Cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam là ai

[Chinhphu.vn] - Vừa kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các vi phạm, vừa tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh chân chính, đồng thời xử lý nghiêm các hành vi đăng tải thông tin thất thiệt, chưa được kiểm chứng, “té nước theo mưa”, đây là những công việc mà các cơ quan chức năng đang nỗ lực làm tốt để củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp, các nhà đầu tư, từ đó huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực hợp pháp, thúc đẩy phục hồi nhanh, phát triển bền vững kinh tế-xã hội đất nước.

02[81]/2014

Mục lục

  • -4.
  • -3.Tài liệu tham khảo

“NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM DO NHÂN DÂN LÀM CHỦ” THỂ HIỆN XUYÊN SUỐT, NHẤT QUÁN TRONG TOÀN BỘ NỘI DUNG CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013

GS-TS TRẦN NGỌC ĐƯỜNG*

02[81]/2014 - 2014, Trang 3-7

Ngày đăng:

  • Trích dẫn
  • Share

    • Twitter
    • Facebook
    • Zalo

TÓM TẮT

Hiến pháp năm 2013 vừa được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013 đã lần đầu tiên ghi nhận cụ thể “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ”. Đây là sự tiếp tục quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về việc đề cao chủ quyền nhân dân và khẳng định nguyên tắc“tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. Bài viết nêu và phân tích những nội dung mới thể hiện nhận thức sâu sắc, đầy đủ, nhất quán và xuyên suốt hơn vấn đề Nhân dân làm chủ Nhà nước trong Hiến pháp 2013 so với các Hiến pháp trước đây.


ABSTRACT:

The 2013 Constitution adopted by the National Assembly XIII Session 6 on 28/11/2013, for the first time, acknowledges that “the people are masters of the Socialist Republic of Vietnam State”. This further reflects the consistent view of Vietnamese Communist Party and State to uphold the sovereignty of the people and affirmed the principle of “all state powers belong to the people”. This article pinpoints and analyses new provisions of the 2013 Constitution that show depth, complete, and consistent perception of the issue, people are matters, in the State Constitution of 2013 compared with the previous Constitutions.

TỪ KHÓA: không có,

KEYWORDS: no,

Trích dẫn:

×

GS-TS TRẦN NGỌC ĐƯỜNG*, “NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM DO NHÂN DÂN LÀM CHỦ” THỂ HIỆN XUYÊN SUỐT, NHẤT QUÁN TRONG TOÀN BỘ NỘI DUNG CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013, Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, 02[81]/2014, Trang 3-7

//tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn/module/xemchitietbaibao?oid=1b3567d3-8776-4efe-ba52-01f986c28492

Đăng ký để tải miễn phí Đăng ký

Bài viết đã được lưu vài tài khoản.

×

Vui lòng vào mục "Quản lý tài khoản" -> "Bài viết đã lưu" để có xem tiếp ngay lần đăng nhập sau.

“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ”đã được trang trọng ghi nhận tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 vừa được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 6 thông qua. Đây là sự tiếp tục quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về việc đề cao chủ quyền nhân dân và khẳng định“Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”[Điều 2]. So với các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992 trước đây, Hiến pháp năm 2013 có những nội dung mới thể hiện nhận thức sâu sắc, đầy đủ, nhất quán và xuyên suốt hơn vấn đề “Nhân dân làm chủ Nhà nước”.

Trước hết, “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”quy định ở Điều 2 Hiến pháp năm 2013 là một quy định nền tảng chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, mục đích và sức mạnh của quyền lực nhà nước ở nước ta là ở Nhân dân. Nguyên lý đó được quy định trong tất cả các Hiến pháp trước đây của Nhà nước ta. Tuy nhiên, điểm mới so với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong toàn bộ nội dung của Hiến pháp tư tưởng“Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. Bởi Hiến pháp khẳng định Nhân dân là chủ thể tối cao của toàn bộ quyền lực nhà nước. Thông qua Hiến pháp, Nhân dân giao quyền, Nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho Nhà nước. Vì thế, không những Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định nội dung nói trên, mà còn rất nhiều điều của Hiến pháp này thể hiện sâu sắc và nhất quán tư tưởng đề cao chủ quyền nhân dân. Ngay từ Lời nói đầu, Hiến pháp năm 2013 đã long trọng tuyên bố: Nhân dân Việt Nam là chủ thể “xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này”. Hiến pháp năm 2013 cũng bổ sung đầy đủ các hình thức Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước, không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân như quy định của các Hiến pháp trước đây, mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp [Điều 6], bằng biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp [Điều 29 và Điều 120]. Đảng Cộng sản Việt Nam không những là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mà còn phải “gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”[khoản 2 Điều 4]. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao gồm tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, không những đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của Nhân dân mà Hiến pháp năm 2013 còn bổ sung vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước [Điều 9]. Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động còn đóng vai trò “tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước…”[Điều 10]. Những tư duy chính trị - pháp lý mới đó xuất phát từ nhận thức sâu sắc rằng Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.

