, thể hiện trong hoạt động lãnh đạo của Người với những đặc điểm quan trọng như: phong cách dân chủ, quyết đoán, sâu sát, khéo dùng người, trọng dụng người tài, cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo.

Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là những bài học quý báu đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30-10-2016 của Ban Chấp hành Trung ương " Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Phần thứ nhất

XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của đội ngũ cán bộ. Người coi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”[1], “cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy”2và đi đến kết luận: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”1. Vì thế, Người rất quan tâm đến xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, trong đó có xây dựng, rèn luyện phong cách công tác. Xây dựng phong cách làm việc của người cán bộ, đảng viên theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần tập trung thực hiện các nội dung sau:

1.Phong cách dân chủ, quần chúng

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phong cách dân chủ hay “cách làm việc dân chủ” là phong cách hàng đầu mà người cán bộ cần phải có. Người chỉ rõ: Đảng ta thực hiện “ Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của các cơ quan nhà nước trong chế độ ta”1và “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do”2. Vì thế không khí dân chủ thực sự trong nội bộ được tạo ra bằng cách thành tâm lắng nghe và khơi gợi cho cán bộ, đảng viên, quần chúng, cấp dưới nói hết quan điểm, ý kiến của mình. Được như vậy thì cấp dưới và quần chúng mới hăng hái đề ra sáng kiến, “học hỏi sáng kiến của quần chúng để lãnh đạo quần chúng”3. Những sáng kiến đó được coi trọng, được khen ngợi thì những người có sáng kiến càng thêm hăng hái làm việc. Phong cách dân chủ của người cán bộ không chỉ khơi nguồn sáng tạo, phát huy tinh thần làm việc, cống hiến của cấp dưới và quần chúng nhân dân, mà còn làm cho tổ chức cơ quan, đoàn thể thêm gắn bó.

Người có phong cách dân chủ là thực hành tốt nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”,đó cũng là cách “để phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều người”. Cán bộ không bao giờ được “độc tôn chân lý”, phải thành thực lắng nghe ý kiến phê bình của cấp dưới và nghiêm túc sửa mình với tinh thần cầu thị, làm như vậy thì chắc chắn người cán bộ sẽ được Nhân dân yêu mến, cấp dưới nể trọng, sẵn sàng đóng góp sáng kiến.

Phong cách dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ có định hướng, có lãnh đạo, dân chủ phải đi đến sự tập trung chứ không phải dân chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức.Một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt Đảng là “tập trung dân chủ”. Nói về sức mạnh của dân chủ, Hồ Chí Minh từng nói: “thực hành dân chủlà cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”[2]. Nếu người cán bộ không có tác phong dân chủ hoặc “Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ”[3]là họ tự tước đi của mình vũ khí hữu hiệu nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Khi đó, dù có “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”.

Phong cách dân chủ yêu cầu người cán bộ, đảng viên phải tin yêu và tôn trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng và sửa chữa khuyết điểm của mình.

Gắn bó mật thiết với phong cách dân chủ là phong cách quần chúng. Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải có phong cách làm việc quần chúng, xuất phát từ vấn đề có tính nguyên tắc về vai trò của quần chúng nhân dân: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Phong cách quần chúng yêu cầu người cán bộ phải gần gũi quần chúng, lắng nghe và thấu hiểu mong muốn của quần chúng. Người cán bộ phải thường xuyên đi xuống cơ sở mà mình phụ trách, tìm hiểu thực trạng đời sống, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Người khẳng định: nếu “cách xa dân chúng, không liên lạc chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”

Phong cách quần chúng không có nghĩa là “theo đuôi quần chúng”, vì theo Hồ Chí Minh, “Trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau”. Vì vậy, người cán bộ phải có bản lĩnh vững vàng để vừa nâng cao trình độ giác ngộ, dân trí của quần chúng, tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của một bộ phận quần chúng “chậm tiến”, vừa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.

Phong cách quần chúng Hồ Chí Minh là phải biết cách tổ chức phong trào phù hợp với trình độ, năng lực thực tế của quần chúng, không chủ quan, duy ý chí, áp đặt thực tiễn theo ý mình. Theo Người, “nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình, rồi đem cột vào cho quần chúng, thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy”… Ai cũng đóng giầy theo chân. Không ai đóng chân theo giầy”. Người khẳng định: “cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo, v.v. của chúng ta, đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra.Về sâu trong quần chúng”, “dựa vào lực lượng quần chúng”.

Phong cách quần chúng của cán bộ, đảng viên thể hiện rõ trong các thói quen sinh hoạt hàng ngày. Người cán bộ phải giản dị, hòa đồng với quần chúng, không cho phép mình hưởng điều gì có tính chất “đặc quyền, đặc lợi”. Người cảnh tỉnh những suy nghĩ lệch lạc trong cán bộ, rằng “phải ăn mặc bảnh mới giữ được oai tín, giữ được thể diện”. Khi người cán bộ thấm nhuần tác phong quần chúng, họ sẽ được quần chúng nhân dân yêu thương, tin cậy, ủng hộ và khi đó, việc gì họ làm cũng thành công.

