Hãy trình bày cách sử dụng sản phẩm học tập trong kiểm tra đánh giá môn Mĩ thuật
Hãy trình bày mục đích sử dụng sản phẩm học tập trong kiểm tra đánh giá?Gợi ý 1:mục đích sử dụng sản phẩm học tập trong kiểm tra đánh giá thông qua đó giáo viên có thể đánh giá được sự tiến bộ của HS, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn của học sinh. Show Gợi ý 2:Sử dụng các sản phẩm học tập để giúp GV đánh giá sự tiến bộ của HS, đánh giá năng lực vận dụng, năng lực hành động thực tiễn, kích thích động cơ, hứng thú học tập cho HS, phát huy tính tích tự lực, ý thức trách nhiệm, sáng tạo, phát triển năng lực giải quyết vấn đề phức hợp, phát triển năng lực cộng tác làm việc, rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn, phát triển năng lực đánh giá cho HS PHƯƠNG PHÁP TRƯNG BÀY SẢN PHẨM HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRONG MÔN MĨ THUẬT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌCBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.7 MB, 30 trang ) PHÒNG GD & ĐT HUYỆN KRÔNG PẮC bày sản phẩm học tập của học sinh. 8 II.3.2. Vận dụng việc đổi mới trưng bày sản phẩm học tập của học sinh thông qua kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức mới. 14 II.3.3. Những kinh nghiệm của bản thân sau khi vận dụng việc đổi mới trưng bày sản phẩm học tập của học sinh thông qua kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức mới. 24 II.4. Những kết quả đạt được của việc thực nghiệm đề tài 24 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. III.1. Kết luận. 25 III.2. Kiến nghị. 26 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. PHẦN MỞ ĐẦU. I.1. Lý do chọn đề tài. Nền giáo dục nước ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới trong quá trình hội nhập quốc tế. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được còn tồn tại rất nhiều thách thức và khó khăn, quá trình hội nhập sẽ làm cho nền văn hóa phương Tây du nhập vào nước ta càng nhanh. Đào tạo ra những chủ nhân tương lai của một đất nước đang trong quá trình chuyển mình sang một giai đoạn mới có đủ bản lĩnh và tài năng chắt lọc những cái hay, cái đẹp, loại bỏ những điều không tốt là một trong những nhiệm vụ của nghành giáo dục. Giáo dục toàn diện là điều kiện thuận lợi để phát triển các tư chất và năng lực cá nhân một cách đầy đủ và mạnh mẽ. Giáo dục của nước ta với xu thế hiện nay là lấy người học làm trung tâm, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, gợi mở… nhằm phát huy mọi khả năng của học sinh đào tạo con người toàn diện về các mặt: Đức dục - Trí dục - Mỹ dục - Thể dục và Lao động. Vì thế, môn Mĩ thuật đã được đưa vào dạy chính thức trong chương trình Tiểu học. Môn Mĩ thuật ở trường Tiểu học là môn không thể thiếu, nó góp phần nâng cao thẩm mĩ cho học sinh, môn Mĩ thuật không chỉ giúp cho các em hiểu được cái đẹp, tạo ra cái đẹp mà còn giúp học sinh lĩnh hội được một số kiến thức cơ bản về việc trình bày sản phẩm học tập của mình sau mỗi bài học. Hiện nay dạy - học môn Mĩ thuật, việc trưng bày sản phẩm học tập của học sinh sau mỗi bài học chưa được phổ biến, mới chỉ dừng lại ở mức độ treo bài vẽ lên để học sinh nhận xét đánh giá, sau đó giáo viên thu lại hoặc trả lại cho học sinh. Với cách này đã không giúp cho học sinh thấy được sự cần thiết của việc trưng bày bài vẽ sao cho đúng và đẹp. Cũng không tạo cho học sinh sự thích thú sau mỗi tiết học Mĩ thuật. Chính vì lý do này nên tôi đã thực hiện việc tìm hiểu, nghiên cứu và thực nghiệm việc trưng bày sản phẩm học tập của học sinh ở trường nơi tôi đang trực tiếp giảng dạy. I.2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài Với đề tài này tôi muốn góp phần nhỏ của mình vào việc giảng dạy bộ môn Mĩ thuật trong việc trưng bày sản phẩm học tập của học sinh ở Tiểu học hiện nay và giúp các em thấy được sự cần thiết của việc trưng bày sản phẩm học tập sau mỗi bài học. Để phục vụ cho việc giảng dạy Mĩ thuật có chất lượng cao. Vì vậy, đề tài tập trung nghiên cứu về cách vận dụng đổi mới việc trưng bày sản phẩm học tập của học sinh ở trường Tiểu học. I.3. