Em hay trình bày phương pháp phân tích và đánh giá tổng quát trong kiểm toán

Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các kiểm toán viên cần thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như những điều kiện cần thiết khác cho kiểm toán. Việc lập kế hoạch kiểm toán không chỉ xuất phát từ yêu cầu chính của cuộc kiểm toán nhằm chuẩn bị những điều kiện cơ bản trong công tác kiểm toán, cho cuộc kiểm toán mà còn là nguyên tắc cơ bản trong công tác kiểm toán đã được quy định thành chuẩn mực và đòi hỏi các kiểm toán viên phải tuân theo đầy đủ nhằm đảm bảo tiến hành công tác kiểm toán có hiệu quả và chất lượng.

Tham khảo thêm các bài viết sau:

Danh Sách Các Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Kế Toán Hay Nhất

+ Kế toán hàng tồn kho và hướng dẫn hoàn thành khóa luận kế toán hàng tồn kho

Em hay trình bày phương pháp phân tích và đánh giá tổng quát trong kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán là gì? Nội dung các bước lập kế hoạch kiểm toán

Mục lục [Ẩn] 

Trong Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300 về “Lập kế hoạch kiểm toán” có nêu rõ: “Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải lập kế hoạch kiểm toán để đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành một cách có hiệu quả” , và: “Kế hoạch kiểm toán phải được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán; phát hiện gian lận, rủi ro và những vấn đề tiềm ẩn; và đảm bảo cuộc kiểm toán được hoàn thành đúng thời hạn” . Để đảm bảo mục tiêu trên, kế hoạch kiểm toán thường được lập theo năm bước công việc như sau:

Em hay trình bày phương pháp phân tích và đánh giá tổng quát trong kiểm toán

 Lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế phương pháp kiểm toán

1. Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán

Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán là bước đầu tiên trong quy trình kiểm toán. Đây là quá trình tiếp cận để thu thập những thông tin về khách hàng nhằm giúp kiểm toán viên tìm hiểu về các nhu cầu của họ, đánh giá về khả năng phục vụ và các vấn đề khác như thời gian thực hiện, phí kiểm toán… Dựa vào đó, nếu đồng ý, kiểm toán viên sẽ ký hợp đồng kiểm toán với khách hàng. Công việc này được thực hiện qua các bước sau:

1.1 Tiếp nhận khách hàng:

Theo VSA số 220 về “Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán”: “Trong quá trình duy trì khách hàng hiện có và đánh giá khách hàng tiềm năng, công ty kiểm toán phải cân nhắc đến tính độc lập, năng lực phục vụ khách hàng của công ty kiểm toán và tính chính trực của Ban quản lý của khách hàng” . Việc đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán là rất cần thiết vì việc chấp nhận một khách hàng mới hay tiếp tục kiểm toán cho một khách hàng cũ có khả năng làm tăng rủi ro cho hoạt động của kiểm toán viên hay làm hại đến uy tín của công ty kiểm toán.

Vì thế nên khi được mời kiểm toán, công ty kiểm toán phải phân công cho những kiểm toán viên nhiều kinh nghiệm để thẩm định về khả năng đảm nhận công việc, cũng như dự kiến về thời gian và phí kiểm toán. - Đối với khách hàng mới: Trước hết, kiểm toán viên cần tìm hiểu lý do mời kiểm toán của khách hàng, thu thập thông tin về các khía cạnh như lĩnh vực kinh doanh, tình trạng tài chính,… Kiểm toán viên phải tăng lượng thông tin cần thu thập khi mà báo cáo tài chính của khách hàng sẽ được sử dụng rộng rãi, nhất là đối với các công ty cổ phần có niêm yết trên thị trường chứng khoản, những công ty có nhiều công nợ… Kiểm toán viên cũng cần thu thập thông tin từ các ngân hàng dữ liệu, từ báo chí, sách báo chuyên ngành,…

Em hay trình bày phương pháp phân tích và đánh giá tổng quát trong kiểm toán

 Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán

Trong trường hợp đơn vị đã có kiểm toán viên tiền nhiệm, kiểm toán viên cần tìm cách thu thập các thông tin hữu ích từ phía các kiểm toán viên tiền nhiệm, chẳng hạn như những thông tin về tính chính trực của các nhà quản lý đơn vị, các bất đồng giữa hai bên (nếu có), lý do khiến họ không tiếp tục cộng tác với nhau,… Kiểm toán viên sẽ phải rất thận trọng trong các trường hợp:

- Khách hàng không đồng ý cho tiếp xúc với kiểm toán viên tiền nhiệm.

