Dịch vụ giáo dục có phải là hàng hóa

ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠIKHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG(TÀI CHÍNH CÔNG)----------BÀI TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ CÔNG CỘNGĐề tài: Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng hay hàng hóa cánhân?Nhóm 1 - Lớp 2005FECO921Giáo viên hướng dẫn: Ngô Hải ThanhMỤC LỤCCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT................................................................................51.1.Hàng hóa cá nhân.......................................................................................................51.1.1 Khái niệm.................................................................................................................51.1.2 Đặc điểm................................................................................................................... 51.2. Hàng hóa công cộng và cung cấp hàng hóa công cộng...........................................61.2.1. Khái niệm hàng hoá công cộng..............................................................................61.2.2. Thuộc tính của hàng hoá công cộng......................................................................71.2.3.Phân loại hàng hóa công cộng................................................................................8CHƯƠNG 2: GIÁO DỤC ĐẠI HỌC LÀ HÀNG HÓA CÔNG CỘNG THEO GÓCĐỘ KINH TẾ....................................................................................................................92.1 Khái niệm và đặc điểm của giáo dục và giáo dục đại học.......................................92.1.1. Khái niệm quá trình giáo dục và giáo dục đại học.................................................92.1.2. Đặc điểm của quá trình giáo dục............................................................................92.2 Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng theo góc độ kinh tế................................122.2.1. Các quan điểm trước đó........................................................................................122.2.2. Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng không thuần túy..................................14LỜI MỞ ĐẦUMặc dù trong nền kinh tế thị trường sản phẩm của giáo dục cũng được coi là mộtloại hàng hóa, nhưng tính chất đặc biệt của nó đã làm cho vấn đề cung cấp và sửdụng hiệu quả đã trở nên phức tạp hơn nhiều so với các loại hàng hóa thôngthường. Điểm khác biệt của giáo dục ở chỗ, nó là một loại hàng hóa công cộng,mọi người đều có thể dùng chung một chương trình giáo dục, nhưng tri thức chungcủa nhân loại, và do vậy nhu cầu được hưởng thụ ngày càng tăng. Giáo dục cũngcó tính chất của phương tiện sản xuất, có nhiều bất đối xứng thông tin, ngoại táctích cực và còn có thuộc tính xã hội, nhưng lại không bị tác động bởi năng suất laođộng. Quan trọng hơn, giáo dục là công cụ hữu ích để thực hiện phân phối lại thunhập, và đây là chức năng bao trùm, đảm bảo sự tồn tại và phát triển, hiện thực hóaquyền bình đẳng về cơ hội vào đời và tạo dựng cuộc sống của mỗi cá nhân trongxã hội. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước là người tham gia lớn nhất và đóngvai trò quan trọng nhất, vừa là nhà quản lý toàn bộ nền kinh tế và vừa làm nhiệmvụ trực tiếp cung cấp hàng hóa cho xã hội. Trong vai trò sản xuất, Nhà nước luônchịu trách nhiệm thực hiện những dự án lớn, trong những lĩnh vực đầu tư mạohiểm và khả năng đầu tư vốn ban đầu lớn nhưng thu hồi chậm. Sụp đổ của thịtrường trong lĩnh vực giáo dục, có thể dẫn đến phá sản cả một hệ thống kinh tế xãhội, vì vậy rất cần một hệ thống đại học công lập mạnh tồn tại song song cùng vớicác trường tư thục. Trong vai trò quản lý, một trong những nhiệm vụ quan trọngcủa Nhà nước là tạo ra những cơ sở pháp lý cho các hoạt động giáo dục, đào tạođược xã hội hóa. Hoạt động “phi lợi nhuận” đóng một vai trò rất tích cực tronggiáo dục đại học của các nước tiên tiến, nhưng hầu như còn xa lạ trong các chủtrương nghiên cứu về giáo dục ở Việt Nam. Chính sách tạo thêm các nguồn cungứng dịch vụ giáo dục không dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước là chính sách vềhoạt động phi lợi nhuận. Đây là một điểm khác biệt cơ bản, trường học là nơi cungcấp hàng hóa giáo dục cho xã hội nhưng lại không hoạt động theo Luật doanhnghiệp. Kinh nghiệm của thế giới chỉ ra rằng, số lượng vượt trội các trường đại họccông lập và đại học phi lợi nhuận của các nước tiên tiến cho thấy cổ phần hóakhông phải là khuynh hướng tất yếu cho phát triển đại học. Do vậy, những chínhsách đối với giáo dục ở các quốc gia trên thế giới được nghiên cứu rất thấu đáo,cẩn trọng và mang tính khoa học toàn diện. Một chính sách đúng đắn dành chogiáo dục thì lợi ích nhận được của cả xã hội sẽ tăng lên trong tương lai, ngược lại,bất kỳ sự sai lầm nào trong giáo dục thì kết quả không chỉ đem đến những hậu họavô cùng nguy hại cho hệ thống giáo dục quốc dân, mà còn ảnh hưởng đến sự pháttriển kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa, cũng như tinh thần độc lập tự chủ của cả mộtdân tộc. Hiểm nguy ấy không nhìn thấy được trước mắt, mà cái giá vô cùng đắt củanó, có thể nhiều thế hệ mai sau mới trả được. Dù nền kinh tế có tăng trưởng đếnđâu thì cũng không thể dùng tiền để “mua” được một hệ thống giáo dục xã hội chủnghĩa mang tính nhân văn, dân tộc, khoa học và hiện đại mà toàn xã hội mongđợi./. Chúng em đã tìm hiểu Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng, chịu sự quảnlý của nhà nước xét theo góc độ lý thuyết kinh tếCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT1.1.Hàng hóa cá nhân1.1.1 Khái niệmHàng hóa cá nhân trong tiếng Anh là Private Good.Hàng hóa cá nhân là một sản phẩm mà một người bắt buộc phải mua nếu muốntiêu thụ nó và việc một cá nhân tiêu thụ nó sẽ ngăn cản các cá nhân khác thực hiệnđiều này. Nói cách khác, hàng hóa được coi là hàng hóa cá nhân nếu có sự cạnhtranh giữa các cá nhân để sở hữu nó, và việc tiêu thụ hàng hóa đó sẽ ngăn cảnngười khác tiêu thụ nó.1.1.2 Đặc điểm- Hầu hết các hàng hóa hoặc dịch vụ trên thị trường đều là hàng hóa tư nhân. Ví dụvề hàng hóa cá nhân bao gồm như: điện thoại di động, giày dép, quần áo,... Hànghóa cá nhân ít gặp phải vấn đề người xài chùa vì chúng phải được mua, không cósẵn miễn phí để nhiều người sử dụng. Mục tiêu của một công ty trong việc sảnxuất hàng hóa cá nhân là kiếm lợi nhuận. Một công ty khó có thể muốn sản xuấthàng hóa nếu không có động lực được tạo ra bởi doanh thu.- Các nhà kinh tế gọi hàng hóa cá nhân là có tính cạnh tranh và loại trừ.- Hàng hóa cá nhân là bất kì vật phẩm nào chỉ có thể được sử dụng hoặc tiêu thụbởi một bên tại một thời điểm. Nhiều vật phẩm trong gia đình là hàng hóa cánhân, vì chúng chỉ có thể được sử dụng bởi những người có quyền tiếp cận chúng.Bất kì mặt hàng nào mà sau khi sử dụng sẽ bị phá hủy hoặc không thể tiếp tục sửdụng theo chức năng ban đầu được nữa, chẳng hạn như thực phẩm, giấy vệ sinhcũng là hàng hóa cá nhân.