Hai là,xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta “là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”[khoản 1 Điều 2], Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Đó là quyền lực nhà nước là thống nhất, không chỉ được phân công, phối hợp mà còn có sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp [khoản 3 Điều 2]. Đây là một trong những nguyên tắc nền tảng về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Bởi Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nên việc Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu, một đòi hỏi chính đáng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ [sửa đổi bổ sung năm 2011]cũng nhấn mạnh: kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Để kiểm soát được quyền lực nhà nước đòi hỏi phải hình thành cơ chế bao gồm:kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên trongbộ máy nhà nước, giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, cũng như trong nội bộ mỗi quyền; và kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên ngoài bao gồm kiểm soát của Nhân dân thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Với nhận thức đó, kiểm soát quyền lực nhà nước được thể hiện xuyên suốt trong tất cả các chương của Hiến pháp năm 2013. Đó là cơ sở để hình thành cơ chế Nhân dân đánh giá, kiểm soát quyền lực nhà nước mà mình đã trao cho mỗi quyền. Đây là cơ sở hiến định để sau này các luật về tổ chức bộ máy nhà nước sẽ cụ thể hóa cơ chế đó.

Ba là, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta thuật ngữ “quyền con người”được sử dụng trong Hiến pháp năm 1992. Đó là bước phát triển về quan niệm và nhận thức lý luận. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 chưa thể hiện đầy đủ và sâu sắc quan niệmvề chủ quyền nhân dân. Với triết lý Nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, quyền con người, quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp năm 2013 quy định ở ví trí trang trọng tại Chương 2 ngay sau Chương I “Chế độ chính trị”. Cùng với điều đó, Hiến pháp năm 2013 đã có những nhận thức mới về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta khẳng định các nguyên tắc: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa – xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của Luật, trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”[Điều 14]. Đây là những nguyên tắc căn bản đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong mối quan hệ với quyền con người, quyền công dân, hạn chế sự tùy tiện cắt xén các quyền cơ bản này từ phía Nhà nước. Đồng thời nguyên tắc này cũng chính là cơ sở hiến định để mọi người và công dân bảo vệ và thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Không có tư duy đề cao chủ quyền nhân dân, không thể có các quy định về các nguyên tắc nền tảng đó của Hiến pháp sửa đổi. Dựa trên các nguyên tắc này, Hiến pháp sửa đổi đã quy định các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có bổ sung một số quyền mới, như: “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa” [Điều 41]; “ Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” [Điều 43] v.v. Các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được thể hiện phù hợp với các điều ước quốc tế về nhân quyền mà Nhà nước ta là thành viên.

Bốn là, với nhận thức Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về Nhân dân, Hiến pháp năm 2013 đã thừa nhận Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, chủ thể phân công quyền lực nhà nước. Phương tiện để Nhân dân giao quyền, ủy quyền quyền lực nhà nước của mình, đó là thực hành quyền lập hiến. Bằng quyền lập hiến của mình, nhân dân ủy thác quyền lập pháp cho Quốc hội, quyền hành pháp cho Chính phủ và quyền tư pháp cho Tòa án. Theo đó, có thể thấy rằng quyền lập hiến là quyền lực tối cao so với quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều khởi xướng từ quyền lập hiến. Trong lúc đó, Hiến pháp năm 1992 hiện hành lại quy định: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”[Điều 83 Hiến pháp năm 1992]. Quy định này không thống nhất với Điều 2 của Hiến pháp: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. Quyền lập hiến là quyền thể hiện một cách trọn vẹn nhất quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, bởi Hiến pháp là bản văn thể hiện quyền lực nhà nước cao nhất. Vì thế, trong nhà nước dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà nước thuộc về ai, chủ thể đó có quyền lập hiến và khi Nhân dân có quyền lập hiến thì Nhân dân trở thành chủ thể phân công quyền lực nhà nước. Nhận thức sâu sắc điều đó, Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến…”[Điều 69], không quy định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến” như Điều 83 Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, Quốc hội được Hiến pháp [tức là Nhân dân] giao cho một số quyền của quyền lập hiến, như: đề xuất sửa đổi Hiến pháp; thành lập Ủy ban Dự thảo Hiến pháp; thảo luận và biểu quyết thông qua Hiến pháp, khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định [Điều 120].

