Khái niệm triết học ở Trung Quốc là gì
II. Triết học Trung Hoa cổ đại Show
+ Thời Nghiêu - Thuấn là thời kỳ cuối của xã hội nguyên thuỷ Trung Hoa. Lúc đó, đồ đồng được sử dụng phổ biến, kinh tế nông nghiệp phát triển, xã hội Trung Hoa đã bị phân chia giai cấp mở đầu cho thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Chủ nô tóm thâu của cải và người nô lệ trong tay mình. Vua đã nắm quyền lực tối cao của quốc gia. Nhà nước đã xuất hiện. Trong giai đoạn này, nhà Chu là thời thịnh trị, chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển đến đỉnh cao. Lúc đó, Trung Hoa cổ đại đã có được nền kinh tế định canh, định cư, công cụ đồ sắt khá phổ biến, có chế độ thuế khoá bằng hiện vật. (Nhà Hạ (2205- 1767) rồi tiếp đến là nhàThương (Ân) vào khoảng từ 1767-1112) thay nhau trị nước. Thời kỳ này đồ đồng được sử dụng phổ biến. Vào thế kỷ XIV TCN nhà Thương suy giảm uy tín. Vua cuối cùng của nhà Thương là Trụ Vương đã thực hiện chế độ cai trị rất tàn khốc nên thủ lĩnh của bộ tộc Chu là Chu Văn Vương đứng lên lập đổ Trụ Vương lập nên nhà Chu (từ 1112 - 770) và thực hiện chế độ Tông pháp. Chế độ Tông pháp là chế độ chính trị mà nó phân chia xã hội theo huyết thống (theo thị tộc) và lấy những thi tộc bị chinh phục làm lực lượng sản xuất chính. Có thể nói rằng từ khi Chu Văn Vương cầm quyền thì xã hội Trung hoa cổ đại rất thịnh trị. Nhà Chu thực hiện chế độ” tĩnh điền” “phong hầu kiến quốc” cho các chư hầu. Về văn hoá, Người Trung Hoa cổ đại đã sáng tạo ra chữ viết gọi là chữ giáp cốt, đã làm niên lịch, có nhiều kiến thức về y học, thiên vănv. v + Về mặt tư tưởng trong thời kỳ này, giai cấp thống trị đã xem Trời là một quyền uy tối thượng và sử dụng nó để củng cố quyền lực của mình trong xã hội. (Thời nhà Thương thì theo tư tưởng “Trời và tổ tiên của thị tộc là một” nhưng sang đến thời của nhàChu thì tách Trời và thần tổ tiên làm 2. Nhà Chu cho rằng Trời đã ban mệnh cho họ lập ấp và dựng nước nên vua tự xưng mình là thiên tử)
+ Kể từ thế kỷ thứ VIII thì nhà Chu bắt đầu suy yếu, đặc biệt là đã nảy sinh một mâu thuẫn rất lớn đó là mâu thuẫn giữa chính trị và kinh tế. Về kinh tế thương nghiệp phát triển tạo nên một tầng lớp mới: tầng lớp thương nhân gọi là Hiển tộc. Tầng lớp này nắm toàn bộ sức mạnh kinh tế trong tay. Trong thời kỳ thịnh trị của nhà Chu thì đất đai thuộc về vua, nay lại thuộc hiển tộc, trong khi đó quý tộc nhà Chu lại nắm quyền lực chính trị mà không có thực lực kinh tế. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên, chết chóc tang thương. Lệnh của nhà Chu không còn được coi trọng, kỷ cương xã hội đảo lộn. + Những mâu thuẫn về kinh tế - chính trị trong lòng Trung Hoa cổ đại thời bấy giờ đã làm cho xã hội Trung hoa phân hoá. Một bộ phận tri thức tiếp tục phục vụ nhà Chu còn bộ phận khác bất hợp tác với nhà Chu.Chính bối cảnh lịch sử này đã đặt ra nhiều vấn đề về một xã hội lý tưởng là xã hội như thế nào, vấn đề đạo làm người, vấn đề trị loạn v.v. Từ đó nền triết học Trung hoa cổ đại xuất hiện đồng loạt nhiều trường phái khác nhau như Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Mặc gia. Nói một cách khái quát nền triết học Trung Hoa cổ đại nở rộ từ thế kỷ thứ VIII TCN và nó phát triển một cách liên tục trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa. b. Đặc điểm về tư tưởng Triết học Trung Hoa cổ đại
2. Một số học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Hoa cổ đạia. Thuyết Âm - Dương, Ngũ hành
Như vậy Âm - Dương, Ngũ hành là một hệ thống các quan niệm về bản nguyên và tính biến dịch của thế giới hàm chứa nhiều yếu tố duy vật và biện chứng. Thừa nhận vạn vật biến đổi theo quy luật của nó là tư tưởng là giá trị của thuyết biến dịch của Trung Quốc. Tuy nhiên hạn chế của thuyết này là quan niệm về sự biến đổi của thế giới còn giản đơn: không có cái cao hơn, diễn ra theo vòng tuần hoàn, bị đóng khung trong 2 cực (đến cực kia rồi quay lại: âm cực dương hồi) b. Nho gia1. Khổng Tử (551- 479 trCN): Khổng Tử sinh năm 551, mất 479 TCN (theo LSTH của Nguyễn Hữu Vui) quê ở làng Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông ngày nay. Ông là người sáng lập nên Nho gia. Người phương Đông xem ông là bậc thánh của mình, ngày xưa thường gọi là đức thánh “Chí thánh tiên sư, vạn thế sư biểu”. Kinh điển của Nho gia: Kinh điển của Nho gia gồm tứ thư và ngũ kinh. Ngũ kinh (thi, thư, lễ, dịch, xuân thu). Tứ thư là bốn cuốn sách của Nho gia, gồm có: Luận ngữ (Khổng Tử) lấy tác phẩm này làm nền của Nho gia, Đại học (Tăng sâm), Trung dung (Tử tư), Mạnh Tử (Mạnh Tử) tên tác giả được đặt tên cho tác phẩm mà tác giả viết.
