Đối tượng nghiên cứu của kế toán tài chính

Đối tượng nghiên cứu của kế toán tài chính

Đối tượng của phân tích tài chính là các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hình thành, phát triển và biến đổi vốn dưới các hình thức có liên quan trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tìm hiểu về các đối tượng và nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp

Có thể bạn quan tâm: Mục tiêu và ý nghĩa của việc phân tích tài chính doanh nghiệp

Đối tượng của phân tích tài chính doanh nghiệp

Khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp cần có sự trao đổi các điều kiện kinh doanh, kết quả kinh doanh thông qua tài chính và cơ sở vật chất

Bất kỳ doanh nghiệp nào đều cần tham gia vào các mối quan hệ chính đa dạng và phức tạp học nghiệp vụ xuất nhập khẩu

Đối tượng nghiên cứu của kế toán tài chính

Mối quan hệ chính giữa doanh nghiệp và nhà nước

  • Được biểu hiện ở quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân giữa doanh nghiệp với ngân sách nhà nước thông qua các hình thức
  • Doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ đóng các loại thuế vào ngân sách nhà nước theo quy định của luật thuế hiện hành học logistics ở đâu tốt nhất
  • Về phía nhà nước sẽ tạo điều kiện cấp vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp với tư cách là người góp vốn kinh doanh học nghiệp vụ xuất nhập khẩu

Quan hệ chính giữa doanh nghiệp và thị trường tài chính và các tổ chức tài chính

  • Được thể hiện rõ trong việc doanh nghiệp huy động các nguồn vốn dàu hạn và ngắn hạn phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh hiện tại và tương lai của mình
  • Thực tế trên thị trường tiền tệ các doanh nghiệp quan hệ với các ngân hàng để vay các khoản vay ngắn hạn, thực hiện trả lãi và gốc khi đến kỳ hạn trả
  • thị trường tài chính doanh nghiệp thực hiện huy động các nguồn vốn dài hạn bằng cách phát hành những loại chứng khoán như cổ phiếu hay trái phiếu, trả các khoản lãi, hoặc việc doanh nghiệp mua chứng khoán của doanh nghiệp khác để đầu tư hay gửi các khoản vốn không sử dụng vào ngân hàng                                   hạch toán kế toán xây dựng

Quan hệ giữa doanh nghiệp và các thị trường khác

Thực hiện huy động các yếu tố đầu vào như

  • Thị trường hàng hóa
  • Dịch vụ lao động
  • Vận dụng các quan hệ để thực hiện tiêu thụ sản phẩm ở thị trường đầu ra
  • Các đại lý học kế toán tổng hợp ở đâu tốt nhất
  • Cơ quan về xuất nhập khẩu, thương mại

Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ của doanh nghiệp

  • Hoạt động tài chính liên quan tới vấn đề phân phối thu nhập và cơ cầu tài chính, chính sách tái đầu tư, chính sách lợi tức cổ phần, sử dụng quỹ hội nội bộ trong chính sách tài chính của doanh nghiệp được thể hiện
  • Doanh nghiệp có trách nhiệm nhận và bảo toàn nguồn vốn của nhà nước do tổng công ty giao cho
  • Doanh nghiệp thực hiện đóng góp một phần khấu hao cơ bản và trích đóng một phần lợi nhuận sau thuế vào quỹ tập trung của tổng công ty theo quy chế của tổng công ty với những điều kiện nhất định
  • Doanh nghiệp thực hiện những điều kiện ghi trong điều lệ của tổng công ty

Bạn đang theo dõi bài viết đối tượng và nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp

Nhiệm vụ và trình tự phân tích tài chính doanh nghiệp

Đánh giá thực trạng các khía cạnh tài chính doanh nghiệp

  • Lựa chọn ra những chỉ tiêu phân tích
  • Thực hiện so sánh với các số liệu kỳ gốc

Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích cùng phân tích những nguyên nhân dẫn tới thực trạng để tìm ra nhiệm vụ trọng tâm cần phân tích học xuất nhập khẩu ở đâu tốt nhất

  • Xác định các nhân tố cảnh hưởng
  • Đo lường mức độ ảnh hưởng của từng loại nhân tố

Đưa ra nhận xét và kết luận ra quyết định

Nội dung nghiên cứu của phân tích tài chính doanh nghiệp

  • Mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều nằm trong một hệ thống liên quan với nhau. Bởi vậy, khi phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp chúng ta mới đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế đang diễn ra trong doanh nghiệp. học xuất nhập khẩu ở đâu tốt
  • Trên cơ sở phân tích tài chính, đưa ra một cách tổng hợp về khả năng hoàn thành các mục tiêu được biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp.
  • Hoạt động tài chính của doanh nghiệp có mối quan hệ trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó mọi  hoạt động sản xuất kinh doanh đều sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tài chính của doanh nghiệp.
  • Ngược lại, tình hình tài chính tốt hay xấu đều có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, phân tích tình hình tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân chủ doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài có liên quan đến tài chính của doanh nghiệp.
  • Ngược lại tình hình tài chính doanh nghiệp tốt hay xấu đều cho tác động thúc đẩy sự kìm hãm đối với các hoạt động sản xuất và kinh doanh nên học kế toán ở đâu
  • Phân tích tài chính có một ý nghĩa quan trọng đối với các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng liên quan tới tài chính của doanh nghiệp đó

Phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp bao gồm các chỉ tiêu dưới đây:

  • Chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp;
  • Phân tích tình hình huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp (phân tích kết cấu và sự biến động của tài sản, nguồn vốn)
  • Phân tích tình hình tài trợ và mức độ đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh
  • Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán; học kế toán thực hành ở đâu tốt nhất
  • Phân tích khả năng tạo dòng tiền và tình hình lưu chuyển tiền tệ;
  • Phân tích tình hình kết quả kinh doanh của doanh nghiệp;
  • Phân tích điểm hoàn vốn và việc ra quyết định học xuất nhập khẩu ở đâu tốt nhất
  • Phân tích hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn;
  • Phân tích rủi ro tài chính và dự báo nhu cầu tài chính

Như vậy, qua bài viết trên đây các bạn đã biết được đối tượng và nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp. Các bạn quan tâm có thể tham khảo bài viết: Tổng hợp phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp

Nguồn: Phân tích tài chính

 Đối tượng chung của các môn khoa học kinh tế là quá trình tái sản xuất xã hội trong đó mỗi môn khoa học nghiên cứu một góc độ riêng. Vì vậy cần phân định rõ ranh giới về đối tượng nghiên cứu của hạch toán kế toán như một môn khoa học độc lập với các môn khoa học kinh tế khác.

Khác với các môn khoa học kinh tế khác, kế toán còn là công cụ phục vụ yêu cầu quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh ở các đơn vị kinh tế cơ sở, thông qua việc cung cấp các thông tin cán thiết cho Ban Giám đốc hay Hội đồng quản trị.

Vì vậy đối tượng nghiên cứu của kế toán là “Sự hình thành và tình hình sử dụng các loại tài sản vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong một đơn vị kinh tế cụ thể” nhằm quản lý khai thác một cách tốt nhất các yếu tố sản xuất trong quá trình tái sản xuất xã hội. 

  Để hiểu rõ hơn đối tượng nghiên cứu của hạch toán kế toán chúng ta cần đi sâu nghiên cứu về vốn, trên 2 mặt biểu hiện của nó là tài sản và nguồn hình thành tài sản và sau nữa là quá trình tuần hoàn của vốn. Để nghiên cứu được toàn diện mặt biểu hiện này, trước hết sẽ nghiên cứu vốn trong các tổ chức sản xuất vì ở các tổ chức này có kết cấu vốn và các giai đoạn vận động của vốn một cách tương đối hoàn chỉnh. Trên cơ sở đó chúng ta có thể dễ dàng xem xét các mặt biểu hiện nêu trên trong các đơn vị kinh tế khác.