2.Phong cách khoa học

Phong cách làm việc khoa học đòi hỏi khi xem xét và quyết định mọi việc đều phải điều tra, nghiên cứu, phân tích toàn diện, phải tôn trọng quy trình ra quyết định, tranh thủ ý kiến của tập thể lãnh đạo và quần chúng. Người chỉ rõ: “Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: vì sao có vấn đề này? Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy”. Việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận rồi mới quyết định và thực hiện đến nơi, đến chốn. Đặc biệt, đối với những vấn đề mới, phức tạp có ảnh hưởng lớn tới tổ chức đảng, đơn vị, bộ đội và Nhân dân, cần phải làm thử, làm điểm trước khi quyết định. Tuyệt đối không ra quyết định khi chưa có thông tin đầy đủ, chưa có phương án tính toán hiệu quả. Tránh chủ quan duy ý chí, che giấu khuyết điểm để chạy theo thành tích.

Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh là làm việc phải có mục đích và kế hoạch rõ ràng, thiết thực. Muốn có kế hoạch khoa học thì người cán bộ phải “Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào, làm việc ấy”. Hết sức tránh chuyện vạch ra “Chương trình công tác thì quá rộng mà kém thiết thực” và căn bệnh “đánh trống bỏ dùi” gây lãng phí tiền của, nhân lực và thời gian của Nhân dân.

Phong cách làm việc khoa học là phải biết quý trọng thời gian, biết giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất. Người từng nói: “Thời giờcũng cần phảitiết kiệmnhư của cải, của cải hết còn có thể làm thêm khi thời gian đã qua rồi không bao giờ kéo lại được.... Muốn tiết kiệm thời giờ của mình nhưng cũng phải biết tiết kiệm thời gian cho người khác. Cách tốt nhất là tập trung giải quyết dứt điểm từng công việc; không ôm đồm, làm quá nhiều việc,nhiều việc không dứt điểm, không hiệu quả. Người giải thích: “Đích nghĩa là nhằm vào đó mà bắn. Nhiều đích quá thì loạn mắt, không bắn trúng đích nào”.

Phong cách làm việc khoa học yêu cầu người cán bộ giải quyết công việc trên cơ sở dữ liệu khách quan, dựa trên nền tảng thực tế để lựa chọn ra phương án khả thi nhất và phương án ấy phải đặt trong tổng thể chiến lược lâu dài. Không được rơi vào “Bệnh cận thị- không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ”. Người cán bộ không được vì cái lợi nhỏ trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích to lớn, lâu dài. Tầm nhìn - đó chính là phẩm chất của người có tư duy khoa học và có cách làm việc khoa học.

Theo Hồ Chí Minh, phong cách làm việc khoa học đòi hỏi người cán bộ phải có cách đánh giá đúng người, đúng việc, sắp xếp công việc cho hợp lý; lại phải biết cách kiểm tra, giám sát công việc và cấp dưới một cách hiệu quả, qua đó thấy được việc thi hành đường lối, nghị quyết của Đảng như thế nào và cần điều chỉnh cái gì…Người nói: “tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình thế”. Kiểm tra còn có tác dụng phân loại, đánh giá cán bộ, vì “Có kiểm tra… mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”. Cán bộ lãnh đạo làm việc khoa học, chặt chẽ thì cấp dưới không thể “qua mặt”.

Phong cách khoa học đòi hỏi người cán bộ sau mỗi công việc phải biết rút ra kinh nghiệm cho lần sau và cho người khác. Hồ Chí Minh viết: “công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới”.

3.Phong cách nêu gương

Theo Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải làm gương trong mọi công việc, từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên về mọi mặt; phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nói phải đi đôi với làm. Người yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên đều phải nêu gương về đạo đức. Trước hết, mình phải tự làm gương, cán bộ “gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân”.

Về vai trò của nêu gương, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Tự mình phải chính trước mới giúp người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức cách mạng chủ yếu, là nhân cách của con người. Người viết:

“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Đất có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc.

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

Thiếu một mùa, thì không thành trời,

Thiếu một phương, thì không thành đất.

Thiếu một đức thì không thành người”

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một nội dung cơ bản không thể thiếu trong phong cách làm việc và nhân cách của những người lãnh đạo, quản lý. Trong bản Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn tất cả các cán bộ, đảng viên: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, Thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”.

Theo Hồ Chí Minh, kẻ thù của lòng chí công vô tư chính là chủ nghĩa cá nhân, chỉ thấy lợi ích riêng của mình, không thấy lợi ích chung của tập thể, chỉ muốn tự tư tự lợi. Phải khắc phục chủ nghĩa cá nhân có trong mỗi người cán bộ đảng viên thì mới có thể có phong cách làm việc cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đó là cơ sở để hình thành hành vi đạo đức đúng đắn, một tâm hồn hướng thượng: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”.