Năm là, để phản ảnh một giai đoạn mới của việc đề cao chủ quyền nhân dân, Hiến pháp sửa đổi đã thể hiện một cách sâu sắc sự hòa hợp dân tộc, sự hài hòa về lợi ích và sự đồng thuận xã hội nhằm tạo nên sức mạnh để phát triển, nhất là trong bối cảnh xung đột sắc tộc, tôn giáo, chính trị, kinh tế đang có xu hướng gia tăng ở nhiều nước và khu vực trên thế giới. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 không chỉ có các chủ thể như Nhân dân, dân tộc luôn luôn là những chủ thể mở đầu và xuyên suốt mà còn có những chủ thể cụ thể, như: nhà khoa học, nhân tài, người khuyết tật, người nghèo, người cao tuổi, người có hoàn cảnh khó khăn, doanh nhân, doanh nghiệp. Như vậy, Hiến pháp sửa đổi không chỉ ghi nhận lợi ích của Nhân dân, dân tộc nói chung mà còn thể hiện lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội. Cùng với điều đó, Hiến pháp sửa đổi còn thể chế hóa những giá trị xã hội được toàn xã hội và Nhân dân ta thừa nhận và chia sẻ; các giá trị như tự do, công bằng, bình đẳng, dân chủ, nhân quyền, công khai, minh bạch… đã được ghi nhận trong nhiều điều khoản của Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã hun đúc nên nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc như truyền thống đoàn kết dân tộc, truyền thống yêu nước thương nòi, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau… Những truyền thống và là các giá trị quý báu này đều được thể hiện thấm đượm trong các chương, điều của Hiến pháp năm 2013 quy định về kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, môi trường và bảo vệ Tổ quốc.

Sáu là, để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; đồng thời bổ sung thêm một nguyên tắc mới như đã nói ở trên về “kiểm soát quyền lực nhà nước”. Các nguyên tắc này là cơ sở hiến định để các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm và thực hiện có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Nhân dân giao cho mỗi quyền; hạn chế và ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước, phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đồng thời, đây còn là cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước thực sự thuộc về Nhân dân.

Dựa trên các nguyên tắc đó, bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 2013 đã có những điều chỉnh để làm rõ hơn, minh bạch hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, bảo đảm sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp có hiệu lực và hiệu quả. Theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến,lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

+ Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.

+ Chính phủ được Hiến pháp chỉ rõ không chỉ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội mà còn là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Việc bổ sung vị trí và vai trò mới này của Chính phủ trong tổ chức bộ máy nhà nước vừa phản ảnh nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, vừa chỉ rõ Chính phủ không chỉ là cơ quan chấp hành của Quốc hội nhằm tạo cho Chính phủ có đầy đủ vị thế và thẩm quyền độc lập không dựa dẫm ỷ lại vào Quốc hội và chịu trách nhiệm độc lập trước đất nước và Nhân dân thông qua việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội và cơ chế giám sát, phản biện của Nhân dân.

+ Tòa án nhân dân không những được quy định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như Hiến pháp năm 1992 mà còn khẳng định “thực hiện quyền tư pháp” [Điều 102]. Quy định mới này, thống nhất với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ta ghi nhận ở khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; thể hiện sự phân công quyền lực nhà nước một cách mạch lạc; đề cao trách nhiệm của Tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp; công bằng và công lý của một quốc gia thể hiện tập trung nhất ở quyền xét xử của Tòa án. Từ đây nhân dân sẽ có địa chỉ cụ thể xây dựng và đánh giá việc thực hiện quyền tư pháp mà Nhân dân đã giao phó, đã ủy quyền cho Tòa án.

Vai trò và nhiệm vụ của Tòa án cũng như vai trò nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân được điều chỉnh, thể hiện tư duy mới. Đối với Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Điều 102 khoản 3 đã đưa lên hàng đầu vai trò và nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”sau đó mới quy định tiếp: “bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Đối với Viện kiểm sát nhân dân, nhấn mạnh vai trò và nhiệm vụ hàng đầu là “bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”sau đó mới quy định: “bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”[khoản 3 Điều 107].