  Bất kỳ một doanh nghiệp, một tổ chức hay thậm chí một cá nhân nào muốn tiến hành kinh doanh cũng đòi hỏi phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó biểu hiện dưới dạng vật chất hay phi vật chất và được đo bằng tiền gọi là tài sản. Hay nói cách khác tài sản của doanh nghiệp là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai như: 

– Được sử dụng một cách đơn lẻ hoặc kết hợp với các tài sản khác 

trong sản xuất sản phẩm để bán hay cung cấp dịch vụ cho khách hàng. 

– Để bán hoặc trao đổi lấy tài sản khác. 

– Để thanh toán các khoản nợ phải trả. 

– Để phân phối cho các chủ sở hữu doanh nghiệp. 

  Mặt khác vốn (tài sản) của doanh nghiệp lại được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau gọi là nguồn vốn hay nói khác nguồn gốc hình thành của tài sản gọi là nguồn vốn. Như vậy tài sản và nguồn vốn chỉ là 2 mặt khác nhau của vốn.

Một tài sản có thể được tài trợ từ một hay nhiều nguồn vốn khác nhau, ngược lại một nguồn vốn có thể tham gia hình thành nên một hay nhiều tài sản. Không có một tài sản nào mà không có nguồn gốc hình thành cho nên về mặt tổng số ta có: 

                                      Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn (1) 

 Tài sản của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đều được hình thành từ 2 nguồn vốn: nguồn vốn của chủ sở hữu và các món nợ phải trả. Từ đó ta có đẳng thức: 

                         Tổng tài sản = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu (2) 

  a) Tổng tài sản là giá trị của tất cả các loại tài sản hiện có của doanh nghiệp kể cả các loại tài sản có tính chất hữu hình như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, vật tư, sản phẩm, hàng hóa… và các loại tài sản có tính chất vô hình như phần mềm máy tính, bằng phát minh sáng chế, lợi thế thương mại, bản quyền,… Tài sản doanh nghiệp thường chia làm 2 loại: Tài sản lưu động và tài sản cố định. 

+ Tài sản lưu động là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng có giá trị nhỏ (theo quy định hiện nay là < 10 triệu đồng) hoặc thời gian sử dụng, thu hồi, luân chuyển vốn nhỏ hơn 1 năm hoặc 1 chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu động gồm 3 loại: 

 – TSLĐ sản xuất: Như nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ… đang dự trữ trong kho chuẩn bị cho quá trình sản xuất hoặc đang trong quá trình sản xuất dở dang. 

 – TSLĐ lưu thông: Như thành phẩm, hàng hoá dự trữ, hàng hoá gửi bán. 

 – TSLĐ tài chính: Như vốn bằng tiền, các khoản phải thu, đầu tư ngắn hạn…

+ Tài sản cố định là những tài sản có giá trị lớn (theo quy định hiện nay là > 10 triệu đồng) và có thời gian sử dụng, luân chuyển lớn hơn một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh như tài sản cố định hữu hình, vô hình, tài sản cố định thuê ngoài dài hạn, các khoản đầu tư tài chính dài hạn, các khoản đầu tư xây dựng cơ bản… Đặc điểm của loại tài sản này là không thể thu hồi trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. 

 – TSCĐ hữu hình: Là những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ thể do doanh nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh như: máy móc, nhà cửa, thiết bị công tác, phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫn… 

 – TSCĐ vô hình: Là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, nhưng phản ánh một lượng giá trị lớn mà doanh nghiệp đã thực sự bỏ ra đầu tư như: chi phí nghiên cứu, phát triển, phát minh sáng chế, lợi thế thương mại… 

  – TSCĐ tài chính: Là giá trị của các khoản đầu tư tài chính dài hạn 

với mục đích kiếm lời, có thời gian thu hồi vốn > 1 năm hay 1 chu kỳ

sản xuất kinh doanh như: Đầu tư liên doanh dài hạn, cho thuê TSCĐ, 

đầu tư chứng khoán dài hạn. 