Cần nêu gương trên ba mối quan hệ với mình, với người, với việc. Đối với mình phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân; phải tự phê bình mình như rửa mặt hằng ngày. Đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng. Đối với việc, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng”, đặt việc công lên trên, lên trước việc tư.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm. Nói đi đôi với làm không chỉ là một chuẩn mực trong đạo đức truyền thống mà còn là chuẩn mực đạo đức công vụ tối thiểu. Với cán bộ, đảng viên, sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa đạo đức và nêu gương đạo đức cần đạt tới sự nhất quán trong công việc và trong đời sống riêng, giữa đạo đức người lãnh đạo và đạo đức đời thường. Địa vị càng cao, uy tín càng lớn, càng phải ra sức hoàn thiện về đạo đức, thống nhất giữa nói và làm. Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi theo.

Việc nói đi đôi với làm mang lại cho quần chúng lòng tin và sự tôn trọng đối với người cán bộ, do đó, người cán bộ dễ dàng thực thi quyền lãnh đạo của mình. Người phê phán những cán bộ “Chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được”. Nhân dân không bao giờ tin cậy những cán bộ nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đàng làm một nẻo. Muốn rèn luyện được phong cách nói đi đôi với làm, người cán bộ phải thường xuyên tự kiểm điểm, soi xét chính mình, đồng thời phải khuyến khích cấp dưới và quần chúng nhận xét, phê bình, góp ý cho mình, nhắc nhở mình về những điều mình đã hứa. Người cán bộ cũng phải biết tránh căn bệnh hình thức, bệnh “hữu danh, vô thực”, chạy theo những thứ hào nhoáng bên ngoài.

Trong gia đình, cha mẹ phải là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương đối với các em. Trong nhà trường, thầy giáo, cô giáo là tấm gương cho học trò. Trong cơ quan, tổ chức thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương cho người khác. Trong cuộc sống hằng ngày, người cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành con người có đời tư trong sáng, làm tấm gương giúp nhân dân nhìn vào đó mà nói theo, qua đó mà làm tăng thêm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.

Trong các nội dung nêu gương, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn nêu gương về tinh thần phục vụ Nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm phục vụ nhân dân từ một triết lý sâu xa rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ra mặc đều do mồ hôi, nước mắt của dân mà ra, nên chúng ta phải đền bù xứng đáng cho dân. Vì vậy mà cán bộ, đảng viên phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước dân cả về lời nói và việc làm.

Để giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả cao, Hồ Chí Minh chủ trương: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới". Người khẳng định: “Người tốt, việc tốt nhiều lắm.Ở đâu cũng có.Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”. Tháng 6-1968, Người chỉ đạo xuất bản sách “Người tốt, việc tốt” để mọi người học tập, làm theo, lan tỏa cái tốt, cái đẹp trong xã hội.

Phần thứ hai

XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều có trách nhiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng, dẫn dắt quần chúng nhân dân đi theo Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khi Đảng cầm quyền, đảng viên được tín nhiệm và sắp xếp tham gia công tác lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, đơn vị. Vì vậy, phong cách của người lãnh đạo, người đứng đầu có vai trò quan trọng trong việc thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, trong kết quả triển khai thực hiện nhiệm vụ.

Phong cách lãnh đạo là tổng hợp những phương pháp, biện pháp, cách thức riêng, tiêu biểu mà người lãnh đạo sử dụng hằng ngày để thực hiện nhiệm vụ của mình. Phong cách được quy định bởi chức năng, nhiệm vụ, phẩm chất, tri thức, điều kiện chính trị và điều kiện sống của người lãnh đạo.Phong cách lãnh đạo là khái niệm rộng hơn khái niệm phương pháp, cách thức, biện pháp. Phong cách lãnh đạo là cái chung, biểu hiện thông qua các phương pháp, cách thức và biện pháp, đồng thời phản ánh các phẩm chất bên trong của con người, phản ánh tư tưởng, đạo đức, năng lực, tính cách, sở trường của người lãnh đạo. Có một số yêu cầu trong phong cách lãnh đạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hay nhắc tới, đó là: phong cách dân chủ, nhưng quyết đoán, lãnh đạo sâu sát, khéo dùng người, trọng dụng người tài, cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo.

1.Phong cách dân chủ, nhưng quyết đoán

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ lãnh đạo phải “gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, làm nó thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó. Đồng thời nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó đúng hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành.

Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước.

Đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt”

Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cải cách tổ chức, bộ máy nhà nước và nhiều công việc khác, cần phải thực hành cách liên kết sự lãnh đạo với quần chúng và “liên kết chính sách chung với sự chỉ đạo riêng”, tức là vận dụng quan điểm, đường lối chung phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Theo Người, như vậy mới thật là biết lãnh đạo, quản lý.

Phong cách lãnh đạo dân chủ thì phải dựa vào quần chúng; là cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu không được quan liêu, hách dịch, coi thường quần chúng nhân dân. Phải biết đời sống thực của nhân dân như thế nào, khả năng thực của nhân dân ra sao? Họ đang nghĩ và đang mong muốn những gì? Mỗi lời nói, mỗi việc làm của người cán bộ phải phù hợp với quần chúng, phản ánh đúng được khát vọng của quần chúng. Cán bộ phải biết được những băn khoăn trăn trở của dân để kịp thời uốn nắn và tháo gỡ cùng dân.