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là những kết quả đạt được trong việc trưng bày kết quả học tập của học sinh Tiểu học. I.4. Phạm vi nghiên cứu. Dựa trên cơ sở thực tế của học sinh trường Tiểu học Nguyễn Du khối lớp: 1, 2, 3, 4, 5. I.5. Phương pháp nghiên cứu. a. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: - Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết (nghiên cứu qua các văn bản, chương trình, giáo trình, tài liệu sách báo…). b. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Điều tra tình hình học sinh. - Dự chuyên đề trao đổi, dự giờ, rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy môn Mĩ thuật. - Thực hành giảng dạy theo phương pháp mới. Tìm giải pháp rút kinh nghiệm. II. PHẦN NỘI DUNG. II.1. Cơ sở lý luận. II.1.1. Một số khái niệm. Thẩm mĩ là phạm trù triết học nói về cái đẹp khách quan của đối tượng trong tự nhiên, trong cuộc sống xã hội và bản thân con người. Cái đẹp là cái trung tâm, bên cạnh cái đẹp là cái tốt, cái cao thượng. Những khái niệm tương phản là cái xấu, cái hài, cái bi. Thẩm mĩ còn là giá trị khách quan vốn có của các đối tượng thẩm mĩ được con người nhận thức, đánh giá thưởng thức và cố gắng tạo ra thêm nhiều sản phẩm có giá trị thẩm mĩ cao để sử dụng nó trong cuộc sống. Giáo dục thẩm mĩ là quá trình giáo dục để hình thành cho học sinh năng lực nhận thức cái đẹp, năng lực tri giác, cảm thụ cái đẹp trong tự nhiên, trong cuộc sống xã hội và nghệ thuật; Hình thành cho học sinh năng lực đánh giá cái đẹp, nhận biết cái chân - thiện - mĩ trong cuộc sống con người. Từ đó mà hình thành tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ đúng đắn và phù hợp với dân tộc và thời đại; Hình thành cho học sinh năng lực sáng tạo cái đẹp: cái đẹp vật chất và cái đẹp tinh thần; Cái đẹp trong cuộc sống và cái đẹp trong nghệ thuật. Làm sao để cuộc sống là sáng tạo, mỗi con người là một nghệ sĩ luôn tạo ra cho mình và xã hội những giá trị thẩm mĩ thanh cao; Làm cho mỗi người luôn hướng tới cái đẹp và hành động theo cái đẹp. Cái đẹp quan trọng nhất đó là phẩm giá nhân cách. Giáo dục thẩm mĩ phục vụ cho mục tiêu phát triển của xã hội, do đó nội dung cơ bản của giáo dục thẩm mĩ là giúp học sinh tiếp thu một nền văn hóa dân tộc và nhân loại mang tính khoa học, nhân văn và hiện đại. Kết quả (sản phẩm) là cái đạt được, thu được trong một công việc hay một quá trình tiến triển của sự việc. Học tập là quá trình học và luyện tập để hiểu biết, để có kỹ năng và tri thức. Sản phẩm học tập (hay kết quả học tập) của học sinh là quá trình học sinh lĩnh hội những kiến thức trong nhà trường. Để có được những sản phẩm học tập, những hiểu biết, những kỹ năng, tri thức thì người học cần phải trải qua quá trình học và luyện tập. Như chúng ta đã biết việc giáo dục thẩm mĩ cho học sinh, đặc biệt là học sinh Tiểu học có vai trò thiết thực trong việc hình thành nên một con người có năng lực về nhận thức, đánh giá, sáng tạo và hành động theo cái đẹp.Vì vậy, việc trưng bày sản phẩm học tập của học sinh trong môn Mĩ thuật thì việc giáo dục thẩm mĩ cũng rất quan trọng. Trong quá trình trưng bày sản phẩm học tập, học sinh sẽ biết được việc trưng bày cũng cần phải đẹp, phải đúng và “thẩm mĩ’’. Việc trưng bày sản phẩm học tập của học sinh có ý nghĩa rất lớn trong môn Mĩ thuật. Sau mỗi bài dạy chúng ta cần lưu giữ lại những tác phẩm đẹp, có nội dung sâu sắc, cách trình bày tốt của học sinh. Lưu giữ lại không phải là cất đi mà