- Trước đây giữa đôi bên đã xảy ra những bất đồng nghiêm trọng, nên các câu trả lời của kiểm toán viên tiền nhiệm bị giới hạn và họ không thể cung cấp những thông tin cần thiết.

- Qua ý kiến của người tiền nhiệm, kiểm toán viên đã phát hiện được một số vấn đề bất thường và trọng yếu. Với các thông tin thu thập được, kiểm toán viên nghiên cứu và phân tích sơ bộ về tình hình tài chính của đơn vị, đánh giá và ước lượng sơ bộ về mức trọng yếu và rủi ro tiềm tàng trong hoạt động kinh doanh của khách hàng để quyết định xem có nhận lời kiểm toán hay không. Nếu tiếp nhận, kiểm toán viên cần khẳng định được rằng sẽ không vi phạm luật pháp và đạo đức nghề nghiệp. Kiểm toán viên không nên nhận lời kiểm toán khi tính độc lập không được bảo đảm hoặc xét thấy không đủ năng lực phục vụ khách hàng.

- Đối với khách hàng cũ: Hàng năm, sau khi hoàn thành kiểm toán, kiểm toán viên cần cập nhật thông tin nhằm đánh giá lại về các khách hàng hiện hữu để xem có nên tiếp tục kiểm toán cho họ hay không, kiểm toán viên cũng cần nghiên cứu xem có cần phải thay đổi nội dung của hợp đồng kiểm toán hay không,… Có những trường hợp, kiểm toán viên cần phải ngưng kiểm toán cho khách hàng, thí dụ khi đang xảy ra tranh chấp giữa khách hàng và kiểm toán viên, hay giữa đôi bên đã có sự mâu thuẫn về phạm vi kiểm toán, hay từng có những tranh luận về các thủ tục kiểm toán cần thực thi,…

1.2 Phân công kiểm toán viên:

Sau khi đã xem xét khả năng chấp nhận khách hàng, công ty kiểm toán cần ước lượng quy mô phức tạp của cuộc kiểm toán, từ đó lựa chọn đội ngũ nhân viên thích hợp để thực hiện cuộc kiểm toán. Việc lựa chọn này được tiến hành trên yêu cầu về số người, trình độ khả năng và yêu cầu chuyên môn kỹ thuật và thường do Ban Giám đốc công ty kiểm toán trực tiếp chỉ đạo.

1.3 Ký kết hợp đồng kiểm toán:

Sau khi đã quyết định chấp nhận kiểm toán cho khách hàng, bước cuối cùng trong giai đoạn chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán mà công ty kiểm toán phải thực hiện là ký kết hợp đồng kiểm toán. Trước khi đi đến ký kết hợp đồng kiểm toán, công ty kiểm toán sẽ có những trao đổi và thảo luận sơ bộ với khách hàng về một số điều khoản chính trong hợp đồng kiểm toán như: mục đích và phạm vi kiểm toán, trách nhiệm của Ban giám đốc công ty khách hàng và kiểm toán viên, hình thức thông báo kết quả kiểm toán, thời gian tiến hành cuộc kiểm toán, căn cứ tính giá phí cuộc kiểm toán và hình thức thanh toán,…

Nếu công ty khách hàng và công ty kiểm toán đều đồng ý với những điều khoản trong hợp đồng kiểm toán thì hai bên sẽ kí kết vào hợp đồng kiểm toán. Đây là sự thoả thuận chính thức giữa công ty kiểm toán và khách hàng về việc thực hiện kiểm toán và các dịch vụ liên quan khác. Và lúc này, công ty kiểm toán trở thành chủ thể kiểm toán chính thức của công ty khách hàng.

Nếu bạn không có nhiều kinh nghiệm trong việc viết luận văn, luận án hay khóa luận tốt nghiệp. Bạn cần đến Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ-Cao Học Uy Tín, Lâu Đời Nhất , Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, ... để giúp mình hoàn thành những bài luận đúng deadline?

Khi gặp khó khăn về vấn đề viết luận văn, luận án hay khóa luận tốt nghiệp, hãy nhớ đến Tổng đài tư vấn luận văn 1080, nơi giúp bạn giải quyết những khó khăn mà chúng tôi đã từng trải qua.