Người phê bình cách lãnh đạo của một số cán bộ không dân chủ, dẫn đến tình trạng người có ý kiến không dám nói, người muốn phê bình không dám phê bình, làm cho cấp trên cấp dưới cách biệt nhau, quần chúng với Đảng xa rời nhau, không còn sáng kiến, không còn hăng hái trong khi làm việc. Người chỉ rõ: “Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Như thế chẳng những không phạm gì đến uy tín của người lãnh đạo mà lại tỏ ra dân chủ thật thà trong Đảng.

Nếu cán bộ không nói năng, không để ý kiến, không phê bình, thậm chí tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì nói, nhưng vì họkhông dám nói,họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói, do uất ức mà hóa ra oán ghét, chán nản”.

Người đòi hỏi phải có phong cách làm việc thực sự dân chủ chứ không phải giả tạo, hình thức để che lấp ý đồ xấu của cá nhân. Bởi vì mọi sự giả tạo đều làm suy yếu, thậm chí phá vỡ tập thể, mọi thói hình thức chủ nghĩa sớm muộn sẽ làm xói mòn, thậm chí triệt tiêu dân chủ.

Cán bộ lãnh đạo, nhất là những người đứng đầu, là người có trọng trách trong một tập thể, vừa phải thực hành dân chủ, lắng nghe ý kiến của tập thể, đồng thời, phải quyết đoán, nhận thức đầy đủ trách nhiệm và dám ra quyết định, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đây cũng chính là việc thực hiện nghiêm nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”.

Theo Hồ Chí Minh, một người dù tài giỏi đến đâu cũng không thể nắm được hết mọi mặt của một vấn đề, cũng không thể biết hết được mọi việc trong đơn vị cũng như đời sống xã hội. Cho nên, cần phải có cách làm việc tập thể để phát huy được trí tuệ của tập thể, của đông đảo quần chúng nhân dân nhằm hoàn thành sự nghiệp của một tập thể, một đơn vị hay địa phương mà nếu chỉ riêng người cán bộ lãnh đạo, quản lý thì không làm nổi. Tập thể lãnh đạo là dân chủ.

Cá nhân phụ trách là nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo, người quản lý. Có ý thức tập thể cao, tạo ra bầu không khí làm việc dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng không có tính quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, thì không thể có những quyết định kịp thờivà công việc cũng không thể tiến triển được. Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý các cán bộ lãnh đạo, quản lý rằng: “Những việc bình thường, một người có thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết đi. Những việc quan trọng mới cần tập thể quyết định”.

Theo Hồ Chí Minh, trách nhiệm của người đứng đầu phải được đề cao, đôi khi mang tính quyết định đến hiệu quả công việc. Phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý đúng đắn là phải kết hợp thống nhất giữa cách làm việc dân chủ, tập thể với tính quyết đoán, dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, kịp thời đưa ra những quyết định đúng. Trong những thời điểm quyết định, người lãnh đạo, quản lý phải dám nghĩ, dám làm, dám quyết… điều đó liên quan trực tiếp đến việc tận dụng được thời cơ. Người từng dạy: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí.Gặp thời một tốt cũng thành công”.

Kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách, thực hiện trách nhiệm của người lãnh đạo, người đứng đầu để khắc phục những hiện tượng coi thường tập thể, hoặc ngược lại, dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể, không dám quyết đoán, không nêu cao trách nhiệm cá nhân… làm trì trệ, suy yếu năng lực lãnh đạo, hiệu quả quản lý của người cán bộ lãnh đạo.

2.Phong cách lãnh đạo sâu sát

Trong thực tiễn, Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về phong cách lãnh đạo sâu sát. Theo tài liệu thống kê của Bảo tàng Hồ Chí Minh, chỉ tính trong 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc [1955-1965], không quản tuổi cao, công việc bề bộn, Người đã thực hiện hơn 700 lượt đi thăm các địa phương, công trường, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị bộ đội…, từ miền núi đến hải đảo, để thăm hỏi chiến sĩ và đồng bào, xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Tính ra mỗi năm, có hơn 60 lượt Người đi xuống cơ sở, mỗi tháng có khoảng 6 lần Người gặp gỡ quần chúng. Ngoài ra, hằng ngày qua đọc báo, đọc thư của nhân dân gửi lên, thấy có những ý kiến hay, cần tiếp thu, những việc gấp cần giải quyết, Người đều dùng bút đỏ đóng khung lại, chuyển tới các cơ quan có trách nhiệm, yêu cầu nghiên cứu và giải quyết.

Lãnh đạo sâu sát sẽ nâng cao được tính khách quan, minh bạch, tăng cường được công tác kiểm tra, giám sát, từ đó kiểm soát tốt hơn đối với việc thực thi quyền lực, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng tài sản của Nhà nước, của nhân dân, góp phần phòng chống tham nhũng có hiệu quả. Hồ Chí Minh yêu cầu dựa vào quần chúng nhân dân để giám sát, kiểm tra, nhằm loại trừ các hành vi trục lợi, ăn cắp, tham ô, đục khoét, biến của công thành của riêng…

Theo Hồ Chí Minh, sau khi nghị quyết đã được ban hành, phải tổ chức tốt việc thực hiện để nghị quyết đi vào cuộc sống. Điều đó gắn liền với công việc kiểm tra, giám sát. Muốn tốt, “phải đi tận nơi, xem tận chỗ”. Theo Người, sở dĩ sự thật còn bị bưng bít vì sự kiểm tra, giám sát của các ngành, các cấp, không nghiêm túc, chưa chặt chẽ.

