Đại đoàn kết toàn dân tộc là gì năm 2024

Phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc

Đại đoàn kết toàn dân tộc là nội dung quan trọng, xuyên suốt trong đường lối, chiến lược của Đảng, nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm nhất quán đó được Đảng ta tiếp tục khẳng định trong Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2023 về “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Trong đó, xác định rõ quan điểm, mục tiêu và những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, cần được quán triệt sâu sắc, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện quyết liệt, sáng tạo, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng, giai tầng xã hội, địa phương và vùng miền.

Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng gặp mặt người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số toàn quốc năm 2023. Ảnh: tapchicongsan.org.vn

Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, giá trị văn hóa bất diệt trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, trước những biến cố của thiên tai, địch họa, tinh thần đại đoàn kết, truyền thống “cố kết dân tộc” càng được bồi đắp và phát huy qua nhiều thế hệ. Trong công cuộc đổi mới đất nước, nhất là từ khi Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12/3/2003, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng [khóa IX] về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” ra đời, đã có nhiều chủ trương mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc được ban hành, với những nguyên tắc nhất quán: [1]. Đại đoàn kết toàn dân tộc luôn phải được coi là nội dung quan trọng, xuyên suốt trong đường lối, chiến lược của Đảng; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng để quy tụ mọi lực lượng, giai cấp, tầng lớp, đội ngũ vào lợi ích chung, tối cao của toàn dân tộc. [2]. Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh vô tận, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Ở đâu và khi nào trên đất nước ta nếu mất đoàn kết thì ở đó, khi đó cách mạng sẽ bị tổn thất. “Đoàn kết hay là chết!” - đó là khẩu hiệu cách mạng làm cho hành động của mỗi người Việt Nam yêu nước thêm mạnh, bền bỉ và có hiệu quả. [3]. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải là sự đoàn kết thật sự vững chắc giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo và không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, giữa người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài, giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới, thể hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, dựa trên nền tảng vững chắc từ liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. [4]. Đại đoàn kết toàn dân tộc trước hết và tập trung nhất phải thể hiện ở mối quan hệ bền chặt, máu thịt giữa Đảng và Nhân dân, ở niềm tin thật sự của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Nhờ quán triệt, thực hiện quan điểm đó, khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được tăng cường, tạo sức mạnh thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền, thành phần dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường, phát huy, đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, để “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, tầm quan trọng của phát huy truyền thống và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa thực sự gương mẫu, gần dân, tôn trọng dân, lắng nghe, kịp thời giải quyết những kiến nghị, quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân gắn với những việc, những lĩnh vực cụ thể. Việc vận hành cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” có mặt còn hạn chế. Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội chưa tích cực đổi mới; vai trò, hiệu quả hoạt động của các hội quần chúng, nhất là ở cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, v.v.

Hiện nay, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang mở ra cho công cuộc đổi mới đất nước ta những cơ hội, thuận lợi cơ bản nhưng cũng phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức; trong đó có những nhân tố tác động trực tiếp đến xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, “tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”1 vừa là mục tiêu, yêu cầu cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài được xác định trong Nghị quyết số 43-NQ/TW, cần được quán triệt, thực hiện tốt; trong đó, tập trung vào những nội dung, giải pháp trọng tâm sau.