2. Thu thập thông tin về đơn vị được kiểm toán

Sau khi kí kết hợp đồng kiểm toán, kiểm toán viên bắt đầu lập kế hoạch kiểm toán tổng quát. Theo đó, để đảm bảo chất lượng cuộc kiểm toán và đạt được các mục tiêu đề ra cho cuộc kiểm toán thì kiểm toán viên phải có sự hiểu biết đầy đủ về khách hàng, trên một phạm vi rất rộng, bao gồm nhiều phương diện như sau:

- Hiểu biết chung về nền kinh tế như thực trạng nền kinh tế, các chính sách của Chính phủ, mức độ lạm phát,….

- Hiểu biết về môi trường và lĩnh vực hoạt động của đơn vị được kiểm toán như tình hình thị trường và cạnh tranh, các đặc điểm của ngành nghề kinh doanh, các chuẩn mực, chế độ kế toán cũng như các quy định khác của luật pháp có liên quan đến ngành nghề,…

- Nhận diện các bên hữu quan với khách hàng, đó là các bộ phận trực thuộc, các chủ sở hữu chính thức của công ty khách hàng hay bất kỳ công ty chi nhánh, một cá nhân hay tổ chức nào mà công ty khách hàng có quan hệ và các cá nhân tổ chức đó có khả năng điều hành, kiểm soát hoặc có ảnh hưởng đáng kể tới các chính sách kinh doanh hoặc chính sách quản trị của công ty khách hàng.

- Hiểu biết về những yếu tố nội tại của đơn vị được kiểm toán, bao gồm những đặc điểm về sở hữu và quản lý, tình hình kinh doanh của đơn vị, khả năng tài chính của đơn vị,…

+ Đối với doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, kiểm toán viên cần tìm hiểu về các mặt hàng và dịch vụ mà đơn vị cung cấp, thị trường tiêu thụ và cạnh tranh của các mặt hàng và dịch vụ đó, tình hình tiêu thụ của từng loại mặt hàng, dịch vụ, các chuẩn mực, chế độ kế toán về doanh thu, các quy định khác của pháp luật có liên quan,… Đồng thời nhận diện được các bên hữu quan như các khách hàng lớn có liên quan đến đầu ra, các tổ chức, cá nhân trong nội bộ công ty mà đơn vị có cung cấp hàng hoá và dịch vụ (ghi nhận doanh thu nội bộ),…

+ Đối với doanh thu hoạt động tài chính, kiểm toán viên cần tìm hiểu về nội dung các khoản doanh thu hoạt động tài chính, tìm hiểu các chính sách và phương pháp kế toán cho việc ghi nhận doanh thu hoạt động tài chính,…, đồng thời nhận diện các bên hữu quan. Để đạt được những hiểu biết như trên, kiểm toán viên thường thực hiện các phương pháp sau:

- Thu thập và nghiên cứu tài liệu về tình hình kinh doanh của khách hàng: Điều lệ công ty, giấy phép thành lập, các biên bản, hợp đồng hoặc cam kết quan trọng, các nội quy, chính sách của khách hàng, các văn bản luật, chế độ,…

- Xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán trước và hồ sơ kiểm toán chung.

- Tham quan nhà xưởng, kho tàng, cửa hàng, văn phòng làm việc,… của đơn vị.

- Phỏng vấn cán bộ quản lý, công nhân viên trong đơn vị. Sau khi tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của khách hàng, nếu công ty kiểm toán cho rằng không ai trong nhóm kiểm toán có chuyên môn hoặc khả năng về lĩnh vực đặc thù nào đó để thực hiện các thủ tục kiểm toán cần thiết nhất định, ví dụ như khi đánh giá về nghệ thuật, vàng bạc, đá quý, hoặc khi cần tư vấn pháp lý về các hợp đồng,… khi đó công ty kiểm toán có thể quyết định sử dụng chuyên gia bên ngoài.

3. Thực hiện các thủ tục phân tích sơ bộ

Sau khi đã thu thập được các thông tin về khách hàng, kiểm toán viên tiến hành thực hiện các thủ tục phân tích đối với các thông tin đã thu thập để hỗ trợ cho việc lập kế hoạch về bản chất, thời gian và nội dung các thủ tục kiểm toán sẽ được sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán. Đối với khoản mục doanh thu, các thủ tục phân tích được kiểm toán viên sử dụng gồm hai loại cơ bản:

- Phân tích ngang (phân tích xu hướng): là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các trị số của chỉ tiêu doanh thu trên Báo cáo kết quả kinh doanh. Các chỉ tiêu thường được sử dụng bao gồm:

+ So sánh doanh thu kỳ này với kỳ trước hoặc giữa các kỳ với nhau và qua đó kiểm toán viên thấy được những biến động bất thường và xác định được các lĩnh vực cần quan tâm.