Sau kiểm tra, giám sát, thì cái sai cần khắc phục, sửa chữa ngay và cái đúng, cái tốt phải được động viên khen thưởng, kịp thời, vì khen thưởng đúng người, đúng việc, đúng lúc sẽ động viên, giáo dục, thúc đẩy người lao động hăng say làm việc. Người yêu cầu nhanh chóng biểu dương những tấm gương người tốt, việc tốt, động viên khuyến khích bằng vật chất hoặc tinh thần, nhằm phát triển cái tốt để chống lại cái xấu, vì mục tiêu xây dựng con người mới, làm cho xã hội ngày một tiến bộ. Mỗi khi đọc trên báo chí, thấy tấm gương “người tốt, việc tốt” nào, nhất là những người đi đầu khởi xướng phong trào, Người liền cử cán bộ đi xác minh và tặng “Huy hiệu Bác Hồ” cho người có thành tích xứng đáng. Cả nước có khoảng 5.000 người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng “Huy hiệu Bác Hồ” qua phong trào “Người tốt, việc tốt”. Những ai được nhận “Huy hiệu Bác Hồ” đều tự hào kể lại những mẩu chuyện cảm động khi nhận phần thưởng cao quý này. Quan trọng hơn nữa, những phần thưởng đó, sau này trở thành bài học nêu gương cho các thế hệ con cháu họ.

Hồ Chí Minh từng yêu cầu: “Tôi ra lệnh cho Bộ Tổng tư lệnh mau chóng khen thưởng những đơn vị và những chiến sĩ đã lập nhiều chiến công oanh liệt”. Trong “những việc cần phải làm ngay” gửi cán bộ, chiến sĩ tỉnh Hòa Bình, Lào Cai, Người nhắc nhở: “Xét kỹ và báo cáo những đơn vị và cá nhân có công trạng đặc biệt để Chính phủ khen thưởng”, “vì khen thưởng khuyến khích rất nhiều, vì khen thưởng là tổng kết và phổ biến kinh nghiệm ra cho mọi ngành hoạt động”, “vì khen thưởng cũng là một cách giáo dục và cổ động. Bộ đội, đồng bào có thành tích mà Trung ương, Chính phủ khen thưởng thì mới hăng hái hơn và những người chưa có thành tích sẽ thi đua tích cực. Từ trước đến nay địa phương rất ít báo cáo, bây giờ các cô, các chú phải tích cực làm”.

3.Khéo dùng người, trọng dụng người tài

Là người lãnh đạo giỏi thì phải khéo dùng người và trọng dụng nhân tài. Xuất phát từ mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ những trí thức được đào tạo cơ bản từ các nước phương Tây, quan lại của triều đình phong kiến cũ.

Người xác định, việc dùng người phải hợp lý, đúng năng lực và sở trường của họ, đúng người, đúng việc, chớ “dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn” và phải cho họ hiểu rõ mọi mặt các công việc họ phải phụ trách. Dùng người mà không đúng công việc sẽ không chạy, không được việc, làm thui chột nhân tài, có hại cho Đảng và cũng thể hiện sự yếu kém trong công tác cán bộ của Đảng. Người cho rằng, vì “ Trong các ngành hoạt động của chúng ta... không thiếu những người có năng lực, sáng kiến... Nhưng vì cách lãnh đạo của ta còn kém, thói quan liêu còn nồng cho nên có những người như thế cũng bị dìm xuống, không được cất nhắc. Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải biết trọng dụng nhân tài, nếu không sẽ làm “thui chột” nhân tài. Việc trọng dụng nhân tài theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải làm thường xuyên, liên tục như “người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta". Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trọng dụng nhân tài phải biết tuỳ tài mà dùng người: “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy. Biết dùng người như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”. Bởi vậy, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, trong lúc còn bộn bề khó khăn, thù trong, giặc ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm tìm người tài để xây dựng đất nước và Người chính là tấm gương sáng cho việc tìm nhân tài và trọng dụng nhân tài. Ngày 14/11/1945, trên báoCứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”. Người chủ trương phải “tìm người tài đức”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, một quốc gia, một đất nước không biết sử dụng nhân tài là một khuyết điểm to, làm lãng phí một vốn quý của Đảng và Nhà nước trong xây dựng và kiến thiết.

4.Phong cách cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo

Một yêu cầu quan trọng trong phong cách của người đứng đầu, người lãnh đạo là phải có sự thống nhất giữa tính đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng động, sáng tạo, sự nhạy cảm với cái mới. “Trung với Đảng”, “trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất chính trị cơ bản, thể hiện trong mọi hoạt động của người lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, điều chủ chốt trong phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo là phải: “Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”.