- Thông thường, hàng hóa cá nhân là hữu hạn, do đó chúng có tính loại trừ. Ví dụ,một mẫu giày được thiết kế riêng chỉ có số lượng sản xuất hữu hạn, vì vậy khôngphải ai cũng có thể có những đôi giày đó. Không chỉ là từng đôi giày được coilà hàng hóa cá nhân, mà toàn bộ dòng sản phẩm đó cũng coi thể coi là hàng hóa cánhân.- Phần lớn hàng hóa cá nhân phải được trả giá để mua. Mức giá này bù đắp chothực tế rằng việc người khác sử dụng hàng hóa này ngăn chặn việc người khác sửdụng chúng. Việc mua một mặt hàng tư nhân đảm bảo cho người mua có quyềntiêu thụ nó.1.2. Hàng hóa công cộng và cung cấp hàng hóa công cộng1.2.1. Khái niệm hàng hoá công cộngHàng hoá công cộng là những loại hàng hoá mà việc một cá nhân này đang hưởngthụ lợi ích do hàng hoá đó tạo ra không ngăn cản những người khác cùng đồng thờihưởng thụ lợi ích của nó.Điều này giúp phân biệt hàng hoá công cộng với hàng hoá cá nhân là những loạihàng hoá khi một người đã tiêu dùng rồi thì người khác không thể tiêu dùng đượcnữa.1.2.2. Thuộc tính của hàng hoá công cộngHàng hoá công cộng có hai thuộc tính:Thứ nhất, hàng hoá công cộng không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng. Nói nhưvậy có nghĩa là, khi có thêm một người sử dụng hàng hoá công cộng sẽ không làmgiảm lợi ích tiêu dùng của những người tiêu dùng hiện có.Do thuộc tính không loại trừ của hàng hóa công cộng, nên các cá nhân đều nhậnthấy rằng dù mình có trả tiền để được tiêu dùng hay không thì cũng không ảnhhưởng tới lợi ích mà hàng hóa đó mang lại. Vì vậy, họ sẽ có xu hướng dùng hànghóa đó mà không muốn bỏ ra một khoản tiền nào cả. Lúc này học đã trở thànhnhững kẻ ăn không.Thứ hai, hàng hoá không có tính loai trừ trong tiêu dùng. Có nghĩa là không thểloại trừ hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân từ chối không chịu trảtiền cho việc tiêu dùng của mình.Nói cách khác, chi phí biên để phục vụ thêm mộtngười sử dụng hàng hoá công cộng là bằng 0. Tuy nhiên chi phí tăng thêm để sảnxuất thêm một đơn vị hàng hóa công cộng khác 0.Tuy nhiên hai thuộc tính này không nhất thiết phải đi liền với nhau1.2.3.Phân loại hàng hóa công cộng- Hàng hoá công cộng thuần tuý là hàng hoá công cộng mang đủ hai thuộc tính củahàng hoá công cộng.- Hàng hoá công cộng không thuần tuý:Trong thực tế, có rất ít hàng hoá công cộng thoả mãn một cách chặt chẽ cả haithuộc tính nói trên, tức là có rất ít những loại hàng hoá công cộng được coi là thuầntuý.Đa số các hàng hoá công cộng được cung cấp chỉ có một trong hai thuộc tính nóitrên và có ở những mức độ khác nhau. Những hàng hoá công cộng đó được gọi làhàng hoá công cộng không thuần tuý.Tuỳ theo mức độ tạo ra ngoại ứng trong sản xuất hoặc tiêu dùng hàng hoá, và tuỳtheo khả năng có thể thiết lập được một cơ chế để mua bán quyền sử dụng nhữnghàng hoá này mà hàng hoá công cộng không thuần tuý có thể được chia làm hailoại:+ Hàng hoá công cộng có thể tắc nghẽnLà những hàng hoá mà khi có thêm nhiều người cùng sử dụng chúng thì có thể gâyra sự ùn tắc hay tắc nghẽn khiến lợi ích của những người tiêu dùng trước đó bịgiảm sút. Hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn có hai thuộc tính là : không loại trừvà có cạnh tranh trong tiêu dùng. Khi đó chi phí biên của việc tiêu dùng hàng hóacông cộng không còn bằng không nữa mà bắt đầu tăng lên kể từ điểm tắc nghẽn.