+ So sánh doanh thu thực tế với doanh thu dự toán hoặc số liệu ước tính của kiểm toán viên.

+ So sánh doanh thu của công ty khách hàng với doanh thu của các công ty khác tương tự về quy mô, loại hình kinh doanh,…

- Phân tích dọc (phân tích tỷ suất): là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các tỷ lệ tương quan của các chỉ tiêu và khoản mục khác nhau trên Báo cáo tài chính. Các tỷ suất tài chính thường dùng trong phân tích doanh thu có thể là tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu, tỷ lệ chiết khấu hàng bán trên doanh thu, tỷ lệ chi phí bán hàng trên doanh thu, tỷ suất về khả năng sinh lời, tỷ lệ nợ phải thu khách hàng trên doanh thu, v.v…

Đối với doanh thu hoạt động tài chính, các tỷ suất thường được sử dụng có thể là tỷ lệ chi phí hoạt động tài chính trên doanh thu hoạt động tài chính, tỷ lệ doanh thu hoạt động tài chính trong tổng doanh thu,… Ngoài ra, kiểm toán viên có thể phân tích mối quan hệ giữa các thông tin tài chính với các thông tin phi tài chính, như: mối quan hệ giữa lượng hàng bán ra với doanh thu, mối quan hệ giữa doanh thu với số lượng các mặt hàng mới, v.v…

4. Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro kiểm toán

Nếu ở các bước trên, kiểm toán viên mới chỉ thu thập được các thông tin mang tính khách quan về khách hàng thì ở bước này, kiểm toán viên sẽ căn cứ vào các thông tin đã thu thập được để đánh giá, nhận xét nhằm đưa ra một kế hoạch kiểm toán phù hợp.

- Đánh giá tính trọng yếu: Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ (hay quy mô) và bản chất của các sai phạm (kể cả bỏ sót) của các thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ, hoặc là từng nhóm mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì không thể chính xác hoặc là sẽ rút ra những kết luận sai lầm. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải đánh giá mức độ trọng yếu để ước tính mức độ sai sót của Báo cáo tài chính có thể chấp nhận được, xác định phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót lên Báo cáo tài chính để từ đó xác định bản chất, thời gian và phạm vi thực hiện các khảo sát (thử nghiệm) kiểm toán. Ở đây, kiểm toán viên cần đánh giá mức trọng yếu cho toàn bộ Báo cáo tài chính và phân bổ mức đánh giá đó cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính:

- Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu: Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà kiểm toán viên tin rằng ở mức đó, các Báo cáo tài chính có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng thông tin tài chính. Nói cách khác, đó chính là những sai sót có thể chấp nhận được đối với toàn bộ báo cáo tài chính.

- Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục: Sau khi kiểm toán viên đã có được ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho toàn bộ Báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần phân bổ mức ước lượng này cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính, trong đó có khoản mục doanh thu. Và đó chính là sai số có thể chấp nhận được đối với khoản mục doanh thu.

- Đánh giá rủi ro kiểm toán: Theo VSA số 400 về “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” thì: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do công ty kiểm toán và kiểm toán viên đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi Báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu” . Theo đó, trong giai đoạn lập kế hoạch, kiểm toán viên phải xác định rủi ro kiểm toán mong muốn (AR). Mức rủi ro này phụ thuộc vào hai yếu tố: Mức độ mà theo đó người sử dụng bên ngoài tin tưởng vào Báo cáo tài chính; Khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm toán công bố. Ngoài ra, kiểm toán viên cần đánh giá các loại rủi ro kiểm toán sau:

+ Đánh giá rủi ro cố hữu: Rủi ro cố hữu (IR) là khả năng các nghiệp vụ, khoản mục doanh thu trong Báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ.