Nhiệt tình cách mạng là yếu tố cơ bản trong phẩm chất của người cán bộ đứng đầu, người lãnh đạo. Vì có nhiệt tình cách mạng, người cán bộ lãnh đạo mới say mê, tận tuỵ với công việc để tìm ra những phương án sáng tạo nhằm thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao. Tính cách mạng, lòng yêu nước, thương dân là động lực lớn thôi thúc người lãnh đạo, quản lý chuyên tâm, lo toan, tận tuỵ, say mê với công việc. Đồng thời, người lãnh đạo phải có sự tìm tòi sáng tạo, đề xuất được những ý kiến hay, những phương án tối ưu để thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ lãnh đạo, phải là những người vừa “hồng”, vừa “chuyên”, có đạo đức cách mạng, có tinh thần anh dũng, gương mẫu, chịu đựng gian khổ, hy sinh và có năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao.

Hồ Chí Minh cho rằng, tính khoa học phải được đảm bảo bằng tri thức khoa học. Nhiệt tình cách mạng chỉ thực sự đem lại hiệu quả khi nó được thống nhất với các tri thức khoa học và trên cơ sở khoa học. Nhiệt tình cách mạng sẽ trở thành duy tâm, duy ý chí nếu thiếu tri thức khoa học. Thực tiễn cho thấy, có nhiệt tình mà thiếu tri thức khoa học sẽ dẫn tới sai lầm, chệch hướng, làm hỏng đường lối, chính sách, hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến phá hoại vô ý thức. Những chương trình, dự án, kế hoạch với những ý tưởng tốt đẹp, nhưng do thiếu tri thức dẫn đến thất bại, gây ra tổn thất nặng nề.

Để có tri thức khoa học, người cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải chịu khó học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ về chính trị, văn hoá, nghiệp vụ cũng như nắm được tình hình trong và ngoài nước. Chủ quan, tự mãn, ít nghiên cứu lý luận và thực tiễn nên gặp thuận lợi dễ lạc quan, gặp thành công sớm dễ mắc phải căn bệnh kiêu ngạo; khi gặp khó khăn thì dễ lúng túng, bị động, dẫn đến bi quan, dao động, lập trường cách mạng không vững… Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ đảng viên nói chung, nhất là với cán bộ lãnh đạo: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp Nhân dân”.

Học tập, nghiên cứu, “học và hành” theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm. Cán bộ, đảng viên cần phải có lý luận lãnh đạo cần nắm chắc lý luận mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”, “làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”.

Khẳng định vai trò của lý luận, Hồ Chí Minh chỉ rõ sự cần thiết phải biết liên hệ lý luận với thực tiễn trong công tác lãnh đạo. Vì: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”, nên lý luận mà xa rời thực tiễn thì sớm muộn sẽ dẫn tới bệnh giáo điều, sách vở, nên người cán bộ lãnh đạo phải nắm chắc lý luận, đồng thời qua kinh nghiệm làm việc, phải hiểu rõ sự vận động của các quan điểm lý luận trong thực tiễn, qua đó dự báo được những biến đổi của tình hình, của nhiệm vụ cách mạng, từ đó mới có thể thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.

Một trong những yêu cầu về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu là phải nắm chắc lý luận, nhưng không được “lý luận suông”, mà phải có năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn ở nước ta”. Người chủ trương “phải gắn lý luận với công tác thực tế”. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng một mặt phải xuất phát từ tình hình cụ thể,giải thích cho quần chúng hiểu và thực hiện các chủ trương, chính sách đó như thế “lý luận mới không tách rời thực tế”.

Trong mọi công tác, tùy theo hoàn cảnh cụ thể, người lãnh đạo có thể sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, cần có sự vững vàng, không thay đổi trong những vấn đề thuộc về nguyên tắc, đó là những vấn đề có tính chiến lược, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là “bất biến, phải giữ vững như sắt đá”.

Cùng với kiên định về nguyên tắc, những vấn đề chiến lược, thì sách lược cách mạng, các hình thức, phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành phải mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với thực tế để có thể đạt kết quả cao nhất. Điều đó thuộc về bản lĩnh của người lãnh đạo, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến”, thể hiện sự linh hoạt trong hoạt động lãnh đạo của mình.

Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu đặt ra phải được cụ thể trong từng giai đoạn. Tính bất biến, mục tiêu trong tất cả các giai đoạn của cách mạng là độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Trong bản Di chúc, Người nói lên mong muốn cuối cùng, cũng là mục tiêu chung của cuộc cách mạng là “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Tuy nhiên, con đường đi đến mục tiêu đó là con đường đấu tranh lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ. Người đứng đầu, người lãnh đạo cần sáng suốt, tỉnh táo, nhạy bén để xác định sách lược, hình thức, biện pháp thực hiện trong những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể, trong mỗi bước đi, mỗi bước tiến lên của cách mạng.

Những nội dung xây dựng phong cách lãnh đạo nêu trên không nằm ngoài những quy định chung trong phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên, đồng thời, có yêu cầu cao hơn, thể hiện vị trí, vai trò, trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên trên cương vị lãnh đạo.