chúng ta phải làm thế nào để các em có thể thấy, tiếp cận và biết được về bức tranh, tên của người đã thể hiện bức tranh. Qua đó, học sinh sẽ được tiếp xúc với nhiều tranh, nhiều đề tài, học hỏi được cách thể hiện. Học sinh hiểu hơn về cái đẹp, có khả năng sáng tạo, có ý thức tốt trong môn học và trong cuộc sống hàng ngày thông qua các đề tài vẽ tranh mà học sinh được học, được vẽ và được thấy. Trưng bày sản phẩm học tập cũng là một nghệ thuật, việc giáo dục thẩm mĩ cho học sinh là rất cần thiết. II.1.2. Hệ thống chương trình môn Mĩ thuật ở Tiểu học. Các phân môn trong chương trình Mĩ thuật được xuyên suốt từ khối 1 đến khối 5. Cụ thể từng phân môn: * Đối với phân môn Vẽ theo mẫu có 8 bài. * Đối với phân môn Vẽ trang trí có 9 bài. * Đối với phân môn Vẽ tranh có 9 bài. * Đối với phân môn Tập nặn tạo dáng có 4 bài. * Đối với phân môn Thường thức Mĩ thuật có 4 bài. II.2. Thực trạng II.2.1. Thuận lợi: Môn Mĩ thuật là môn học nghệ thuật, thu hút rất nhiều học sinh, nhất là học sinh Tiểu học. Thừa hưởng truyền thống dạy tốt – học tốt của trường Tiểu học Nguyễn Du. Ngay từ khi bắt đầu thực hiện đề tài tôi đã được sự hưởng ứng, đóng góp ý kiến giúp đỡ nhiệt tình của Ban Giám hiệu, thầy cô và các em học sinh trong trường, tạo ra động lực thúc đẩy cho tôi hoàn thành và thực hiện có hiệu quả đề tài này. Đề tài có nội dung sát với chương trình dạy học nên việc thực hiện được thuận lợi đáng kể. Qua quá trình thực hiện đề tài đã thu hút được các em học sinh, từ đó việc dạy và học được diễn ra có chất lượng góp phần không nhỏ vào thành tích học tập môn Mĩ thuật của các em. II.2.2 . Khó khăn: Cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu thốn, đồ dùng dạy – học chưa đầy đủ. Do một số bậc phụ huynh, học sinh còn coi môn mĩ thuật là môn phụ, chưa coi trọng đến kết quả của giáo viên chuyên môn, sự thiếu quan tâm mua sắm đồ dùng học tập cho học sinh Điều đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy - học của giáo viên và học sinh, gây cho học sinh cảm giác chán nản, không tự tin làm bài dẫn đến việc thực hiện trưng bày sản phẩm học tập của học sinh cũng gặp nhiều khó khăn. II.2.3. Điều tra cơ bản: Trong những năm vừa qua, tôi được phân công giảng dạy môn Mĩ thuật tại trường Tiểu học Nguyễn Du, tôi thấy hầu hết các học sinh học tập với tinh thần hăng say, cảm nhận được cái hay, cái đẹp được thể hiện trong các bài thực hành và biết cách trưng bày sản phẩm học tập của mình. Bên cạnh đó, còn một số học sinh chưa mạnh dạn trong thể hiện bài vẽ, một số em còn chán nản không thích học vẽ và vì thế việc trưng bày sản phẩm học tập của học sinh không đạt hiệu quả. Tất cả những vấn đề trên ảnh hưởng lớn đến việc học môn Mĩ thuật và việc trưng bày sản phẩm học tập của học sinh nên tôi đã tiến hành điều tra một số lớp xem có bao nhiêu học sinh biết và không biết trưng bày sản phẩm học tập. Từ cơ sở đó giúp tôi tìm ra hướng giải quyết. * Kết quả điều tra ban đầu: Lớp Sĩ số Số học sinh biết trưng bày sản phẩm học tập Số học sinh không biết trưng bày sản phẩm học tập Tổng số % Tổng số % 1/3 48 31 65% 17 35% 2/2 37 23 62% 14 38% 3/3 47 36 77% 11 23% 4/2 37 27 73% 10 27% 5/2 52 39 75% 13 25% II.3. Giải pháp và biện pháp II.3.1. Những tiêu chí của kiểm tra, đánh giá học tập kết quả trong việc trưng bày sản phẩm học tập của học sinh. Đối với học sinh tiểu học thì việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn Mĩ thuật của học sinh để động viên khuyến khích các em tiếp cận và thể hiện cái đẹp theo cách cảm cách nghĩ của bản thân. Vận dụng được kiến thức, kỹ năng đã học vào cuộc sống. Vì thế, cần tìm được cái hay, cái đẹp riêng của học sinh thể hiện qua mỗi bài vẽ, không lấy đánh giá để răn đe hoặc quá chặt chẽ cứng nhắc. Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn Mĩ thuật của học sinh được xem là công việc cuối cùng là một bộ phận quan trọng và hợp thành một tổng thể thống nhất của quá trình giáo dục có vai trò quan trọng trong quá trình dạy học. Để có bài vẽ đẹp về hình thức và nội dung phục vụ cho việc trưng bày sản phẩm học tập thì việc kiểm tra đánh giá cũng cần có chuẩn mực và tiêu chí đặt ra cho từng khối lớp, từng phân môn, từng bài dạy, từng thời kỳ và đảm bảo yêu cầu đánh giá toàn diện kiến thức, kỹ năng theo chuẩn được quy định trong. * Đối với học sinh khối lớp 1 tiêu chí của kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo từng phân môn: - Phân môn Vẽ theo mẫu: + Học sinh biết quan sát mẫu để vẽ, không dùng thước và compa để vẽ nét thẳng, nét cong. + Bài vẽ mô phỏng gần giống mẫu về hình dáng, tỉ lệ. - Phân môn Vẽ trang trí: + Học sinh biết cách vẽ tiếp hình và vẽ màu vào bài trang trí. + Bước đầu biết cách sắp xếp màu phù hợp. + Vẽ màu phù hợp không gò ép. - Phân môn Vẽ tranh: + Học sinh biết cách chọn đề tài đơn giản, phù hợp với khả năng. + Biết chọn hình ảnh, sắp xếp hình ảnh theo đề tài. + Biết cách chọn màu phù hợp với nội dung. - Phân môn Tập nặn tạo dáng: + Học sinh biết cách chọn đất, nhào đất. + Học sinh biết cách tạo hình cho sản phẩm. - Phân môn Thường thức Mĩ thuật: + Học sinh biết quan sát, nhận xét hình ảnh, màu sắc khi xem tranh. + Học sinh có cảm nhận ban đầu về vẻ đẹp của bức tranh. * Đối với học sinh khối lớp 2 tiêu chí của kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo từng phân môn: - Phân môn Vẽ theo mẫu: + Học sinh biết quan sát, nhận xét, so sánh vật mẫu. + Học sinh biết sắp xếp hình vẽ cân đối với tờ giấy, vẽ được hình mô phỏng theo mẫu. + Không dùng thước kẻ, compa để vẽ các nét thẳng, nét cong. - Phân môn Vẽ trang trí: + Học sinh biết cách vẽ họa tiết đơn giản, biết cách vẽ màu vào bài trang trí. + Trang trí được đường diềm, hình vuông đơn giản. + Vẽ màu phù hợp. - Phân môn Vẽ tranh: + Học sinh biết cách chọn đề tài đơn giản, phù hợp với khả năng. + Biết cách chọn hình ảnh, sắp xếp hình ảnh phù hợp theo đề tài. + Biết cách vẽ màu phù hợp với nội dung, đề tài. - Phân môn Tập nặn tạo dáng: + Học sinh biết cách chọn đất, nhào đất. + Học sinh biết cách tạo khối, tạo hình cho sản phẩm. - Phân môn Thường thức Mĩ thuật: + Học sinh biết quan sát, nhận xét, so sánh hình ảnh, màu sắc khi xem tranh. + Có cảm nhận ban đầu về vẻ đẹp của các bức tranh. * Đối với học sinh khối lớp 3 tiêu chí của kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo từng phân môn: - Phân môn Vẽ theo mẫu: + Học sinh biết quan sát, nhận xét, so sánh vật mẫu. + Học sinh biết sắp xếp hình vẽ cân đối với tờ giấy, vẽ được hình mô phỏng theo mẫu. + Không dùng thước kẻ, compa để vẽ các nét thẳng, nét cong. - Phân môn Vẽ trang trí: + Học sinh biết cách vẽ họa tiết, sắp xếp họa tiết và vẽ màu phù hợp vào bài trang trí. + Trang trí được đường diềm, hình vuông và hình chữ nhật. - Phân môn Vẽ tranh: + Học sinh biết cách chọn đề tài đơn giản phù hợp với khả năng. + Biết cách chọn hình ảnh, sắp xếp hình ảnh theo đề tài. + Biết cách vẽ màu phù hợp với nội dung đề tài. - Phân môn Tập nặn tạo dáng: + Học sinh biết cách chọn đất, nhào đất. + Học sinh biết cách tạo khối, tạo hình cho sản phẩm. - Phân môn Thường thức Mĩ thuật: + Học sinh biết quan sát, nhận xét hình ảnh, màu sắc khi xem tranh. + Học sinh có cảm nhận ban đầu về vẻ đẹp của bức tranh. * Đối với học sinh khối lớp 4 tiêu chí của kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo từng phân môn: - Phân môn Vẽ theo mẫu: + Học sinh biết quan sát, nhận xét, so sánh hình dáng, tỉ lệ của vật mẫu. + Học sinh biết sắp xếp hình vẽ cân đối với tờ giấy, vẽ được hình mô phỏng theo mẫu, bước đầu biết vẽ đậm, vẽ nhạt. + Không