+ Đánh giá rủi ro kiểm soát: Rủi ro kiểm soát (CR) là khả năng xảy ra các sai phạm trọng yếu đối với khoản mục doanh thu do hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị khách hàng không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả, do đó đã không phát hiện và ngăn chặn các sai phạm này. Việc đánh giá rủi ro kiểm soát được thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán có thể được khái quát qua hai bước sau:

Thu thập hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ và mô tả chi tiết hệ thống kiểm soát nội bộ trên các giấy tờ làm việc: Trong bước này, kiểm toán viên cần tìm hiểu về hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị trên hai mặt chủ yếu: thiết kế kiểm soát nội bộ bao gồm thiết kế về quy chế kiểm soát và thiết kế về bộ máy kiểm soát; hoạt động liên tục và có hiệu lực của kiểm soát nội bộ. Theo đó, kiểm toán viên sẽ tìm hiểu về thiết kế và vận hành của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng theo từng yếu tố cấu thành:

* Hiểu biết về môi trường kiểm soát

* Hiểu biết về hệ thống kế toán

* Hiểu biết về các thủ tục kiểm soát

* Hiểu biết về bộ phận kiểm toán nội bộ trong đơn vị Để mô tả hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên sử dụng các phương pháp sau: vẽ các Lưu đồ, lập Bảng câu hỏi về kiểm soát nội bộ, lập Bảng tường thuật về kiểm soát nội bộ. Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát đối với khoản mục doanh thu:

* Nhận diện các mục tiêu kiểm soát mà theo đó quá trình đánh giá vận dụng * Nhận diện các quá trình kiểm soát đặc thù

* Nhận diện và đánh giá các nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ * Đánh giá rủi ro kiểm soát

+ Đánh giá rủi ro phát hiện: Rủi ro phát hiện (DR) là khả năng xảy ra các sai sót hoặc gian lận đối với khoản mục doanh thu mà không được ngăn chặn hay phát hiện bởi hệ thống kiểm soát nội bộ và cũng không được kiểm toán viên phát hiện trong quá trình kiểm toán.

Tham khảo thêm các đề tài về luận văn thạc sĩ kế toán

5. Lập kế hoạch kiểm toán toàn diện và soạn thảo chương trình kiểm toán

Với những thông tin đã thu thập được, kiểm toán viên sẽ tiến hành lập kế hoạch kiểm toán. Theo VSA số 300 về “Lập kế hoạch kiểm toán” thì kế hoạch kiểm toán gồm ba bộ phận sau:

- Kế hoạch chiến lược:

+ Kế hoạch chiến lược phải được lập cho các cuộc kiểm toán lớn về quy mô, tính chất phức tạp, địa bàn rộng hoặc kiểm toán báo cáo tài chính của nhiều năm.

+ Kế hoạch chiến lược cần vạch ra mục tiêu, định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm, phương pháp tiếp cận và tiến trình của cuộc kiểm toán.

- Kế hoạch kiểm toán tổng thể: Dựa trên kế hoạch chiến lược đã lập, kiểm toán viên tiến hành lập kế hoạch kiểm toán tổng thể. Kế hoạch kiểm toán tổng thể phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán, trong đó mô tả phạm vi dự kiến và cách thức tiến hành công việc kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán tổng thể phải đầy đủ, chi tiết làm cơ sở để lập chương trình kiểm toán. Những vấn đề chủ yếu kiểm toán viên phải xem xét và trình bày trong kế hoạch kiểm toán tổng thể gồm: Hiểu biết về hoạt động của đơn vị được kiểm toán, hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, đánh giá rủi ro và mức độ trọng yếu, phối hợp, chỉ đạo, giám sát và kiểm tra,…

- Chương trình kiểm toán: Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán tổng thể đã lập, kiểm toán viên sẽ tiến hành lập chương trình kiểm toán. Chương trình kiểm toán là những dự kiến chi tiết về các công việc kiểm toán cần thực hiện, thời gian hoàn thành và sự phân công lao động giữa các kiểm toán viên cũng như dự kiến về những tư liệu, thông tin liên quan cần sử dụng và thu thập. Chương trình kiểm toán sẽ được thiết kế thành ba phần: trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm phân tích và trắc nghiệm trực tiếp số dư. Việc thiết kế các loại hình trắc nghiệm kiểm toán trên đều gồm bốn nội dung: xác định thủ tục kiểm toán, quy mô mẫu chọn, khoản mục được chọn và thời gian thực hiện. Hy vọng bài viết này sẽ giúp bạn hiểu hơn về “Lập kế hoạch kiểm toán”.