Phần thứ ba

ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO PHONG CÁCH LÀM VIỆC, PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Năm 1982, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, Đảng ta đã đặc biệt phê phán tệ quan liêu biểu hiện trên nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu là quan liêu trong việc đề ra chính sách, chế độ, quan liêu trong tổ chức bộ máy và trong phong cách làm việc của cán bộ, phê phán phong cách quản lý kinh tế theo lối quan liêu bao cấp, tệ quan liêu hành chính, thái độ cửa quyền, yêu cầu phải có trăm nghìn biện pháp để chống quan liêu và bảo thủ. Đồng thời yêu cầu cán bộ, đảng viên phải sát cơ sở, sát quần chúng để chỉ đạo, nghiên cứu chính sách, chế độ, tạo điều kiện cho sáng kiến của quần chúng nẩy nở, những nhân tố tích cực sớm được nâng lên. Lúc đó, Đảng cũng yêu cầu phải đổi mới phương pháp làm việc, xây dựng phong cách làm việc lêninnit. Đảng cũng chỉ ra rằng, phương pháp và chế độ làm việc đúng là một yếu tố đặc biệt, trọng yếu để đảm bảo tính chính xác của việc ra quyết định và biến nó thành hiện thực, đặc biệt nhấn mạnh đổi mới phương pháp chuẩn bị và ra các quyết định, tổ chức thực hiện các quyết định; không vì nể nang, e dè mà dung hoà ý kiến, ra quyết định nửa vời, thực hiện nghị quyết không thống nhất. Như vậy, trong điều kiện việc cụ thể hoá đường lối còn nhiều bất cập, càng cần đổi mới phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý, đi sâu vào thực tiễn, nhìn thẳng vào khó khăn, phát hiện những kinh nghiệm và cách làm mới, trên cơ sở đó đổi mới tư duy, đề ra chủ trương, chính sách phù hợp.

Từ Đại hội V tới nay, Đảng ta nhiều lần khẳng định nhiệm vụ xây dựng, đổi mới phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay theo hướng thực sự dân chủ, kỷ cương, thiết thực, sâu sát cơ sở, sâu sát quần chúng, làm việc có chương trình, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, nói đi đôi với làm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục yêu cầu trong công tác xây dựng Đảng, đối với cán bộ, đảng viên phải xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm.

Triến khai thực hiện Nghị quyết của Đại hội XII, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII “đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ”, chúng ta cần chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện phong cách làm việc dân chủ, quần chúng, khoa học, nêu gương cho cán bộ, đảng viên và phong cách dân chủ, quyết đoán, sâu sát, khéo dùng người, trọng dụng người tài, cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo cho người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước.

Sau đây là một số giải pháp nhằm thực hiện tốt việc học tập và làm theo phong cách lãnh đạo, phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

1.Tăng cường giáo dục, rèn luyện xây dựng phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành

Đưa nội dung giáo dục về xây dựng phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo của Hồ Chí Minh vào các chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống học viện, trường chính trị, trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện dành cho cán bộ, đảng viên và cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các cấp, các ngành, trong đó, chú ý trang bị hệ thống tri thức tổng hợp, phương pháp tư duy khoa học và năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Tăng cường việc giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; các tri thức khoa học và kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý hiện đại cho cán bộ lãnh đạo, quản lý. Thông qua việc giáo dục, học tập nâng cao ý chí, nghị lực để giải quyết những vấn đề, những khó khăn, thử thách trong thực tế công tác; có khả năng đề kháng với những cái xấu, tiêu cực, tránh được sự cám dỗ quyền lực, đặc quyền, đặc lợi,...

Thực hiện nghiêm Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên.

2.Giữ vững các nguyên tắc“tập trung dân chủ” và “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”

Giữ vững nguyên tắc “tập trung dân chủ” trong làm việc và tuân thủ nghiêm nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trong lãnh đạo, quản lý.Tăng cường phát huy dân chủ để khơi dậy tính sáng tạo, tập trung trí tuệ tập thể trong việc xây dựng, thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Đồng thời, tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu. Xây dựng quy định về trách nhiệm, quyền hạn của cấp ủy, người đứng đầu các cấp trong thực thi công vụ, trong đó, nêu rõ những yêu cầu về phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo.

3.Tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên

Đẩy nhanh việc xây dựng các quy định, quy chế, nội quy trong thực thi công vụ và thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác quản lý cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo.

Thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động công vụ của cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, đối với cán bộ lãnh đạo và người đứng đầu các cấp, các ngành, cần xây dựng quy định kiểm tra, giám sát thường xuyên của cấp ủy cấp trên, quy định kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng và của các đoàn thể, nhân dân, để kịp thời phát hiện, phê bình, uốn nắn sai phạm, khuyết điểm.

Thực hiện nghiêm Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 10/01/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên.