  b) Nợ phải trả là giá trị của các loại vật tư, hàng hóa hay dịch vụ đã nhận của người bán hay người cung cấp mà doanh nghiệp chưa trả tiền hoặc là các khoản tiền mà đơn vị đã vay mượn ở ngân hàng hay các tổ chức kinh tế khác và các khoản phải trả khác như phải trả công nhân viên, phải nộp cho cơ quan thuế… Hay nói cách khác nợ phải trả là nghĩa vụ hiện tại của doanh nghiệp phát sinh từ các giao dịch và sự kiện đã qua mà doanh nghiệp phải thanh toán từ các nguồn lực của mình.

Nhìn chung doanh nghiệp nào cũng có nhiều món nợ phải trả vì mua chịu thường tiện lợi hơn là mua trả tiền ngay và việc vay ngân hàng hay các tổ chức tài chính khác để tăng vốn hoạt động của doanh nghiệp là hiện tượng phổ biến và có lợi cho nền kinh tế. Đứng về phương diện quản lý người ta thường phân chia các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp thành nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. 

 + Nợ ngắn hạn: là các khoản nợ mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả trong 1 năm hoặc trong một chu kỳ hoạt động kinh doanh như: vay ngắn hạn ngân hàng, thương phiếu ngắn hạn, lương phụ cấp phải trả cho công nhân viên… 

 + Nợ dài hạn: Là các khoản nợ có thời hạn phải thanh toán phải chi trả lớn hơn một năm hoặc lớn hơn một chu kỳ hoạt động kinh trái phiếu phát hành dài hạn phải trả…

  c) Vốn chủ sở hữu là giá trị vốn của doanh nghiệp được tính bằng 

   Số chênh lệch giữa giá trị tài sản của doanh nghiệp trừ (-) nợ phải trả. (3)

  Nguồn vốn thuộc quyền sử dụng của đơn vị, đơn vị có quyền sử dụng lâu dài trong suất thời gian hoạt động của đơn vị hay nói cách khác vốn chủ sở hữu là giá trị của các loại tài sản như nhà cửa máy móc thiết bị, vốn bằng tiền… mà các chủ thể sản xuất kinh doanh đã đầu tư để có thể tiến hành các hoạt động kinh tế đã xác định. Một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủ sở hữu.

Đối với doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước cấp vốn và chịu sự giám sát của nhà nước thì chủ sở hữu là Nhà nước. Đối với các xí nghiệp liên doanh hay công ty liên doanh thì chủ sở hữu là các thành viên tham gia góp vốn.

Đối với các công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn thì chủ sở hữu là các cổ đông. Đối với các doanh nghiệp tư nhân thì chủ sở hữu là người đã bỏ vốn ra để thành lập và điều hành hoạt động đơn vị. 

  Vốn của chủ sở hữu bao gồm: 

 + Vốn của các nhà đầu tư. 

 + Số vốn được bổ sung từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 

 + Lợi nhuận chưa phân phối. 

 + Các quỹ

 + Cổ phiếu quỹ. 

 + Lợi nhuận giữ lại. 

 + Chênh lệch tỷ giá và chênh !ệch đánh giá lại tài sản. 

  Cần lưu ý số liệu vốn chủ sở hữu là một con số cụ thể, nhưng khi doanh nghiệp bị suy thoái thì chủ sở hữu chỉ được coi là sở hữu phần tài sản còn lại của đơn vị sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ phải trả. Mặt khác, quyền đòi nợ của các chủ nợ có hiệu lực trên tất cả các loại tài sản của doanh nghiệp chứ không phải chỉ có hiệu lực trên một loại tài sản riêng lẻ nào. Vì thế ta có: 

                      Nguồn vốn chủ sở hữu = Tổng tài sản – Nợ phải trả (4)