+ Hàng hoá có thể loại trừ bằng giáHay gọi tắt là hàng hoá công cộng có thể loại trừ, là những thứ hàng hoá mà lợi íchdo chúng tạo ra có thể định giá.Hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá có haithuộc tính là: có loại trừ và không cạnh tranh trong tiêu dùng.CHƯƠNG 2: GIÁO DỤC ĐẠI HỌC LÀ HÀNG HÓA CÔNG CỘNG THEOGÓC ĐỘ KINH TẾ2.1 Khái niệm và đặc điểm của giáo dục và giáo dục đại học2.1.1. Khái niệm quá trình giáo dục và giáo dục đại họcQuá trình giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có hệ thống của nhà giáo dụcđến đối tượng giáo dục thông qua việc tổ chức các hoạt động đa dạng với nhữngnội dung, hình thức, phương pháp giáo dục phù hợp để hình thành cho học sinhnhững phẩm chất của người công dân theo yêu cầu của xã hội, của thời đại.Giáo dục đại học là các hình thức giáo dục diễn ra ở các cơ sở học tập bậc sautrung học, cuối khóa học thường được trao văn bằng học thuật hoặc cấp chứng chỉ.Các cơ sở giáo dục đại học không chỉ bao gồm các trường đại học và viện đại họcmà còn các trường chuyên nghiệp, trường sư phạm, trường cao đẳng, trường đạihọc công lập và tư thục hệ hai năm, và viện kỹ thuật. Điều kiện nhập học căn bảnđối với hầu hết các cơ sở giáo dục đại học là phải hoàn thành giáo dục trung học,và tuổi nhập học thông thường là khoảng 18 tuổi.2.1.2. Đặc điểm của quá trình giáo dục+ Giáo dục là quá trình có tính mục đích_Hoạt động giáo dục luôn có mục đích rõ ràng đó là việc định hướng các giá trị xãhộichohọcsinh._ Mục đích giáo dục trong các nhà trường nhằm đào tạo thế hệ trẻ, đào tạo nguồnnhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội theo yêu cầu của đấtnước.+ Giáo dục là một quá trình biện chứng_ Giáo dục là 1 quá trình lâu dài, liên tục, diễn ra suốt cuộc đời của con người chịuảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó yếu tố chủ đạo, lực lượng chính là nhà giáodụcvàgiáodụctrongnhàtrường._ Toàn bộ quá trình giáo dục luôn có sự tác động biện chứng giữa đối tượng giáodục (HS) đối với các hoạt động khác. Nổi bật là mối quan hệ tác động bản chấtgiữa GV và HS.+ Sản phẩm giáo dục là thành quả chung của các lực lượng giáo dục_Quá trình giáo dục chịu sự tác động phức hợp của nhiều nhân tố, nhiều lực lượng,được thực hiện trong toàn bộ đời sống hàng ngày của HS. Vì vậy sản phẩm của quátrình giáo dục (các sản phẩm nhân cách) là sản phẩm chung của nhiều lực lượng,của toàn xã hội trong đó giáo dục nhà trường đóng vai trò nòng cốt. Điều này đòihỏi phải có sự thống nhất giữa các lực lượng giáo dục trong xã hội.+ Giáo dục là một quá trình tuân theo quy luật số đông nhưng đồng thời cũng bịchiphốibởinhữngđặcđiểmcáthể._ Giáo dục được tiến hành trong một tập thể lớp, GV lựa chọn nội dung, phươngpháp và hình thức tổ chức phù hợp với hầu hết học sinh trong lớp (hướng đến cáichung,ưutiêncáichung)._ Tuy nhiên trong những tình huống cụ thể hoạt động giáo dục và kết quả giáo dụclại phụ thuộc vào đặc điểm cá nhân. Vì vậy trong quá trình giáo dục nhà giáo dụccần phải nắm bắt được các đặc điểm cá nhân để có thể dự kiến và thực hiện cácbiện pháp giáo dục mang tính cá biệt.+ Trong nhà trường quá trình giáo dục có quan hệ mật thiết với quá trình dạy học._ Quá trình dạy học và quá trình giáo dục đều hướng đến giáo dục nhân cách chohọc sinh. Vì vậy nó thống nhất với nhau cùng giáo dục con người theo yêu cầu xãhội._ Mặt khác 2 quá trình này luôn tác động, hỗ trợ thúc đẩy nhau. dạy học (dạy chữ)là cơ sở, là điều kiện để dạy người. Ngược lại quá trình dạy học (dạy người) lại tạođiềukiệnthúcđẩyquátrìnhdạyhọc.