Trước hết, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị các cấp và toàn dân về vị trí, tầm quan trọng của phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là nhiệm vụ, giải pháp quan trọng đầu tiên được xác định trong Nghị quyết số 43-NQ/TW cần được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Để làm được điều đó, cần tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về vị trí, tầm quan trọng của phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới. Từ đó, phát huy trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai đồng bộ, hiệu quả các chủ trương, giải pháp củng cố, tăng cường và phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, đa dạng hóa hình thức vận động, tuyên truyền, giáo dục. Chú trọng phát huy hiệu quả các phương tiện truyền thông đại chúng, các loại hình văn hóa, nghệ thuật; phối hợp đồng bộ giữa thông tin đối nội và thông tin đối ngoại; kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, giáo dục truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc với tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu phát triển, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam,... để khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Nâng cao cảnh giác, chủ động nhận diện, phát hiện từ sớm, từ xa, ngăn chặn, đấu tranh, xử lý kịp thời âm mưu, thủ đoạn, hành động chia rẽ Nhân dân với Đảng, Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Hai là, hoàn thiện chủ trương, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước. Tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách về phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới; phát huy vai trò của các giai tầng xã hội; khơi dậy mọi tiềm năng, sức sáng tạo của mỗi người Việt Nam. Tập trung xây dựng giai cấp công nhân, giai cấp nông dân vững mạnh; phát triển đội ngũ trí thức, doanh nhân lớn mạnh. Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ, chăm lo xây dựng con người Việt Nam thời đại mới; phát huy vai trò của cựu chiến binh, uy tín, kinh nghiệm của người cao tuổi. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, phát huy nội lực, vươn lên cùng phát triển; thực hiện tốt công tác vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo. Coi trọng việc hỗ trợ, bảo hộ công dân để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, hòa nhập xã hội, đóng góp tích cực cho nước sở tại. Đồng thời, có chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp, thu hút, tạo điều kiện thuận lợi để Việt kiều về nước đầu tư, sản xuất, kinh doanh, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xây dựng, triển khai Chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Ba là, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo trong xây dựng và phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục đẩy mạnh quán triệt, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 [khóa XII] và Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng [khóa XIII]. Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Thực hiện nghiêm trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền các cấp; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, sâu sát cơ sở, nêu cao ý thức phục vụ và gắn bó mật thiết với nhân dân, luôn hành động vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, dựa vào nhân dân để giám sát và đánh giá cán bộ. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng làm cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết trong hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thường xuyên đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đáp ứng yêu cầu tình hình mới; giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng trong giữ gìn và phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Bốn là, nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo. Để hoạt động của Nhà nước thực sự hiệu lực, hiệu quả, đòi hỏi phải quan tâm xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định. Đồng thời, xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật phải xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân và giải quyết hài hòa lợi ích trong xã hội. Trong đó, mọi hoạt động của cơ quan nhà nước, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức đều phải phục vụ nhân dân; lấy ấm no và hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, thước đo hiệu quả công việc; kịp thời giải quyết các vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, nhất là những vấn đề nhân dân quan tâm, dư luận bức xúc; thực hiện đúng đắn chính sách dân tộc, tôn giáo.

Năm là, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân. Tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” trong tất cả các loại hình tổ chức và đơn vị cơ sở. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong xã hội; tăng cường đồng thuận xã hội gắn với đề cao ý thức trách nhiệm của công dân; xử lý nghiêm hành vi lợi dụng dân chủ để chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các bộ, ban, ngành, cơ quan chức năng chuyên trách cần phát huy trách nhiệm, nghiên cứu, tham mưu đề xuất để Đảng, Nhà nước sớm bổ sung, ban hành quy định về trách nhiệm công dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Sáu là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, huy động mọi nguồn lực cho phát triển đất nước; tổ chức các cuộc vận động, phong trào Thi đua yêu nước thiết thực, hiệu quả. Để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực sự là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; bảo đảm hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động với các tổ chức thành viên, thời gian tới, cần tích cực đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Đổi mới hình thức tổ chức và nâng cao hiệu quả “Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc”; vận động, hướng dẫn phát huy những mặt tốt của các hình thức cộng đồng truyền thống, kịp thời uốn nắn những biểu hiện cục bộ, lệch lạc. Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm chính trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chú trọng xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có năng lực lãnh đạo, có uy tín, tâm huyết, trách nhiệm và kinh nghiệm công tác. Cùng với đó, tích cực đổi mới việc tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua theo hướng thiết thực, hiệu quả, hướng mạnh về cơ sở để đông đảo người dân tham gia, thực sự là chủ thể trong lao động sản xuất, sáng tạo, phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, làm giàu cho gia đình, quê hương, đất nước, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách về thi đua, khen thưởng; quan tâm, thực hiện tốt công tác tôn vinh, khen thưởng các tổ chức, cá nhân tiêu biểu, điển hình; tích cực phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng mô hình hay, cách làm tốt, nhằm thúc đẩy mạnh mẽ các cuộc vận động, phong trào Thi đua yêu nước.

Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của Đảng và cả hệ thống chính trị; thắng lợi của cách mạng Việt Nam chỉ có thể giành được khi khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tiếp tục xây dựng, củng cố và phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và trong toàn xã hội. Chúng ta tin tưởng khi vận hành tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, truyền thống, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ được phát huy hiệu quả, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

GS, TS. MẠCH QUANG THẮNG _____________

1 - ĐCSVN – Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb CTQGST, H. 2023, tr. 139.

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc là gì?

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp, lực lượng, đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các cá nhân yêu nước, người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả những người đã lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải trở về với nhân dân.

Ở Việt Nam ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc là ngày nào?

[ANTV] - Đoàn kết là sức mạnh. Lịch sử hàng nghìn năm đã chứng minh sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong dựng xây và bảo vệ Tổ quốc. Hôm nay [ 18/11] là kỷ niệm 93 năm ngày thành lập mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam và cũng tròn 20 năm tổ chức Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đại đoàn kết dân tộc là phải thực hiện được điều gì?

Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”, và sau này Người bổ sung thêm nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh giữa công nhân, ...

Tinh thần đoàn kết dân tộc là gì?

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người là đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các chính đảng, đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo, kể cả những người trước đây lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, quy về với chính nghĩa của dân tộc.

Chủ Đề