dùng thước kẻ, compa để vẽ các nét thẳng, nét cong. - Phân môn Vẽ trang trí: + Học sinh biết cách vẽ họa tiết, sắp xếp họa tiết và vẽ màu phù hợp vào bài trang trí. + Trang trí được các hình cơ bản và các hình ứng dụng theo nội dung bài. + Cảm nhận được vẻ đẹp của các bài trang trí, biết vận dụng và thể hiện cái đẹp vào bài vẽ của mình. - Phân môn Vẽ tranh: + Học sinh biết cách chọn đề tài đơn giản phù hợp với khả năng. + Biết cách chọn hình ảnh, sắp xếp hình ảnh theo đề tài. + Biết cách vẽ màu phù hợp với nội dung đề tài. + Cảm nhận được vẻ đẹp của tranh đề tài. - Phân môn Tập nặn tạo dáng: + Học sinh biết cách chọn đất, nhào đất. + Học sinh biết cách tạo khối, tạo hình cho sản phẩm. + Có cảm nhận vẻ đẹp của hình khối. - Phân môn Thường thức Mĩ thuật: + Học sinh biết quan sát, nhận xét hình ảnh, màu sắc khi xem tranh. + Hiểu nội dung các bức tranh sau khi xem. + Học sinh có cảm nhận ban đầu về vẻ đẹp của bức tranh. * Đối với học sinh khối lớp 5 tiêu chí của kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo từng phân môn: - Phân môn Vẽ theo mẫu: + Mẫu vẽ là hai hoặc ba vật mẫu quen thuộc. + Phân biệt được hình dáng, đặc điểm của mẫu. + Vẽ được hình gần giống mẫu, vẽ đậm nhạt đơn giản hoặc vẽ màu theo ý thích. + Cảm nhận được vẻ đẹp của bố cục, hình vẽ và đậm nhạt ở mẫu vẽ, bài vẽ. - Phân môn Vẽ trang trí: + Học sinh hiểu biết thêm về màu sắc và sử dụng được màu sắc vào các bài thực hành vẽ trang trí. + Vẽ được họa tiết đối xứng ở bài trang trí; làm được các bài trang trí cơ bản, ứng dụng theo cảm nhận riêng. + Bước đầu cảm nhận được vẻ đẹp của trang trí cơ bản và trang trí ứng dụng. - Phân môn Vẽ tranh: + Học sinh biết tìm, chọn nội dung đề tài và các hình ảnh chính, phụ. + Hiểu được cách vẽ và vẽ được tranh có nội dung theo đề tài hoặc theo ý thích. + Vẽ màu hài hòa, có đậm, có nhạt theo cảm nhận riêng. - Phân môn Tập nặn tạo dáng: + Nhận biết được đặc điểm và cấu tạo của đối tượng. + Biết cách nặn, nặn được hình và tạo dáng theo ý thích bằng đất sét hay đất màu. + Sắp xếp hình nặn theo đề tài. - Phân môn Thường thức Mĩ thuật: + Tìm hiểu nội dung các tác phẩm qua bố cục, hình vẽ và màu sắc. + Biết sơ qua một số chất liệu được sử dụng trong tranh của các họa sĩ và một số chất liệu được sử dụng trong điêu khắc cổ. + Cảm nhận được vẻ đẹp ở tranh vẽ của họa sĩ và ở điêu khắc cổ Việt Nam. + Yêu thích quý trọng các tác phẩm nghệ thuật của dân tộc. Trong quá trình sử dụng phương pháp kiểm tra, đánh giá theo tiêu chuẩn mới thì tôi thấy được những ưu điểm rất rõ. Như chúng ta đã biết Mĩ thuật là môn học về cái đẹp, nhìn ra cái đẹp để lĩnh hội và cảm thụ cái đẹp, thưởng thức cái đẹp. Tiêu chí về cái đẹp là những quy định chung mang tính định hướng, vì thế không dập khuôn, máy móc theo một công thức cụ thể. Việc đánh giá kết quả học tập Mĩ thuật dựa vào đánh giá định tính (nhận xét) bởi sự tổng hòa của những kỹ năng, vẻ đẹp, sáng tạo và nét riêng của học sinh thông qua bố cục, đường nét, màu sắc và cách thể hiện. II.3.2. Vận dụng việc đổi mới trưng bày sản phẩm học tập của học sinh thông qua kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức mới. Như đã nói ở trên, dạy học Mĩ thuật là dạy cho học sinh cảm nhận và tạo ra cái đẹp. Vì vậy, trưng bày sản phẩm học tập của học sinh nhằm giúp học sinh lĩnh hội và cảm thụ cái đẹp, có khả năng sáng tạo ra cái đẹp. Bên cạnh đó, còn khơi gợi được hứng thú học tập trong môn Mĩ thuật của học sinh, giúp học sinh biết quan sát và yêu thích cuộc sống xung quanh hơn. Trong quá trình dạy học Mĩ thuật ở trường Nguyễn Du tôi đã thực hiện việc vận dụng đổi mới trưng bày sản phẩm học tập của học sinh thông qua kiểm tra, đánh giá theo tiêu chuẩn kiến thức mới. Trước đây sau mỗi bài dạy, việc đánh giá kết quả học tập