+ Quá trình dạy học được thực hiên trong cuộc sống hàng ngày thông qua các hoạtđộngsốngvàgiaolưucủatrẻ._ Quá trình giáo dục khác với dạy học ở chỗ nó không chỉ thực hiện trong các giờtrong nhà trường mà nó được thực hiện trong toàn bộ cuộc sống hàng ngày, trongvàngoàinhàtrường._ Vì vậy toàn bộ hoạt động sống, giao tiếp, học tập, lao động của trẻ đều có thểdiễn ra quá trình giáo dục đạt các mục đích giáo dục. Nhà giáo dục cũng phải tậndụng điều này để phối hợp tiến hành hoạt động với các lực lượng giáo dục khác.2.2 Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng theo góc độ kinh tế2.2.1. Các quan điểm trước đóTrong “Kinh tế học” của Samuelson, một Nhà kinh tế học được giải Nobel, khi nóivề hàng hóa, ông có đưa ra một ví dụ cổ điển là cây đèn biển để minh họa cho loại“HH công cộng” (thuần túy). Với cây đèn biển, sự thụ hưởng ánh sáng để đi vàođúng bến của chiếc thuyền này hoàn toàn không loại trừ sự thụ hưởng của chiếcthuyền khác. Ở đây muốn thu phí cũng không thu được, do đó thị trường hay tưnhân sẽ không cung cấp, Nhà nước nhất thiết phải cung cấp dịch vụ này ở dạng“cho không” cho xã hội. Và, cũng vì vậy, ở đây người ta đã đồng nhất “công cộng”với “Nhà nước ” (Public  State). Vậy là, một sản phẩm đi vào quá trình tiêu dùngthông qua việc mua bán hoặc trao đổi kiểu “cho không”, trong cơ chế thị trường,vẫn được gọi là hàng hóa. Hàng hóa không nhất thiết gắn với việc mua bán haythương mại. Dịch vụ Giáo Dục do vậy vẫn được gọi là một hàng hóa, còn việc cóđem ra “mua bán”, có thu học phí hay hoàn toàn miễn phí lại là việc khác.Nhưng với dịch vụ GD, khi một em học sinh ngồi trên ghế Nhà trường để thụhưởng GD, rõ ràng có loại trừ sự thụ hưởng của em khác. Với dịch vụ GD, cũngtương tự như chiếc áo sơmi, ổ bánh mì…, sự tiêu dùng của tôi sẽ loại trừ sự tiêudùng của bạn, “Kinh tế học” gọi là “HH cá nhân”. HH cá nhân có thể giao cho thịtrường tự do phân tán quyết định sản xuất và cung cấp một cách có hiệu quả. Vậytại sao ngay ở nhiều nước có truyền thống CCTT vẫn gọi GD là “HH công cộng”?Theo Élie Cohen và Claude Henry, những HH như GD, y tế, văn hóa, v.v… dù“Kinh tế học” gọi là HH cá nhân nhưng vẫn được gọi là “”HH công cộng” vìchúng thỏa mãn hai tiêu chí cơ bản sau: Tiêu chí một là “tính thiết yếu” của dịch vụvà tiêu chí hai là bị rơi vào “sự hạn chế của cơ chế thị trường”. Nói riêng về GD,GD là thiết yếu vì nó là nhu cầu cơ bản của con người, là tiền đề cho việc pháttriển kinh tế – xã hội và còn để tạo nên mối liên kết xã hội. Giáo Dục cũng bị rơivào “sự hạn chế của cơ chế thị trường” do thị trường không hoàn hảo và thể hiệnrõ nét nhất là “tác động ngoại biên” (Externalities) tích cực của GD. “Tác độngngoại biên”, nói nôm na là tác động của một người nào đó gây ra ảnh hưởng (tốthay xấu) đối với phúc lợi của người khác mà ảnh hưởng này lại không được phảnánh qua giao dịch thị trường. Một sinh viên học Đại học, lợi ích chẳng những chosinh viên đó mà còn có tác động tốt cho xã hội, năng suất lao động xã hội sẽ caohơn, sau này có thể đóng thuế thu nhập cho xã hội nhiều hơn, v.v… Nhưng nhữngảnh hưởng tốt đó lại không được xã hội trả tiền, nghĩa là ở đây, cơ chế thị trường bịhạn chế, không có tác dụng, do không tính được việc lẽ ra là phải trả tiền này. Nhưvậy, gọi Giáo Dục là một “HH công cộng” là không theo cách tiếp cận về mức độloại trừ nhau trong sử dụng của “Kinh tế học”, mà là để nói về sự thỏa mãn hai tiêuchí nói trên của Giáo Dục. Và cũng do vậy, ở đây “công cộng” không có nghĩa làNhà nước nhất thiết phải cung cấp (hay độc quyền), nghĩa là “công cộng” khôngđồng nhất với “Nhà nước ” (Public ≠ State).2.2.2. Giáo dục đại học là hàng hóa công cộng không thuần túyVề góc độ kinh tế, có rất nhiều các quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế họctrên thế giới về việc liệu giáo dục Đại học là hàng hóa công cộng hay hàng hóa tưnhân, và nếu nó là hàng hóa công cộng thì sẽ là hàng hóa công cộng thuần túy haykhông thuần túy. Trả lời cho câu hỏi đó, nhóm 1 kết luận rằng giáo dục Đại học làhàng hóa công cộng không thuần túy và cụ thể là có tính loại trừ nhưng khôngmang tính cạnh tranh. Để minh chứng cho câu trả lời đó, nhóm 1 sẽ đi vào phântích dưới đây:2.2.2.1 Giáo dục đại học có tính loại trừNhư chúng ta đã biết, tính loại trừ có nghĩa là khi hàng hóa được cung cấp lợi íchdo chúng tạo ra có thể định giá. Khi xét về hàng hóa Giáo dục Đại học ,Chính sáchhọc phí có ý nghĩa lớn trong việc thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, tăng tựchủ cho cơ sở giáo dục Đại học, đồng thời thể hiện sự chia sẻ trách nhiệm củangười dân với Nhà nước trong bối cảnh nguồn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp.Nguồn thu từ học phí đã hỗ trợ tích cực cho chi thường xuyên cho các cơ sở giáodục Đại học. Chính vì vậy, khi mỗi sinh viên muốn hưởng thụ lợi ích của giáo dụcĐại học thì cần phải chi trả một mức phí tương xứng (trừ một vài trường hợp ưutiên thuộc diện miễm giảm học phí, được hưởng chính sách học bổng…). Hiểnnhiên đã tạo ra tính loại trừ ở đây, sinh viên nào có điều kiện về vật chất, đủ khảnăng chi trả mức học phí mới tham gia vào giáo dục Đại học, còn sinh viên nàokhông đủ khả năng chi trả sẽ không hưởng thụ lợi ích đó.Ta sẽ lấy một ví dụ như sau để minh chứng cho điều đó, hai sinh viên cùng nănglực như nhau, đi học đều đúng số buổi như nhau, thực hiện đúng quy định của nhàtrường không vi phạm, đủ điều kiện dự thi về mặt điểm số, thế nhưng một sinhviên đóng học phí đầy đủ, một sinh viên không đóng học phí đầy đủ, nghiễm nhiênsinh viên không đóng học phí đầy đủ sẽ bị mất quyền dự thi, dẫn tới việc khôngđược thi các môn, thậm chí đình chỉ học ở các kì học sau, và sẽ không đạt được cáithành quả cuối cùng mà mình mong muốn đó là tấm bằng Đại học, còn về sinhviên đã đóng đủ học phí, dự thi đầy đủ sẽ có thể nhận được bằng sau quá trình họctập. Rõ ràng số tiền học phí là một trong những yếu tố chủ yếu quyết định sinhviên có được “ tiêu dùng” “ hàng hóa” giáo dục đại học hay không.Thời gian qua, cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục Đại học tại Việt Nam đãcó nhiều đổi mới cho phù hợp với yêu cầu phát triển. Điều này thể hiện tại Nghịquyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khóa XII về chủ trương,định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) từnăm 2010-2011 đến năm học 2014-2015; Nghị định số 49/2009/NĐ-CP quy địnhvề miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đốivới cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010-2011 đếnnăm học 2014–2015. Đặc biêt, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định cơ chế tựchủ của đơn vị sự nghiệp công lập đã thể hiện rõ mục tiêu đổi mới toàn diện cácĐơn vị sự nghiệp công lập nói chung và các trường đại học công lập nói riêng; đẩymạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị đồng bộ cả vềthực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính. Đổi mới cơ chế tài chínhtheo