So với trước đây, Hiến pháp năm 1992 quy định vai trò và nhiệm vụ của cả Tòa án và Viện kiểm sát đều giống nhau và được quy định chung vào một: “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của công dân, bảo vệ tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” [Điều 126 Hiến pháp năm 1992]. So sánh với quy định của Hiến pháp năm 1992 cho thấy rõ Hiến pháp năm 2013 đã thể một nhận thức mới về vai trò và nhiệm vụ của hai thiết chế Tòa án và Viện kiểm sát và điều này hoàn toàn phù hợp với tư duy xây dựng Nhà nước pháp quyền là đề cao quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp, coi con người là chủ thể là nguồn lực chủ yếu và là mục đích của sự phát triển.

Hiến pháp năm 2013 đã quy định những nguyên tắc nền tảng về tổ chức và hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Tòa án. Các nguyên tắc này được quy định trong Điều 103 gồm 7 khoản [7 nguyên tắc] với sự thể hiện chính xác, súc tích và những tư duy mới. Ví dụ, như:

+ Khoản 1 quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Cũng nguyên tắc này Hiến pháp năm 1992 còn quy định thêm nội dung của nguyên tắc là: “Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán”. Có thể đây là quy định mở để tiếp tục cải cách chế định hội thẩm nhân dân.

+ Khoản 5 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” là một nguyên tắc mới ra đời trong Hiến pháp nước ta, thể chế hóa quan điểm của Đảng ta về cải cách tư pháp “tăng cường tranh tụng trước phiên tòa”.

+ Khoản 6: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo” vừa thể hiện xét xử hai cấp được đảm bảo, quyền con người, quyền công dân được pháp luật bảo vệ và bảo đảm vừa đề cao trách nhiệm của Tòa án trong xét xử.

Tuy không quy định ở Chương VIII, nhưng ở Chương V – Về Quốc hội, có một quy định rất mới, đó là trong thẩm quyền của Quốc hội ở Điều 70, khoản 7 có quy định: “Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”. Quy định mới này nhằm nâng cao vị thế và trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao nói chung, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nói riêng trong việc thực hiện quyền tư pháp.

Để đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, Hiến pháp năm 2013 đã quy định một cách khái quát về mô hình chính quyền địa phương làm cơ sở hiến định để Luật Tổ chức chính quyền địa phương sau này cụ thể hóa. Theo đó, Hiến pháp đã quy định: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Luật định”[Điều 111]. Hiến pháp năm quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về phân công, phân cấp giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của trung ương, đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương [Điều 112].

Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước lần đầu tiên ra đời trong Hiến pháp nước ta với tư cách là các thiết chế hiến định độc lập được quy định thành một chương riêng trong Hiến pháp [Chương X]. Việc ra đời hai thiết chế mới này ở nước ta là nhằm tiếp tục phát huy dân chủ, thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tạo điều kiện và cơ chế để Nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình trong bầu cử và trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo đó, Hội đồng Bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Tuy Hiến pháp năm 2013 chưa quy định thiết chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách để phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp như văn kiện của Đảng đã đề ra, nhưng thay vào đó Hiến pháp năm 2013 đã nhấn mạnh: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp; mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” [Điều 119].

Để đưa Hiến pháp vào cuộc sống, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 64/2013/QH13, ngày 28-11-2013, về việc thi hành Hiến pháp, trong đó đã xác định Quốc hội, Chính phủ, các cấp, các ngành, các cơ quan tổ chức trong hệ thống chính trị có trách nhiệm tổ chức thi hành Hiến pháp; kịp thời triển khai các biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp. Các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng tinh thần và nội dung của Hiến pháp đến các tầng lớp Nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, chiến sỹ lực lượng vũ trang và người Việt Nam ở nước ngoài, nâng cao tình cảm, lòng tin về Hiến pháp để hình thành ý thức chấp hành tự giác, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp; bảo đảm cho Hiến pháp được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Các cơ quan nhà nước từ Trung ương cho đến các cấp, các ngành ở địa phương nhận rõ trách nhiệm của mình trong việc tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp. Theo đó, phải kịp thời rà soát, điều chỉnh cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thông qua việc sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Đồng thời, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới cho phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp. Với quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đưa Hiến pháp năm 2013 vào cuộc sống, chắc chắn Hiến pháp này sẽ là bảo đảm chính trị - pháp lý vững chắc để nước ta bước vào thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

©

Bài viết được đăng tải dưới sự cho phép của Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, mọi quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến bài viết được bảo lưu. Chi tiết xin vui lòng liên email

Vui lòng đăng nhập tài khoản để tải miễn phí.

Gmail

Đăng ký

Quên mật khẩu?

Đặt mua

Bản giấy tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam

Bài viết liên quan trên

Google scholar

Trích dẫn bài viết qua

Google scholar Crossref

  • Bài báo mới

Video liên quan

Chủ Đề