của học sinh hoàn tất thì việc trả lại bài vẽ của học sinh thường diễn ra, đó là với phân môn Vẽ tranh, Vẽ theo mẫu, Vẽ trang trí, Tập nặn tạo dáng còn đối với phân môn Thường thức Mĩ thuật thì ít khi giáo viên thu lại những tranh ảnh sưu tầm của học sinh. Vì thế, sau mỗi bài dạy giáo viên không có thêm tranh của học sinh, học sinh cũng không có thêm bài vẽ có chất lượng để tham khảo, học hỏi, không có sự khích lệ cho các em trong việc vẽ bài cũng như học sinh không biết trưng bày bài vẽ ở lớp và ở nhà. Đối với học sinh Tiểu học thì các em chưa có khả năng ghi nhớ sâu nhiều vấn đề trong một bài học. Vì vậy, đưa tranh, ảnh cho học sinh tham khảo trong một thời điểm rất khó để học sinh nhớ, hiểu và biết được bức tranh đó của bạn vẽ gì? vẽ như thế nào? màu sắc ra sao?. Bên cạnh đó thì sau mỗi bài học, những bài vẽ đẹp đó chỉ có học sinh trong lớp biết được lớp mình có những bài vẽ đẹp nào? ai là người vẽ đẹp? mà không biết được các anh chị, các bạn lớp nào vẽ đẹp và cách thể hiện bài ra sao? đề tài thể hiện là gì?. Chính những hạn chế của việc không trưng bày sản phẩm học tập sau mỗi bài học. Tôi đã tìm ra cách trưng bày sản phẩm của học sinh sau mỗi bài học để giúp học sinh vừa được tham khảo bài của các bạn, vừa biết trưng bày bài vẽ của mình sao cho đúng, sao cho đẹp mắt. Sau khi dạy xong chương trình của mỗi tiết học tôi đều dành ra thời gian ngắn để cho học sinh viết tên của mình và tên bức tranh. Sau đó, giáo viên có thể đặt các câu hỏi gợi ý để cả lớp nhận xét về những bức tranh đẹp: + Bức tranh của bạn vẽ về đề tài gì? + Tên bức tranh bạn đặt như vậy đã phù hợp với nội dung đề tài chưa? + Cả lớp hãy tìm ra phân môn của bài học hôm nay ( với học sinh lớp 1, lớp 2 giáo viên phải giải thích cho học sinh hiểu từ “phân môn’’ để các em biết). Khi cả lớp đã trả lời xong, giáo viên bắt đầu cho học sinh có bài đẹp đến nơi treo bài và đặt đúng vị trí. Giáo viên đặt câu hỏi chung cho cả lớp nhằm mục đích tạo điều kiện cho các em biết đặt tên cho một bức tranh theo nội dung, đề tài. Học sinh biết trưng bày bài theo đúng phân môn, đúng đề tài, để từ đó học sinh có thói quen, quan tâm tới các phân môn, nhớ tới các đề tài, biết cách thể hiện nội dung và cách trưng bày sản phẩm. Trong chương trình Mĩ thuật ở Tiểu học có 5 phân môn, có một phân môn Tập nặn tạo dáng, vì vậy mỗi lớp cần chuẩn bị một bàn để trưng bày và 04 tờ giấy rôki hoặc bảng làm theo mẫu trên. Phân môn nào thì trình bày nội dung theo phân môn đó. Đối với phân môn Thường thức Mĩ thuật, học sinh sưu tầm các hình ảnh liên quan tới bài học và dán lên tờ giấy A4. Phân môn vẽ tranh của lớp 5 có đề tài: vẽ tranh đề tài nhà trường, vẽ đề tài ngày Nhà giáo Việt Nam, vẽ tự do Phân môn vẽ tranh có nhiều đề tài nên tôi đã gộp lại thành một số đề tài cụ thể như: Tranh chân dung, tranh phong cảnh, tranh tự do, tranh sinh hoạt. Sau đó, tôi trình bày theo khung mẫu dưới (có tranh, ảnh kèm theo): Trang: 17 TRƯNG BÀY SẢN PHẨM HỌC TẬP MÔN MĨ THUẬT LỚP: 5A PHÂN MÔN: VẼ TRANH Tranh chân dung Tranh phong cảnh Tranh tự do Tranh sinh hoạt Tranh vẽ của học sinh Tranh vẽ của học sinh Tranh vẽ của học sinh Tranh vẽ của học sinh LỚP: 5A PHÂN MÔN: VẼ TRANH Tranh chân dung Tranh phong cảnh Tranh tự do Tranh sinh hoạt Phân môn vẽ trang trí của lớp 5 có các bài trang trí cơ bản: màu sắc trong trang trí, vẽ họa tiết đối xứng qua trục Trang trí ứng dụng có các bài: Trang trí đường diềm ở đồ vật, trang trí cổng trại hoặc lều trại thiếu nhi (Giáo viên phải giải thích cho học sinh về trang trí cơ bản và trang trí ứng dụng). Sau đó, phân môn vẽ trang trí cũng được trình bày hình thức như phân môn vẽ tranh theo khung mẫu dưới (có tranh, ảnh kèm theo): Trang: 19 TRƯNG BÀY SẢN PHẨM HỌC TẬP MÔN MĨ THUẬT LỚP: 5A PHÂN MÔN: VẼ TRANG