hướng trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị giáo dục đại họccông lập là xu thế khách quan. Thời gian gần đây, việc thực hiện cơ chế tự chủ tàichính tại các trường Đại học công lập ở Việt Nam đã được triển khai thí điểm và cónhững kết quả ban đầu đáng ghi nhận, chính vì vậy dần dần các trường đại học ởViệt Nam sẽ tiến tới cơ chế tự chủ tài chính hoàn toàn, đồng nghĩ với việc trongtương lai gần giáo dục Đại học ở Việt Nam sẽ không được cung cấp miễn phí, màsinh viên sẽ đóng một mức học phí tương đối cao để bù đắp chi phí để cung cấpgiáo dục đại học khi các trường tiến tới tự chủ hoàn toàn. Do vậy tính loại trừ tronggiáo dục Đại học ngày càng cao.Bên cạnh việc giáo dục đại học có tính loại trừ thông qua mức học phí, thìnó còn thể hiện tính loại trừ thông qua một tiêu chí rất đặc biệt đó là năng lực củangười học, khác với những hàng hóa thông thường khác giáo dục Đại học là mộthàng hóa yêu cầu người sử dụng nó phải có năng lực nhất định, để thấy rõ điều đóta sẽ tiếp tục phân tích một sinh viên chăm chỉ, có kỹ năng, có kiến thức đáp ứngmọi yêu cầu của nhà trường qua các kì thi thì mới có thể tiếp thu được hết kiếnthức mà giáo dục Đại học mang lại và đạt được tấm bằng Đại học, ngược lại mộtsinh viên dù có đóng đầy đủ học phí nhưng thiếu năng lực, lười biếng, không tựnuôi dưỡng bản thân thì không thể nào tiếp thu được kiến thức, không thể nào vượtqua các kì thi, sẽ bị loại ra khỏi việc “ tiêu dùng” “ hàng hóa giáo dục Đại học”, cụthể như quy định của trường đại học nếu không đảm bảo điểm tích lũy đúng quyđịnh thì sẽ bị cảnh cáo học tập, đình chỉ học và buộc thôi học. Sinh viên nhờ ngườiđi học hộ; sinh viên nhờ người thi hộ; nhờ người làm hộ báo cáo thực tập, khóaluận tốt nghiệp đều bị kỷ luật ở mức đình chỉ học tập 1 học kỳ đối với trường hợpvi phạm lần thứ nhất; đình chỉ 1 năm đối với trường hợp vi phạm lần thứ hai vàbuộc thôi học đối với trường hợp vi phạm lần thứ ba. Tóm lại,sinh viên bắt buộcphải có đủ năng lực thì mới có thể tham gia học Đại học, nếu như không đáp ứngđược về năng lực thì cũng sẽ bị loại trừ ra khỏi việc sử dụng hàng hóa giáo dục Đạihọc.Sau khi phân tích như trên, có thể kết luận lại một lần nữa rằng giáo dục đại làmột “ hàng hóa” có tính loại trừ, nó có thể định giá được bằng mức học phí màmỗi sinh viên nộp vào khi học Đại học và trình độ của sinh viên khi tham giahọc Đại học.2.2.2.2. Giáo dục đại học là hàng hóa không có tính cạnh tranhNhư chúng ta đã biết, tính không cạnh tranh trong tiêu dùng hàng hóa côngcộng có nghĩa là khi hàng hóa đã được cung cấp, việc có thêm một hay nhiềungười cùng đồng thời sử dụng hàng hóa này cũng không làm ảnh hưởng tới lợi íchcủa những người tiêu dùng hiện có. Ở đây chúng ta cần phải hiểu là “đã được cungcấp” có nghĩa là chúng ta chỉ tính đến những người đã đỗ Đại học, chứ không phảilà nói tất cả các học sinh chuẩn bị thi lên đại học, nên nói giáo dục đại học là hànghóa có tính cạnh tranh vì phải cạnh tranh nhau để thi vào là không đúng.Theo những quan điểm của những nhà kinh tế học nước ngoài có nhữngngười cho rằng giáo dục đại học là hàng hóa có tính cạnh tranh vì việc có thêm mộthay nhiều người đồng thời vào học sẽ làm lợi ích của những người đang sử dụnggiảm xuống. Điều này ta không phủ nhận vì có thể với thực tế những nước khácnhau việc có thêm sinh viên vào học sẽ làm mất đi cơ hội được nói, được học hỏi,được giao tiếp với giáo viên của các sinh viên đang sử dụng, hay là việc có thêm