Tóm lại, về mặt vũ trụ quan Khổng Tử luôn dao động giữa hữu thần và vô thần, giữa duy tâm và duy vật.
Có thể nói rằng học thuyết chính danh của Khổng Tử hàm chứa những triết lý căn bản về mặt chính trị xã hội và cả về mặt đạo đức xã hội. Tuy nhiên, học thuyết này về sau các thế lực cầm quyền nhà nước phong kiến tuyệt đối hoá nó để bảo vệ địa vị của mình. Khổng Tử là một triết gia lớn trong nền triết học Trung Hoa cổ đại, học thuyết của ông trở thành nền tảng, tư tưởng cho toàn bộ xã hội phong kiến Trung Hoa và phương Đông. Nhiều nội dung tư tưởng của ông đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tư tưởng nhập thế của Nho gia và Khổng Tử có giá trị lớn đối với việc hình thành nhân sinh quan của con người phương đông xưa cũng như nay. Tuy nhiên Khổng Tử và Nho gia cũng có những mặt hạn chế là giao động giữa duy vật và duy tâm. 2. Mạnh Tử (372 - 289 TCN). Học trò Khổng Tử là Mạnh Tử đã phát triển quan điểm của Khổng Tử theo chiều hướng duy tâm. Về đạo đức: Mạnh Tử cho rằng “Nhân chi sơ tính bản thiện”, cho rằng cứ 500 năm thì kết quả cuộc tuần hoàn chu kỳ của ngũ hành nhất định làm xuất hiện một đấng Vương giả hiền đức. 3. Tuân Tử: (298 - 238 TCN). Tuân Tử tên là Huống tự là Khanh người nước Triệu, từng du học ở Tề, Tần và Sở. Tuân Tử là đại biểu của giai cấp địa chủ đang trên đà phát triển. Ông là triết gia có địa vị đặc biệt, là nhà duy vật kiệt xuất trong lịch sử triết học ở Trung Hoa cổ đại.
Tư tưởng này chứng tỏ rằng Tuân Tử đã phát hiện ra biện chứng khách quan của thế giới tự nhiên nên ông hiển nhiên là một triết gia duy vật rất nhất quán trong tư tưởng của mình.
c. Lão Tử và Đạo giaLão Tử là người sáng lập ra Đạo gia, ông là người nước Sở, họ Lý tên Nhĩ, tự là Đam. Sống cùng thời với Khổng Tử (nguồn gốc và năm sinh, mất của ông chưa rõ) Tác phẩm kinh điển của Đạo gia là Đạo đức kinh
+ “Vô vi” là không làm trái với tự nhiên, tức là thuận theo tự nhiên mà làm. + “Bất tranh” không tranh giành, không cướp đoạt, không màn đến danh lợi, sống một cách lẫn khuất trong thế giới con người (không tranh mà thắng). Từ các tư tưởng trên chính Lão Tử chủ trương đưa con người trở về với xã hội nguyên sơ của nó để cho con người sống ở trạng thái thuần phác mộc mạc. Do vậy có thể nói rằng về nhân sinh quan của Lão Tử còn hạn chế ở chỗ ông phủ nhận sự tiến bộ của lịch sử cũng có nghĩa là phủ nhận sự phát triển khách quan của nhân loại. d. Mặc gia: (Khoảng 479 - 381 tr CN)Ông chống lại thuyết của Khổng Tử về mệnh trời và nêu thuyết “Phi mệnh”, thuyết “Kiêm ái”, đề cao vai trò của sản xuất vật chất và tự lực,tự cường
e. Hàn Phi Tử và Pháp gia. (280-233 trCN)Phái này chú trọng vào những tư tưởng chính trị xã hội và đề cao phép trị nước bằng pháp luật dựa vào những quan điểm triết học sau đây
Tác phẩm, tác giả, nguồn
|