TRÍ Trang trí cơ bản Trang trí ứng dụng Tranh vẽ của học sinh Tranh vẽ của học sinh Phân môn thường thức Mĩ thuật của lớp 5 có các bài: xem tranh về các tác phẩm hội họa, Giới thiệu sơ lược về điêu khắc cổ Việt Nam. Phân môn thường thức mĩ thuật được trình bày dưới hình thức sau (có tranh, ảnh kèm theo): Trang: 20 TRƯNG BÀY SẢN PHẨM HỌC TẬP MÔN MĨ THUẬT LỚP: 5A PHÂN MÔN: THƯỜNG THỨC MĨ THUẬT Tranh của họa sĩ Ảnh về tượng và điêu khắc cổ Tranh sưu tầm của học sinh Ảnh sưu tầm của học sinh LỚP: 5A PHÂN MÔN: VẼ TRANG TRÍ Trang trí cơ bản Trang trí ứng dụng LỚP: 5A PHÂN MÔN: THƯỜNG THỨC MĨ THUẬT Tranh của họa sĩ Ảnh về tượng và điêu khắc cổ Phân môn vẽ theo mẫu của lớp 5 có các bài vẽ: Mẫu vẽ là khối hộp, khối cầu; mẫu có dạng hình trụ, hình cầu, Mẫu vẽ có 2 hoặc 3 vật mẫu; vẽ tĩnh vật màu. Phân môn vẽ theo mẫu được trình bày với các nội dung như khung mẫu dưới (có tranh, ảnh kèm theo): Trang: 22 TRƯNG BÀY SẢN PHẨM HỌC TẬP MÔN MĨ THUẬT LỚP: 5A PHÂN MÔN: VẼ THEO MẪU Mẫu vẽ các hình, khối Mẫu vẽ có 2 hoặc 3 vật mẫu Vẽ tĩnh vật Tranh vẽ của học sinh Tranh vẽ của học sinh Tranh vẽ của học sinh LỚP: 5A PHÂN MÔN: VẼ THEO MẪU Mẫu vẽ các hình, khối Mẫu vẽ có 2 hoặc 3 vật mẫu Vẽ tĩnh vật Sau quá trình trưng bày sản phẩm với số bài tương đối, tôi lập kế hoạch trưng bày hoán đổi. Có nghĩa là: Lớp 1A hoán đổi sản phẩm trưng bày cho lớp 1B. Lớp 2A hoán đổi sản phẩm trưng bày cho lớp 2B. Lớp 3A hoán đổi sản phẩm trưng bày cho lớp 3B. Lớp 4A hoán đổi sản phẩm trưng bày cho lớp 4B. Lớp 5A hoán đổi sản phẩm trưng bày cho lớp 5B. Lớp 1A hoán đổi sản phẩm trưng bày cho lớp 2A. Hoán đổi bảng trưng bày sản phẩm cho từng khối lớp, với mục đích học sinh thấy được cách thể hiện về nội dung, hình ảnh, màu sắc trong bài vẽ của các anh chị, các bạn để tham khảo, giao lưu học hỏi, làm tư liệu cho bài học sau. Việc hoán đổi có thể theo tuần và giáo viên đặt ra yêu cầu: học sinh phải quan sát những bức tranh của anh, chị (các bạn, các em) và nêu nhận xét của mình tiết sau nộp lại bài nhận xét cho giáo viên. Mục đích của việc này là giúp các em quan tâm tới các bức tranh, biết cách nêu nhận xét về bức tranh để từ đó học sinh học tốt phân môn Thường thức Mĩ thuật hơn. Sau một thời gian thực nghiệm trong trường tôi thấy được sự thấy được sự thay đổi rõ rệt trong ý thức học tập của học sinh đối với môn Mĩ thuật. Học sinh học được những yêu cầu cơ bản về cách trưng bày sản phẩm học tập của mình theo từng phân môn và từng đề tài. Từ việc có những học sinh cá biệt, mỗi lần đến môn học Mĩ thuật thường có nhiều lý do để không vẽ bài, hay không nghe giảng gây mất trật tự trong giờ học, thì bây giờ hầu như đều cố gắng vẽ bài, chăm chú nghe giảng, hăng say làm việc nhóm. Các em đã tiến bộ hơn trong học tập môn Mĩ thuật, việc truyền thụ kiến thức cũng thuận lợi hơn, giờ học sôi nổi hơn. Điều đó thúc đẩy khả năng sáng tạo của các em, lôi cuốn các em vào môn học và học tốt bộ môn. Qua việc trưng bày, học sinh hiểu thêm về cái đẹp, yêu cái đẹp; học sinh biết vẽ những bài vẽ theo đề tài, biết nhận xét về bức tranh, biết trưng bày một sản phẩm học tập, từ đó học sinh sẽ thấy môn Mĩ thuật có nhiều điều cần phải học, cần phải tìm hiểu và thấy được Mĩ thuật rất cần cho cuộc sống của mình. II.3.3. Những kinh nghiệm của bản thân sau khi vận dụng việc đổi mới trưng bày sản phẩm học tập của học sinh thông qua kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức mới. Trong quá trình thực nghiệm ở trường Tiểu học Nguyễn Du nơi tôi công tác, thời gian đầu việc thực nghiệm theo đề tài này tôi gặp không ít khó khăn trong việc giúp học sinh hiểu được cách trưng bày sản phẩm học tập cũng như việc hoán đổi giữa các lớp. Nhưng sau một thời gian thực hiện học sinh đã làm quen và biết cách trưng bày bài, các em