4. Xây dựng các quy định về đạo đức công vụ, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo

Sớm xây dựng các quy định về đạo đức công vụ, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo, kèm theo các yêu cầu bắt buộc, cùng các chế tài cụ thể để xử lý sai phạm.Các tiêu chí về đạo đức công vụ phải cụ thể, rõ ràng và khả thi, tức là có thể thực hiện theo, có thể kiểm tra, đánh giá, có thể theo dõi, giám sát. Ví dụ, từ những quy định nhỏ về tôn trọng giờ giấc làm việc, hội họp; quy định về xưng hô với nhân dân, tổ chức, doanh nghiệp - đối tượng được phục vụ; quy định về trang phục công sở... Trong các tiêu chí cần đặc biệt quan tâm tới mối quan hệ với nhân dân, trên cả 2 phương diện: nhân dân là đối tượng được phục vụ và nhân dân là chủ thể giám sát, kiểm tra, theo dõi thực hành công vụ. Phải xác định rõ, những nội dung nào cần phải công khai, minh bạch, đảm bảo yêu cầu phát huy dân chủ trong thực hành công vụ. Nhất thiết phải có những quy định về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu về cả tiền bạc, vật chất, thời gian.

Tinh thần, thái độ, sự tận tụy với công việc cần được lượng hóa thành các quy định cụ thể, ví dụ: không giới hạn thời gian tiếp nhân dân, tổ chức, doanh nghiệp trước khi hết giờ làm việc...Đi kèm theo các quy định cụ thể, cần có chế tài đối với các vi phạm quy định và xác định cơ quan có chức năng xử lý vi phạm. Đồng thời, phải có những quy định để ràng buộc giữa lời nói và hành vi của cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm nói đi đôi với làm, nói thì phải làm và làm cho tốt. Nếu nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, nói một đường làm một nẻo thì người cán bộ, công chức, viên chức phải bị xử lý kỷ luật.

5.Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát

Các tổ chức cơ sở đảng, cấp ủy, ủy ban kiểm tra của cấp ủy các cấp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng đối với việc xây dựng, thực hiện phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên, phong cách lãnh đạo của người đứng đầu các cấp.

Hồ Chí Minh đánh giá rất cao công tác kiểm tra, giám sát. Người đã thường xuyên nhắc nhở: Các cấp, các ngành nếu tổ chức tốt việc kiểm tra, giám sát cũng như “Ngọn đèn pha”, bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm chúng ta đều biết rõ. Có thể nói chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra, giám sát. Nếu tổ chức kiểm tra, giám sát chu đáo thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười, gấp trăm.

Kiểm tra, giám sát phải kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức kiểm tra, giám sát. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ ra: “Kiểm soát có hai cách: một là từ trên xuống, tức là người lãnh đạo kiểm soát những kết quả công việc của cán bộ mình. Một cách nữa là từ dưới lên, tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ các cách sửa chữa sự sai lầm đó”. Vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân thực hiện thông qua quy chế dân chủ ở cơ sở với cơ chế: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Nhân dân thông qua các tổ chức của mình thực hiện kiểm tra, giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phải căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của mình để làm tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân.

Thực hiện nghiêm Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 03/10/2017 của Bộ Chính trị về ban hành Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Sự tham gia tích cực, có hiệu quả của quần chúng nhân dân trong xây dựng Đảng, trong quá trình kiểm tra, thanh tra sẽ thắt chặt hơn mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, chính quyền với nhân dân. Trong nhiều trường hợp, do nhiều nguyên nhân, những khuyết điểm, sai lầm của cán bộ, đảng viên, không bị lãnh đạo, hoặc cơ quan kiểm tra phát hiện, hoặc không phát hiện được kịp thời, nhưng không thể che giấu được trăm ngàn "tai mắt" của nhân dân. Thực tế những năm qua, quần chúng nhân dân đã phát hiện nhiều trường hợp đảng viên vi phạm ở nhiều lĩnh vực như: phẩm chất đạo đức, lối sống, tham nhũng, vi phạm Luật đất đai, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm.

LỜI KẾT

Phong cách tác phong công tác trong tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện xuyên suốt trong mọi hoạt động trong cả cuộc đời cách mạng, phấn đấu hy sinh, vì Tổ quốc, vì nhân dân của Người.Học tập và làm theo phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo của Người đòi hỏi mỗi cán bộ đảng viên, mỗi người cán bộ lãnh đạo, quản lí các cấp phải nâng cao ý thức trách nhiệm phát huy dân chủ, chấp hành kỹ cương, gần gũi, thân thiết với quần chúng nhân dân , thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân; gắn bó cơ sở, với thực tiễn; nói phải đi đôi với làm; phải biết phấn đấu hy sinh vì lợi ích tập thể, của nhân dân; có phong cách làm việc khoa học, sáng tạo vận dụng linh hoạt mọi chủ trương, đường lối của Đảng vào điều kiện thực tế của cơ quan, đơn vị địa phương mình.

Xây dựng phong cách làm việc của cán bộ đảng viên đặc biệt phong cách tác phong người đứng đầu theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hiện nay nhằm xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, luôn xứng đáng là “hiện thân của trí tuệ, lương tâm và danh dự của dân tộc”./.

[1],2.Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, T.5, tr.309, 68

1.Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.313

1.Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.379

2.Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.378

3Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.149

[2]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.325

[3]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd. T.7, tr.176


Theo Ban Tuyên giáo Trung ương

Video liên quan

Chủ Đề