có ý thức hơn trong việc giữ gìn các bài vẽ trưng bày. Để làm được điều này giáo viên không được nóng vội, cần phải hướng dẫn cụ thể từng bước cho các em, để các em làm quen dần đặc biệt là học sinh khối lớp 1, 2, 3. Trong quá trình thực hiện giáo viên có thể kết hợp một số trò chơi hay hình thức nào đó để học sinh quan tâm đến việc trưng bày sản phẩm học tập. Giáo viên cũng tạo mọi điều kiện cho học sinh tích cực, chủ động tham gia và tham gia có hiệu quả các hoạt động. II.4. Những kết quả của việc thực nghiệm đề tài. * Kết quả sau khi thực nghiệm: Sau một thời gian thực nghiệm ở trường Tiểu học Nguyễn Du, trưng bày sản phẩm đã có những thay đổi đáng kể thông qua bảng điều tra sau khi thực nghiệm dưới đây: Lớp Sĩ số Số học sinh biết trưng bày sản phẩm học tập Số học sinh không biết trưng bày sản phẩm học tập Tổng số % Tổng số % 1/3 48 47 98% 01 2% 2/2 37 36 97% 01 3% 3/3 47 45 96% 02 4% 4/2 37 37 100% 0 0 5/2 52 52 100% 0 0 Kết quả cuối năm hầu hết các em đã biết trưng bày sản phẩm học tập linh hoạt hơn, đúng và đẹp theo từng phân môn, theo từng đề tài. Bên cạnh đó, hầu như các em quan tâm tới môn Mĩ thuật hơn và các em học với tinh thần hăng say hơn. III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. III.1. Kết luận. Mục đích giáo dục là đào tạo con người về mọi mặt như: Đức dục, Trí dục, Mĩ dục, Thể dục và lao động. Thực hiện giáo dục Mĩ dục phải thông qua nhiều hoạt động, nhiều môn học, trong đó môn Mĩ thuật có vị trí quan trọng. Môn Mĩ thuật không những giúp cho con người có khả năng cảm thụ được cái đẹp, mà còn biết tạo nên cái đẹp làm cho cuộc sống phong phú, tốt đẹp hơn. Môn Mĩ thuật ở trường phổ thông không nhằm đào tạo học sinh thành những người chuyên làm công tác Mĩ thuật, mà mục đích chủ yếu là làm cho đông đảo học sinh được tiếp xúc với hoạt động nghệ thuật, để các em có hiểu biết về những yếu tố làm ra cái đẹp và những quy chuẩn về cái đẹp. Thông qua đề tài nghiên cứu tôi cũng chỉ mong muốn các đồng nghiệp trong bộ môn Mĩ thuật quan tâm hơn đến việc trưng bày sản phẩm học tập cho học sinh, các đồng nghiệp khác có cái nhìn tốt hơn, quan tâm hơn đến bộ môn Mĩ thuật. Còn đối với học sinh, tôi muốn các em hiểu được vai trò của môn Mĩ thuật nói chung và việc trưng bày sản phẩm học tập nói riêng, các em có ý thức học tập tốt hơn trong tất cả các môn học. III.2. K iến nghị. * Đối với nhà trường: Cần quan tâm, giúp đỡ, đáp ứng về nhu cầu cơ sở vật chất như: phòng chức năng, bảng, giá vẽ. Mua sắm tranh, ảnh, đồ dùng trực quan cho môn Mĩ thuật. * Đối với gia đình: Có cái nghĩa đúng hơn với các môn học tiến tới xóa bỏ quan niệm môn chính, môn phụ; Gia đình cần quan tâm về tinh thần và mua sắm trang thiết bị, đồ dùng học tập cho các em học sinh, giúp các em có đủ điều kiện tham gia học tập. * Mối quan hệ chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội là động lực thúc đẩy giúp các em vững bước trên con đường hoàn thiện nhân cách của mình. - Kết hợp gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội: Mở các cuộc thi, hội thi, các cuộc triển lãm, phòng trưng bày sản phẩm có liên quan đến Mĩ thuật tạo ra cho các em một môi trường để giao lưu. Trên đây là những kiến nghị của cá nhân tôi, rất mong được sự quan tâm đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học và đồng nghiệp. Eakly, ngày 04 tháng 12 năm 2014 Người viết Dương Thị Phượng TÀI LIỆU THAM KHẢO - Sách giáo khoa Mĩ thuật khối 1, 2, 3, 4, 5.(Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam) - Sách giáo viên Mĩ thuật khối 1, 2, 3, 4, 5. (Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam) - Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Mĩ thuật. (Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam) Và một số tài liệu tham khảo khác. |